Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 07:55:00 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Vì bầu trời Tổ quốc thân yêu  (Đọc 30285 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #60 vào lúc: 06 Tháng Sáu, 2016, 03:05:43 pm »

        Buổi sáng ngày 23 tháng 3 năm 1965, một máy bay trinh sát RF-101 bay qua trận địa đại đội 11, đại đội đã báo cáo bằng mật ngữ lên sở chỉ huy trung đoàn.

        Giao ban buổi sáng dự kiến địch sẽ đánh vào trận địa đại đội 11 nên đã điện bằng mật ngữ và cơ yếu hai đường chỉ thị cho đại đội 11 chiến đấu trực tiếp sẵn sàng đánh địch, trực ban mở máy không được gián đoạn.

        Đúng phiên ban của đại đội 11 là 12 giờ, đến 13 giờ 39 phút đại đội 11 phát hiện tình báo các đường bay địch từ Cửa Việt lên sở chỉ huy trung đoàn và liên tục sau năm phút đường bay vòng lên tiếp trên khu vực Vĩnh Linh và trên đầu đại đội 11; sở chỉ huy trung đoàn nhận được mật ngữ phát nhanh của đơn vị báo cáo: "Địch oanh tạc vào trận địa" và "nhà ở bị cháy", "bom nổ vào trận địa", mặt khác trên bàn đánh dấu của trung đoàn, các đường bay của đại đội 11 vẫn phát liên tục vì vậy cũng yên tâm đại đội 11 vẫn chiến đấu vừa trên không vừa ở mặt đất.

        Những tình báo máy bay địch và các tình huống địch ném bom vào trận địa đại đội 11 được phát liên tục về sở chỉ huy Quân chủng. Liên tiếp nhiều tốp máy bay địch bay vào đánh đại đội 11 và thị trấn Hồ Xá.

        Sau một giờ kết thúc trận đánh, đại đội 11 báo cáo bằng mật ngữ về sở chỉ huy trung đoàn 290 "Hai chiến sĩ hy sinh, đại đội phó bị thương, ra-đa 513K bị hỏng nặng không chiến đấu được nữa". Trung đoàn cũng phát lại bằng mật ngữ yêu cầu báo cáo về trung đoàn bằng điện cơ yếu ngay, chuẩn bị chiến đấu cho những ngày tiếp theo.

        Buổi giao ban chiều của trung đoàn, các thủ trưởng trung đoàn và cơ quan cũng không cần phải đợi điện cơ yếu của đại đội 11 mà bàn ngay các vấn đề phải giải quyết:

        - Cử một đoàn cán bộ cơ quan vào giúp đại đội 11 giải quyết hậu quả về thương binh liệt sĩ, về quân y, về thông tin cũng như sửa chữa ra-đa để chiến đấu hoặc kéo về đưa đi xưởng sửa chữa lớn.

        - Giáo dục động viên đại đội 11 củng cố lại lực lượng, duy trì chiến đấu liên tục trong tình hình mới.

        - Rút kinh nghiệm trận đánh tại chỗ, thống kê lại các tình huống cũng như bom đạn địch các hướng đánh vào trận địa, phương pháp chỉ huy và tổ chức chiến đấu, cấp cứu thương binh liệt sĩ, phối hợp chiến đấu với các lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương; tất cả các nội dung này phải được tổng kết bằng văn bản để phổ biến cho các đơn vị của trung đoàn.

        - Nắm lại tình hình hư hỏng ra-đa P10 của đại đội 11 để có thợ sửa chữa đì theo đoàn cùng với đại đội 11 sửa chừa bộ phận vận hành, gia cố lại để có thể hành quân về xưởng sửa chữa của Cục Quân giới. Đề nghị Quân chủng bổ sung cho đại đội 11 máy ra-đa P10 khác, nếu không có thì đề nghị lấy máy ra-đa P10 của đại đội 17 dự bị hiện nay ở Hương Khê thay thế cho đại đội 11.

        - Điện cho đại đội 12 ở Đồng Hới biết tình hình địch đánh đại đội 11, nhắc đại đội 12 phải ngụy trang kín đáo trận địa hiện đang chiến đấu; tất cả những gì còn lại ở trận địa Lộc Đại cũ, phải rút đi hết; thế nào ngày tiếp theo địch sẽ đánh tiếp đại đội 12, phải chuẩn bị chiến đấu với máy bay địch và trực ban trên không nghiêm mật.

        Thực tế sau này, điện báo cáo cơ yếu của đại đội 11 về trung đoàn, máy ra-đa P10 bị hỏng nặng sập mất ca bin của ra-đa không thể chiến đấu được. Quân chủng Phòng không - Không quân đồng ý với trung đoàn 290 cho phép lấy ra-đa P10 của đại đội 17 đưa vào thay thế cho đại đội 11.

        Ngay tối hôm sau 24 tháng 3 năm 1965 cơ quan tham mưu cử trợ lý chỉ huy đài trưởng và trắc thủ của Đại đội 17 hành quân vào Đại đội 11 để bổ sung ra-đa chuẩn bị chiến đấu.

        Các ngày sau, đoàn kiểm tra của trung đoàn trở về sau khi tổng kết rút kinh nghiệm với Đại đội 11, đã thấy các vấn đề chuẩn bị chiến đấu từ trước rất quan trọng, nhờ có hầm hào chuẩn bị sẵn trong các tháng cuối năm 1964 nên khi bị địch đánh vào trận địa khốc liệt như trên, trong một diện tích chiều ngang hơn 100m chiều dài 200m đối với doanh trại đại đội 11 rất tập trung, mật độ bom đạn dày đặc 50 quả bom phá, 1000 quả rốc két đánh vào trận địa, bộ đội vừa trực ban trên không vừa bắn trả máy bay địch; trong chiến đấu chỉ hy sinh hai đồng chí (một ở trên đài quan sát và một xạ thủ súng 14 ly 5) hai đồng chí bị thương nhẹ vào phần mềm, một máy ra-đa bị hỏng, còn tất cả đều an toàn, mặc dù công sự dã chiến, tất cả đắp đất và để hở không có nắp.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #61 vào lúc: 06 Tháng Sáu, 2016, 03:12:29 pm »

        Bộ đội được huấn luyện trong những năm hòa bình, được rèn luyện giáo dục chu đáo kỹ năng chiến đấu khá tốt những ngày tháng huấn luyện diễn tập theo phương án tác chiến khi địch đánh vào trận địa nhiều lần với hệ thống công sự đã nêu ở trên; khi địch đánh vào trận địa, tất cả cán bộ, chiến sĩ đều về các vị trí chiến đấu trực tiếp với địch một cách trật tự, không bị rối loạn bất ngờ.

        Được động viên giáo dục chính trị từ trước thường xuyên, ý thức đánh Mỹ cứu nước được thấm sâu trong tiềm thức của mọi người, trong trận chiến đấu ác liệt như trên, cán bộ chiến sĩ đại đội 11 đều biểu lộ tinh thần quyết chiến, nhiều gương tốt xuất hiện trong trận đánh: Chiến sĩ Phan Sĩ Yêng đứng quan sát địch trên vọng quan sát, bị thương lần thứ nhất không rời vị trí, bị thương lần thứ hai ngã xuống mới chịu để anh em đưa về phía sau cho đến khi hy sinh. Trung đội 14 ly trực chiến trên súng, khi địch bổ nhào vào trận địa đã bắn ngay loạt đạn đầu vào chiếc máy bay đi đầu bốc cháy, rơi ngay xuống biển Đông. Mặc dù bị điều hai khẩu 14 ly 5 cho Cồn Cỏ, còn lại hai khẩu, trung đội này vẫn chiến đấu liên tục đánh trả máy bay địch cùng với lực lượng súng trường của đơn vị trên các giao thông hào, cùng với hỏa lực phòng không của dân quân xã Vĩnh Chấp bắn chi viện cho trận địa đại đội 11.

