Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 11:53:09 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Các Truyện ngắn của lính - Vũ Công Chiến & các bạn  (Đọc 137410 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
taupaypay
Thành viên
*
Bài viết: 126



« Trả lời #130 vào lúc: 18 Tháng Mười Một, 2008, 09:39:20 pm »

Một lần khác, anh lại cứu tôi cũng trong một bối cảnh đặc biệt. Lần đó, ta và địch cứ giằng co mãi quanh chân núi Chư Pa. Có một điểm cao phía Đông, nhỏ nhưng dốc đứng,  bị địch chiếm giữ. Quân ta ở một quả đồi thấp hơn. Cầm cự được khoảng 1 tháng thì chúng tôi phát hiện địch chuyển quân và rời bỏ chốt đó. Cấp trên ra lệnh cho tiểu đội chúng tôi lên chiếm ngay chốt. Vì biết địch bỏ chốt, bao giờ cũng cài bẫy mìn, nên tôi và anh Trịnh lên trước. Điểm chốt này nhỏ, chỉ có dăm căn hầm, và có 3 lối mòn lên đó. Tôi thận trọng đi trước và dễ dàng phát hiện ra những quả lựu đạn mà địch gài bẫy bằng dây cước chăng ngang lối mòn. Bản thân quả lựu đạn đã được tháo bỏ cần mỏ vịt và đút hờ vào trong một vỏ ống bơ. Chỉ cần đá nhẹ vào sợi dây, quả lựu đạn sẽ tuột ra, giải phóng lẫy chính và phát nổ. Tất cả các loại lựu đạn gài đều là loại nổ tức thì, nghĩa là chúng không có phần dây cháy chậm như những quả lựu đạn thông thường khác. Hai quả đầu là loại lựu đạn bầu dục. Tôi dễ dàng luồn tay bóp chặt lẫy chính, kéo quả lựu đạn ra,  ghì nó trở lại vị trí ban đầu và sâu 1 cái kim băng vào lỗ định vị để vô hiệu hoá nó. Tôi làm như vậy để giữ an toàn về lâu dài cho điểm chốt, chứ thực ra chỉ cần xử lý đơn giản là nhét sâu nó vào trong ống bơ, quấn chặt nắp lại rồi chôn xuống đất là xong. Đến quả lựu đạn thứ ba thì gặp phải loại lựu đạn tròn. Tư thế cầm và lực bóp ghì lẫy chính nặng hơn, vì mẩu lẫy chỉ dài độ hơn 1 phân. Tôi ghì tay đến hơn nửa phút mà vẫn không đưa được lẫy chính về vị trí an toàn. Hai ngón tay trỏ và cái của tôi cứng đờ. Chỉ cần mỏi tay để tuột ra làm quả lựu đạn nổ là tôi tan xác. Mồ hôi tôi vã ra. Tôi ghì thêm một lần nữa mà không được. Ngón tay càng cứng đờ. Tôi đã nghĩ đến cái chết. Hoặc nhẹ hơn là tôi phải lần đến một cái hầm, nằm sát trên miệng hầm rồi đưa tay thả quả lựu đạn vào hầm. Như vậy chắc chắn tôi sẽ chỉ mất một cánh tay. Anh Trịnh vẫn ở sát bên tôi, theo dõi được mọi chi tiết xảy ra và chắc cũng đọc được ý nghĩ của tôi. Anh nói, giọng nhỏ nhưng kiên quyết:
- Cố gắng lên. Hít thở sâu và ghì mạnh vào. Tao sẽ xỏ kim băng giúp mày. Nào!
Tôi liếc nhìn anh. Quả lựu đạn mà nổ thì tan cả hai thằng. Tôi hít một hơi dài rồi nghiến răng dồn lực vào hai ngón tay. Máu căng ra ở hai bên thái dương, giật giật. Anh Trịnh vẫn quỳ sát bên tôi, và khi tay tôi vừa uốn được cái lẫy về vị trí gốc của quả lựu đạn, thì anh kịp thời nhét cây kim băng vào lỗ chốt an toàn. Tôi buông tay, thả quả lựu đạn rơi xuống đất rồi nằm vật ra, thở dốc. Hai bàn tay cứng như bị chuột rút. Tôi nhìn lên bầu trời xanh tít tắp, cảm thấy mặt đất như đang xoay tròn. Một lúc lâu sau, tôi mới lồm cồm bò dậy. Tôi và anh Trịnh nhìn nhau, rồi chúng tôi ôm lấy nhau, thật lâu.
Sau đó chúng tôi tiếp tục gỡ thêm được 3 quả lựu đạn gài nữa, nhưng chỉ dám làm theo cách đơn giản là quấn nó lại và vùi xuống đất. Rồi anh Trịnh quay xuống chân đồi kéo cả tiểu đội lên, triển khai giữ chốt.
Thế là sự động viên tinh thần của anh Trịnh lại một lần nữa kéo tôi ra khỏi cái chết. Sau này, chúng tôi còn nhắc lại sự việc trên nhiều lần, mà mỗi lần nhớ lại tôi đều không khỏi rùng mình, sởn gai ốc. Tình cảm của tôi với anh Trịnh ngày càng gắn bó hơn.
Anh Trịnh không chỉ gan dạ và giỏi xử lý tình huống trong chiến đấu. Sinh hoạt đời thường của anh cũng nhiều kinh nghiệm, đôi khi có một chút láu cá. Dạo còn chiến đấu bên Lào, ăn đói nhưng người dân Lào không tiếc chúng tôi những thứ rau quả họ trồng ngoài nương rẫy. Chỉ có điều, do bận rộn hành quân tác chiến nên không phải lúc nào chúng tôi cũng gặp được dân mà xin. Một lần hành quân dã ngoại, chúng tôi được lệnh dừng chân ven một cánh rừng nhỏ. Lúc đó đã nhá nhem tối. Sau khi được phân công vị trí đóng quân, tiểu đội chúng tôi bắt tay đào hầm. Anh Trịnh nhắc nhỏ chúng tôi cứ im lặng đào hầm, rồi anh cắp AK quay ngược trở lại đường hành quân. Chừng một tiếng rưỡi sau anh quay lại, hồ hởi cho chúng tôi xem một quả bí ngô to tướng quấn trong mảnh dù. Hoá ra lúc chiều hành quân, anh đã liếc thấy một quả bí ngô ở vạt nương gần đường, và ghi nhớ vị trí của nó. Đến khi có lệnh dừng chân trú quân, đoán biết khoảng cách chỉ vài cây số, anh đã quyết định quay lại để lấy. Tối hôm đó, sau bữa cơm ít ỏi, anh lấy quả bí ngô ra, khoét nắp, bỏ ruột, cho vào đó một ít đường rồi đem xuống hầm chất lửa nướng. Đêm đó, tiểu đội chúng tôi có thêm món chè bí ngô cải thiện. Đại loại những trò vặt vãnh như thế, A trưởng nào tháo vát thì lính tráng được nhờ. Đối với cuộc sống chiến trường thì chỉ như thế thôi, cũng làm chúng tôi thấy hạnh phúc lắm rồi.
Logged
taupaypay
Thành viên
*
Bài viết: 126



« Trả lời #131 vào lúc: 18 Tháng Mười Một, 2008, 09:39:53 pm »

Mùa mưa năm 1973, chiến sự thưa thớt do có hiệp định đình chiến Pari. Tôi nhận được hai ba lá thư nhà. Mấy thằng khác trong tiểu đội cũng có thư. Riêng anh Trịnh thì chẳng có lá thư nào. Lính tráng chiến trường vốn coi nhau như một nhà, nên tất cả thư đều đem đọc chung và được giải thích một phần những nội dung trong đó. Đời sống tinh thần khá hơn. Tuy vậy, anh Trịnh thường chỉ im lặng nghe đọc thư, ít góp thêm chuyện. Thế rồi một lần tôi bảo anh:
          - Anh cần phải biết chữ. Em sẽ dạy anh học. 
          - Liệu có được không?- anh băn khoăn hỏi lại.
          - Được. Nhất định được. Ai cũng học được mà. Chỉ cần anh nghe em là được.
Thế là tôi bắt tay vào chuẩn bị dạy anh học. Cả tiểu đội, rồi cả đại đội biết tin, ai cũng ủng hộ. Mọi người đều tin tưởng là một thằng học lớp 10 như tôi nhất định sẽ dạy được vỡ lòng. Chính trị viên đại đội là người dân tộc, văn hoá mới hết lớp 5, nhưng thích cái ý định của tôi lắm. Anh lần qua các trung đội, thu thập cho tôi một lô giấy trắng và vài cây bút bi chiến lợi phẩm. Tôi nhận, nhưng tôi làm theo cách của tôi. Tôi nhớ lại ngày xưa học vỡ lòng, có hộp ô chữ bằng gỗ. Thế là tôi hì hục lấy gỗ đẽo thành những miếng vuông be bé, phơi khô rồi lấy dùi nung khắc những chữ cái vào các miếng gỗ đó. Tôi khâu một cái túi nhỏ bằng vải dù để đựng các ô chữ cái. Thế là từ đó di chuyển quân đến đâu, anh Trịnh cũng đem theo túi chữ đó. Tôi còn dùi thêm trên mỗi miếng gỗ một cái lỗ. Mỗi ngày, tôi lấy ra một chữ cái, sỏ dây vào và bắt anh Trịnh đeo vào cổ như đeo số lính. Cứ dừng chân, hay giải lao trong các buổi hành quân hay luyện tập là anh Trịnh lôi miếng gỗ ra nhận mặt chữ, đọc to ê a và lấy que viết lên mặt đất . Nếu ở lán thì lấy bút viết ra giấy. Học thuộc xong chữ cái thì tập ghép vần, tập đọc. Cái phương pháp của tôi chả hiểu có tính sư phạm nào không, nhưng được cái anh Trịnh rất chịu khó và chăm chỉ. Dần dà anh đã đọc được chữ và đã chép được các bài tập viết do tôi soạn, tuy còn chậm. Sáu tháng sau, cả đại đội vui mừng khi chứng kiến anh đã viết được một lá thư ngắn đầu tiên gửi về nhà. Lá thư đó đã được cả đơn vị xem trước khi bỏ vào phong bì gửi đi.
Cũng liền sau đó, tôi được cử làm A trưởng một A khác trong cùng đại đội. Tôi với anh, tuy mỗi người phải lo công việc riêng của tiểu đội mình, nhưng chúng tôi vẫn thường gặp nhau. Anh vẫn nhiệt tình giúp đỡ tôi lúc cần thiết.
Gần cuối mùa mưa năm 1974, đại đội chúng tôi nhận nhiệm vụ luồn sâu để tổ chức những trận tập kích hoặc phục kích nhằm tiêu hao sinh lực địch. Cả đại đội luồn rừng lọt hẳn vào một khu vực nằm giữa hai khu căn cứ của địch ở đường 5A và 5B, phía Tây thị xã Pleiku. Khu vực chúng tôi hoạt động là những dãy đồi rộng lớn có nhiều rừng cây nhỏ, nhưng chủ yếu là rừng le. Xen kẽ những dãy đồi dài là các con suối đất, đa số được hình thành trong mùa mưa. Các bụi le nằm ken nhau như những bụi tre nhỏ, nhưng không có gai, kéo dài suốt từ bờ suối lên đến tận đỉnh đồi. Thời gian này hầu như ngày nào cũng có mưa. Mưa tầm tã, mưa rả rích tới mức dằn vặt. Quần áo  lúc nào cũng cứ ẩm ẩm và dẻo dẻo vì dính bùn đất. Không có chỗ và thời gian để tắm, vì chúng tôi phải di chuyển liên tục. Nhiều khi phải tắm qua quít, vội vàng trong lúc lội qua suối giống như người dân tộc. Cứ vừa lội suối, vừa hạ thấp người cho ngập xuống nước rồi luồn tay vào trong người khua khoắng loạn xạ cho nhạt bớt đất và ghét. Dừng chân ở đâu, chúng tôi cũng phải đào hầm. Mùa mưa, đất mềm nên đào hầm rất dễ. Sẵn các cây le vừa tầm bắp tay, dễ chặt để ghép làm nắp hầm, nên mỗi khi dừng chân, chúng tôi chỉ mất độ một giờ là đào xong hầm cá nhân. Đang là mùa mưa nên măng le ở đây rất nhiều. Loại măng này không đắng, chỉ cần luộc qua một nước là nấu ăn được. Hầu như bữa ăn nào của chúng tôi cũng có măng le.
Đường đi trong rừng le ngoắt ngoéo, nên tầm quan sát bị hạn chế nhiều. Để chống lại các đơn vị luồn sâu của ta, địch cũng cho nhiều tốp thám báo lùng sục, phát hiện quân ta rồi gọi pháo bắn. Nhiều lúc chúng cũng cho các đơn vị bộ binh, chủ yếu là bọn lính Biệt động quân biên phòng, tổ chức theo từng trung đội để lùng sục quân ta. Có lúc hai bên đã chạm trán nhau bất ngờ và phải nổ súng theo kiểu tao ngộ chiến.
Trong một lần cũng bất ngờ gặp địch, chúng tôi đã đánh tan một trung đội địch, bắn chết ngay tên lính thông tin mang điện đài, và tên chỉ huy. Ngoài ra chúng tôi còn bắt sống được một tên tù binh. Nó chưa kịp bắn một phát nào thì đã bị anh Trịnh chồm tới sát người, dí súng vào cổ, bắt sống. Chúng tôi nắm cổ nó lôi theo và lập tức rút lui. Bọn lính địch còn sống sót mất cả chỉ huy lẫn thông tin, nên không thể gọi pháo bắn theo. Chúng tôi rút lui an toàn.
Logged
taupaypay
Thành viên
*
Bài viết: 126



« Trả lời #132 vào lúc: 18 Tháng Mười Một, 2008, 09:41:52 pm »

Về đến vị trí dừng chân, chúng tôi mới kịp trói tên tù binh. Tên tù binh còn quá trẻ, mặt non choẹt. Bên má nó như còn cả lớp lông măng tơ. Nó sợ hãi nhìn chúng tôi. Tôi thấy nó còn non hơn cả đứa em ở nhà, trông tội tội. Nó khai tên là Tín, nhà ở khu cầu Ông Lãnh, Sài Gòn. Nhà chỉ có hai má con. Nó mới 17 tuổi, bị bắt lính hơn 1 tháng. Nó vừa được bổ xung vào đơn vị Biệt động quân biên phòng trên cao nguyên này một tuần, ra trận lần đầu, chưa bắn phát nào thì bị bắt sống. Nó ngồi co ro, nép vào bụi le để tránh những giọt mưa rừng, trông gầy gò ốm yếu. Nó gọi chúng tôi là ông giải phóng, xưng con. Thằng này chẳng khai được thông tin gì, ngoài số hiệu đơn vị của nó. Chúng tôi cũng biết tỏng là nó cũng chẳng thể biết gì hơn. Từ hôm đó, chúng tôi di chuyển đến đâu là lôi nó theo đến đó. Chắc là đến hôm nào trong đại đội có người về tuyến sau thì sẽ giải nó về luôn thể.
Ba ngày sau, trung đội tôi lên giữ chốt trên cao điểm 631. Hai trung đội bạn đứng chân bên dưới, tổ chức đánh nhỏ lẻ và sẵn sàng chi viện cho chốt. Anh Trịnh ở khác trung đội tôi. Tiểu đội anh Trịnh vẫn được giao trông giữ tên tù binh. Thời gian này, đại đội trưởng của chúng tôi bị thương, đang nằm điều trị trên trạm xá trung đoàn, chính trị viên trưởng đang đi tập huấn, nên trong đơn vị chỉ còn đại đội phó Nghiêm và chính trị viên phó Thành chỉ huy. Không hiểu sao, đại đội phó Hoàng Nghiêm lại hay đến quát nạt tên tù binh. Anh cứ đổ cho vết xước trên trán anh trong trận bắt tên tù binh là do nó bắn, mặc dù khẩu súng của nó còn nguyên đạn.
Thấy thời gian trôi qua lâu mà không có đợt cử người về tuyến sau, anh Thành đã nghĩ đến chuyện phóng thích tên tù binh. Cỡ như thằng này có thả về cũng chẳng làm nên trò trống gì. Anh định tạo cho nó một vết thương để khi phóng thích về, nó cũng phải giải ngũ. Việc này tất nhiên chưa có tiền lệ và có vẻ không đúng quan điểm giai cấp. Nhưng xét về tính nhân đạo thì có thể chấp nhận được. Bản thân anh Trịnh cũng chẳng phàn nàn gì về việc phải trông giữ thêm tù binh. Tên tù binh trông hiền lành, ngoan ngoãn và im lặng chịu đựng. Đến bữa ăn cho nó bát cơm với măng le, nó nhìn biết ơn rồi cúi đầu cặm cụi ăn trong thật tội nghiệp. Anh Trịnh bảo đôi lúc chạnh lòng vì thấy nó ăn như con chó nuôi trong nhà. Nhiều lúc anh còn không có cảm giác nó là một tên địch nữa. Khi nghe phong thanh có thể được phóng thích, nó mừng lắm. Nó líu ríu nói rằng nó vô cùng biết ơn giải phóng, và mong được về gặp má nó. Nó còn thề sống thề chết sẽ không khai báo gì với tụi nguỵ về chúng tôi.  Nó bảo: "Các ông cứ bắn gãy tay con trước khi thả con ra cũng được".
Nhưng đại đội phó Nghiêm không nghĩ vậy. Anh bảo nó là địch, khác giai cấp, nên không thể tha. Vả lại, sự an toàn cho đơn vị là trên hết. Không có điều kiện giải nó về tuyến sau, thì tiêu diệt. Thực ra điều này lại vi phạm chính sách tù hàng binh, nhưng nhìn cái mặt sắt đen sì của anh Nghiêm  lúc đó thì chẳng ai dám cãi.
Logged
taupaypay
Thành viên
*
Bài viết: 126



« Trả lời #133 vào lúc: 18 Tháng Mười Một, 2008, 09:42:29 pm »

Một hôm, anh Trịnh được giao nhiệm vụ dẫn tên tù binh ra suối để bắn nó. Thằng Tín không biết chuyện, tưởng được tha, nên rất hớn hở. Anh Trịnh trói nó giải đi, lầm lũi không bắt chuyện. Khi đến một con suối, anh bảo tên lính đi lên cầu trước. Chiếc cầu độc mộc chênh vênh và trơn, lại bị tróí nên thằng Tín loay hoay mãi mới leo lên được. Anh Trịnh đứng sau một đoạn, thở dài và bật chốt an toàn súng. Nhưng hình như thằng Tín linh cảm được. Nó quay người lại nhảy đại xuống đất, rồi chạy ào lại, quỳ xuống dập đầu lạy dưới chân anh Trịnh. Nó vừa khóc, vừa van xin anh tha chết cho nó. Nước mắt nó chảy dài làm anh Trịnh mủi lòng. Anh đóng lại chốt an toàn của khẩu AK, rồi đưa tên tù binh quay lại đơn vị. Tối đó, đại đội phó Nghiêm gọi anh Trịnh ra một góc xa, rồi đay nghiến anh Trịnh vì không hoàn thành nhiệm vụ. Anh Trịnh lặng im nghe, rồi chợt nói:
          - Tôi không hoàn thành nhiệm vụ. Bây giờ muốn kỷ luật tôi thế nào cũng được, nhưng tôi không bắn tên tù binh đó đâu.
Anh Nghiêm hơi sững người, nhưng không nói gì thêm. Cả hai quay lại hầm trú quân.
Hai hôm sau, đại đội phó Nghiêm lại gọi anh Trịnh, ra lệnh cho anh đưa tên tù binh lên đồi le để bắn. Anh Trịnh lại dẫn thằng Tín đi, nhưng lần này hướng về phía căn cứ địch, nên nó cũng bớt nghi ngờ. Nhưng như con chim bị đạn, sợ cả làn cây cong, nó vẫn đưa mắt nhìn anh Trịnh nghi ngại. Rồi anh Trịnh dẫn nó lên đồi. Vừa lên đến đỉnh đồi, cách nơi trú quân chỉ chừng trăm mét, bất thình lình có tiếng pháo của địch câu theo kiểu  cầm canh bắn tới. Anh Trịnh thừa dịp đó, thét bảo thằng Tín chui vào 1 cái hầm gần đó để tránh pháo. Thằng Tín làm theo. Đúng lúc tên tù binh vừa lom khom  chui được vào cửa hầm, thì anh Trịnh bật nhanh chốt an toàn rồi bắn một loạt đạn vào lưng nó. Thằng Tín trúng đạn, khuỵu chân xuống. Nó cố oằn  người quay lại, mở to mắt nhìn anh Trịnh mà không kêu lên được một tiếng nào. Ánh mắt của nó vừa thảng thốt, vừa ai oán, vừa cam chịu. Rồi hai hàng nước mắt từ từ lăn xuống khuôn mặt còn non choẹt của nó. Không dám nhìn thêm nữa, anh Trịnh quay người chạy xuống chân đồi, lôi theo cả khẩu AK còn chưa kịp đóng chốt.
Đại đội phó Nghiêm chạy ra đón, hỏi anh Trịnh một câu gì đó. Hai tai ù ra, chẳng còn nghe được gì, anh Trịnh lao về hầm rồi nằm vật ra, bật khóc. Tối hôm đó anh Trịnh bỏ cơm. Rồi hai ngày tiếp theo, anh cũng chẳng chịu ăn uống gì. Cả ngày cứ nằm im trong căn hầm ẩm ướt, ai đến hỏi anh cũng chẳng trả lời gì.
Sau đó hai hôm, tôi từ trên chốt 631 trở về và sang hầm thăm anh. Anh Trịnh ôm lấy tôi, nước mắt ứa ra. Rồi anh vừa nghẹn ngào vừa kể cho tôi nghe việc anh bắn tên tù binh. Anh bảo tôi:
          - Mày đã bao giờ nuôi một con chó, rồi lại tự tay giết thịt nó chưa. Mày có nhìn thấy ánh mắt của nó lúc bị giết ai oán, giận trách và buồn cam chịu như thế nào không? Thằng Tín nó nhìn anh y như thế đấy. Trời ơi! Anh đã bắn chết một người trong tay không có súng, mà còn bị trói. Nó đã bị bắn chết đúng lúc nó tưởng được sống. Sao tao lại hèn hạ thế này. Tao là một thằng tồi, phải không?
Anh Trịnh còn nói nhiều nữa, day dứt và dằn vặt. Tôi không nói được gì, chỉ biết im lặng nắm cánh tay anh. Anh Trịnh còn dằn vặt hơn vì ai đó trong đại đội đã nói rằng, vì anh là thằng không biết chữ nên mới bị giao cái việc bắn tù binh ấy. Trời ơi? Sao ai lại độc mồm độc miệng đến thế. Cái tình quân ngũ sống chết có nhau nơi chiến trường đâu rồi. Nói thế có khác gì bọn du thủ du thực ngoài chợ. Tôi thấy buồn, lo không hiểu cú sốc này sẽ làm anh Trịnh ra sao.
Hôm sau, tôi lại phải quay lên chốt 631. Đại đội phải di chuyển địa điểm và anh Trịnh vẫn phải đi theo đơn vị. Ở trên chốt, tôi cứ nghĩ mãi về anh Trịnh và vẫn thấy rờn rợn khi hình dung ra nét mặt tên tù binh lúc bị bắn theo lời anh Trịnh kể. Tôi rùng mình khi nghĩ rằng, nếu không phải anh Trịnh, mà là chính tôi bị giao cái nhiệm vụ ấy, thì sự thể sẽ thế nào?
Sau đợt luồn sâu kéo dài hai tháng đó, chúng tôi trở về hậu cứ. Anh Trịnh trở nên lầm lì, ít nói hơn. Anh hay cúi gầm mặt xuống đất, dáng đi trở nên chậm rãi, lòng khòng. Không còn nhận ra ở anh cái dáng nhanh nhẹn, dũng mãnh khi cắp AK dẫn cả tiểu đội xung trận. Không còn cả ánh mắt rực lên như có lửa, đầy quyết tâm khi anh phổ biến nhiệm vụ chiến đấu. Tôi có cảm nhận trong anh đang có gì thay đổi.
Logged
taupaypay
Thành viên
*
Bài viết: 126



« Trả lời #134 vào lúc: 18 Tháng Mười Một, 2008, 09:43:25 pm »

Đầu tháng 12 năm 1974, đại đội tôi lại hành quân ra tuyến trước. Lần này chúng tôi nhận nhiệm vụ chốt đường 5B. Sau những tháng mùa mưa tác chiến, đại đội tôi chỉ còn bốn chục tay súng. Sau 5 tiếng đồng hồ hành quân, chúng tôi đã chiếm lĩnh xong trân địa chốt. Trận địa chốt này được chuẩn bị sẵn từ trước, rất kiên cố. Các hầm chính nằm sâu dưới mặt đất 3 mét, có thể chịu được đạn pháo 105 ly. Hầm nào cũng được đào thêm nhiều nhánh hầm râu tôm ra hai bên để tiện tác chiến. Cả đại đội lập 3 chốt gác. Sau khi phân công gác xong, những người ở phiên gác sau lăn ra ngủ. Lúc ấy đã là 12 giờ đêm.

Mờ sáng hôm sau, cả đại đội bị đánh thức dậy bởi lệnh báo động. Chính trị viên trưởng thức giấc sớm, đã phát hiện ra cả điểm chốt vắng tanh, không còn người gác. Chúng tôi nhanh chóng kiểm tra quân số. Tất cả cùng bàng hoàng, sửng sốt và lặng người đi khi thấy toàn đơn vị thiếu mất 12 người. Trong đêm qua, họ đã đảo ngũ tập thể, có tổ chức. Trong 12 người ấy có tới 3 tiểu đội trưởng, có cả anh Trịnh.  Các anh đều là những người lính có nhiều tuổi quân hơn tôi. Tôi có hơi lờ mờ nghĩ đến sự việc này sẽ xảy ra, nhưng không ngờ là số người bỏ ngũ lớn đến như vậy. Mất tới gần một phần ba quân số, chúng tôi chỉ còn lại 28 người giữ chốt. Không thể làm thêm được gì khác, ngoài việc sắp xếp, bố trí lại đội hình trên chốt  và báo cáo về tiểu đoàn.
Trong tôi trào lên một tình cảm khó tả. Thế là các anh ấy đã bỏ chúng tôi mà đi, ngay trước trận đánh. Cá nhân tôi không dám phán quyết các anh, bởi các anh là những người đi trước chúng tôi. Các anh đã từng dẫn dắt chúng tôi từ những ngày đầu bỡ ngỡ vào chiến trường, thương yêu chúng tôi như những đứa em. Bây giờ, các anh có lý do riêng để phải ra đi, dù là day dứt lương tâm như anh Trịnh, hay chán chường vì những tháng ngày gian nan mệt mỏi. Tôi không bao giờ dám nghĩ các anh hèn nhát. Nhưng chúng tôi cũng trách các anh, bởi trận đánh sắp bắt đầu rồi. Các anh đã nỡ bỏ đi, để lại chúng tôi mỏng manh, yếu ớt trên cả trận địa chốt này. Nếu vì thế mà chúng tôi phải hy sinh tất cả, các anh có ân hận không?
Buổi sáng trên cao nguyên vào độ cuối năm này, thường có rất nhiều sương mù. Phải đến tầm nửa buổi sáng, khi mặt trời đã lên cao thì sương mù mới tan hết. Hôm đó cũng vào lúc tan hết sương, thì địch bắt đầu tấn công lên chốt chúng tôi. Phía cánh trái, đúng hướng con đường mòn dẫn lên chốt, đã nổ súng đầu tiên. Bọn địch lùi lại rồi bắn trả dữ dội. Chúng vòng sang các hướng khác bắn thăm dò và tiến quân. Chỉ trong khoảng một thời gian ngắn, khi tất cả các hướng đều nổ súng, thì toàn bộ bề rộng trận địa chốt của chúng tôi đã lộ diện. Địch lùi xuống chân đồi và gọi pháo bắn. Pháo từ trong căn cứ phía sân bay Cù Hanh ầm ầm bắn vào trận địa. Chỉ chừng hai chục phút, toàn bộ đồi cây lúp súp trên trận địa đã bị bắn nát, tơi tả. Khắp trận địa xộc lên mùi khói thuốc súng khét lẹt, cộng với mùi hăng hăng ngai ngái của cây rừng bị bắn nát. Không còn có một nhánh cây nào to cỡ ngón tay trở lên mà không bị trúng mảnh đạn. Nhưng chúng tôi không bị sao, vì có hầm sâu kiên cố. Bây giờ tầm quan sát đã rộng, và địch tiếp tục tổ chức tấn công.
Ngày hôm đó, chúng tôi đã đánh lui 4 đợt tấn công của địch, giữ được chốt. Phía ta không có ai hy sinh hay bị thương. Song mấy đợt pháo kích tơi bời của địch đã cày sới khắp quả đồi và phá hỏng nhiều nhánh hầm râu tôm. Đêm đó, chúng tôi phải thức để sửa lại các râu tôm, và đào thêm một số đoạn giao thông hào để di chuyển, vì trên trận địa không còn cây che khuất nữa.
Logged
taupaypay
Thành viên
*
Bài viết: 126



« Trả lời #135 vào lúc: 18 Tháng Mười Một, 2008, 09:43:54 pm »

Ngày hôm sau, bọn địch lại tổ chức đánh chiếm chốt. Cũng chỉ có 4 đợt tấn công, nhưng mỗi đợt kéo dài và ác liệt hơn. Trong các đợt pháo kích, đich tập trung bắn kết hợp đủ các loại đạn pháo hòng tiêu diệt chúng tôi. Đạn chơm chơm phát nổ từ trên không trung ở khoảng cách 3 mét rồi hắt mảnh đạn xuống đất để sát thương bộ binh. Đạn cày, sau khi rơi xuống đất không nổ ngay, mà còn cày một đường dài tới 4 mét ở độ sâu 50 phân rồi mới nổ. Các hầm nắp bằng và hầm chữ A thông thường không chịu nổi loại pháo này. Ghê gớm hơn nữa là pháo khoan. Quả đạn pháo rơi xuống đất còn khoan sâu 2 mét mới phát nổ. Chỉ có hầm sâu hơn 3 mét mới chịu nổi loại đạn này, song nếu trúng đạn ngay trên nóc hầm thì cũng bị sức ép rất lớn.
Các hầm chính của chúng tôi ở độ sâu 3 mét, cộng với lớp đất đắp nổi khá dày đã giúp chúng tôi qua được các trận pháo kích của địch. Chúng tôi vẫn giữ được chốt, nhưng phải chịu tổn thất nặng. Cả đại đội bị hy sinh 5 người, bị thương phải đưa về tuyến sau 3. Tất cả chỉ còn lại hai chục tay súng giữ chốt. Chúng tôi vẫn phải kiên trì sửa chữa hầm hào để tiếp tục chiến đấu.
Tuy vậy, đêm hôm đó, tiểu đoàn đã đưa một đại đội khác có đủ quân số ra thay chốt, cho chúng tôi về tuyến sau củng cố.
Thời gian này, không khí trong đơn vị có chiều trầm lắng. Đại đội sắp xếp lại người và tổ chức rút kinh nghiệm. Sự việc 12 người lính đào ngũ được nêu ra. Tôi cũng bị khiển trách, vì là người chơi thân với anh Trịnh mà sao không phát hiện ra ý định đào ngũ của anh. Tôi ngồi im lặng, chẳng muốn nói gì. Nhưng tôi thầm nghĩ: cái sự day dứt vì bắn người tù binh đã chấn động đến tư tưởng anh Trịnh, một người lính vốn dũng cảm, kiên trung và có nhiều chiến công.  Sự chấn động này chắc còn lây đến cả nhiều người khác nữa. Trong đời lính, phải nói với nhau bằng hành động cụ thể và đối xử với nhau bằng tình người, chứ chỉ làm công tác tư tưởng suông thì chẳng giải quyết được gì. Lớp người chúng tôi, đơn giản là làm trai thời loạn thì phải cầm súng ra chiến trường, làm tròn nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, dẫu biết rằng đến một ngày nào đó sẽ phải ngã xuống trên chiến hào. Chúng tôi đã sống với nhau như anh em, bằng tình đồng đội của những người cùng cảnh. Thế thôi.
Còn nói rằng chúng tôi đi chiến đấu vì cái lý tưởng, mà đến khi đạt được nó, ai cũng chỉ phải làm theo sức mình, còn muốn ăn bao nhiêu thì ăn; thì ngay cả  một thằng học hết lớp 10 sống ở thành phố như tôi còn hiểu lờ mờ, nói gì đến những người như anh Trịnh nghèo đến mức không  được đi học để biết chữ, mà trách.
Logged
taupaypay
Thành viên
*
Bài viết: 126



« Trả lời #136 vào lúc: 18 Tháng Mười Một, 2008, 09:44:11 pm »

Tháng 1 năm 1975, chúng tôi được bổ xung thêm quân, toàn tân binh từ miền Bắc vào. Chúng tôi khẩn trương tập luyện. Sau đó, hoà cùng các đơn vị khác, chúng tôi tham gia các chiến dịch Tây nguyên và chiến dịch Hồ Chí Minh, chiến đấu cho tới ngày miền Nam giải phóng.
Ngày 7 tháng 5 năm 1975, các đơn vị tổ chức duyệt binh mừng chiến thắng, mừng công tại Sài Gòn. Lúc đứng trong hàng quân, biểu dương lực lượng, tôi lại nhớ đến anh Trịnh và những  đồng đội trong nhóm 12 người đảo ngũ. Tôi lại thấy tiếc cho các anh. Các anh đã đi qua hàng ngàn ngày lửa đạn không nghỉ, vậy mà chỉ còn một trăm bốn chục ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh, các anh lại không có mặt. Tổ quốc này, Đất nước này đã quên các anh. Chỉ còn có chúng tôi, những người đã cùng sống và chiến đấu cùng các anh là nhớ đến các anh, mỗi khi ôn lại những ngày quân ngũ.


Kỷ kuật là sức mạnh của quân đội. Những người lính chúng tôi chỉ thật sự có sức mạnh khi đứng trong đội ngũ, chiến đấu vì lời thề quân ngũ của mình. Mười hai người lính cùng đảo ngũ khỏi đơn vị tôi trong cái đêm lạnh lẽo tháng 12 năm 1974 ấy, tuy có quân số bằng cả một trung đội, nhưng họ lại không còn đủ sức mạnh như khi còn chiến đấu trong đội hình đơn vị. Họ đã bị các đơn vị tuyến sau của sư đoàn, của mặt trận săn đuổi, trốn chạy trong rừng và tan rã một phần. Ba người bị bắt giữ phải quay trở lại đơn vị. Sau đó, họ đã tiếp tục tham gia chiến đấu cùng cả đơn vị cho tới ngày chiến thắng, nhưng họ vẫn bị kỷ luật nặng và phải chịu nhiều thiệt thòi khi giải ngũ sau chiến tranh. Một người bị ốm chết dọc đường khi còn ở trong rừng. Tám người còn lại phải hơn một tháng sau mới lần ra được đến sông Bến Hải và bơi vượt sông ra Bắc trong một đêm đông. Lại cũng chỉ có 5 người qua sông an toàn và tìm về được đến nhà. Đúng thời gian đó, chiến trường Tây Nguyên đang thắng lớn. Người ở hậu phương tạm quên các anh, nhưng sau ngày miền Nam giải phóng, các anh đều phải nhập ngũ trở lại. Các anh phải vào Tây nguyên lao động cải tạo trồng rừng tới hai năm sau mới được trả về nhà. Tất nhiên, các anh chẳng được hưởng chế độ chính sách gì của một quân nhân giải ngũ.
Một buổi chiều 30 tháng tư của hai mươi ba năm sau ngày miền Nam giải phóng, tôi mới tìm được về quê anh Trịnh. Đứng đón tôi trên nền đất trong một ngôi nhà cấp bốn ở một vùng quê Sơn Tây, là một người đàn ông luống tuổi. Anh mặc một chiếc áo sơ-mi đã ngả màu cháo lòng, một chiếc quần sẫm màu đã bạc, và đi một đôi dép tổ ong. Không còn vẻ cường tráng của một người nông dân mặc áo lính, không còn vẻ dũng mãnh của một người tiểu đội trưởng kiên cường, nhưng tôi vẫn nhận ra anh nhờ ánh mắt rực lên như có lửa. Anh Trịnh, người tiểu đội trưởng một thời của tôi đó. Tôi lao vào ôm chầm lấy anh, ôm thật lâu như năm nào trên ngọn đồi chốt ở Chư Pa, chúng tôi  đã ôm nhau khi vừa thoát ra khỏi cái chết chỉ trong gang tấc, sau khi hóa giải được quả lựu đạn gài. Cả hai cùng xúc động trào rơi nước mắt. Số phận con người đã đun đẩy chúng tôi mỗi người một kiểu. Nhưng tôi thầm nói với anh Trịnh rằng: "anh Trịnh ơi, cuộc đời này dù phũ phàng đến đâu, xô đẩy anh và em đến nơi nào chăng nữa, thì trong lòng em, anh vẫn luôn là người tiểu đội trưởng thân thiết như xưa".

NGUỒN: http://www.ngoisaoblog.com/m.php?u=chienc6&p=168021
Logged
mig21-58
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 576

binh nhì


« Trả lời #137 vào lúc: 11 Tháng Giêng, 2009, 10:19:26 pm »

Tháng 1 năm 1975, chúng tôi được bổ xung thêm quân, toàn tân binh từ miền Bắc vào. Chúng tôi khẩn trương tập luyện. Sau đó, hoà cùng các đơn vị khác, chúng tôi tham gia các chiến dịch Tây nguyên và chiến dịch Hồ Chí Minh, chiến đấu cho tới ngày miền Nam giải phóng.
Ngày 7 tháng 5 năm 1975, các đơn vị tổ chức duyệt binh mừng chiến thắng, mừng công tại Sài Gòn. Lúc đứng trong hàng quân, biểu dương lực lượng, tôi lại nhớ đến anh Trịnh và những  đồng đội trong nhóm 12 người đảo ngũ. Tôi lại thấy tiếc cho các anh. Các anh đã đi qua hàng ngàn ngày lửa đạn không nghỉ, vậy mà chỉ còn một trăm bốn chục ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh, các anh lại không có mặt. Tổ quốc này, Đất nước này đã quên các anh. Chỉ còn có chúng tôi, những người đã cùng sống và chiến đấu cùng các anh là nhớ đến các anh, mỗi khi ôn lại những ngày quân ngũ.


Kỷ kuật là sức mạnh của quân đội. Những người lính chúng tôi chỉ thật sự có sức mạnh khi đứng trong đội ngũ, chiến đấu vì lời thề quân ngũ của mình. Mười hai người lính cùng đảo ngũ khỏi đơn vị tôi trong cái đêm lạnh lẽo tháng 12 năm 1974 ấy, tuy có quân số bằng cả một trung đội, nhưng họ lại không còn đủ sức mạnh như khi còn chiến đấu trong đội hình đơn vị. Họ đã bị các đơn vị tuyến sau của sư đoàn, của mặt trận săn đuổi, trốn chạy trong rừng và tan rã một phần. Ba người bị bắt giữ phải quay trở lại đơn vị. Sau đó, họ đã tiếp tục tham gia chiến đấu cùng cả đơn vị cho tới ngày chiến thắng, nhưng họ vẫn bị kỷ luật nặng và phải chịu nhiều thiệt thòi khi giải ngũ sau chiến tranh. Một người bị ốm chết dọc đường khi còn ở trong rừng. Tám người còn lại phải hơn một tháng sau mới lần ra được đến sông Bến Hải và bơi vượt sông ra Bắc trong một đêm đông. Lại cũng chỉ có 5 người qua sông an toàn và tìm về được đến nhà. Đúng thời gian đó, chiến trường Tây Nguyên đang thắng lớn. Người ở hậu phương tạm quên các anh, nhưng sau ngày miền Nam giải phóng, các anh đều phải nhập ngũ trở lại. Các anh phải vào Tây nguyên lao động cải tạo trồng rừng tới hai năm sau mới được trả về nhà. Tất nhiên, các anh chẳng được hưởng chế độ chính sách gì của một quân nhân giải ngũ.
Một buổi chiều 30 tháng tư của hai mươi ba năm sau ngày miền Nam giải phóng, tôi mới tìm được về quê anh Trịnh. Đứng đón tôi trên nền đất trong một ngôi nhà cấp bốn ở một vùng quê Sơn Tây, là một người đàn ông luống tuổi. Anh mặc một chiếc áo sơ-mi đã ngả màu cháo lòng, một chiếc quần sẫm màu đã bạc, và đi một đôi dép tổ ong. Không còn vẻ cường tráng của một người nông dân mặc áo lính, không còn vẻ dũng mãnh của một người tiểu đội trưởng kiên cường, nhưng tôi vẫn nhận ra anh nhờ ánh mắt rực lên như có lửa. Anh Trịnh, người tiểu đội trưởng một thời của tôi đó. Tôi lao vào ôm chầm lấy anh, ôm thật lâu như năm nào trên ngọn đồi chốt ở Chư Pa, chúng tôi  đã ôm nhau khi vừa thoát ra khỏi cái chết chỉ trong gang tấc, sau khi hóa giải được quả lựu đạn gài. Cả hai cùng xúc động trào rơi nước mắt. Số phận con người đã đun đẩy chúng tôi mỗi người một kiểu. Nhưng tôi thầm nói với anh Trịnh rằng: "anh Trịnh ơi, cuộc đời này dù phũ phàng đến đâu, xô đẩy anh và em đến nơi nào chăng nữa, thì trong lòng em, anh vẫn luôn là người tiểu đội trưởng thân thiết như xưa".

NGUỒN: http://www.ngoisaoblog.com/m.php?u=chienc6&p=168021
ngày 15/5/1975 là ngày duyệt binh mừng chiến thắng  ở cả
 
 SAÌ GÒN lẫn HÀ NỘI  sao lại  là ngày 7/5 ở đây nhỉ ? ông này nói không đúng rồi /
« Sửa lần cuối: 11 Tháng Giêng, 2009, 10:24:47 pm gửi bởi mig21-58 » Logged
Trinhsat
Thành viên
*
Bài viết: 397


« Trả lời #138 vào lúc: 09 Tháng Hai, 2009, 08:52:24 am »

@ bác Mig21-58:

      Tôi đã hỏi lại tác giả. Đúng là tác giả nhớ nhầm ngày. Ngày 15/5/1975 mới duyệt binh. Ngày 7/5 là ngày các đơn vị tham gia duyệt binh, diễu binh bắt đầu được lênh tập gấp đội ngũ.

       Ngoài Bắc thì còn có khối các trường sĩ quan tham gia duyệt binh chứ trong Sài gòn chủ yếu là các đơn vị vừa tham chiến. Thằng nào có dáng một tý thì tham gia khối đi, thằng nào kém hơn thì vào đội hình đứng.
Logged
Trinhsat
Thành viên
*
Bài viết: 397


« Trả lời #139 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2009, 09:14:52 pm »

    " Cái quý nhất của con người là đời sống. Đời người chỉ sống có một lần … "   - ( Nhi-ca-lai  A-xtơ-rốp-xki )
   Thế còn điều quý nhất trong cuộc đời con người?
   Phải chăng, đó là TÌNH YÊU

Anh vẫn đi tìm em

   "Ròng rã hơn hai tháng trời hành quân dọc núi rừng Trường Sơn, chúng tôi mới vào đến vùng đất của tỉnh Sa-ra-van thuộc Nam Lào. Chúng tôi được thông báo là đã tới nơi, và tất cả sẽ được bổ xung vào Sư đoàn đang chiến đấu tại đó.

   Cuộc hành quân của chúng tôi dọc Trường Sơn đúng vào mùa mưa nên thật vất vả. Ai đã từng phải leo núi, đi rừng vào những ngày mưa mới thấu hiểu hết nỗi vất vả của chúng tôi. Đường đi trong rừng chỉ là đường mòn, trơn tuột. Đường đi trên Trường Sơn đa phần là rừng núi, dốc tiếp liền dốc. Lên dốc khó một thì xuống dốc khó hai. Đoạn nào có cây rừng thì níu lấy cho khỏi ngã, đoạn nào trống trải thì nhiều khi phải quay người đi lùi trong tư thế bò. Nhiều đoạn dốc quá, một người ngã tuột dốc là kéo theo luôn vài người nữa cùng ngã. Phần mông và hai đầu gối luôn lấm đầy bùn đất. Hành quân gặp đúng hôm mưa còn khổ hơn. Giữa bầu trời âm u xám xịt, mưa rừng có thể trút xuống bất cứ lúc nào không hẹn trước. Không thể quàng áo mưa đi rừng vì những cành cây hai bên đường sẽ cào tơi tả tấm áo mưa ngay. Tấm Ni-lon là thứ tài sản cá nhân, là quân dụng nên phải giữ gìn, vì rất có thể trong suốt quãng đời ở Trường Sơn, chúng tôi sẽ không bao giờ được phát bổ xung nữa. Mà dù trời không mưa thì những đám nước đọng lại đẫm trên cây lá hai bên đường cũng sẽ quệt vào người, khiến lúc nào quần áo cũng ướt. Nhưng cơ cực và nguy hiểm nhất là những lần vượt sông. Không có cầu, chúng tôi phải lội bộ ở những đoạn sông có ghềnh đá. Tại những chỗ này, mực nước đỡ sâu hơn, nhưng lại chảy xiết. Tất cả phải bám tay vào sợi dây làm bằng cây song do công binh căng qua mặt sông và dò dẫm từng bước đi cho khỏi ngã. Nhưng hầu như không có ai thoát khỏi bị ngã ít nhất một lần trong tổng số những lần vượt  sông đó.

   Hành quân vào mùa mưa ít có nguy cơ bị máy bay địch phát hiện và oanh tạc. Suốt cả chặng đường hành quân qua Trường Sơn, chúng tôi chỉ gặp máy bay đánh phá có hai lần. Gặp hôm trời không mưa, ít mây, máy bay trinh sát OV-10 của địch cứ bay vè vè trên đầu. Hễ phát hiện ra điều gì nghi ngờ là chúng bắn pháo khói chỉ điểm rồi gọi máy bay đến ném bom. Một lần chúng ném bom ở tít cánh rừng bên cạnh. Lần khác thì chúng ném bom xong, phải hơn một tiếng đồng hồ sau chúng tôi mới hành quân tới nơi. Cả một khoảng rừng chỉ còn lại cảnh cây gãy đổ ngổn ngang, mùi khét của khói bom hòa lẫn mùi cây tươi ngai ngái.

*

   Chúng tôi được tạm nghỉ hai ngày, kết hợp tắm giặt và học chính trị, nghe phổ biến tình hình và một vài qui tắc chiến trường. Sau đó, cả một tiểu đoàn tân binh mấy trăm người được xé lẻ ra và phân chia về bổ xung cho các đại đội. Tôi được vào một đại đội bộ binh đang đứng chân ở phía Tây Bắc Thị xã Sa-ra-van. Đơn vị đang chuẩn bị đánh địch trong khu sân bay cũ. Tôi được phân công về một tiểu đội có ba người. Tôi mới chỉ kịp nhớ tên của tiểu đội trưởng là Bình và một chiến sĩ nữa là Đức. Tôi được phát hai quả lựu đạn tròn USA và một khẩu tiểu liên AK cùng 250 viên đạn. Anh Bình phổ biến luôn  mệnh lệnh, chuẩn bị đêm nay sẽ ra trận. Tôi bám ngay lấy Đức để học hỏi cách thức chuẩn bị súng đạn. Cảm giác trước giờ ra trận thật hồi hộp và náo nức.

   Đêm nay, trung đội chúng tôi được giao nhiệm vụ đánh địch ở khu xưởng cưa. Cả trung đội chỉ có 12 người, bằng đúng một tiểu đội tân binh huấn luyện ngoài Bắc. Đêm cuối mùa mưa, trời không trăng sao. Cả đơn vị mò mẫm đi trong đêm theo bước chân của trinh sát dẫn đường. Gần sáng, chúng tôi tiếp cận được khu xưởng cưa nằm ở bên ngoài phía Bắc sân bay. Có một trung đội địch đóng tại đây. Chúng chỉ đào hầm cá nhân làm công sự và dựa lưng vào khu tường nhà, xung quanh không có hàng rào.

   Tờ mờ sáng, chúng tôi nổ súng. Các tiểu đội tập trung cả ba khẩu B40 nhất loạt bắn vào đội hình đich. Lính xung lực chúng tôi lập tức xung phong áp sát. Những tên địch còn sống choàng tỉnh chĩa súng bắn ra loạn xạ. Chúng chỉ có  tiểu liên cực nhanh AR15 và súng cối cá nhân M79. Chúng tôi chia thành từng tốp, toả ra hai cánh yểm hộ nhau và tìm cách tiêu diệt từng tên địch. Theo chân Đức, tôi cũng ném một quả lựu đạn và quạt AK lia lịa. Bọn địch bị đánh bất ngờ, hao tổn ngay từ khi trúng mấy quả B40 của ta, nên sức chống cự yếu. Chỉ sau khoảng 15 phút, chúng tôi đã tiêu diệt cả trung đội địch và làm chủ xưởng cưa. Về phía ta, một chiến sĩ ở tiểu đội bên cạnh bị trúng đạn vào đùi, phải đưa về tuyến sau.

   Vị trí xưởng cưa này là một điểm chốt của địch, bảo vệ cho khu sân bay. Chúng tôi trụ lại ở đây một ngày, chờ đến đêm sẽ tiếp tục phối hợp cùng các đơn vị khác đánh tiếp khu sân bay.

   Sau trận ra quân đầu tiên, tôi cảm thấy rất phấn chấn. Thế là mình đã được trực tiếp chiến đấu, đã được bắn súng vào kẻ địch thật, chứ không phải bắn vào mấy tấm bia ở thao trường.

   Chúng tôi lại lau chùi súng đạn, nghe quán triệt nhiệm vụ và chờ đến tối.

(Còn tiếp...)
« Sửa lần cuối: 17 Tháng Hai, 2009, 09:19:50 pm gửi bởi Trinhsat » Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM