Vượt dốc, đến đại đội bộ nằm giữa đoạn đường từ chân núi đến đỉnh Hăng le thì nghỉ giải lao. Bộ đội mời anh chị em dân công ăn lương khô, thanh niên bản do Nhiên dẫn đầu tranh thủ xuống bìa rừng gần đó hái quýt về mời bộ đội. Bữa liên hoan đơn giản nhưng vui lắm. Trai gái ném cho nhau những quả quýt dở xanh, dở đỏ cười vang một vùng đồi.
Trước lúc đi tiếp, anh Quế chính trị viên phó nhắc bảo an toàn tuyệt đồi, và nhấn mạnh: "Nếu ai làm rơi máy, bị hỏng coi như mắc tội phá hoại vũ khi”. Hội lính trẻ cười ồ, xem đó là câu nói hài hước, động viên.
Gần đến trận địa thì nhóm khiêng khối giảm tốc Π12 bị ngã, đồng chí xã đội trưởng nhoài người lấy vai đỡ. Còn Nhiên trong nhóm đó bị lăn, váy vướng vào đinh ốc kéo lên gần hết đùi. Chân Nhiên bị rách, máu chảy ướt cả vỏ máy, trong khi y tá chưa đến kịp tôi dùng vải bảo quản sạch buộc chặt vết thương cho cô Nhiên rồi cùng mọi người nâng khối giảm tốc. Xã đội trưởng gượng đứng dậy, may không bị thương, còn Nhiên vẫn tiếp tục khiêng máy được. Vậy là khối máy bị rơi vẫn an toàn.
Khoảng quá trưa thì tất cả các bộ phận đưa đầy đủ những khối máy được phân công lên đến đỉnh Hăng le. Công việc tháo máy và vận chuyển coi như xong. Tôi thở phào, nói với anh Quế cảm ơn bà con khiêng máy.
Đội ngũ kỹ thuật tập trung bảo quản, lắp ráp xong gọn trong ngày, nhưng để máy chiến đấu được phải mất hơn một tuần sau, vì trong quá trình tháo, lắp, khiêng vác các vị trí bị sai lệch nên tham số không ổn định.
Sau đợt tháo máy đó, tôi còn trở lại Đại đội 34 nhiều lần nữa. Khi thì cùng thợ sửa chửa, khi thì chỉ đạo đơn vị chống ẩm. Đặc biệt là cái quạt gầm của 513K làm tốn công sức chúng tôi khá nhiều. Do trên đỉnh núi xung quanh là rừng, tiết trời sang xuân mưa phùn liên tục, độ ẩm cao làm quạt gầm của rađa 513K cháy nhiều, khắc phục bằng mọi cách vẫn không được. Cuối cùng đành phải đóng một cái hộp gỗ hai lớp, giữa nêm chặt hạt chống ẩm, khi mở máy chiến đấu thì tháo ra để quạt mát cho các hệ thống phát và nguồn, khi máy nghỉ thì đậy kín. Sau này cái hộp gỗ ấy được đưa về triển lãm sáng kiến cải tiến kỹ thuật ở Quân chủng, các anh em trong phòng kỹ thuật vẫn nói đùa: "Cái hộp bẫy chuột". Cách chống ẩm cho quạt gầm bằng "Cái bẫy chuột" chỉ là phương pháp tình thế, nhưng đã giúp cho quạt gầm không cháy nữa.
Lần cuối tôi đến Đại đội 34 là ba mươi tết năm đó. Sáng sớm, từ sở chỉ huy trung đoàn đóng ở Mai Lịch, Mai Châu trực ban kỹ thuật điện về, báo: "Cả hai máy của Đại đội 34 bị hỏng". Đồng chí Trực - chủ nhiệm kỹ thuật cử ngay một đoàn gồm tôi, anh Lê Trọng Bích, trạm trưởng sửa chữa và hai thợ lên xe KPA3-1Π đi ngay.
Chúng tôi dự định sẽ cùng ăn tết với Đại đội 34 nên khi cắt cơm đã mang theo bánh chưng và tiêu chuẩn hàng Tết mới được phân phối.
Xe khởi hành lúc 7 giờ kém, xuống đến Miền Đồi đúng trưa. Đến đoạn gần nhà cô Nhiên do mưa đường trơn, xe bị trôi tụt xuống vệ đường. Chúng tôi đang loay hoay tìm cách kéo xe lên thì bà con Miền Đồi ùa ra chật kín dốc. Đồng chí chủ tịch xã báo động triệu tập dân quân đến, mỗi người một tay xúm vào đưa được xe lên ngay.
Cô Nhiên săn đón mời chúng tôi vào nhà ăn Tết. Anh Bích chỉ lái xe Phú, nói vui:
- Nhờ bà con trông hộ lái xe bao giờ xong việc chúng tôi xuống vui xuân cùng bà con!
Thấy việc quân sự là "hỏa tốc" nên bà con đồng ý để chúng tôi lên núi. Hôm đó đại hàn rét lắm nhưng lên đến đỉnh núi áo mọi người cũng ướt đẫm mồ hôi. Anh Bích và Hanh, thợ Π10 vào chữa máy 513K, còn tôi và Bằng vào chữa Π12. Do khi vận chuyển bị va chạm nên chân đèn trộn tần máy thu Π12 bị long, lấy đèn mới thay, máy tốt hơn trước nhiều. 513K chữa lâu hơn, phải dò sơ đồ nguyên lý dùng đồng hồ ABO-5M đo mới phát hiện thấy thủng tụ lọc nguồn hiện sóng nhìn vòng. Sửa chữa xong, hiệu chỉnh toàn bộ máy cho các tham số thật tốt, chúng tôi chúc tết anh em ở hai trung đội 513K và Π12, tặng anh em 5 chiếc bánh chưng và một số quà tết mang theo rồi chia tay.
Xuống núi, tôi thấy bâng khuâng: "Thế là trên đỉnh Hăng le cao tít, quanh năm mây mù bao phủ ấy chỉ còn lại hơn chục lính rađa ăn Tết".
Về đến nhà Nhiên khoảng 4 giờ chiều, khắp nhà sàn thịt, lòng lợn luộc thái to bày la liệt trên các tàu lá chuối non. Bà con niềm nở rót rượu mời chúng tôi. Từ sáng chưa kịp ăn cơm, đoàn chúng tôi ai cũng đói lả nên bữa cỗ Mường hôm đó thật ngon.
Khi ra về, bà con tặng bao nhiêu là thịt, rượu. Riêng Nhiên đưa cho tôi hai sọt quýt to, bịn rịn nói:
- Bao giờ các anh quay lại Miền Đồi?
Cầm tay Nhiên, tôi an ủi:
- Sẽ có ngày!
Phú cắm xong cành đào vào đầu xe, chúng tôi và bà con Miền Đồi vẫy tay tạm biệt trong tình thương yêu như những người thân trong gia đình.
Từ đó đến nay tôi không giữ được lời hứa với Nhiên, chẳng có dịp quay lại Miền Đồi.
Trên đường đi tiếp đến Nhà máy thủy điện Hòa Bình, tôi miên man nghĩ về những ngày tháo máy ở Đại đội 34, nghĩ về bà con Miền Đồi và những quả quệt chín mọng mà Nhiên tặng bộ đội rađa. Chính những thứ đó đã góp một phần nhỏ vào thành tích của bộ đội rađa, trong đó có chiến thắng điện Biên Phủ trên không lịch sử tháng Chạp 1972 và bao nhiêu chiến thắng khác.
Tháng 10 năm 2003