        Giữa trận chiến đấu, súng 14 ly 5 bị đỏ nòng, các pháo thủ cởi áo chập lại tháo nòng cũ thay nòng mới, áo bị cháy tất cả pháo thủ đều cởi trần đánh địch. Khi chiến sĩ Mạnh Trọng Hào bị thương nặng, y tá đến băng bó đưa về phía sau, các chiến sĩ pháo thủ xin bông y tế nhét vào tai để hạn chế tiếng bom nổ và rốc két, nhìn theo cờ hiệu của trung đội trưởng mà nổ súng. Sau này kết thúc chiến đấu, kiểm tra lại trận địa, ngoài các hố bom địch đã nổ trên mặt đất còn lại hai quả bom của Mỹ, bị lật nghiêng nằm ngang trên mặt đất, trên thân bom còn có viên đạn 14 ly 5 dính vào vỏ bom, chứng tỏ hai quả bom này bị trung đội 14 ly 5 bắn trúng, lật nghiêng rơi ngang xuống đất không nổ.

        Trên máy ra-đa 513K mặc dầu bom nổ xung quanh nhưng kíp trắc thủ trực ban vẫn đo báo các thông báo máy bay địch về sở chỉ huy, các chiến sĩ báo vụ và tiều đồ hầm bị sập chèn lên bàn công tác vẫn liên tục gõ maníp phát thông tin máy bay địch về trung đoàn.

        Các cán bộ chỉ huy đều có mặt tại vị trí với chiến sĩ; đại đội trưởng Lan ở trong sở chỉ huy đại đội, đại đội phó Nị ở đài ra-đa với trắc thủ, bị thương ở phần mềm băng bó xong vẫn ở lại chiến đấu; chính trị viên phó Diệp ở với tất cả chiến sĩ đang đánh trả máy bay địch trên giao thông hào.

        Đại đội 11 không chiến đấu đơn độc, bên cạnh đó lưới lửa phòng không của dân quân và nhân dân xã Vĩnh Chấp, các xã bên cạnh dùng đại liên, trung liên và súng trường K44 bắn chi viện trực tiếp khi địch bổ nhào vào trận địa đại đội 11; "Trong trận chiến đấu này, đại đội 11 đã hoàn thành nhiệm vụ, vừa phát hiện thông báo vừa kiên cường chiến đấu tiêu diệt địch bảo vệ trận địa, góp phần cùng quân dân Vĩnh Linh bắn rơi 7 máy bay Mỹ" (25 năm chiến đấu của bộ đội ra-đa trinh sát trên không trang 49...).

        Sau khi kết thúc trận đánh, dân quân và nhân dân xã Vĩnh Chấp do đồng chí bí thư, chủ tịch và xã đội trưởng vào đại đội 11 giúp dập tắt các đám cháy, cứu chữa thương binh, thu dọn doanh trại; xe cứu thương của bệnh viện Vĩnh Linh đến ngay trận địa cùng với đại đội 11 đưa các đồng chí thương binh về bệnh viện huyện cứu chữa Buổi tối đại đội 11 và Đảng bộ cùng nhân dân xã Vĩnh Chấp truy điệu, tiễn đưa các liệt sĩ Phan Sĩ Yêng, Mạnh Trọng Hảo về nơi an nghỉ cuối cùng. Liên tiếp nhiều ngày sau, dân quân và thanh niên nam nữ của địa phương còn vào giúp đại đội 11 cùng với cán bộ chiến sĩ đơn vị sửa chửa lại công sự hầm hào, ngụy trang lại trận địa, san lấp các hố bom đạn, che chắn lại nhà cửa bị dột nát hư hỏng cháy sập để đơn vị chuẩn bị chiến đấu tiếp.

        Ngày hôm sau, đoàn của trung đoàn kịp đến giúp đại đội 11 giải quyết chính sách thương binh liệt sĩ, giải quyết quân trang và tài chính, chi viện thêm cơ số thuốc cứu chữa thương binh; thợ sửa chửa xe và ra-đa, sửa chữa và kéo xe ra-đa hỏng về xưởng sửa chữa, đưa xe ra-đa P10 của đại đội 17 vào trực ban thay thế.

        Trận chiến đấu của đại đội 11 chỉ mới bước đầu, liên tiếp các ngày sau địch tập trung đánh vào các đại đội 12, 13 ở Đồng Hỡi và Hà Tĩnh của trung đoàn 290.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #62 vào lúc: 06 Tháng Sáu, 2016, 03:15:53 pm »

        Ngày 24 tháng 3 năm 1965 máy bay Mỹ đánh vào trận địa ra-đa của đại đội 12 ở Lộc Đại, Đồng Hới.

        Sau trận chiến đấu của đại đội 11 diễn ra ngày 23- 3-1965, ngay chiều hôm đó trung đoàn đã điện cho đại đội 12 biết địch sẽ đánh tiếp vào đại đội 12 ở Lộc Đại với hai yêu cầu:

        - Tất cả những gì còn lại ở trận địa cũ phải rút hết, không được để bị địch đánh hỏng.

        - Đối với trận địa mới hiện đang chiếm lĩnh ở Chánh Hòa phải ngụy trang cẩn thận hầm hào, phải được củng cố bố trí hỏa lực bắn máy bay địch sẵn sàng đánh trả; hiệp đồng với dân quân địa phương để chiến đấu và bảo đảm chiến đấu, thông báo tình báo máy bay địch vào đánh Lộc Đại và Đồng Hỡi liên tục cho các đơn vị hỏa lực và tỉnh đội Quảng Bình không được để bất ngờ.

        Sáng ngày 24 tháng 3 năm 1965, trung đoàn 290 nhận được điện cơ yếu của đại đội 12 báo cáo đã rút hết tất cả những gì có ở trận địa cũ, ở trận địa mới Chánh Hòa đã đào công sự cho ra-đa máy nổ, cho người, sẵn sàng chiến đấu.

        Đúng như dự kiến sương mù buổi sáng đến 9 giờ, trời tất dần lên, 11 giờ đại đội 12 trực ban phát hiện nhiều tốp máy bay Mỹ từ Bắc Huế trên biển bay liên tiếp ra miền Bắc; lực lượng phòng không Đồng Hỡi đã sẵn sàng, các đại đội 13 và đại đội 11 được lệnh mở máy tăng cường phát hiện tiếp các đường bay địch trên biển. Đúng 11 giờ 20 phút đại đội 12 báo cáo về trung đoàn, địch đánh vào trận dịa Lộc Đại cũ và đánh vào thị xã Đồng Hới.

        Các lực lượng phòng không ba thứ quân của Quảng Bình, Đồng Hới chiến đấu nổ súng quyết liệt, sau 45 phút chiến đấu bắn rơi 2 máy bay Mỹ. Ở Đồng Hới vẫn có đủ lực lượng chiến đấu của ngày 11 tháng 2 năm 1965, tiểu đoàn 8 học viên pháo cao xạ, các hạm tàu hải quân ở trên sông Nhật Lệ, tiểu đoàn pháo phòng không của Sư đoàn 325. Cùng với lực lượng bắn máy bay tầm thấp của thị xã Đồng Hới tạo thành lưới lửa phòng không bắn máy bay địch rất hiệu quả.

        Thực tế sau này đại đội 12 báo cáo bằng điện cơ yếu và đoàn cán bộ của trung đoàn từ đại đội 11 ra có ghé vào đại đội 12 để nắm tình hình chiến đấu, về lại trung đoàn báo cáo. Trận chiến đấu ngày 24 tháng 3 năm 1965 ở Lộc Đại diễn biến gọn mà thôi. Trong 45 phút chiến đấu, địch huy động 24 máy bay của hải quân Mỹ vào đánh đại đội 12, chia làm nhiều tốp, nhưng khi tốp đi đầu ném bom (12 quả vào đại đội 11 ở trận địa Lộc Đại và bắn rốc két vào doanh trại) địch thấy không có hỏa lực bắn trả, không có người vì vậy các tốp sau không ném bom vào đó nữa mà quay ra đánh vào thị xã Đồng Hới.

        Đại đội 12 ở trận địa mới Chánh Hòa hơn một tháng nay vẫn trực ban liên tục, địch trinh sát nhiều lần, vẫn không thấy, tưởng vẫn ở vị trí cũ nên cứ tiếp tục đánh đại đội 12 sau khi đánh đại đội 11; chứng tỏ nếu cơ động ngụy trang tốt trong khu vực địch trinh sát nhiều lần vẫn giữ được bí mật, mặc dù ăng ten của ra-đa vẫn quay liên tục khi trực ban chiến đấu.

        Dự đoán ngày hôm sau địch cũng đánh vào đại đội 13 ở Hà Tĩnh và thực tế ngày 26 tháng 3 năm 1965 máy bay của không quân và hải quân Mỹ đã đánh vào trận địa Rú Nài. 3 giờ sáng ngày 25 tháng 3 năm 1965 đại đội 13 đã được lệnh di chuyển về trận địa dự bị ở Thạch Hà, để lại trên đỉnh Rú Nài một ăng ten bằng gỗ để nghi binh; các lực lượng phòng không gồm có đại đội pháo 37 cao xạ của tỉnh Hà Tĩnh, Tiểu đoàn 8 pháo 37 của học viên trường sĩ quan Phòng không cùng lực lượng súng bộ binh của dân quân địa phương quanh thị xã Hà Tĩnh đã đánh một trận phục kích thắng lợi giòn giã, 5 máy bay Mỹ bị bắn rơi. Trong trận này nhiều đơn vị được khen thưởng trong đó có đại đội 13 được thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất.

        Tôi rời khỏi trung đoàn 290 ngày 4 tháng 4 năm 1965 để về Công trường 300. Đã 38 năm trôi qua. Nay tuy tuổi đã cao, nhưng những kỷ niệm sâu sắc trong thời kỳ đầu chống Mỹ cứu nước, những bộ mặt thân quen của cán bộ chiến sĩ trung đoàn trong thời kỳ đó làm sống lại ký ức những ngày đầu chuyển từ thời bình sang thời chiến của đất nước và vẫn luôn đọng mãi trong tôi.

Ngày 7 tháng 8 năm 2003       
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #63 vào lúc: 07 Tháng Sáu, 2016, 05:07:50 am »

        
TRUNG ĐOÀN RA-ĐA 292 XÂY DỰNG, TRƯỞNG THÀNH,
CHIẾN ĐẤU GIAN KHỔ, THẮNG LỢI VẺ VANG (1962 - 1975)

PHAN ĐĂNG HOÀN                            
Đại tá, Nguyên trung đoàn trưởng Trung đoàn 292        

        Trung đoàn ra-đa 292 tức "Đoàn Tô Hiệu” được thành lập ngày 8 tháng 7 năm 1961 tại sân bay Bạch Mai - Hà Nội. Ngày 15 tháng 7 năm 1961, chúng tôi cùng trung đoàn bộ, hành quân lên Tây Bắc đóng quân ở Nà Sản. Sau gần một năm chuẩn bị cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chiến đấu, phục vụ chiến đấu và sinh hoạt, 00 giờ 00 ngày 24 tháng 6 năm 1962, trung đoàn phát sóng canh giữ vùng trời phía Tây Hà Nội. Trung đoàn được biên chế 3 đại đội ra-đa 36, 37, 38 và một đại đội quan sát 39, vừa chiến đấu xây dựng, vừa làm kinh tế cải thiện đời sống. Từ tháng 8 năm 1962 đến tháng 8 năm 1963, trung đoàn đã khẩn trương triển khai nhiều đợt huấn luyện liên tiếp để nhanh chóng khắc phục điểm yếu nâng cao chất lượng chiến đấu, bảo đảm ra-đa trên địa bàn rừng núi.

        Những đợt huấn luyện này đã nâng cao chất lượng chiến đấu của các thành phần chủ yếu như: Trắc thủ, báo vụ, tiêu đồ, quan sát v.v... lên một bước cơ bản, sai sót lọt chậm được giảm đi rõ rệt. Nhưng khả năng phát hiện thông báo tầng thấp, tầng trung vẫn không liên tục, cự ly phát hiện không xa. Chất lượng tình báo kém chuẩn xác, không đầy đủ, thu thập tin tức tình báo chậm, thường bị bất ngờ lọt mục tiêu. Trung đoàn tổ chức nghiên cứu, chọn trận địa, điều chỉnh vị trí đặt ra- đa, đài thu phát, xây dựng thêm một số trận địa chính và dự bị. Sau một thời gian điều chỉnh đội hình chiến đấu phạm vi phát hiện được mở rộng cả về cự ly và độ cao, phát hiện liên tục hơn, chính xác hơn. Trung đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu tốt hơn, nhiều trận đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

        Trước tình hình sinh hoạt, bộ đội đang gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn, để duy trì sức chiến đấu, nhiệm vụ làm kinh tế, cải thiện bữa ăn cho bộ đội rất cấp thiết và bức xúc. Trung đoàn đã phát động đợt thi đua tăng gia sản xuất. Chỉ trong thời gian ngắn, các đại đội đã tổ chức chăn nuôi lợn, gà, bò, dê... tự túc được rau xanh. Bữa ăn được cải thiện rõ rệt. Trung đoàn bộ đã có đàn bò hơn 50 con. Sở chỉ huy, các vị trí chiến đấu, nhà ở được làm thêm, củng cố, sửa chữa khang trang hơn. Bộ đội đã yên tâm chiến đấu, công tác, học tập.

        Tháng 7 năm 1968, sau khi trung đoàn tiếp nhận đại đội 35, 54, 55, 56 trung đoàn đã có 8 đại đội: 35, 36, 37, 38, 39, 44, 55, 56 và 1 đại đội chỉ huy, có đủ 3 kíp trực ban sở chỉ huy, mỗi đài ra-đa có đủ 2 kíp trắc thủ chính thức và 1 kíp dự bị. một số vọng quan sát mắt phát hiện được máy bay bay thấp của địch, lợi dụng tử giác và góc che khuất để đột nhập vào đánh Hà Nội như F111... Đây là thời kỳ mà trung đoàn 292 có một mạng lưới ra-đa cảnh giới dẫn đường hoàn chỉnh nhất trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của không quân đế quốc Mỹ.

        Công tác chiến đấu, xây dựng, sinh hoạt đã đi vào nền nếp, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu mới ngày càng nặng nề. Trung đoàn đã có điều kiện tổ chức các đợt huấn luyện quy mô và chính quy hơn. Các lớp huấn luyện tập trung trung đoàn như bồi dưỡng cán bộ chính trị, quân sự, tham mưu, hậu cần, kỹ thuật, đài trưởng ra-đa, thông tin, bồi dưỡng giáo viên được tổ chức liên tục. Cán bộ chiến sĩ Iân lượt thay nhau đi học. Các lớp đào tạo, bổ túc trắc thủ, báo vụ được huấn luyện cơ bản.

        Các văn bản kế hoạch huấn luyện được xây dựng một cách toàn diện, phù hợp với tình hình chiến đấu, đáp ứng yêu cầu chiến đấu. Các bản vẽ sóng vì cố định ở các tỷ lệ cự ly phát hiện của các đài ra-đa Π8, Π1O, Π30, Π35, 406, 843... trên các trận địa ra đời. Các đợt thi đua huấn luyện ở các đại đội, trung đội được phát động sâu rộng trong toàn trung đoàn.

        Đây là lần đầu tiên trung đoàn huấn luyện chính quy, tập trung. Các lớp huấn luyện có các nội dung như: Công tác tổ chức chỉ huy, hành quân cơ động trận địa trên địa hình rừng núi, công tác đảm bảo kỹ thuật, hậu cần, công tác tham mưu chính trị cho cán bộ đại đội.

        - Các lớp đài trưởng, trắc thủ ra-đa.

        - Các lớp thu phát báo, sử dụng máy vô tuyến.

        - Lớp tiêu đồ bảng đứng v.v...

        Đã xuất hiện một số trắc thủ có trí nhớ đặc biệt như trắc thủ Vũ Ngọc Đại ở trung đoàn 291. Họ học thuộc hàng ngàn sóng về cố định. Mỗi sóng về cố định đòi hỏi trắc thủ phải thuộc lòng 4 nhóm số phương vị, cự ly với 12 con số khác nhau. Nhờ vậy họ nhanh chóng phân biệt được sóng về mục tiêu với sóng về cố định, thông báo được liên tục, kịp thời, chuẩn xác các hoạt động của máy bay địch, máy bay ta về sở chỉ huy đại đội, trung đoàn và các đơn vị hiệp đồng, không để bị bất ngờ, giảm được sai, sót, lọt, chậm.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #64 vào lúc: 07 Tháng Sáu, 2016, 05:09:00 am »

        Lần đầu tiên báo vụ được huấn luyện tập trung, lớp này đến lớp khác. Nhân viên sở chỉ huy được học tập ngay trong sở chỉ huy vừa chiến đấu vừa huấn luyện.

        Sau đợt huấn luyện đột kích này, trình độ chiến đấu được nâng lên một bước cơ bản, có thể đáp ứng được nhiệm vụ chiến đấu trên địa hình rừng núi trong tình huống thông thường, khẩn cấp, nhiều tốp mục tiêu, nhiều độ cao khác nhau.

        Nhiều đợt hội thao ở trung đoàn, nhiều tập thể đại đội đài ra-đa, sở chỉ huy đại đội lập thành tích xuất sắc. Từ đó chất lượng chiến đấu ngày càng tiến bộ nhanh chóng hơn, có thể đáp ứng được những tình huống phức tạp hơn.

        Một công việc hết sức cơ bản, cấp bách và quan trọng nhằm tăng cường khả năng phát hiện ra-đa, thông tin, đảm bảo nhanh, xa, đúng, đủ, liên tục ở các độ cao, hướng chủ yếu mục tiêu chủ yếu... Nó còn là yếu tố cơ bản để khắc phục sai, sót, lọt, chậm. Đó là công tác trận địa. Phải tiến hành đo, vẽ, lập hồ sơ từng trận địa đang chiến đấu, xác định cho được phạm vi phát hiện thực tế mà đánh giá được khả năng phát hiện lý thuyết và thực tế trên từng hướng nhất là hướng chính. Ngoài hệ thống trận địa chính, phải có các trận địa dự bị, phục vụ cho sự phát triển của trung đoàn và bảo đảm liên tục chiến đấu trong mọi tình huống.

        Chúng tôi lại cùng một số trợ lý tác huấn, trợ lý thông tin, hậu cần kỹ thuật cơm đùm cơm nắm lên đường, len lỏi trong rừng sâu, leo trèo lên các đỉnh núi cao xác định vị trí đặt đài, đo đạc mặt phản xạ, vẽ sơ đồ trận địa, xác định khả năng phát hiện, thông tin thông báo, hậu cần kỹ thuật, đường cơ động v.v...

        Đặc điểm địa hình rừng núi, nhiều tử giác, nhiều góc che khuất lớn, nên phát hiện thông báo không liên tục khó phát hiện mục tiêu tầng thấp.

        Muốn vươn xa cánh sóng, phát hiện tầng thấp phải đưa máy lên cao. Chúng tôi đã thí điểm đưa đài Π15, đài cồng kềnh như  Π30,  Π35,  ΠPB 11 để phát hiện tầng thấp và dẫn đường cho máy bay ta chiến đấu. Đưa ra-đa lên trận địa trên núi cao là công việc rất khó khăn phức tạp tốn nhiều công sức. Chúng tôi lại phải trèo đèo lội suối lên tận các đỉnh cao. Những đỉnh núi có độ cao từ 2900m trở xuống đều có bàn chân của đội công tác tìm trận địa của chúng tôi như đỉnh Long Cú, Păngxipăng con, Pù kéo Phó ở Tây Nam v.v...

        Cứ như vậy chúng tôi rong ruổi hàng tháng trời hết đỉnh núi này đến đỉnh núi khác, huyện này sang bản khác. Những chỗ trống trên sơ đồ phát hiện lý thuyết dần dần được bổ sung, công tác xây dựng trận địa lại càng gian khổ, có hầm làm hàng tháng với sự hiệp đồng của hàng trăm bộ đội và dân quân địa phương liên tục giúp đỡ không quản mưa rét thiếu thốn.

        Sau khi được Bộ Tư lệnh Quân chủng phê duyệt, chúng tôi lại lập kế hoạch xây dựng trận địa khó khăn phức tạp nhất là làm đường kéo máy lên trận địa. Có trận địa phải làm 5 đến 6km đường mới như Quảng Bạ, Pù kéo Phó... Đường dã chiến nhưng phải đủ rộng, có độ dốc và độ ngoặt cho phép đảm bảo an toàn cho xe máy khi lên xuống dốc. Sau khi xác định đội hình bố trí lại phải san bằng mặt đồi đặt sở chỉ huy, ra-đa và các khí tài khác, làm công sự giao thông hào cũng là một công việc khá gian nan vất vả. Chúng tôi phải huy động hàng trăm bộ đội, dân quân và nhân dân địa phương làm hàng năm trời mới xong một trận địa. Cứ thế tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, xong trận địa này đến trận địa khác, chúng tôi lăn lộn ngày đêm, chẳng quản nắng mưa, rét buốt cùng với xe máy, xẻng, cuốc đất đá dốc sức thi đua hoàn thành đúng tiến độ thi công.

        Việc kéo máy lên trận địa trên cao thì thật là nguy hiểm vì đường dã chiến, mặt đường đất đá lởm chởm, độ rộng chỉ đủ cho bánh xe lăn, một bên vách núi, một bên vực sâu độ dốc lớn, độ ngoặt gấp khúc. Xe máy phải nhích từng bước, mỗi bước nhích lên là một bước phải chèn bánh xe. Cứ thế nhích dần cho đến mặt bằng trận địa. Có trận địa phải leo đến 2 - 3 ngày mới tới vị trí đặt đài như trận địa Pù kéo Phó, Quảng Bạ... Cán bộ, chiến sĩ quên cả ăn uống, chẳng quản nắng mưa, ngày đêm. Chỉ lo làm sao an toàn cho người và khí tài trang thiết bị.

        Việc kéo máy lên cao đã gian nan vất vả thì việc rút khỏi trận địa lại càng nguy hiểm không kém. Việc bảo đảm hậu cần, xăng dầu, gạo nước, thực phẩm cũng không kém phần vất vả. Mỗi đại đội phải biên chế một tiểu đội vận tải để hàng ngày lên xuống gùi xăng dầu, gạo, nước, thực phẩm với hàng ngàn bậc thang dốc đứng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #65 vào lúc: 07 Tháng Sáu, 2016, 05:09:47 am »

        Năm tháng chiến đấu cùng trận địa qua đi hết mùa mưa này đến mùa mưa khác kéo dài liên tục hàng tháng. Nước từ các sườn núi trút xuống làm đường lên trận địa bị xói mòn, sạt lở. Những trường hợp rút khẩn cấp khỏi trận địa, không kịp sửa đường hoặc sửa vội. Những lúc như thế cán bộ, chiến sĩ ăn không ngon, ngủ không yên. Suốt đêm ngày lo chuẩn bị kiểm tra đảm bảo an toàn, kịp thời gian, đảm bảo chấp hành nghiêm mệnh lệnh chiến đấu. Máy cồng kềnh, nặng nề, cao lênh khênh như Π30, ΠPB 11, 843 phải có máy kéo, xe tự hành như Π12, Π10, Π15 khi xuống dốc máy kéo vừa kéo vừa ghìm. Máy kéo ghìm sau bằng dây cáp sắt. Có lúc phải dùng dây cáp mềm ghìm vào các gốc cây to bên lề đường và cứ thế máy từ từ tuột xuống dốc từng gang tấc. Những lúc ban đêm, đèn xe, đuốc lấp loáng, sểnh một chút máy có thể lăn xuống vực sâu. Cứ như thế mà tuột hết dốc này qua dốc khác, núi này qua núi khác, hết máy này đến máy khác lần lượt xuống dốc. Đến đường bằng mọi người mới thở phào như đã qua một tai nạn hiểm nghèo.

        Biết bao gian nan vất vả đến với cán bộ chiến sĩ ra- đa trung đoàn 292 chiến đấu trên địa hình rừng núi, trên đỉnh núi cao.

        Những thử thách gian truân này tạo cho trung đoàn 292 những yếu tố quyết định thắng lợi trong chiến đấu.

        Năm 1964, đế quốc đưa chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, tháng 8 năm 1965 chúng đánh phá Tây Bắc. Nhờ công tác ngụy trang tốt, nhiều lần địch trinh sát trận địa cũng khó phát hiện nổi. Một số trận địa giả được dựng lên thu hút được sự chú ý của máy bay địch. Nhờ vậy chúng ta đã bảo toàn được các trận địa ra-đa. Trận địa C37 ở Pa Háng làm nhiệm vụ phát hiện máy bay địch từ xa ở hướng Tây Nam, Tây Bắc Hà Nội, dù trường hợp nào cũng phải bám trụ chiến đấu với máy bay địch. Ngoài trung đội 12,7 ly được biên chế, đại đội còn được tăng cường một đại đội pháo cao xạ 37 ly bảo vệ. Địch dùng máy bay U2, SR 71, F111 trinh sát trước liên tục hàng tuần lễ và đã phát hiện được vị trí đại đội. Ngày 16 tháng 8 năm 1965 chúng bắt đầu đánh phá vào trận địa, trung đội 12,7 đã cùng đại đội 37 ly của Quân khu 2 đánh trả quyết liệt và đã bắn rơi một F105 bắt giặc lái trong khi nó lao xuống đánh phá trận địa Đại đội 37. Nhiều lần ra-đa 406 bị đánh trúng, bom chặt đứt xích quay anten. Cán bộ, chiến sĩ đã không quản bom đạn, nhảy khỏi công sự dùng sức người quay anten. Các tình báo máy bay địch vẫn được ra-đa 406 phát hiện và thông báo đi liên tục kịp thời về sở chỉ huy đại đội, trung đoàn, Bộ Tư lệnh Quân chủng và các đơn vị hiệp đồng. Nhiều gương chiến đấu dũng cảm xuất hiện. Xạ thủ 12,7 ly Đào Công Trực, Đoàn Văn Mơ của đại đội 37 đã anh dũng hy sinh trên trận địa 37 ở đất Pa Háng kiên cường này.

        Vừa chiến đấu, vừa xây dựng, trung đoàn 292 đã không ngừng lớn mạnh về mọi mặt cả về số lượng đơn vị trang thiết bị, chất lượng chiến đấu, khả năng phát hiện và thông báo. Cánh sóng ra-đa của trung đoàn 292 đã vươn xa hơn, vượt sông Mê Lông qua Thái Lan, phát hiện địch từ Thái Lan bay vào Tây Bắc, Hòa Bình đánh vào Hà Nội, Hải Phòng và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Quân khu 4 ở cự ly xa từ 220km đến 380km, từ độ cao 18km đến 4 - 5km. Đài Π15 và vọng quan sát mắt cũng đã phát hiện được ở độ cao 3 đến 5km. Tất cả các loại đài ra-đa có trận địa tốt hơn đều đã tăng khả năng phát hiện ở các cự ly và độ cao như Π30, Π10, Π12, ΠPB 11, 406, 843.

        Trên hướng Bắc, cánh sóng ra-đa của trung đoàn đã trùm lên biên giới Việt - Trung đến quá Mông Tự, Quảng Tây, Trung Quốc. Các máy bay như U2, SR 71, F105, F111 xâm nhập không phận trung đoàn phụ trách đều không thoát khỏi mắt thần của trung đoàn 292.

        Từ đây Bộ tư lệnh Quân chủng yên tâm có một trung đoàn ra-đa 292 cảnh giới và dẫn đường canh giữ vững chắc bầu trời. Tây Nam, Tây, Tây Bắc, Bắc và Đông Đông Bắc Hà Nội.

        Biết bao gian nan vất vả đến với cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 292. Những thử thách đầy gian truân này đã mang lại những chiến công vẻ vang cho trung đoàn và Quân chủng.

        Một thời kỳ xây dựng trưởng thành nhanh chóng, chiến đấu gian khổ, nhưng chiến thắng vẻ vang đã góp phần xứng đáng cùng quân dân cả nước đánh thắng không lực Hoa Kỳ, thống nhất Tổ quốc.

        Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trung đoàn đã phát hiện hàng chục vạn tốp mục tiêu, thông báo chính xác kịp thời phục vụ cho lực lượng Phòngkhông - Không quân và Phòng không nhân dân tiêu diệt máy bay địch và phòng tránh. Trong chiến dịch 12 ngày đêm (tháng 12 năm 1972) trung đoàn đã phát hiện chính xác B-52 từ hướng Tây đánh vào Hà Nội, góp phần làm nên chiến thắng "Điện Biên Phủ trên không".

        Bằng súng máy cao xạ 14,5 ly và 12,7 ly trung đoàn đã chiến đấu bắn rơi 15 máy bay Mỹ, bắt giặc lái. Với những thành tích trên, trung đoàn đã xứng đáng được tặng thưởng 1 huân chương Quân công hạng Ba, 1 huân chương chiến công hạng Nhất, 1 huân chương Chiến công hạng Nhì, 14 huân chương Chiến công hạng Ba. Trung đoàn 292 và đại đội ra-đa 37 được tuyên dương Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang.

        Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, trung đoàn vẫn phát huy được truyền thống xây dựng, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu cao cùng với các đơn vị trong binh chủng góp phần xứng đáng phát huy truyền thống vẻ vang của Binh chủng Ra-đa anh hùng.

Tháng 3 năm 2003         
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #66 vào lúc: 07 Tháng Sáu, 2016, 05:27:07 am »

       
NHỮNG NGÀY ĐÊM SÔI ĐỘNG CỦA TRUNG ĐOÀN 291
BINH CHỦNG RA-ĐA

ĐỖ VĂN NĂM         
Đại tá, Nguyên trung đoàn trưởng Trung đoàn ra-đa 291       

        Trung đoàn ra-đa 291 được thành lập từ tháng 6 năm 1960 với mật danh "Đoàn Ba Bể", đơn vị truyền thống số 1 - Trung đoàn anh cả của bộ đội ra-đa Việt Nam.

        Chúng tôi là cán bộ, chiến sĩ của trung đoàn, vinh dự, tự hào được Đảng ủy Quân chủng Phòng không - Không quân và Binh chủng Ra-đa lãnh đạo, giáo dục, xây dựng, trưởng thành, lớn mạnh về mọi mặt, vượt khó khăn, hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho. Đoàn kết, hiệp đồng phục vụ cho các lực lượng không quân, tên lửa, cao xạ, phòng không nhân dân. Phòng tránh, đánh địch kịp thời trong chiến dịch phòng không 12 ngày đêm ở Hà Nội, Hải Phòng "Điện Biên Phủ trên không".

        Đối tượng tác chiến của Binh chủng Ra-đa và Trung đoàn 291 là lực lượng không quân đế quốc Mỹ, được trang bị vũ khí phương tiện hiện đại, được cải tiến nhanh chóng, sát với chiến trường như trinh sát tầng cao BQM34, SR71 tốc độ cao bay nhanh trên 10 km/h, máy bay ném bom chiến thuật F4, F111, ném bom chiến lược B-52 cải tiến hệ thống gây nhiễu nặng, một chiếc B-52 trang bị 15 máy gây nhiễu. Chúng còn dùng nhiều loại tên lửa chống ra-đa như tên lửa Sơ rai.

        Ngoài phương tiện kỹ thuật hiện đại, không quân Mỹ còn có những thủ đoạn chiến tranh hết sức nham hiểm, xảo quyệt, trong đó gây nhiễu điện tử chống ra-đa là thủ đoạn vô cùng lợi hại đã gây cho ta không ít khó khăn.

        Đứng trước đối tượng tác chiến như vậy và theo yêu cầu nhiệm vụ trên đề ra cho trung đoàn là "vạch nhiễu tìm thù” phát hiện nhiễu tìm B-52 xa, nhanh, chính xác phục vụ cho các lực lượng phòng không và dẫn đường cho không quân đánh không quân địch. Trung đoàn đã nhiều năm chiến đấu có kinh nghiệm thực tế, cán bộ, chiến sĩ tác chiến cũng nâng lên một bước, nhưng với những yêu cầu chiến đấu tới còn phải chuẩn bị mọi mặt, cao hơn.

        Đảng ủy, Ban chỉ huy trung đoàn chủ trương hai nhiệm vụ tác chiến huấn luyện kết hợp chặt chẽ, thực tế trong tác chiến rút ra để huấn luyện, tranh thủ thời gian huấn luyện. Trọng tâm huấn luyện là vạch nhiễu tìm B-52, trong học tập trắc thủ kíp ra-đa, học thuộc hàng ngàn sóng về cố định, địa hình, hàng chục loại nhiễu của B-52, RB66, F4, nhiễu của các phương tiện mặt đất và nhiễu của tàu biển, trong nhiễu như vậy tìm ra B-52 ở đâu, sóng về B-52 như thế nào?

        Nói thì dễ nhưng xác định đúng thì ít, tuân thủ hoàn chỉnh, học được đầy đủ. Còn cán bộ thì xử trí sao cho chính xác, chỉ huy hợp đồng thành thạo, các thành phần trong sở chỉ huy như báo vụ, tiêu đồ cũng thành thạo, thao tác chính xác, hiệp đồng trên dưới, các thành phần phục vụ đều cố gắng nỗ lực để hoàn thành tốt.

        Đến tháng 12 năm 1972, tình hình chiến đấu hết sức khẩn trương, địch chủ trương đánh từ vĩ tuyến 20 trở vào Nam, Quân khu 4, trung đoàn nằm trong trung tâm đánh phá của địch. Đại đội 45 chủ lực của trung đoàn cũng bị địch ném bom B-52 sát trận địa và địch dùng tên lửa Sơ rai đánh anten và ống dẫn sóng PRV11 bị hỏng.

        Trong lúc này cấp trên thông báo cho biết Bộ chỉ huy không quân chiến lược Mỹ tiến hành tổ chức lực lượng đặc biệt gồm các phi đội máy bay rút trong 3 tập đoàn không quân số 7, 8 và 13. Chúng cấp tốc thành lập lâm thời số 57 để chỉ huy 3 liên đội máy bay B-52 gồm 193 chiếc và 250 tổ lái ở Giam và U-ta-pao. Chúng còn điều thêm 50 máy bay KC-135 từ Mỹ sang Phi-lip-pin để tiếp dầu cho B-52, điều thêm 2 tàu sân bay In-tơ- prai-dơ, Sa-ra-to-ga từ Hồng Kông, Su Bích về Vịnh Bắc Bộ, nâng tổng số máy bay ở đây lên 5 chiếc.

        Từ ngày 11 tháng 12 năm 1972 chúng liên tục cho máy bay trinh sát tầng thấp 147J, tầng cao BQM, SR71, tầng trung và tầng thấp F111 và F4 vào vùng trời Hà Nội, Hải Phòng và các tỉnh Bắc - Tây Bắc, Đông, Nam Hà Nội.

        Trong khi đó thì tổng thống Mỹ Ních-xơn cùng phái "Diều hâu” ở Nhà trắng đang khẩn trương thực hiện âm mưu đen tối của chúng. Ngày 14 tháng 12 năm 1972 Ních-xơn chính thức thông qua kế hoạch tập kích đường không chiến lược bằng máy bay B-52 vào Hà NộI, Hải Phòng mang tên "Lai-nơ-bếch-cơ 2", kế hoạch sẽ bắt đầu từ ngày 17 tháng 12 năm 1972 theo giờ Hà Nội ngày 18 tháng 12 năm 1972.

        Lực lượng chủ yếu thực hiện kế hoạch này là 193 máy bay B-52 của không quân chiến lược Mỹ ở Guam, U-ta-pao và hơn 1.000 máy bay chiến thuật ở Đông Nam Á. Mục tiêu chiến dịch "Lai-nơ-bếch-cơ 2" là tàn phá nặng nề một số khu dân cư ở Hà Nội, Hải Phòng, gây sức ép mạnh nhất về chính trị, tâm lý và quân sự, buộc Chính phủ ta phải nối lại cuộc đàm phán ở Pa-n và chấp thuận các điều kiện có lợi cho Mỹ, phá hoại tiềm lực kinh tế, quốc phòng, ngăn chặn từ gốc nguồn tiếp tế của ta cho chiến trường miền Nam và răn đe các nước trên thế giới đang nổi dậy đấu tranh chống lại Mỹ, Nhà Trắng và Lầu Năm Góc. Với hy vọng rằng cuộc tập kích đường không chiến lược từ 3 đến 5 ngày với khối lượng bom khổng lồ trút xuống sẽ đưa Hà Nội, Hải Phòng trở lại "thời kỳ đồ đá" và chúng sẽ đạt được những mục tiêu đề ra.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #67 vào lúc: 07 Tháng Sáu, 2016, 05:27:40 am »

        Ngày 15 tháng 12 năm 1972 trung đoàn nhận được lệnh Quân chủng Phòng không - không quân và Binh chủng Ra-đa, trung đoàn vào trạng thái chiến đấu cấp 1 sẵn sàng phát hiện máy bay B-52 giúp Quân chủng chỉ đạo kịp thời đánh bại kế hoạch chiến lược của chúng ngay từ đầu.

        Ngày 18 tháng 12 năm 1972 bắt đầu với sự yên tĩnh lạ thường, các phiên ban trực đều không phát nhiễu cũng như mục tiêu máy bay địch. 12 giờ trưa có tốp máy bay trinh sát KNL từ biển bay vào Hải Phòng. Cùng lúc đó đại đội 3 trinh sát điện tử ta phát hiện các tín hiệu thông tin giữa các sở chỉ huy địch tăng lên một cách bất ngờ. Đến 16 giờ giao Quân chủng, Tư lệnh Quân chủng có nhận định hiện tượng bất thường hôm nay của địch. Toàn Quân chủng phải sẵn sàng đêm nay địch có thể sẽ đánh, Tư lệnh Quân chủng nhắc lại: Ra-đa cần hết sức tập trung phát hiện B-52 từ hướng tây vào. 18 giờ 15 phút trung đoàn 290 báo về tổng trạm các đội ra-đa đang mở máy đều bị nhiễu tích cực và cường độ nhiễu tăng nhanh. Sở chỉ huy tổng trạm cho các trung đoàn tăng cường trắc thủ giỏi, phiên ban giỏi. Các sở chỉ huy sẵn sàng chiến đấu.

        Tại sở chỉ huy trung đoàn 291, trung đoàn trưởng Đỗ Văn Năm trực tiếp chỉ thị cho đại đội 16 ở Diễn Châu là đơn vị mở máy theo phiên ban trực từ 18 giờ đến 20 giờ tập trung phát hiện từ phương vị 220 đến phương vị 300 độ, chú ý phát hiện B-52.

        Lúc này, trên các màn hiện sóng ra-đa của đại đội 16 xuất hiện một số dải nhiễu mới. Do đã có kinh nghiệm chiến đấu trên địa bàn Quân khu 4, đại đội trưởng Trần Văn An và chính trị viên Trịnh Đình Nham đã thống nhất nhận định tình hình địch và ra lệnh cho các đài ra-đa chống nhiễu phát hiện B-52. Chỉ trong giây lát, trắc thủ đài 843 Tô Trọng Huy và trắc thủ đài 514 Phạm Quốc Hùng khẳng định ngay đó là nhiễu B-52.

        Tình báo nhiễu B-52 của đại đội 16 được nữ chiến sĩ thông tin Thúy Ngà ở sở chỉ huy trung đoàn thể hiện lên bảng đánh dấu đường bay. Sẵn ý định trong phương án tác chiến, trung đoàn trưởng ra lệnh mở tăng cường đài ra-đa Π35 đại đội 45. Trong khi đó, thấy đài ra-đa Π12 của đơn vị đang mở máy trực ban báo cáo có nhiễu B-52, đại đội trưởng đại đội 45 Đinh Hữu Thuần cũng đã ra lệnh mở máy ra-đa Π35 và báo cáo lên sở chỉ huy trung đoàn.

        Vốn có kinh nghiệm phát hiện B-52 hoạt động ở phía Nam Quân khu 4 từ năm 1969, đã từng tham gia dẫn đường cho máy bay ta bắn trúng B-52 trong trận ngày 20 tháng 12 năm 1971, trực tiếp bảo đảm ra-đa cho trung đoàn tên lửa 263 bắn rơi B-52 trong trận ngày 22 tháng 11 năm 1972 và kinh nghiệm chống nhiễu phát hiện B-52 đánh khu vực Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng trong thời gian trước đó, đài trưởng Nghiêm Đình Tích cùng các trắc thủ Phạm Hoàng Cầu và Nguyễn Văn Xích đã xác định ngay những dải nhiễu B-52. Sau mệnh lệnh của đài trưởng, cả phiên ban đã thao tác quy trình chống nhiễu B-52. Chỉ trong khoảnh khắc trắc thủ số 1 Phạm Hoàng Cầu đã thông báo tình báo B-52 vào sở chỉ huy đại đội.

        Những tình báo B-52 được tiểu đội trưởng tiêu đồ Nguyễn Trường Kỳ thể hiện trong bảng đánh dấu đường bay rồi được các chiến sĩ phát thanh, ghi chép, báo vụ truyền lên sở chỉ huy trung đoàn.

        Ban đầu tất cả cán bộ, chiến sĩ lầm tưởng B-52 lại tiếp tục vào đánh khu vực Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng vì đường bay này gần như trùng khít đường bay địch đã vào đánh phá khu vực này trong thời gian trước đó. Những lần ấy các tốp B-52 thường bay đến phương vị 290 độ thì vòng lại. Nhưng lần này chúng đã bay tới phương vị 300 độ và vẫn bay thẳng về phía Tây Bắc nước ta.

        Do vừa mới sinh hoạt chính trị, quán triệt sâu sắc tình hình nhiệm vụ, khả năng B-52 ra đánh miền Bắc lại thấy những triệu chứng khác lạ, sau khi thống nhất với các trắc thủ, đài trưởng báo cáo với đại đội trưởng: Có khả năng B-52 vào đánh miền Bắc.

        Nhận được tình báo B-52 của trung đoàn 291 giữa lúc tất cả các đài ra-đa đang mở máy của 2 trung đoàn 292, 293 bị nhiễu nặng, không có tình báo B-52. Tham mưu phó binh chủng vốn là người cẩn thận liền sử dụng đường dây hữu tuyến của ngành bưu điện trực tiếp chỉ thị cho trung đoàn trưởng trung đoàn ra-đa 291 và đại đội trưởng đại đội 45: Có đúng là B-52 không? Có đúng B-52 bay vào miền Bắc? Chỉ thị đó được truyền ngay đến đại đội 45.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #68 vào lúc: 07 Tháng Sáu, 2016, 05:28:11 am »

        Nhìn rõ tín hiệu trên màn hiện sóng, từng tốp 3 chiếc trên dải nhiễu nhẹ, lại vừa phát hiện thấy các tốp máy bay của không quân chiến thuật bắt đầu phóng nhiễu tiêu cực ở phía Tây Bắc Hà Nội, đài trưởng đài ra-đa Π35 báo cáo dứt khoát: Đúng là B-52. Mục tiêu đang bay vào miền Bắc. Báo cáo đó được đại đội trưởng báo cáo lên sở chỉ huy trung đoàn và truyền thẳng về tổng trạm.

        Cùng lúc đó, các đài ra-đa ven biển cũng phát hiện được một tốp mục tiêu loại lớn ở độ cao 10km, đại đội 19 phát hiện 3 tốp F.4 đang bay vào Hải Phòng. Nhận được lệnh của trung đoàn 293, các đại đội 19, 24, 18 đều khẳng định đó là 3 tốp F4 làm nhiệm vụ nghi binh, thu hút ở hướng Đông.

        Đường bay của 7 tốp 21 chiếc B-52 của đại đội 45 ngày càng dài thêm về phía Bắc. Đồng chí Nguyễn Quang Bích, Phó tư lệnh Quân chủng đang trực chỉ huy ở sở chỉ huy Quân chủng điện sang tổng trạm: Ra-đa có đảm bảo chắc chắn có B-52 vượt qua vĩ tuyến 20 không?

        Nhầm lẫn lúc này là gây nên hậu quả lớn, là có tội với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Do nắm chắc trình độ phát hiện mục tiêu của các đơn vị, nhất là ở đài Π35 đại đội 45 nên đồng chí tham mưu phó binh chủng báo cáo dứt khoát: Đúng là B-52 đang vượt vĩ tuyến 20. Có khả năng B-52 vào đánh Hà Nội. Lập tức Tư lệnh Quân chủng ra lệnh cho các lực lượng phòng không - không quân chuẩn bị đánh B-52 để bảo vệ Thủ đô Hà Nội, trái tim thiêng liêng của cả nước.

        Cũng trong giây phút đó, Thủ đô Hà Nội và các tỉnh miền Bắc được lệnh báo động phòng không để nhân dân kịp thời xuống hầm trú ẩn.

        19 giờ 20 phút, 2 chiếc MIG-21 từ sân bay Hòa Lạc cất cánh nhưng bị máy bay tiêm kích của địch khống chế nên không đánh được B-52. Tuy nhiên, sự xuất hiện của máy bay ta làm cho đội hình máy bay địch rối loạn, tạo điều kiện thuận lợi cho bộ đội phòng không diệt địch.

        19 giờ 34 phút, được sự yểm trợ của 20 chiếc F.4, các tốp B-52 lần lượt vào đánh sân bay Nội Bài, Hòa Lạc, Kép, khu Đông Anh. Đồng thời 19 lần chiếc máy bay không quân chiến thuật vào đánh đài phát tín hiệu ở Đại Mỗ, xí nghiệp ca nô Hồng Hà, Yên Viên, Phà Đen... Các lực lượng phòng không ở khu vực Hà Nội tập trung hỏa lực đánh địch quyết liệt.

        19 giờ 44 phút, tiểu đoàn 78 trung đoàn tên lửa 257 đã phóng quả đạn đầu tiên vào tốp B-52 có ký hiệu 556.

        20 giờ 13 phút, tiểu đoàn 59 trung đoàn tên lửa 261 đã phóng 2 quả đạn vào tốp B-52 có ký hiệu 671 đang bay từ Tam Đảo vào đánh Đông Anh, bắn rơi tại chỗ 1 chiếc B-52 ở Phủ Lỗ, huyện Kim Anh. Đây là chiếc máy bay B-52 bị bắn rơi tại chỗ đầu tiên ở Hà Nội trong trận đầu tiên của chiến dịch phòng không tháng 12 năm 1972.

        Trên đường B-52 bay ra, đại đội 47 phát hiện được một chiếc loại lớn, độ cao 11km từ Thọ Xuân bay thẳng xuống Nghĩa Đàn qua Đô Lương. Nhận được tình báo, sở chỉ huy tiền phương của Quân chủng ra lệnh cho trung đoàn tên lửa 263 tiêu diệt tốp mục tiêu này. 20 giờ 16 phút, tiểu đoàn 51 trung đoàn tên lửa 263 ở Nghệ An đã phóng 2 quả đạn, bắn rơi tại chỗ 1 chiếc B-52 ở phía Nam Khe Bố.

        23 giờ, đại đội 16 và đại đội 45 lại tiếp tục phát hiện, khẳng định tình báo các tốp B-52 do đại đội trinh sát nhiễu và đại đội 11 trung đoàn 290 phát hiện. Trong trận thứ hai này bộ đội ra-đa đã kịp thời báo động cho các lực lượng phòng không ở Hà Nội chuyển cấp chiến đấu sớm 40 phút. Đó là trận tập kích đường không thứ hai trong đêm của 21 lần chiếc máy bay B-52 và 32 lần chiếc mây bay chiến thuật vào Hà Nội. Một số tiểu đoàn tên lửa được lệnh đánh B-52 nhưng không kết quả.

        Vào lúc đó từ tổng trạm, tham mưu phó binh chủng Hứa Mạnh Tài gọi điện cho trung đoàn trưởng Đỗ Văn Năm: Bộ đội tên lửa đã bắn rơi tại chỗ 1 chiếc B-52G ở Phủ Lỗ. Được tin tất cả cán bộ, chiến sĩ trong sở chỉ huy trung đoàn và đại đội 45, đại đội 16 vô cùng phấn khởi vì nỗi băn khoăn liệu có đúng B-52 không, bây giờ mới được giải đáp. Đó còn là niềm vui, niềm tự hào của những chiến sĩ ra-đa ở tuyến ngoài đã hoàn thành nhiệm vụ cảnh giới xa cho các lực lượng phòng không đánh địch, bảo vệ trái tim thiêng liêng của cả nước.

        Đó cũng là lúc ban chỉ huy trung đoàn 291 họp, báo cáo với Thường vụ Đảng ủy: Trung đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ mà phó chính ủy Nguyễn Xuân Mậu thay mặt Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân chủng và chính ủy Hoàng Văn Ngữ thay mặt cho Đảng ủy và Bộ tư lệnh binh chủng giao cho trung đoàn 10 ngày trước đó. Sau khi nhận định "Địch còn tiếp tục sử dụng B-52 đánh phá ác liệt Hà Nội, Hải Phòng...", các đồng chí lãnh đạo chỉ huy trung đoàn thống nhất biện pháp, phân công, phân nhiệm cho từng đồng chí chỉ huy, kiểm tra chỉ đạo đơn vị khẩn trương rút kinh nghiệm chuẩn bị chiến đấu và làm tốt nhiệm vụ phát hiện, thông báo mục tiêu B-52.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #69 vào lúc: 07 Tháng Sáu, 2016, 05:28:52 am »

        4 giờ 16 phút, bộ đội ra-đa trong đó đại đội 45 làm nòng cốt đã phát hiện và khẳng định 30 lần chiếc B-52 và 20 lần chiếc máy bay chiến thuật vào đánh Hà Nội. Những tình báo của đại đội 45 được chiến sĩ báo vụ kiêm đánh dấu đường bay Đặng Thị Tám ở sở chỉ huy trung đoàn thể hiện trên bảng tiêu đồ rồi được phiên ban truyền lên tổng trạm. Do được báo động B-52 sớm, các lực lượng phòng không - không quân ở khu vực Hà Nội đã chuyển cấp chiến đấu kịp thời, tập trung hỏa lực đánh địch quyết liệt. 4 giờ 39 phút, tiểu đoàn 77 trung đoàn tên lửa 257 bắn rơi tại chỗ 1 chiếc B-52 ở Thanh Oai (Hà Tây).

        Như vậy là ngay trong trận đầu tiên, đêm đầu tiên của chiến dịch phòng không, bộ đội ra-đa trong đó Trung đoàn 291 làm nòng cốt đã không để Tổ quốc bị bất ngờ trước chiến dịch tập kích đường không chiến lược chủ yếu bằng máy bay B-52 của Mỹ vào Hà Nội, chủ động phát hiện triệu chứng tập kích đường không chiến lược của địch, xác định và phát hiện B-52 từ xa. Những tình báo đó đã đảm bảo cho Bộ tư lệnh Quân chủng nắm chắc địch, hạ quyết tâm sử dụng lực lượng chính xác và bảo đảm cho các lực lượng phòng không ba thứ quân chuyển cấp chiến đấu sớm từ 30 phút đến 40 phút. Trong ngày đầu tiên, bộ đội Phòng không - Không quân đã bắn rơi 8 máy bay địch, có 3 chiếc B-52, trong đó có 2 chiếc rơi tại chỗ ở khu vực Hà Nội.

        Chiến công xuất sắc của bộ đội ra-đa đã góp phần cùng các lực lượng phòng không đánh thắng trận đầu, lập nên kỳ tích đầu tiên trong chiến dịch phòng không là bắn rơi tại chỗ máy bay B-52. Chiến công xuất sắc trong đêm 18 tháng 12 năm 1972 của bộ đội ra-đa đánh dấu bước phát triển mới trong nghệ thuật bảo đảm ra-đa cho chiến dịch phòng không của quân đội ta.

        Trong buổi giao ban sáng ngày 19 tháng 12, Tư lệnh Quân chủng vui vẻ nói: "Đêm qua các đồng chí ra-đa, phát hiện sớm và xác định đúng máy bay B-52 đã giúp trên hạ quyết tâm sử dụng hỏa lực và tạo điều kiện cho bộ đội tên lửa bắn rơi B-52 ngay từ trận đầu. Đó là thuận lợi rất tốt cho những trận đánh tiếp theo".

        Cuộc họp bất thường trưa ngày 19 của Thường vụ Đảng ủy binh chủng đã chỉ rõ: Trước mắt phải kịp thời rút kinh nghiệm và củng cố mọi mặt để phát hiện, thông báo B-52 xa, liên tục, chuẩn xác, kịp thời phục vụ vô điều kiện các đơn vị bắn rơi nhiều B-52 và các loại máy bay khác, bắt giặc lái, bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng và các khu vực quan trọng khác ở Bắc Bộ, góp phần tích cực cùng Quân chủng và toàn quân, toàn dân đập tan chiến dịch tập kích đường không của địch. Từ đó đến hết ngày 29 tháng 12 năm 1972, trung đoàn 291 vẫn phát hiện B-52, hên tục hoàn thành thắng lợi chiến dịch.

         Trong chiến dịch phòng không cuối tháng 12 năm 1972, được sự chỉ đạo của cấp trên, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Binh chủng Ra-đa chủ động lãnh đạo, tổ chức bộ đội quán triệt sâu sắc tình hình nhiệm vụ, tập trung chuẩn bị chiến đấu và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

        Điều nổi bật nhất trong quá trình chuẩn bị chiến dịch là binh chủng đã đề nghị lên cấp trên kịp thời điều chỉnh đội hình chiến đấu. Tháng 11 năm 1971 trung đoàn 291 được điều từ Hải Phòng vào Quân khu 4 với những đơn vị ra-đa chốt mạnh vừa thực hiện chủ trương "hướng ra chiến trường" vừa thực hiện ý định chống nhiễu chiến thuật để phát hiện 2 đường bay cơ bản của B-52 theo hướng Tây Nam và Đông Nam vào đánh Hà Nội, Hải Phòng. Tiếp đó, do xác định rõ đối tượng tác chiến chủ yếu nên Bộ tư lệnh binh chủng đã tập trung tổ chức bộ đội tập trung nghiên cứu tính năng, thủ đoạn hoạt động của B-52, bổ sung hoàn chỉnh quy trình xử trí, thao tác chống nhiễu phát hiện B-52, máy bay tầng thấp và chống tên lửa Sơ-rai. Việc tổ chức rút kinh nghiệm ở các đơn vị, nhất là hội nghị chống nhiễu phát hiện B-52 của binh chủng ở đại đội 18 đã giúp cho bộ đội nêu cao quyết tâm phát hiện bằng được B-52, thống nhất tư tưởng chỉ đạo tác chiến và quy trình xử trí thao tác để phát hiện được B-52 trong mọi tình huống. Đó là những nguyên nhân chính tạo điều kiện cho trung đoàn 291 của binh chủng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong chiến dịch phòng không tháng 12 năm 1972.

        Do đó, trong chiến dịch phòng không 12 ngày đêm cuối tháng 12 năm 1972, trung đoàn 291 bộ đội ra - đa đã chủ động phát hiện và xác định B-52 ngay từ trận đầu, đêm đầu của chiến dịch tập kích đường không chiến lược của địch. Trong tổng số 165 lần tốp B-52 của toàn binh chủng, trung đoàn 291 đã phát hiện được 151 lần tốp đạt 91,6%. Trong tổng số 17 trận tập kích đường không bằng máy bay B-52, trung đoàn 291 đều chủ động phát hiện từ xa, báo động cho các lực lượng phòng không ở Hà Nội, Hải Phòng chuyển cấp chiến đấu sớm từ 30 .đến 60 phút. Trong số các tốp mục tiêu B-52 phát hiện từ xa có 10 tốp cách Hà Nội trên 900km, 56 tốp cách Hà Nội từ 500km đến 700km. Kết quả phát hiện của trung đoàn 291 trên hướng Tây Nam là 107 trong tổng số 119 tốp B-52, đạt tỷ lệ 90%, trên hướng Đông Nam là 44 trên tổng số 46 tốp B-52, đạt tỷ lệ 96%1 (Trích tổng kết "Bộ đội ra-đa phục vụ chiến dịch phòng không chống tập kích đường không chiến lược của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc Việt Nam từ ngày 18 đến ngày 29 tháng 12 năm 1972" của Binh chủng Ra-đa).

        Các đại đội phát hiện B-52 xuất sắc là đại đội 45 đạt tỷ lệ 85%, đại đội 16 đạt tỷ lệ 77,1%, đại đội 18 đạt tỷ lệ 55%2 (Trong khi đó đại đội 37 là đơn vị phát hiện B-52 khá nhất của trung đoàn ra-đa 292 đạt tỷ lệ 55%, đại đội 11 là đơn vị phát hiện B-52 khá nhất của trung đoàn ra-đa 290 đạt 51%).

        Như vậy là trong chiến dịch phòng không 12 ngày đêm cuối tháng 12 năm 1972, trung đoàn 291 đã chủ động phát hiện B-52 từ xa, bảo đảm cho Tổ quốc không bị bất ngờ trước chiến dịch tập kích đường không chiến lược chủ yếu bằng máy bay B-52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng. Vì vậy các lực lượng phòng không ở khu vực Hà Nội đã chuyển cấp chiến đấu sớm, bắn rơi tại chỗ máy bay B-52 ngay từ trận đầu, đêm đầu của chiến dịch.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM