Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 11:46:28 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Vì bầu trời Tổ quốc thân yêu  (Đọc 30186 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« vào lúc: 19 Tháng Năm, 2016, 08:54:18 pm »


       
        - Tên sách: Vì bầu trời Tổ quốc thân yêu
        - Nhà xuất bản: Quân đội Nhân dân
        - Năm xuất bản: 2005
        - Số hoá: ptlinh
        - Hiệu đính: Giangtvx

       
        Chỉ đạo nội dung: Ban liên lạc Bạn chiến đấu Binh chủng Ra-đa

        Tổ chức thực hiện: Nguyễn Tâm Trinh
                                    Trần Liên Nguyễn
                                    Hữu Hùng
        
        “Mắt người phải như mắt thần. Mắt người Việt Nam là rất sáng. Trong mắt người Việt Nam thì mắt các chiên sĩ ra-đa phải sáng hơn tất cả mọi người”

        (Lời Thủ tưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Phạm Văn Đồng)
        

CÙNG CÁC BẠN ĐỌC
       
        Kỷ niệm 45 năm ngày truyền thống của Binh chủng Ra-đa anh hùng thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân (1-3-1959 - 1-3-2004), tập hồi ký "Vì bầu trời Tổ quốc thân yêu” ra mắt các bạn. Kể từ ngày Đoàn 4 được xây dựng (01 - 7- 1956) học tập và triển khai chiến đấu đến ngày phát sóng lần đầu tiên lên bầu trời Tổ quốc (0 giờ 1-3-1959), trải qua 45 năm xây dựng và chiến đấu chống Mỹ cứu nước, bộ đội ra - đa đã lập nên bao chiến công hiển hách góp phần vào sự nghiệp đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân ta. Mỗi một cán bộ, chiến sĩ của bộ đội ra-đa rất đỗi tự hào về sự đóng góp của mình. Nhiều đồng chí, đồng đội, bạn chiến đấu đã ngã xuống, không trở về nữa. Các đồng chí còn sống nay tuổi đã cao, sức khỏe hạn chế, nhưng với tấm lòng đầy tâm huyết đã cùng nhau hồi tưởng lại, ghi lại những ký ức của mình, trong tập hồi ký "Vì bầu trời Tổ quốc thân yêu".
        
        Đọc cuốn hồi ký, chúng ta sẽ rất tự hào và xúc động về những câu chuyện, về những việc làm, những đóng góp của bộ đội ra-đa cho cuộc chiến đấu bảo vệ bầu trời Tổ quốc. Từ bước đầu tập trung đến hình thành những lớp học chuyển binh chủng, từ lúc đi tìm trận địa đến lúc kéo máy ra-đa chiếm lĩnh triển khai chiến đấu, mở máy phát sóng phát hiện địch, phân biệt được mục tiêu trong nhiễu dày đặc, dẫn đường cho không quân, thông báo đảm bảo cho cao xạ, tên lửa ta đánh thắng, cho nhân dân kịp thời phòng tránh, bộ đội ra-đa đã trải qua bao gian khổ, chiến đấu hy sinh lập nên những chiến công vẻ vang với sự đùm bọc của nhân dân, của đồng đội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hồi ký đã ghi lại một cách cụ thể, dí dỏm, sinh động, đầy lạc quan cách mạng trên mọi mặt của cuộc sống một thời, thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, cứu nước.
        
        Theo dòng của hồi ký, chúng ta sẽ thấy rõ sự lãnh đạo chỉ huy của Đảng ta, của Quân đội, của Quân chủng ta đối với binh chủng đã góp phần to lớn vào sụ nghiệp của cuộc chiến đấu. Chúng ta vô cùng cảm ơn mối tình liên minh chiến đấu vô tư, trong sáng của bạn bè quốc tế anh em đã giúp ta vũ khí, vật chất chiến đấu cùng với kinh nghiệm quý báu.
        
        Hồi ký "Vì bầu trời Tổ quốc thân yêu” với những nội dung của nó chắc chắn sẽ động viên chúng ta nghĩ lại một thời kỳ trận mạc hào hùng của chính mình, của đồng đội, hy vọng góp phần những kinh nghiệm xây dựng và chiến đấu của lớp lớp cán bộ, chiến sĩ con em của chúng ta vì sau này.
        
        Ban liên lạc xin chân tình cảm ơn các đồng chí đã đóng góp bài và ý kiến của mình cho sự ra đời của hồi ký. Do còn những hạn chế, hồi ký không tránh khỏi những thiếu sót về các mặt, rất mong được sự đóng góp ý kiến, phê bình của các đồng chí. Ban liên lạc xin chân thành cảm ơn nhà xuất bản và sự tài trợ đầy tâm huyết của các đồng chí trong và ngoài Binh chủng.
 
T/M BAN LIÊN LẠC BẠN CHIẾN ĐẤU RA-ĐA        

Lương Hữu Sắt                          
       
        
« Sửa lần cuối: 08 Tháng Bảy, 2020, 09:22:46 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #1 vào lúc: 29 Tháng Năm, 2016, 07:01:23 pm »

       
NHỚ LẠI THỜI KỲ ĐOÀN 4

NGUYỄN HỮU HÙNG                     
Đại tá Phó chính ủy Binh chủng Ra-đa       
       
        Nhận lệnh điều động về xây dựng đơn vị "Tình báo binh trên không" tên gọi đầu tiên của bộ đội ra-đa phòng không, tôi cùng các anh Hoàng Khoát, Lý Thái Bảo khoác ba lô đi bộ từ bến xe điện Hà Đông về thôn Nhân Hòa xã Đại Thanh, cách thị xã chừng 6km.
               
        Anh em bộ đội đóng quân ở đó chỉ dẫn chúng tôi vào gặp đồng chí Nguyễn Đình Sơn, Tham mưu phó của Đoàn. Qua câu chuyện trao đổi ban đầu, chúng tôi được biết Đoàn đang trong quá trình tập hợp cán bộ, chiến sĩ từ các nơi điều về. Thâm nhập các nhóm thấy có mặt người của hầu hết các đơn vị trong toàn quân từ Nam ra Bắc. Những cán bộ, chiến sĩ về đây đều được chọn lọc kỹ đảm bảo về chính trị "ba đời trong sạch" như anh em vẫn nói nửa đùa nửa thật, đã trải qua chiến đấu càng trẻ càng tốt. Ngoài tiêu chuẩn trên là chủ yếu về trình độ học lực có châm chước đôi chút, bên cạnh các đồng chí cấp 2, cấp 3 có cả những anh em mới học lớp 1, lớp 2.
               
        Để giữ bí mật cho việc ra đời của một đơn vị kỹ thuật hiện đại vào bậc nhất của quân đội ta lúc đó, trên quyết định bí danh đơn vị là "Tiểu đoàn 4" (thực ra đó là một trung đoàn).
       
        Nhiệm vụ đầu tiên của chúng tôi là học văn hóa, mục tiêu của đại bộ phận đạt trình độ cấp 2 có một số kiến thức cấp 3, chủ yếu là toán - lý - hóa, làm cơ sở cho việc học tập kỹ thuật binh chủng sau này.
               
        Đơn vị được biên chế thành 4 đại đội theo trình độ từ lớp 1 đến lớp 7 trở lên. Cách biên chế này phù hợp với nhiệm vụ nhưng có xáo trộn rất lớn. Số anh em bạn bè thân quen nhau nay phân tán ra nhiều nhóm. Nhiều vấn đề về tình cảm, tâm lý, phong cách, thói quen, tập quán không dễ dàng hòa nhập nhanh chóng. Các đồng chí quê ở miền Nam thích ăn thật cay, thích ăn cá nhiều hơn ăn thịt, đặc biệt các đồng chí quê ở Nam Bộ tình cảm sâu đậm, thích gặp gỡ nhau tối thứ bảy, ngày chủ nhật để trò chuyện, nhậu lai rai, ca hát cải lương, vọng cổ…
               
        Nhằm xây dựng đơn vị thành một khối đoàn kết vững chắc, khắc phục kịp thời hiện tượng hiểu lầm nhau về tập quán, tác phong dẫn tới va chạm, Đoàn chủ trương tổ chức những buổi liên hoan, kể chuyện bản thân, quê hương, nêu lên những gì khác nhau về lối sống, tính cách để mỗi người dễ hiểu nhau, thông cảm nhau trong cuộc sống tập thể, cán bộ tìm ra các phương pháp lãnh đạo cho phù hợp.
       
        Không có doanh trại riêng, sống trong nhà dân, Đoàn rất coi trọng việc xây dựng tình đoàn kết quân dân. Ngoài những việc như làm công tác dân vận, gây tình cảm trong từng gia đình, giúp đỡ thiết thực nhân dân trong việc giữ vệ sinh sân nhà, đường làng ngõ xóm, giữ gìn kỷ luật quần chúng còn phải quan tâm đến một vấn đề rất tế nhị là quan hệ nam nữ giữa cán bộ chiến sĩ đơn vị - hầu hết rất trẻ, chưa vợ - với các thiếu nữ địa phương rất hâm mộ, yêu quý "Anh bộ đội Cụ Hồ". Một vài cô gái địa phương từ bỏ người yêu cũ để yêu anh bộ đội có văn hóa dẫn đến va chạm giữa chiến sĩ ta với một số thanh niên. Trước tình hình này trong nghị quyết về công tác dân vận của ban cán sự Đoàn có phần nhấn mạnh cần khuyên bộ đội không nên lấy vợ ở nơi đóng quân trong thời gian đơn vị đang học tập, công tác tại đây để tránh hiểu lầm. Từ đó làm cho khối đoàn kết quân dân càng tốt đẹp, góp phần quan trọng trong việc hoàn thành nhiệm vụ học tập huấn luyện của Đoàn.
       
        Học văn hóa vừa là nhiệm vụ vừa là nguyện vọng của mỗi người nên anh em rất say sưa học tập, nhiều người tự mua lấy đèn dầu để học. Xuất hiện phong trào "đôi bạn học tập" giáo viên cũng rất nhiệt tình, không quản ngại việc kèm cặp "một thầy một trò" nên việc học tập tiến bộ nhanh. Nghị quyết của Ban cán sự Đoàn là mỗi tháng lên một lớp đã thực hiện được. Với những đồng chí học lực thấp lại bỏ học đã lâu việc thu nhận kiến thức không vững chắc, quên nhiều kiến thức đã học ở lớp trước. Khi đồng chí Phan Thái và Trần Đình Cửu về làm trưởng đoàn và Chính ủy thì trên chỉ định tổ chức Đảng ủy gồm các đồng chí chỉ huy mới và các đồng chí trong Ban cán sự cũ. Đảng ủy nghiên cứu lại tình hình, quyết nghị học chậm lại, xin trên tăng thêm thời gian cho mỗi lớp để việc thu nhận kiến thức của học viên được vững chắc.
       
        Thấm thoắt gần hết năm 1956 chương trình học văn hóa đã hoàn thành một nửa, cấp trên lại chỉ thị tạm dừng học văn hóa để học chính trị như Nghị quyết Trung ương 10 về sửa sai trong cải cách ruộng đất, học các tài liệu đấu tranh chống bọn "nhân văn giai phẩm", chống Mỹ - Diệm phá hoại hiệp thương tổng tuyển cử. Sau những đợt tạm dừng phong trào học văn hóa lấy lại được đà mới. Các lớp đang chuẩn bị vào giai đoạn kết thúc thì tháng 7 năm 1957 đơn vị được lệnh khẩn trương đi chống lụt do vỡ đê Mai - Lâm. Cùng với một số đơn vị khác, sau hơn một tháng vật lộn với nước lũ chỗ đê vỡ đã được hàn lại vững chắc. Đơn vị được bằng khen của Thủ tướng Chính phủ. Hoàn thành nhiệm vụ chống lụt đơn vị được lệnh chuyển quân về xã Yên Sở huyện Thanh Trì để tiếp tục củng cố, tổng kết giai đoạn học văn hóa chuẩn bị chuyển sang giai đoạn mới - học tập chuyển binh chủng - địa điểm của chúng tôi lúc này là doanh trại trong sân bay Gia Lâm.

        Trong một lần nói chuyện trước đơn vị đồng chí Trần Đình Cửu - Bí thư Đảng ủy Đoàn nêu lên một hình ảnh về tình hình nhiệm vụ mà đến nay anh em vẫn còn nhớ:

        "Đơn vị gồm nhiều anh em từ khắp các đơn vị toàn quân tập hợp về giống như hình ảnh thu nhỏ của Tổ quốc ta thống nhất. Ta có nhiệm vụ xây dựng cơ sở đầu tiên cho một binh chủng mới của quân đội. Binh chủng này sẽ lớn mạnh và có trách nhiệm triển khai quản lý bầu trời của Tổ quốc thống nhất sau này".
       
        Sau một năm học tập kỹ chiến thuật ra-đa và tích cực chuẩn bị, trung đoàn ra-đa phòng không đầu tiên phiên hiệu là trung đoàn 291 triển khai chiến đấu phát sóng lên không quản lý bầu trời miền Bắc vào ngày 1 tháng 3 năm 1959 - Đó cũng là ngày truyền thống của bộ đội ra-đa sau này.
       
        Lời nói của đồng chí chính ủy đầu tiên cũng là ý nguyện của toàn thể anh em trong đơn vị; quả nhiên sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã thành hiện thực. Bộ đội ra-đa ngày nay hiện đại hơn, lớn mạnh hơn, đang cùng quân dân cả nước bảo vệ vững chắc vùng trời, vùng biển Tổ quốc thân yêu từng ngày thay da đổi thịt.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #2 vào lúc: 29 Tháng Năm, 2016, 07:10:04 pm »

 
KỶ NIỆM NHỮNG NGÀY ĐẦU THÀNH LẬP BINH CHỦNG RA-ĐA
       
LƯƠNG HỮU SẮT                               
Trung tướng - Nguyên Tư lệnh Binh chủng Ra-đa       
       
        Tháng 3-1967, tôi đang công tác tại Cục Hậu cần Quân chủng Phòng không - Không quân, là cục phó tôi chịu trách nhiệm về mặt đảm bảo kỹ thuật cho các đơn vị chiến đấu trong Quân chủng, thì đột nhiên nhận được quyết định của trên về Quân chủng gặp Bộ tư lệnh để nhận công tác mới.
       
        Về đến Bạch Mai, tại phòng họp lớn của Quân chủng, tôi thấy anh Ngữ cũng được gọi về; các anh ở Binh chủng Tên lửa, Binh chủng Không quân đều đến đông đủ.
       
        Chúng tôi được nghe thông báo quyết định của Bộ Quốc phòng về việc thành lập ba binh chủng: Không quân, Tên lửa, Ra-đa. Tôi và anh Ngữ ở Binh chủng Ra- đa. Rất bất ngờ, từ năm 1965 tôi ở trung đoàn ra-đa 290. Ra phụ trách công trường 300, chuyển loại ra-đa cho cán bộ chỉ huy ra-đa, các trắc thủ, đài trưởng các loại ra-đa mới. Đến tháng 8-1966 mới về Cục Hậu cần. Nay được trở lại Bình không Ra-đa đúng với ngành nghề tôi rất mừng.
       
        Trước khi ra về, anh Phùng Thế Tài - Tư lệnh Quân chủng còn dặn thêm phải tổ chức sớm lực lượng để đúng ngày 1-5 đảm nhiệm trực ban trong sở chỉ huy.
       
        Tính toán thời gian chỉ còn hơn một tháng mà rất nhiều công việc phải làm: Trước tiên phải hình thành các cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần, Kỹ thuật, cán bộ nào về thì ghép vào cơ quan của mình và chuẩn bị cho kế hoạch công tác ngay.
       
        Song song với thành lập cơ quan, Bộ tư lệnh và các đồng chí chủ chốt ở cơ quan phải đi các đơn vị (các trung đoàn ra-đa 293; 291; 292) để nắm tình hình, biết các đội hình đóng quân và trận địa các đại đội.

        Riêng cơ quan tác chiến, phải hình thành sớm; cho một số cán bộ tối thiểu bốn người vào sở chỉ huy cùng với các đồng chí ở Tổng trạm nắm tình hình, quy tắc trực ban; phân công lịch mở máy, nắm lại sổ sách và bảng biểu để khi các đồng chí trong Bộ tư lệnh binh chủng vào trực chỉ huy, đã có cơ quan tham mưu nắm được tình hình.

        Cơ quan chính trị vừa đi đơn vị vừa chuẩn bị nghị quyết cho Đảng ủy binh chủng họp trong tháng 5, để quán triệt cho các đơn vị.
       
        Sau khi sắp xếp xong công việc trước mắt, chúng tôi gồm anh Ngữ, anh Tuất, anh Đào Văn Dương và tôi bắt đầu xuống trung đoàn 291 đơn vị phụ trách khu vực đồng bằng Bắc Bộ bao gồm cả Hà Nội và Hải Phòng.
       
        Sau đó đoàn chúng tôi đến trung đoàn 293 phụ trách vùng trời Đông Bắc và phía Bắc Hà Nội. Hai trung đoàn này có nhiệm vụ cảnh giới vừa dẫn đường cho không quân ta, vừa có một số đại đội làm nhìn vòng cho tên lửa và sở chỉ huy Quân chủng. Vì vậy các đơn vị được trang bị các loại ra-đa mới sóng mét, dicimet, centimet, quản lý được các tầng cao, trung bình, thấp, và thật thấp. Chúng tôi dành thời gian 5 ngày cho 2 trung đoàn này. Cuối cùng để dùng ba ngày cho trung đoàn 292 ở xa, đường xá khó khăn nhất ở vùng Tây Bắc.
       
        Trung đoàn này ở xa, phạm vi cảnh giới chủ yếu là miền núi, nhưng có vị trí rất xung yếu đồi với đồng bằng Bắc Bộ và thủ đô Hà Nội. Nó khống chế rất xa về phía Tây đối với máy bay của không quân Mỹ ở các sân bay Thái Lan. Vì vậy, sau khi làm việc với trung đoàn xong, chúng tôi còn ghé qua đại đội 37, con mắt phía Tây của mạng ra-đa cảnh giới.
       
        Thời gian đi qua các đơn vị giới hạn trong 10 ngày. Sau đó trở về cơ quan, tình hình đơn vị chúng tôi đã nắm được phần cơ bản, chỉ tiếc không kịp đi đến các đại đội ra-đa ở hướng chủ yếu; tuy vậy cũng đã có cơ sở để hạ quyết tâm sau này. Trong 10 ngày đó, cơ quan cũng đã tập trung gần đầy đủ nhất là cơ quan tác chiến và huấn luyện, chuyển từ phòng ra-đa trinh sát của Quân chủng về nên khá đầy đủ và các đồng chí đó đã nắm được tình hình bộ đội từ trước kể cả sở chỉ huy nên rất thuận lợi. Cơ quan kỹ thuật, phòng kỹ thuật ra-đa ở Cục Hậu cần về, có những đồng chí có trình độ kỹ thuật khá, tay nghề sửa chữa tốt như đồng chí Hoàng Bình, đồng chí Lượng, đồng chí Đống... đều là những đồng chí được học hành chu đáo, đã qua thực tế, bảo đảm sửa chữa và hiệu chỉnh ra-đa cho các đơn vị.
       
        Riêng hai cơ quan chính trị và hậu cần còn khó khăn vì phải điều chỉnh cán bộ chính trị, hậu cần ở Quân chủng về và rút ở các trung đoàn lên, nghị quyết đầu tiên cho Đảng ủy binh chủng do anh Tuất gánh vác việc này gần như toàn bộ với một số cán bộ tổ chức.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #3 vào lúc: 29 Tháng Năm, 2016, 07:13:36 pm »

        Bộ tư lệnh binh chủng và các thủ trưởng cơ quan bàn công việc sắp tới cho đến khi trực ban ở sở chỉ huy. Trong Bộ tư lệnh ngoài anh Ngữ và tôi, còn có anh Đào Văn Dương là tham mưu trưởng, anh Hứa Mạnh Tài tham mưu phó, anh Tuất - Chủ nhiệm chính trị, anh Thường - Chủ nhiệm hậu cần, anh Hoàng Tấn Chỉnh - Chủ nhiệm kỹ thuật.
       
        Thời gian tháng 4 đã gần hết, tuy Đảng ủy chưa họp nhưng chúng tôi trao đổi trước với nhau. Anh Ngữ, anh Tuất, anh Dương và tôi hội ý lại để chuẩn bị cho Đảng ủy họp phiên đầu tiên, tập trung bàn bốn vấn đề lớn:
       
        1. Trước mắt tổ chức đảm bảo chiến đấu thật tốt đối với Quân chủng và các đơn vị, nó là nhiệm vụ hàng đầu với tình hình khẩn trương hiện nay.
       
        2. Phổ biến sâu rộng quyết định thành lập binh chủng của Bộ Quốc phòng cho toàn thể các Đảng bộ, lãnh đạo các đơn vị quán triệt tình hình nhiệm vụ, thấy rõ thuận lợi, khó khăn, thấy rõ sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng bộ, phấn khởi đoàn kết, xây dựng đơn vị, binh chủng lớn mạnh ổn định.
       
        3. Xây dựng cơ quan từng bước trưởng thành cả về mặt tổ chức, xây dựng các mối quan hệ, các quy định chế độ nề nếp làm việc giữa Bộ tư lệnh và cơ quan, đáp ứng tiến kịp với yêu cầu chỉ huy phối hợp tác chiến hiện nay với các đơn vị.
       
        4. Từ nay đến tháng 6 tháng 1967 giao cho Bộ tư lệnh nghiên cứu hoàn chỉnh hệ thống ra-đa, xây dựng xong phương án tác chiến của toàn binh chủng với các tầng không thấp, tầng trung bình, tầng cao, cùng với hệ thống quan sát mắt, chấn chỉnh tiếp chế độ và các quy tắc trực ban từ đại đội đến trung đoàn và binh chủng. Đầu tháng 7 tháng 1967 Đảng ủy binh chủng họp để thông qua phương án tác chiến chung, báo cáo Quân chủng, làm tài liệu đến trung tuần tháng 7 có thể triệu tập từ cán bộ đại đội đến trung đoàn về tập huấn phương án tác chiến của binh chủng. Cuối tháng 4 năm 1967 Đảng ủy họp phiên đầu tiên gồm anh Ngữ, anh Tuất, anh Dương, anh Chính (chính ủy trung đoàn 293), anh Cường trung đoàn trưởng trung đoàn 291), anh Thường (chủ nhiệm hậu cần) và tôi. Đảng ủy nhất trí các quyết định trên và có nghị quyết gửi các Đảng bộ. Từ ngày 1 tháng 5 năm 1967 Binh chủng Ra-đa bắt đầu trực ban tại sở chỉ huy mà trước kia là tổng trạm của chủ nhiệm ra-đa trinh sát của Quân chủng.
       
        Sau hội nghị tháng 1 năm 1967 họp ở Honolulu, Mỹ - ngụy tăng cường đánh phá miền Bắc, nhằm mục đích: Triệt tiêu đường viện trợ từ bên ngoài vào miền Bắc Việt Nam - cắt nguồn tiếp tế về người và của từ miền Bắc vào Nam Việt Nam và Lào; hủy diệt tiềm lực kinh tế và quốc phòng của miền Bắc Việt Nam.
       
        Thực tế từ ngày 20 tháng 4 năm 1967 thời tiết tốt lên nhiều. Máy bay không quân và hải quân Mỹ bắt đầu tập trung đánh phá vào các mục tiêu của hai thành phố Hải Phòng, Hà Nội. ở Hải Phòng địch đánh vào nhà máy điện Cửa Cấm, nhà máy sắt tráng men, nhà máy xi măng Hải Phòng, cầu Hạ Lý. Ở Hà Nội địch tập trung đánh trạm biến thế Đông Anh, nhà máy xe lửa Gia Lâm, ga Yên Viên, khu công nghiệp Thượng Đình và đến tháng 5 năm 1967 địch chuẩn bị lực lượng và máy bay dùng bom điều khiển vô tuyến truyền hình để tập trung đánh nhà máy điện Yên Phụ. Đây là những trận đánh lớn nhất, tập trung nhất từ trước tới nay, có lần 30 chiếc, 48 chiếc, 62 chiếc, bay đội hình mật tập...
       
        Trước và sau các trận đánh lớn vào các mục tiêu nói trên địch dùng liên tiếp máy bay không người lái tầng thấp, tầng cao và máy bay RF101 và RF4 để trinh sát chuẩn bị cho trận đánh và kiểm tra kết quả sau khi ném bom, trên các mục tiêu đã chọn sẵn.
       
        Trước và trong các trận đánh, địch dùng nhiễu ngoài đội hình bằng các máy phát nhiễu trên máy bay EB66, gây nhiễu trên các khu vực rất rộng đối với các khí tài ra-đa của ta và dùng nhiễu trong đội hình bằng các máy phát nhiễu đeo trên các máy bay chiến đấu bay trong đội hình mật tập của nó, gây nhiễu trực tiếp đối với các khí tài ra-đa trinh sát và dẫn đường cho không quân, ra-đa ngắm bắn của các đơn vị tên lửa, cao xạ. Số lượng tên lửa sơ-rai dùng để đánh phá các đài ra-đa dẫn đường, ra-đa, tên lửa, cao xạ, ngày càng nhiều trong các trận tập kích đường không.
       
        Về phía Quân chủng Phòng không - Không quân năm 1967 nhất là sau đợt đánh phá tháng 12 năm 1966 Quân chủng được chỉ thị của trên đã chuẩn bị sẵn sàng để bảo vệ Hà Nội và Hải Phòng.
       
        Hai sư đoàn 361 và 367 tập trung bảo vệ Hà Nội, sư đoàn 365 được giao nhiệm vụ bảo vệ đường 1 Bắc và hai sân bay Nội Bài và Kép, đội hình của sư đoàn 365 đã vươn tới gần Phù Lỗ, sư đoàn 363 bảo vệ Hải Phòng nhưng cùng dịch lên đến Hải Dương bảo vệ hai cầu Lai Vu Phú Lương. Các trung đoàn tên lửa tập trung hầu hết triển khai quanh Hà Nội, Hải Phòng, sân bay Nội Bài, các trung đoàn không quân đều tập trung ở bốn sân bay Nội Bài, Kép, Kiến An và Gia Lâm.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #4 vào lúc: 29 Tháng Năm, 2016, 07:18:25 pm »

        Với các lực lượng hỏa lực tập trung như trên nhiệm vụ của ra-đa phải thông báo kịp thời, liên tục các tình báo máy bay xa, chuẩn xác, liên tục.
       
        Đối với Binh chủng Ra-đa vốn trước có bốn trung đoàn phụ trách các khu vực dưới sự chỉ đạo của chủ nhiệm ra-đa trinh sát, cơ quan tham mưu của Quân chủng; về mặt Đảng, 4 trung đoàn này trực thuộc Đảng ủy Quân chủng, và hậu cần kỹ thuật cũng thuộc Quân chủng do Cục Hậu cần đảm bảo. Trường ra-đa đã phủ kín miền Bắc, từ Vĩnh Linh đến Móng Cái; Tây Bắc và Việt Bắc và vươn ra xa khống chế khỏi biên giới cho hết màn nổi hình của các trận địa ra-đa ở biên giới và ở bờ biển. Qua hai năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đội hình của các trận địa ra-đa đã được điều chỉnh dần dần phù hợp với địa hình của đất nước, với các yếu địa của Quân chủng phụ trách, đủ sức theo dõi và bám sát hướng bay các máy bay của không quân và hải quân Mỹ. Tuy vậy đối với tình hình hiện nay phải phấn đấu nhiều hơn nữa mới đáp ứng được yêu cầu chiến đấu của các Binh chủng hỏa lực.
       
        Nội bộ của các đại đội ra-đa ở các tuyến biên giới bờ biển và trong nội địa của các trung đoàn, qua thực tế trực ban chiến đấu từ ngày 1 tháng 3 năm 1959 và trải qua trực tiếp chiến đấu với không quân Mỹ, đã trưởng thành vững vàng. Đội ngũ trắc thủ ra-đa của các loại đài sóng mét, decimet, centimet, đều có các kíp trắc thủ giỏi, thậm chí có đại đội hai kíp giỏi đối với mỗi đài ra- đa, các cán bộ đại đội, trung đội, đã trưởng thành nhanh chóng trong công tác tổ chức, chỉ huy, kỹ thuật cũng như phòng chống địch tập kích trên không và mặt đất; các văn kiện chiến đấu như các sơ đồ góc che khuất, sơ đồ cánh sóng, mặt phản xạ, các số liệu của trận địa chính và dự bị được chuẩn bị đầy đủ; giữa các cán bộ trung đoàn với binh chủng cũng rất thuận lợi; tuyệt đại đa số đều quen biết nhau từ ngày đầu thành lập các trung đoàn ra-đa trinh sát, đã cùng nhau chiến đấu và rất phấn khởi khi thành lập binh chủng, tạo thành sức mạnh tổng hợp chung, nên các anh Thiệu trung đoàn trưởng, anh Mỹ - chính ủy trung đoàn 292, anh Cường - trung đoàn trưởng 291, anh Tuyết chính ủy, anh Hoan - trung đoàn trưởng 293, anh Chính - chính ủy, anh Hóa - trung đoàn trưởng 290 và anh Huy chính ủy; tất cả đều công tác ở ra-đa từ ngày đầu tiên. Mọi người đều phấn khởi quan tâm đến công tác chung, chấp hành nghiêm chỉnh các mệnh lệnh của cấp trên, vì vậy công tác của Bộ tư lệnh Binh chủng những ngay đầu tiên đều đi vào ổn định, đoàn kết, phấn khởi.
       
        Căn cứ vào ý định chung đến tháng 6 năm 1967 chúng tôi xác định: Phải cố gắng xây dựng cho xong phương án tác chiến của hệ thống ra-đa trinh sát, để có cơ sở quyết tâm chung cho toàn Binh chủng. Tháng 5, sau khi đã đi vào trực ban chiến đấu, tôi họp cán bộ các cơ quan tác chiến và huấn luyện để bàn về phương án tác chiến, mà trong số anh em này, nhiều đồng chí đã có kinh nghiệm, có trình độ về chiến thuật và kỹ thuật, đã nắm được khả năng phát hiện mục tiêu của trường ra- đa nói chung: Như anh Kiến Khang, anh Phạm Ngọc Danh, anh Phương (Kính), anh Kỳ, anh Phong... Do vậy chúng tôi tập trung bàn bạc một số vấn đề quan trọng trước mắt, đó là:
       
        Bảo đảm thông báo phát hiện các tốp lớn máy bay địch vào đánh Hà Nội, Hải Phòng, bảo đảm cho các đơn vị hỏa lực của Quân chủng Phòng không - Không quân cao xạ, tên lửa, máy bay) chuẩn bị các phần tử bắn được sớm, chọn được tốp lớn tiêu diệt địch, đồng thời thông báo trên mạng B1 để báo động phòng không và các đơn vị khác chiến đấu, trong mọi thời tiết, ngày và đêm, trong hoàn cảnh chiến đấu phức tạp chống nhiễu và nhiều hướng, nhiều tốp đối với các tầng không.
       
        Muốn thực hiện vấn đề trên, việc trước tiên là phải rà soát, xem xét lại khả năng phát hiện của toàn bộ hệ thống ra-đa và vọng quan sát mắt, mặc dầu qua thực tế đã được điều chỉnh dần dần hợp lý, tuy vậy đối với các chiến dịch phòng không bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng sắp tới, nó có đặc điểm, nhiệm vụ yêu cầu đối với ra-đa khác trước:
       
        Đối với tuyến ra-đa ở ven biển và biên giới, tuyến tiền tiêu để phát hiện khống chế máy bay của hải quân Mỹ từ các tầu sân bay và máy bay của không quân Mỹ từ các sân bay ở Thái Lan, bay vào đánh các mục tiêu Hà Nội, Hải Phòng, đường Bắc. Nhiệm vụ của nó là phải phát hiện thật xa, phân biệt được số lượng, kiểu để báo động sớm. Vì vậy kiểm tra, rà xét kỹ lại và thấy đối với tuyến tiền tiêu này đã được điều chỉnh bố trí hợp lý, các đại đội ở phía trước đối với từng trung đoàn, đại đội 35, đại đội 37 của trung đoàn 292, đại đội 16 của trung đoàn 290, đại đội 18, đại đội 19, đại đội 24, đại đội 25, đại đội 46 của trung đoàn 2 91, đều đã bố trí tốt, phát huy hết tính năng của các loại ra-đa, phát hiện xa, và giữ bí mật trận địa, trụ được lâu bền ở tuyến này. Riêng khu vực phía trung đoàn 293 còn khó khăn, các đại đội 28, đại đội 23 bố trí còn chưa hợp lý bị che khuất lớn, nên luôn bị bất ngờ, mãi sau này đến đầu năm 1969, đại đội 23 được chuyển ra ngoài đảo X mới giải quyết được khó khăn này. Các đồng chí dự cuộc trao đổi thảo luận này cũng thấy được chỗ mạnh, yếu của các khu vực để trong phương án tác chiến sắp tới phải đề ra cách khắc phục.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #5 vào lúc: 29 Tháng Năm, 2016, 07:21:12 pm »

        Với tuyến tiếp sau trong nội địa, nêu các vấn đề thảo luận nhiệm vụ chủ yếu của nó là chuyển tiếp đường bay vào yếu địa phải được liên tục, xác định số lượng kiểu từng tốp thật chính xác; vì qua rất nhiều vọng quan sát mắt lẻ và vọng quan sát đỉnh đầu, các đại đội ra-đa bố trí ở nội địa tạo thành hình khối rất lớn; bổ trợ cho nhau để chống nhiễu; chiều sâu và chiều rộng càng lớn khả năng chống nhiễu càng tốt hơn. Vì vậy phải xem xét kỹ lưỡng ở tuyến nội địa này, những khu vực hạn chế do địa hình mà các đỉnh núi luôn cản trở việc phát hiện; một số khu vực còn chưa vững chắc, như khu vực của đại đội 39, trung đoàn 292; đại đội 45, đại đội 26 của trung đoàn 291 hoặc giữa khu vực đại đội 46, và đại đội 21 của trung đoàn 291 ở đây cũng nảy sinh ra các chỗ yếu của mạng ra-đa tầng thấp nữa; cuối cùng ở các vùng sát gần các yếu địa Hà Nội, Hải Phòng (mục tiêu bảo vệ), việc thông báo các số liệu máy bay trực tiếp các đơn vị hỏa lực của các đài ra-đa sóng cai, các đài ra-đa đo cao rất quan trọng giúp các đơn vị hỏa lực bắt mục tiêu dễ dàng hơn và chọn mục tiêu để tiêu diệt được tốt hơn. Những đơn vị này không nhiều nhưng những phần tử đo các mục tiêu rất chính xác vì ngoài khả năng phát hiện xa, còn có các hiện sóng tỷ lệ lớn, năng lực phân biệt rõ, đo độ cao tốt và liên tục, trong hoàn cảnh nhiễu tích cực rất lớn, nhất là nhiễu trong đội hình của máy bay địch.
       
        Đối với vọng quan sát của ra-đa phải tổ chức lại vì có nhiều đơn vị di chuyển luôn nên bỏ không dùng nữa, mặt khác thiếu quân số nên đó là tổ chức đầu tiên bị cắt.
       
        Đấy là nội dung chính phải bàn và xác định để trực tiếp bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng, tất cả đều thống nhất với nội dung trên. Kiểm tra lại bản đồ đối chiếu với sơ đồ trận địa đã có lưu trữ, chỗ nào thấy còn thiếu chưa có trận địa chính thức và dự bị gây thành lỗ hổng lớn của các tuyến và trường ra-đa, thì phải đi xác định thực địa để bổ sung và điều chỉnh lực lượng; bất kỳ ở khu vực của trung đoàn nào.
       
        Thực tế sau khi đội hình ra-đa được điều chỉnh lại hợp lý, được tăng cường thêm trang bị; trong năm 1967 máy bay của không quân và hải quân Mỹ mở những trận tập kích đường không vào Hà Nội, Hải Phòng có đợt địch đánh liên tục 3 - 5 ngày, nhưng hệ thống ra-đa cảnh giới bảo đảm đánh lớn đã hoàn thành nhiệm vụ tốt, không gây bất ngờ cho các đơn vị hỏa lực và phòng không nhân dân, các trận đánh đều được báo động rất sớm, chủ động và chuẩn xác.
       
        Vấn đề lớn thứ hai mà chúng tôi thường xuyên phải lo lắng đối với mạng ra-đa là phải phát hiện tầng không cao, tầng không thấp và thật thấp. Đối với tầng không cao, theo dõi các đường bay của máy bay không người lái BQM-34A bay trong các tháng của năm 1966 và quý I năm 1967, thấy loại này bay trong các ngày thời tiết tốt, vào các ngày nắng tốt để chụp ảnh. Rất nhiều đài ra-đa phát hiện tốt, vì vậy không cần phải dùng nhiều đại đội trực ban để phát hiện máy bay tầng cao; mà chỉ dùng một số nhỏ. Đại đội được chỉ định cảnh giới máy bay tầng cao có trang bị loại ra-đa công suất lớn và máy ra-đa đo cao. Khi đã được xếp vào danh sách "trực ban tầng cao" báo trước vào 19 giờ ngày hôm trước, hôm sau đến giờ mở máy phải có kíp trực ban giỏi và đủ; có nghĩa là phải có trắc thủ giỏi, phải có đài trưởng, đại đội trưởng ở trong sở chỉ huy; không được làm việc khác, không được ủy nhiệm cho người thay thế, chế độ trực ban phải hết sức nghiêm mật, lọt mục tiêu máy bay tầng cao thì các đại đội ra-đa trong phiên trực này phải chịu trách nhiệm. Sau khi bàn bạc thống nhất với các đồng chí đó, chỉ định các: đại đội 16 của trung đoàn 290, đại đội 18, đại đội 21 của trung đoàn 291, đại đội 37 của trung đoàn 292 và các đài ra-đa sóng mét của một số đại đội ra-đa dẫn đường tham gia vào mạng "trực ban tầng cao" nhờ vậy số đài trực ban tầng cao mỗi phiên ít đi nhiều; nó thống nhất trong toàn thể hệ thống ra-đa, không phân chia từng trung đoàn. Có trung đoàn phải trực ban 2 đại đội, có khi cùng lúc đó trung đoàn bên cạnh không có đại đội nào trực ban.
       
        Nhờ tổ chức trực ban chặt chẽ như vậy nên sau khi được xếp vào mạng ra-đa trực ban tầng cao, tiến hành trực ban suốt năm 1967, 1968 và 1969. 100% máy bay trinh sát tầng cao đều được phát hiện đầy đủ. Đến quý 3 năm 1967, Mỹ dùng máy bay RS71 có tốc độ và độ cao lớn; đều bị phát hiện ngay vào chuyến bay đầu tiên, tuy lúc đầu còn bị gián đoạn, chưa được liên tục, sau đó rút kinh nghiệm ngay; các chuyến sau đều bắt mục tiêu liên tục.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #6 vào lúc: 29 Tháng Năm, 2016, 07:26:40 pm »

        Đối với hệ thống ra-đa phát hiện "Tầng không thấp và thật thấp" lại là một vấn đề khác hẳn với tầng cao; phạm vi không gian bắt thấp chiếm không hết phần lớn của trường ra-đa, mà chỉ có từng khu vực địa hình bằng phẳng như đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng Thanh Hóa v.v Còn các khu vực khác thì bay thấp và thật thấp rất hạn chế, nhất là đối với máy bay không người lái 147J và S.
       
        Máy bay trinh sát không người lái 147J được máy bay vận tải C130 chở, bay theo đường biển, đến địa điểm quy định thì phóng, 147J bay thấp từ 500 đến 800m bay theo sông ngòi hoặc trục đường đến mục tiêu trinh sát chụp ảnh xong, bắt đầu nâng dần độ cao lên cho đến khi rời khỏi đất đến 15 - 20km. Trước và sau trận đánh đều dùng loại máy bay này trinh sát mục tiêu hoặc dùng RF-101 hoặc RF-4C.
       
        Ngoài ra trong năm 1967 địch thường xuyên dùng loại máy bay A6, A6A để bay thấp chiếc lẻ đánh đêm, số lượng không đông, nhưng máy bay đánh lén gây rất bất ngờ và nguy hiểm.
       
        Vì bay thấp, thật thấp nên ra-đa phát hiện rất gần, đường bay không liên tục, bị đứt đoạn, có khi máy bay qua mục tiêu rồi mà thông báo của ra-đa đến chậm sau hàng phút; các đơn vị hỏa lực nhất là tên lửa và pháo phòng không bắn bằng khí tài, không thể nào mở máy kịp; không bắt kịp mục tiêu, nó chính là mối lo ngại nhất của hệ thống ra-đa trinh sát đối với tầng không thấp.
       
        Trong lúc đó loại ra-đa có tính năng bắt thấp sóng dm lại bố trí phân tán không tập trung, mỗi nơi một chiếc; vì mới vào Việt Nam anh em cán bộ, chiến sĩ chưa quen sử dụng nên hư hỏng rất phổ biến, loại ra-đa này có tính năng chiến kỹ thuật phát hiện mục tiêu bay thấp và thật thấp tốt, nhưng đòi hỏi trận địa có yêu cầu kỹ thuật cao như phải có mặt phản xạ 2km bằng phẳng; góc che khuất phải dưới 30 phút... Trong lúc đó yêu cầu ngụy trang phòng không phải tốt, đề phòng địch tập kích trên không; vì vậy các đơn vị đã bố trí các trận địa này đều không đạt yêu cầu, ảnh hưởng đến tính năng của khí tài khá lớn. Trong hội nghị rút kinh nghiệm của các đại đội và các trung đoàn ra-đa năm 1966 ở Gia Lâm, anh Phùng Thế Tài - Tư lệnh có nhắc một câu bóng bẩy làm cho anh em nhớ mãi: "Các đại đội bố trí trận địa cho các máy ra-đa trinh sát quá chú trọng đến cây đa, giếng nước, mái đình nên khó mà phát hiện mục tiêu tốt được”.
       
        Vì các nguyên nhân trên, nên vấn đề được thảo luận rất sôi nổi nêu ra nhiều ý kiến giải quyết. Một trong những vấn đề lớn nhất là xác định cho được phạm vi trường ra-đa phát hiện máy bay bay thấp, cần phải bố trí lại hệ thống này, đó là khu vực chủ yếu của trung đoàn 291 và một phần nhỏ của trung đoàn 293.
       
        Sau khi xác định khu vực, phải điều chỉnh lại đội hình các đại đội ra-đa sóng dm, tạo điều kiện cho trường ra-đa thấp và thật thấp gắn chặt với nhau để có thể phát hiện mục tiêu máy bay địch không gián đoạn.
        Đối với các đại đội này việc quan trọng trước mắt là phải chọn trận địa của các đài ra-đa đúng với tính năng yêu cầu của nó nhất là mặt phản xạ và góc che khuất ở hướng chủ yếu.
       
        Điều hết các máy ra-đa sóng dm bao gồm khí tài và trắc thủ của tất cả các trung đoàn về cho các đại đội ra-đa ở khu vực này của 2 trung đoàn 291 và 293, bảo đảm cho mỗi đại đội được 2 đài sóng dm, không kể loại ra-đa sóng mét đã được trang bị.
       
        Điều hết thợ ra-đa sóng dm, gồm 15 người được cấp trên bổ sung mới ở trường kỹ thuật về; nhưng chưa có thực tế, giao nhiệm vụ cho đồng chí Đống - Trợ lý ra-đa của phòng kỹ thuật dẫn các đồng chí này lần lượt đến từng đài ra-đa sóng dm kiểm tra hiệu chỉnh và sửa chữa cho đạt tính năng kỹ thuật; dùng công tác thực tế này bồi dưỡng trực tiếp cho các anh em thợ, để sau chuyến đi công tác xong hết các đài, trình độ tay nghề anh em khá lên, sẽ phân phối về mỗi đài một thợ để thường xuyên kiểm tra hiệu chỉnh sửa chửa đảm bảo tham số cho khí tài chiến đấu thường xuyên.
       
        Vấn đề cuối cùng là xác định cho được "Mạng ra-đa phụ trách tầng không thấp" và chỉ định tổ chức trực ban vào giờ cao điểm có máy bay bay thấp. Các đại đội phụ trách việc cảnh giới loại mục tiêu này: 19 giờ hôm trước được thông báo giờ trực ban ngày hôm sau, trong đó có mật hiệu "trực ban tầng không thấp" loại máy và giờ mở máy; các đại đội của trung đoàn ra-đa được chỉ định nhiệm vụ trên, phải tổ chức kiểm tra khí tài đạt tham số đưa kíp trực ban đủ, giỏi vào trực ban, báo cáo về chỉ huy sở trung đoàn và báo cáo về Binh chủng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #7 vào lúc: 29 Tháng Năm, 2016, 08:08:52 pm »

        Chính nhờ điều chỉnh hệ thống ra-đa phụ trách tầng không thấp và tổ chức hợp lý; các đơn vị này trong năm 1967 và nhất là suốt năm 1968, 1969, 1970, mặc dù địch dùng máy bay không người lái trinh sát liên tiếp Hà Nội, Hải Phòng, các quốc lộ 1A, 1B... đều bị phát hiện sớm, nhiều chiếc máy bay không người lái bị bắn rơi, có tuần địch vào trinh sát 7 chiếc đã bị các đơn vị hỏa lực bắn rơi 6 chiếc như tuần lễ ngày 20 - 27 tháng 7 năm 1969.
       
        Đối với các đại đội có máy ra-đa phụ trách tầng không thấp này; những khi địch mở những trận tập kích đường không có quy mô lớn, đều phụ trách phát hiện tầng trung rất tốt; chống nhiễu có kết quả và phân biệt số lượng kiểu máy bay tương đối chính xác.
       
        Vấn đề thứ ba cần thảo luận là kiểm tra lại và bàn bạc về hệ thống ra-đa dẫn đường cho không quân ta. Đó là lực lượng đã được bố trí hợp lý nhất; cả về mặt trang bị, tổ chức và nhiệm vụ.
       
        Từ khi có trung đoàn máy bay phản lực về nước, hệ thống ra-đa dẫn đường chưa có, đến tháng 4 năm 1965 có Π-30, Π-35, ΠPB-11 bắt đầu triển khai chuyển loại ở công trường 300, đến tháng 7 mới kết thúc, lúc này trên mới quyết định thành lập trung đoàn 293 ra-đa dẫn đường triển khai một lúc 6 đại đội ra-đa dẫn đường trang bị hoàn chỉnh và hiện đại, khả năng đảm bảo dẫn đường cho không quân ta tăng rõ rệt.
       
       
        Về mặt tổ chức mỗi đại đội đều đảm bảo dẫn đường cho một sân bay, được đặc trách riêng cho từng sân bay chỉ huy mở máy, chỉ huy dẫn đường; ngoài nhiệm vụ chủ yếu trên các đại đội ra-đa này còn được trang bị thêm ra-đa sóng mét và dm để trực tiếp đảm bảo ra-đa cảnh giới khi đến phiên trực ban vừa sẵn sàng chiến đấu vừa bù lấp khu vực cảnh giới tạo cho trường ra-đa được liên tục khỏi gián đoạn.
       
       
        Đối với trung đoàn 293 không phải chỉ làm nhiệm vụ dẫn đường, phải chỉ đạo tổ chức cho các đại đội ra-đa dẫn đường hoàn thành tốt nhiệm vụ, ngoài ra trung đoàn còn phải tổ chức toàn mạng ra-đa cảnh giới vùng trời được phân công - kể cả phụ trách tầng cao, tầng thấp và thật thấp, tầng trung bình khi địch đánh lớn.
        Đó là quyết định hết sức chính xác, vừa phát huy tác dụng các đại đội ra-đa dẫn đường cho không quân vừa làm nhiệm vụ cảnh giới. Đối với hệ thống ra-đa cảnh giới cả nước, một khoảng không gian rộng lớn 1 trung đoàn phụ trách phía Đông Bắc của Tổ quốc được trang bị hoàn chỉnh cho trường ra-đa được đảm bảo vững mạnh, chặt chẽ với mọi tầng không, trung đoàn 293 cùng với trung đoàn 291 đảm bảo cho Hà Nội, Hải Phòng và tuyến giao thông vận tải phía Bắc được cảnh giới liên tục, lại tiết kiệm được lực lượng quân số, khí tài…
       
       
        Các nội dung thảo luận sôi nổi trên cũng đã xong, chúng tôi gồm có anh Dương, anh Hứa Mạnh Tài, anh Kiến Khang bàn lại các vấn đề và giải quyết ngay công việc:
       
       
        Cử các đoàn cán bộ đi nghiên cứu thực địa ngay những chỗ phát hiện còn yếu của các tuyến ra-đa biên giới và nội địa; giao cho anh Cường lúc này là trung đoàn trưởng 291 đi Hưng Yên, Hải Dương nghiên cứu một trận địa để bổ sung cho tuyến nội địa đối với tầng không trung bình và cũng là tầng không thấp để đại đội 27 về đây, trong đó có một đồng khí trợ lý tác chiến của Binh chủng cùng đi.
       
       
        Cử một đoàn cán bộ tham mưu gồm ba đồng chí đi Hòa Bình giữa đại đội 39 và 36 để điều chỉnh khu vực này. Tôi và một cán bộ đi khu vực Nam Định, Cửa Đáy phía Hà Nam để xem lại khu vực của đại đội 21 và đại đội 24 của trung đoàn 291.
       
       
        Trước khi đi các đoàn cán bộ phải xem bản đồ 1/200.000, 1/100.000 và dùng bản đồ 1/50.000 đi xem xét trận địa, khu vực nào chưa có bản đồ 1/50.000 thì dùng bản đồ 1/100.000 hẹn đến 10 - 6 phải trở về tổng hợp lại tình hình để có quyết tâm mới.
       
        Vấn đề khác cũng rất khẩn trương đó là viết cho xong văn kiện: "Phương án tác chiến của bộ đội ra-đa đối với các tầng không" giao cho đồng chí Phương (Kính) chấp bút viết hoàn chỉnh cho xong, đến ngày 15 tháng 6 năm 1967 có thể thông qua được. Để chuẩn bị cho nội dung này cần có một số cán bộ nữa giúp sức vẽ bản đồ đối với toàn bộ mạng ra-đa và từng khu vực.
       
        Mất gần mười ngày đi các khu vực; khó khăn nhất là đoàn đi phía Hòa Bình; khu vực rừng núi phải đi nhiều nơi, đi vòng vèo, leo lên một số đỉnh núi cao khống chế từng vùng để khảo sát.
       
        Riêng đoàn của tôi đến đại đội 24 trước, sau đó đến đại đội 21 thấy hai đại đội này bố trí khu vực đã hợp lý; nhất là đại đội 24 bố trí ven biển giữ vị trí rất then chốt vùng này. Nhưng cả hai đại đội này đều phải bố trí lại vị trí của các đài ra-đa bị che khuất khá nhiều, chưa chú ý đến mặt phản xạ nên điều chỉnh lại cho hợp lý. Các đoàn đều lần lượt về hết, báo cáo lại; kết quả đoàn anh Cường đi mặt Hải Dương, Hưng Yên nghiên cứu vị trí tốt nhất có thể điều chỉnh ngay đại đội 27 về được sớm để giải quyết đoạn bị bỏ trống này.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #8 vào lúc: 29 Tháng Năm, 2016, 08:14:48 pm »

         Đoàn Hòa Bình khó nhất, tìm vị trí nhiều nơi nhưng không được; chỉ đề nghị được một chỗ tương đối có thể chấp nhận tạm thời, nhưng phải khắc phục rất lớn đường xá, hầm hố công sự phải có thời gian mới chuẩn bị được, đó là đèo Lũng Lô ở Tây Bắc.
       
        Các văn kiện cũng đã viết tương đối hoàn chỉnh, phải bổ sung thêm một số, vẽ thêm một số vị trí ở bản đồ, để xác định rõ vùng phát hiện của trường ra-đa đối với các tầng không. Nhóm đồng chí Phương (Kính) đã hoàn tất công việc gọn gàng có chất lượng. Phần quy định chế độ trực ban, tác chiến, học tập huấn luyện sau phiên ban, kiểm tra kỹ thuật hàng ngày của đài và chế độ sinh hoạt cũng đã được hoàn chỉnh. Nhóm đồng chí Danh, đồng chí Kỳ, đồng chí Phong đã viết kịp với nhóm đồng chí Phương, phối hợp khá nhịp nhàng.
       
        Ngày 20 tháng 6 năm 1967 anh Đặng Tính - Tư lệnh kiêm chính ủy Quân chủng nghe Bộ tư lệnh Ra-đa báo cáo phương án tác chiến bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng của Binh chủng, cùng nghe có anh Tri - Tư lệnh phó Tham mưu trưởng, anh Xuân Mậu - Phó chính ủy và một số cán bộ của Bộ Tham mưu và Cục Chính trị của Quân chủng.
       
         Sau khi nghe báo cáo toàn bộ phương án tác chiến, nghe tóm tắt các chế độ huấn luyện và sinh hoạt, các anh đều đồng ý, riêng anh Đặng Tính nhắc đi nhắc lại một số vấn đề cần chú ý:
       
        + Vấn đề thứ nhất, các trung đoàn 292, 290 không trực tiếp thông báo cho Hà Nội, Hải Phòng mà thông báo phân tán cho các quân khu và các sư đoàn phòng không, nhưng không phải như thế là không trực tiếp bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng, trong lúc địch tập trung mở chiến dịch tập kích đường không đánh Hà Nội, Hải Phòng, các trung đoàn ra-đa ở các hướng phía trước, bên sườn, nhiệm vụ chính bây giờ là bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng là chủ yếu, rất trọng tâm và trực tiếp.
       
        + Vấn đề thứ hai, các đại đội ra-đa dẫn đường cho không quân, khi có máy bay địch vào và máy bay ta cất cánh đánh địch; lúc này lấy nhiệm vụ dẫn đường cho máy bay ta là trực tiếp, phải mở ra-đa khác làm nhiệm vụ cảnh giới; không để ảnh hưởng đến nhiệm vụ dẫn máy bay ta đánh địch.
       
        + Vấn đề thứ ba, chú trọng xây dựng chi bộ vững mạnh nhất là chi bộ các đại đội; nó là các phân đội chủ yếu ở cơ sở. Trong lãnh đạo của chi bộ cần quan tâm đúng mức giữa tác chiến và huấn luyện, tuy phải trực ban chiến đấu liên tục nhưng phải chú ý hết sức tranh thủ huấn luyện hàng ngày cho bộ đội và rút kinh nghiệm trong chiến đấu. Lãnh đạo phải chú ý thường xuyên đến vấn đề đoàn kết quân dân tại các nơi đóng quân. Đặc điểm của bộ đội ra-đa là đóng quân phân tán, một trung đoàn có phạm vi hàng trăm ki-lô-mét vì vậy sống trong các khu vực dân cư, có đảng bộ, có lực lượng quân sự địa phương, muốn đứng vững lâu dài phải hết sức chú trọng vấn đề đoàn kết quân dân.
       
        Cuối cùng theo đề nghị của chúng tôi sau khi họp Đảng ủy Binh chủng xong vào cuối tháng 6 năm 1967 mặc dù tình hình khẩn trương Bộ Tư lệnh Quân chủng đồng ý cho Bộ tư lệnh Ra-đa triệu tập cán bộ đại đội về quân sự, chính trị, các cán bộ trung đoàn và cơ quan trung đoàn về tập huấn phương án tác chiến của Binh chủng. Thời gian hai tuần vào đầu tháng 7 năm 1967. Anh Phùng Thế Tài lúc đó là Phó Tổng tham mưu trưởng cũng gọi lên gặp và nghe báo cáo một buổi tối, sau khi nghe xong, anh đồng chí với các nội dung đã nêu trên, anh còn nhắc nhở thêm vấn đề công tác huấn luyện cho cán bộ trung đoàn và đại đội; phải có kế hoạch huấn luyện cho cán bộ hàng năm; tổ chức tập huấn tại các trung đoàn và binh chủng. Đối với trắc thủ các loại đài phải biết tổng kết và rút kinh nghiệm về thao tác mắt mục tiêu các loại máy bay Mỹ trong chiến đấu nhất là trong nhiễu.
       
         Cuối tháng 6 đầu tháng 7 năm 1967 Đảng ủy Binh chủng họp phiên đầu tiên bàn về phương án tác chiến của Binh chủng và vấn đề xây dựng Đảng bộ binh chủng trong thời kỳ mới. Binh chủng quyết định triệu tập cán bộ đại đội, cán bộ trung đoàn về tập huấn hai tuần; trước khi đi phải bàn giao cho cấp phó, các đơn vị phải tổ chức cho bộ đội sẵn sàng chiến đấu cao, nhất là trong tháng 7 địch đang chuẩn bị để mở các chiến dịch đường không đánh Hà Nội, Hải Phòng.
       
        Ngày 7 tháng 7 năm 1967 tại làng Cao Viên trên bờ sông Đáy; cán bộ đại đội và trung đoàn ra-đa, từ Quảng Bình, Vĩnh Linh xa xôi đến các đơn vị Tây Bắc, Đông Bắc, đồng bằng Bắc Bộ đều về tập trung đầy đủ. Từ khi trực ban chiến đấu ngày 1 tháng 3 năm 1959 cho đến nay mới có một ngày tụ hội đông đủ cán bộ tất cả các đại đội và trung đoàn ở các miền đất nước về họp.
       
        Làm thủ tục ở đình Cao Viên nhưng họp ở hội trường đằng sau đình có vườn cây ăn quả che kín, anh em ở Phòng Hậu cần và Hành chính đã dựng một hội trường bằng tre, lá gọn gàng kín đáo để họp. Chương trình tập huấn chia làm hai phần: Phần đầu để dành ba ngày phổ biến nghị quyết Đảng ủy Binh chủng về lãnh đạo chính trị tư tưởng, tổ chức trọng tâm là xây dựng Đảng bộ vững mạnh trong thời kỳ mới. Thời gian còn lại dành cho phần hai: Tập huấn phổ biến phương án tác chiến của binh chủng đối với các tầng không. Tất cả đều quán triệt kỹ và thảo luận chung về tổ chức trực ban tác chiến ở tầng không trung bình vì đó là phương án bảo đảm chiến đấu của ra-đa khi địch tổ chức lực lượng không quân đánh lớn, đánh tập trung vào các yếu địa Hà Nội, Hải Phòng. Các đại đội ra-đa tuyến biên giới bờ biển được giao nhiệm vụ rõ ràng, phát hiện xa, thông báo nhanh, làm rõ số lượng, kiểu loại, báo cáo chính xác tốp lớn; các đại đội tuyến sau, bên sườn và các đại đội nhìn vòng đều rõ nhiệm vụ nối tiếp đường bay, xác định liên tục số tốp, tiếp tục báo cáo rõ tốp chủ yếu và xác định độ cao. Từng tuyến một, từng khu vực được quán triệt nhiệm vụ và thảo luận sôi nổi; nhất là các đại đội 35, 37 của trung đoàn 292; đại đội 16 của trung đoàn 290; các đại đội 18, 19, 24, 25, 46 của trung đoàn 291 và đại đội 23, 28 của trung đoàn 293.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #9 vào lúc: 29 Tháng Năm, 2016, 08:22:18 pm »

        Sau đó đến phương án trực ban tác chiến đối với ra-đa bảo đảm tầng không cao, thấp và thật thấp thì phổ biến chung nhưng khi thảo luận, trao đổi thì tổ chức riêng từng nhóm đại đội được phân công để bàn bạc trên bản đồ từng khu vực, biết được các phạm vi phát hiện của nhau; thấy rõ trách nhiệm của đơn vị mình. Trong đó các đơn vị phụ trách tầng không thấp, thật thấp thảo luận sôi nổi vừa mừng vừa lo; mừng vì thấy một hệ thống ra-đa liên hoàn nối tiếp để phát hiện máy bay bay thấp nhưng lo vì nếu một đơn vị lọt mục tiêu thì lập tức đường bay bị gián đoạn ngay, không ai thay thế được. Trong lần này các đồng chí đó không những thấy được hệ thống ra-đa trực ban bắt máy bay bay thấp, mà muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, phải biết đặt ra-đa đúng trận địa tốt; trắc thủ và đài trưởng phải thao tác thành thạo; tổ chức trực ban phải nghiêm mật.
       
        Thời gian có hạn, nội dung nhiều vì vậy lớp tập huấn này tranh thủ thảo luận trao đổi rất sôi nổi; nhiều ý kiến rất chính xác đối chiếu với tình hình tác chiến hiện tại. Ngoài thảo luận ở hội trường các cán bộ đại đội lâu ngày mới gặp nhau từ ngày triển khai đến nay, bao nhiêu kỷ niệm thời kỳ học văn hóa ở Đoàn 4, thời kỳ chuyển binh chủng đầu tiên ở trung đoàn 260 tại sân bay Gia Lâm, chuyện gia đình tâm tình, đời sống riêng tư của cán bộ nhiều năm mới gặp nhau. Những buổi tối sáng trăng trên đoạn sông Đáy ở Cao Viên, trời nóng anh em rủ nhau đi tắm vừa nói chuyện đời chuyện riêng rất vui vẻ nhộn nhịp cả một khúc sông.
       
        Cuối cùng rồi phải kết thúc, hai tuần đã qua; các văn kiện đều quán triệt, mỗi người mỗi nhiệm vụ, mỗi khu vực nhưng rất thống nhất với bầu trời, với trường ra-đa cả nước lấy Hà Nội, Hải Phòng là trung tâm.
       
        Trong buổi kết luận cuối cùng của hội nghị, tôi nhắc anh em thấy được tầm quan trọng của phương án tác chiến của binh chủng trong đó có những vấn đề cần làm.
       
        Vị trí của đại đội ra-đa và vị trí của binh chủng đối với trường ra-đa, hai cấp này không thể thiếu được, nếu muốn cho trường ra-đa hoàn chỉnh thống nhất với các tầng không và vị trí của trung đoàn ra-đa đối với việc quản lý tầm khu vực củng cố duy trì sự thống nhất của từng khu vực đổi với trường ra - đa.
       
        Phương án tác chiến đã có sẵn, hoàn chỉnh dần dần đối với mạng ra-đa trinh sát; trong đó có các mạng ra-đa trinh sát các tầng không; nhưng muốn phát huy được hiệu lực, tạo thành sức mạnh thống nhất, vấn đề quan trọng nhất hiện nay là hành động thực tế, tức là tổ chức trực ban nghiêm mật đến từng chiến sĩ, đến từng đại đội, trung đoàn ra-đa và sở chỉ huy binh chủng; không được sai sót trong vấn đề chấp hành các chế độ chiến đấu.
       
        Năm 1967 chúng ta thống nhất được phương án tác chiến, trên cơ sở văn kiện này, qua thực tế chiến đấu; sang năm 1968, 1969 chúng ta sẽ tổng kết và xây dựng quy trình thao tác tác chiến các loại ra-đa đồi với tầng không, kể cả ra-đa dẫn đường cho không quân.
       
        Thời gian tập huấn tuy ngắn, nhưng trong thời chiến như thế này là dài; anh em rất thoải phấn khởi. Bữa cơm chia tay cơ quan hậu cần tổ chức rất chu đáo, có các món ăn truyền thống rất ngon. Binh chủng mới thành lập không có quỹ riêng, chưa tăng gia sản xuất được; nhưng các trung đoàn, mỗi đơn vị góp một ít trở thành bữa ăn vui vẻ, tiết kiệm, đoàn kết.
       
        Bộ đội ra-đa từ khi thành lập cho đến năm 1967 đã 3 lần chuyển biến về chất. Lần thứ nhất từ năm 1956 - 1958, cán bộ chiến sĩ từ bộ binh chuyển sang, được trên cho tập trung học văn hóa hai năm liền đạt trình độ văn hóa cấp 2, cấp 3. Sau đó chuyển binh chủng sử dụng trang bị ra-đa và triển khai trực ban chiến đấu, trong vòng 3 năm thành hệ thống ra-đa cả nước, canh giữ bầu trời của Tổ quốc.
       
        Lần thứ 2 năm 1965 - 1966 hệ thống ra-đa được chuyển biến về chất do trang bị được tăng cường đủ loại ra-đa sóng mét, decimet, centimet, cán bộ chiến sĩ được chuyển loại chu đáo ở công trường 300, sau đó đã xây dựng hệ thống ra-đa cảnh giới với các tầng không (trung bình, thấp và thật thấp, tầng cao) triển khai hệ thống ra-đa dẫn đường cho không quân ta và hệ thống ra-đa nhìn vòng cho các đơn vị hỏa lực; đã hoàn thành nhiệm vụ của mình trong các trận chiến đấu của năm 1966 - 1967.
       
        Lần thứ 3, thành lập Binh chủng Ra-đa, đó là lần chuyển biến tổng hợp về chất, cả về chiến đấu và xây dựng, cả về lãnh đạo chỉ huy và đảm bảo hậu cần kỹ thuật, các phương án tác chiến của binh chủng, các quy trình thao tác chiến đấu, các quy định chế độ trực ban thống nhất, vì vậy năm 1967 - 1968 và năm 1972 nhất là cuối tháng 12 năm 1972 bộ đội ra-đa đã hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc mà Quân chủng Phòng không - Không quân đã giao cho.
       
        Ngày nay trong giai đoạn mới, hai nhiệm vụ chiến lược do Đảng ta đề ra: "Xây dựng xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa".
       
        Trong hòa bình nhưng bộ đội ra-đa vẫn phải sẵn sàng và trực ban chiến đấu ngày đêm 24/24. Không để lơ là không thể có nghỉ ngơi hòa bình đối với bộ đội canh giữ bầu trời; không những thế các công việc chuẩn bị cho chiến đấu phải lo chuẩn bị trong thời bình để khi đất nước có tình huống khẩn trương, một trong những người lính được chuyển sang sẵn sàng chiến đấu đầu tiên cũng là người lính canh giữ bầu trời.
       
        30 năm trôi qua (1967 đến 1997) đã qua nhiều cương vị công tác, những ngày đầu thành lập Binh chủng Ra-đa vẫn lưu lại trong trí nhớ của nhiều đồng chí cán bộ ra-đa thời kỳ đó.
Logged

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM