Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 01:08:27 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Phi công tiêm kích  (Đọc 29390 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« vào lúc: 04 Tháng Năm, 2016, 10:52:27 pm »

        - Tên sách: Phi công tiêm kích
        - Tác giả: Hồi ký của đại tá Lê Hải
        - Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân
        - Năm xuất bản: 2004
        - Số hóa: Macbupda
        - Hiệu đính: Giangtvx

LỜI NÓI ĐẦU

        Mở “mặt trận trên không”, bắn rơi 320 máy bay với đầy đủ các loại tối tân, hiện đại nhất của không lực Hoa Kì, góp phần cùng quân và dân miền Bắc đánh thắng hai lần chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, là chiến công vô cùng xuất sắc, to lớn của Không quân nhân dân Việt Nam non trẻ.

        Ghi chép lại, những chiến công rất đỗi hào hùng, những hi sinh to lớn của những phi công tiêm kích - được mệnh danh là những dũng sĩ trên mặt trận “không đối không” suốt thời kì đánh Mĩ, để làm cơ sở giáo dục lịch sử truyền thống, xây dựng Không quân nhân dân Việt Nam hiện tại và tương lai là việc làm cần thiết, đáng trân trọng.

        Với ưu thế của “người trong cuộc”, Đại tá, phi công tiêm kích - Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lê Hải đã dành nhiều tâm sức, hồi tưởng, ghi lại những chiến công vang dội; những mất mát, tổn thất… của đồng chí, đồng đội và bản thân suốt một thời đánh Mĩ.

        Có thể những điều Anh hùng Lê Hải ghi chép lại trong cuốn “Phi công tiêm kích” còn có khiếm khuyết, nhưng hi vọng sẽ giúp bạn đọc tiếp cận “mặt trận trên không” theo nhiều góc độ, đặng có cái nhìn tổng thể về cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ từ năm 1964 đến 1973.

        Với ý nghĩa đó, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân xin giới thiệu tác phẩm “Phi công tiêm kích” của tác giả Lê Hải đến bạn đọc.

NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN       
« Sửa lần cuối: 09 Tháng Hai, 2021, 10:35:55 am gửi bởi ptlinh » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #1 vào lúc: 12 Tháng Năm, 2016, 06:52:16 pm »

       
Chương I

VÀO TRẬN

        “Tổ tiên ngày xưa đã có những chiến công oanh liệt trên sông, trên biển như Bạch Đằng, Hàm Tử, trên bộ như Chi Lăng, Vạn Kiếp, Đống Đa. Ngày nay ta phải mở mặt trận trên không thắng lợi. Trách nhiệm ấy trước hết là của các chú…”.Lời dạy của Bác Hồ luôn khắc sâu trong lòng mỗi phi công tiêm kích khi chúng tôi còn đang học ở Trường Không quân, cũng như khi đã về phục vụ tại các trung đoàn chiến đấu.

        Đầu năm 1965, Mĩ thua to ở miền Nam. Chiến tranh đặc biệt thất bại, Mĩ đưa quân ào ạt vào miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. Trung đoàn Không quân tiêm kích 921 mở đầu những trận không chiến thắng lợi vẻ vang. Không lực hiện đại, hùng hậu của Hoa Kì với hàng ngàn máy bay chiến đấu có tốc độ vượt tiếng động, thiết bị hiện đại bậc nhất, vũ khí trang bị cực mạnh; hàng nghìn phi công được huấn luyện chu đáo, có trình độ kĩ thuật cao, bay hàng nghìn giờ, có kinh nghiệm chiến đấu, được thử thách qua nhiều năm chiến tranh và một hệ thống chỉ huy hoàn hảo nhất thế giới, với sức mạnh bậc nhất đó, tưởng có thể nhanh chóng đè bẹp miền Bắc Việt Nam, làm cho miền Bắc trở lại thời kì đồ đá. Giặc Mĩ hòng làm cho ta mất ý chí chi viện cho miền Nam, bỏ mặc đồng bào, đồng chí trong nước sôi lửa bỏng.

        Những con “mắt muỗi” như lời giặc lái Mĩ hay nói, coi thường các máy bay Míc-17 bé nhỏ, “cổ lỗ sĩ” của Cụ Hồ đã làm cho không lực Mĩ phải bao phen điêu đứng. Ngày 3 và ngày 4 tháng 4 năm 1965, trên bầu trời Hàm Rồng, tỉnh Thanh Hóa, Míc đã “chọc tiết” lũ “chim ưng” nhà trời và “thần sấm” của giặc Mĩ. Ta hạ được bốn máy bay chiến đấu của địch, nhưng ba chiến sĩ của Trung đoàn 921 đã anh dũng hi sinh.

        Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đang chỉ huy ở chiến trường miền Nam nghe tin đã rất xúc động nói: “…Từ đời Hồng Bàng đến nay, trên bán đảo nằm ở Thái Bình Dương này, đây là lần đầu tiên có một trận đánh ở trên trời, giữa một bên là Không quân nhân dân trẻ tuổi và một bên là không quân Mĩ kẻ cướp già đời của tên trùm sỏ quốc tế…”. Các đơn vị tiêm kích liên tục xuất kích chiến đấu và giành thắng lợi giòn giã. Với số phi công ít ỏi, mà ngay cả đồng chí Tư lệnh Quân chủng còn nhớ từng khuôn mặt, hiểu rõ tính tình và trình độ bay của từng người, nhưng họ đã chiến đấu thật ngoan cường, lập nhiều chiến công oanh liệt, bắn rơi nhiều máy bay Mĩ.

        Để có thể chiến đấu lâu dài, Quân chủng Phòng không - Không quân cần phải nhanh chóng có các nguồn bổ sung phi công chiến đấu. Lấy các học viên ở đơn vị dự khóa, gửi đi học ở nước bạn; nhanh chóng cũng phải ba năm sau mới có người bổ sung. Quân chủng vừa cho người đi học dài hạn ở nước ngoài, và tự ta, Trường Không quân Việt Nam cũng phải đào tạo gấp để bổ sung cho các trung đoàn đang thiết quân số chiến đấu ngày một gay gắt.

        Chúng tôi, các phi công trẻ ở các đơn vị không quân vận tải và giáo viên bay trẻ được tuyển chọn gấp, để đào tạo thành phi công chiến đấu trong thời gian ngắn. Mười bảy anh em, lớp phi công tiêm kích đầu tiên của Trường Không quân Việt Nam được đào tạo tại Tường Vân, Vân Nam, Trung Quốc.

        Tường Vân là một vùng cao nguyên đất đỏ, cao hơn mặt nước biển hai nghìn mét, có những rặng núi cao, khí tượng khá phức tạp, rất giống điều kiện khí hậu Việt Nam.

        Đến nay đã gần bốn mươi năm, tôi vẫn nhớ như in các bạn cùng lớp, mỗi người một vẻ, một quê hương từ Nam ra Bắc. Họ là những con người tuyệt diệu. Chúng tôi đoàn kết, thương yêu nhau như anh em một nhà. Mười bảy người gồm: Hải, Kì, Phi, Lượng, Hùng, Phúc, Duân, Thọ, Tuân, Diệp, Bôn, Điệt, Phong, Thái, Duyên, Vân, Lâm.

        Trước khi học lái máy bay tiêm kích, chúng tôi đã có vài trăm giờ bay trên máy bay vận tải và trực thăng, tuổi trung bình từ 22 đến 23, sức khỏe tuyệt vời. Chúng tôi có thể đá bóng suốt buổi sáng, hoặc chơi bóng rổ từ chiều đến tận chín, mười giờ đêm.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #2 vào lúc: 12 Tháng Năm, 2016, 06:56:47 pm »

        Từ Hải phòng, sau 15 ngày hành quân bằng tàu hỏa và ô tô, đến Tường Vân , nhanh chóng ổn định chỗ ăn ở, chúng tôi bước vào học lí thuyết và bay tập ngay. Thời gian đó, tôi nhớ là vào cuối năm 1965. Ngày về nước của chúng tôi, nhà trường dự định là cuối năm 1966. Chỉ một năm, chúng tôi phải hoàn thành chương trình mà bình thường phải học trong ba, bốn năm. Chúng tôi học bay vòng kín, tập cất cánh, hạ cánh. Ở trên cao nguyên, không khí loãng, gió to là điều khó khăn cho học viên. Gió cạnh lớn, 15m/giây, thậm chí tới 17 - 18m/giây, chúng tôi vẫn bay. Vì vậy, khi ra trường, lớp chúng tôi đã biết xử lí gió cạnh khi hạ cánh.Tôi là một trong những học viên bay đầu tiên của khóa học. Đề cương để các học viên phấn đấu bay đơn là 25 lần bay kèm, để bay đơn được, đây là số lần bay kèm tối thiểu. Trung bình phải 50, đến 60 lần bay kèm. Có bạn phải bay kèm trên 100 lần.. Tối còn nhớ, khi tôi bay kèm lần thứ 25, đồng chí giáo viên Trung Quốc trao đổi với đồng chí Hiệu trưởng, về việc có thể thả chúng tôi bay đơn được chưa. Được hỏi, tôi hăng hái trả lời: “ báo cáo bay được”. Thầy giáo Hòa lo lằng, giúp tôi vào buồng lái và chuẩn bị tỉ mỉ cho chuyến bay đầu tiên của cả lớp. Nổ máy, đóng buồng lái, tôi theo lệnh chỉ huy bay, cho máy bay lăn ra đường băng, cất cánh. Thật tuyệt với khi lần đầu tự mình lái một máy bay chiến đấu. Đường bay ngọt ngào theo sự điều khiển, mới mẻ, tự tin. Các giáo viên bay là những phi công của Đoàn 921 được cử sang cùng các đồng chí phi công công tiêm kích giải phóng quân Trung Quốc, những đồng chí Đông, Chi… Các đồng chí giáo viên Trung Quốc phần lớn là cán bộ của các đơn vị chiến đấu, họ có nhiều kinh nghiệm trong huấn luyện, trình độ kĩ thuật giỏi. Các đồng chí giáo viên Việt Nam như các thầy Trì, Phương, Tài, Địch, Hùng, Hòa, Ngọc, cũng như các giáo viên Trung Quốc đều rất tận tụy, nghiêm khắc và thương yêu, dạy bảo chúng tôi tỉ mỉ từ lí thuyết đến thực hành bay trên không. Hàng ngày, ba , bốn giờ sáng, thầy trò đã dậy, đi ăn sáng, chuẩn bị cho ngày bay. Trời vừa rạng, chúng tôi đã cất cánh huấn luyện bay. Sáng bay, chiều giảng bình, chuẩn bị cho ngày bay hôm sau. Cả sân bay suốt đêm ngày, sục sôi đủ loại công việc tham mưu, chính trị, hậu cần, kĩ thuật. Tất cả vì Việt Nam đánh thắng giặc Mĩ, vì lớp học vên phi công huấn luyện thành công.

        Hiệu trưởng Phạm Dưng, Chính ủy Bùi Lê Mai, các cán bộ tham mưu, huấn luyện như: Lại, Hoan, Bộ… luôn đi sâu sát, theo dõi, giúp đỡ chúng tôi học tập, kể có có lúc các đồng chí kiêm luôn phiên dịch, vì ngôn ngữ bất đồng nên thầy trò Việt Nam, Trung Quốc chưa hiểu nhau.

        Thông thường, một lần, vào hàng tuyển hạ cánh, tôi làm đủ động tác theo thứ tự thả càng, thả cánh tà, đối điểm chuẩn, tay ga hợp lí, bảo đảm tốc độ đúng từng vị trí.. Máy bay của tôi qua đài gần, chuẩn bị tiếp đất. Tôi đỡ cần lái hạ cánh hơi ít, máy bay xuống khá nhanh và đã tiếp đất cách đầu đuờng băng một trăm mét, nhảy cao, lao vào đường băng. Tôi bình tĩnh, nghe chỉ huy, hạ cánh an toàn và phanh nhẹ nhàng, máy bay đứng ở cuối đường băng. Xe dắt kéo máy bay về gần đài chỉ huy. Rời máy bay, tôi lên đài chỉ huy báo cáo về chuyến bay đơn đầu tiên không tốt của mình. Trong thâm tâm, tôi nghĩ sẽ bị khiển trách. Nhưng không, đồng chí Hùng nhẹ nhàng hỏi tôi: Có sợ khi máy bay nhảy cao không?

        Tôi trả lời: Tôi không sợ! Xin cho bay tiếp!

        Đồng chí Hùng bảo: Hôm nay thế là đủ rồi, chuẩn bị mai bay tiếp.

        Tôi rời đài chỉ huy, chạy về báo cáo với đồng chí Hòa - giáo viên của tổ. Đồng chí ôm tôi bảo: Ngày mai tôi phải kèm cậu một vòng trước khi bay đơn tiếp.

        Mùa đông 1966, nhà trường tổ chức cho lớp chúng tôi bắn bia mặt đất. Đây là khoa mục cuối cùng, chuẩn bị kết thúc lớp học để về nước chiến đấu.

        Bia là một hình chiến F-4 bằng vôi, kể ở ngay đầu đường băng. Các thầy bắn trước rồi đến học viên bay bắn sau.

        Bắn bia mặt đất là khoa mục khó. Đối với học viên lần đầu tập bắn, nổ một lúc ba khẩu súng trên máy bay lại càng khó hơn. Tốc độ tiếp cận mục tiêu lớn, thời cơ bắn an toàn và tốt chỉ trong chớp mắt. Độ một giây phải thoát li khỏi góc bổ nhào ngay. Chỉ cần chậm một giây là có thể mất an toàn. Mỗi học viên được bắn 20 viên. Sau ba lần bổ nhào, tôi bắn hết đạn. Người báo bia không đếm được là mấy viên vào chiếc F-4, vì trên lưng chiếc F-4 thành một hố như vũng trâu đằm.

        Cuói lớp học, thầy trò chúng tôi lưu luyến chia tay. Trong đêm tối, chúng tôi bay về nước trên chiếc IL-14 do phi công giỏi nhất của Đoàn bay vận tải 919 lái.

        Ngồi trong máy bay vận tải, lưng mang dù vì đề phòng bất trắc máy bay Mĩ bắn trong đêm, tôi nhớ lại bao kỉ niệm về mái trường thân yêu. Sau 5 năm học tập, bây giờ mới thật sự là phi công, sắp được về Trung đoàn không quân tiêm kích. Nhớ thầy Hòa, thầy Hùng chỉ huy bay, thầy Chi người Trung Quóc. Thầy Chi đã “quần” tôi những chuyến tập thât kịch liệt trong khu vực bay tập bắn trên không. Tôi nhớ có lần, hai thầy trò hạ cánh sau khi đã “quần nhau” trong khu vực xạ kích về. Thầy chọc vui tôi: Chắc chẳng bắn được “ngộ” đâu? Nhưng khi đọc phim, tôi bắn được hai tổ phim, trúng mục tiêu. Thầy Chi có lần nói với thầy Hiệu trưởng và đồng chí Lại về tôi là: Thằng này, về nước chiến đấu, nếu sống sẽ thành anh hùng. Lúc đó tôi chỉ nghĩ, chắc là thầy Chi nói đùa cho vui. Chứ dễ gì thành anh hùng được. Chiến tranh mà.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #3 vào lúc: 12 Tháng Năm, 2016, 07:00:21 pm »

        Máy bay vận tải bay gần hết đêm, mờ sáng hôm sau mới hạ cánh xuống sân bay Gia Lâm. Gần 2 năm xa Tổ quốc, giờ đây đất nước đang trong cảnh một mất một còn với quân xâm lược, bước xuống sân bay mà lòng chúng tôi bồi hồi, xúc động.

        Các phi công và cán bộ Trung đoàn 923 ra ga đón chúng tôi. Anh Chao đi bên Điệt, Bôn, cao lớn, hỉ hả nói: Chúng tớ chờ các cậu lâu quá! Trung đoàn ta lại có thêm sức mạnh. Chúng tôi được chia đều cho hai phi đội: Hải - Phúc về phi đội 2 và Hùng - Thọ về phi đội 4.

        Phi đội 2 ở lại sân bay Gia Lâm, sơ tán ngoài bãi sông Hồng, nơi dân trồng những vườn chuối bát ngát. Phi công ở trong những nhà lắp ghép tạm bằng tranh, tre, nứa, lá. Nước uống có xe ô tô chở tới. Tắm, thì tùy nghi, vào làng, giếng dân. Anh nào lười đi xa, thì tắm nước hầm trú ẩn.

        Anh em được biên chế về phi đội 4, sáng sớm hôm sau, lên xe ô tô hành quân về sân bay Hòa Lạc. Bao năm, sống bên nhau, cùng học hành, vui buồn đủ cả. Giờ đây, kẻ ở người đi, chúng tôi bồi hồi xúc động. Chúng tôi ôm nhau chẳng muốn rời, nắm chặt tay trong tay, chúc nhau may mắn và lập công. Kể từ đây, mỗi người một số phận trong chiến tranh. Lớp chúng tôi sẽ không bao giờ còn gặp mặt đông đủ. Sau này, chúng tôi thường găp nhau trên trời nhiều hơn là ở mặt đất, vì hai phi đội thuờng chiến đấu hiệp đồng với nhau.

        Trung đoàn 923 là trung đoàn tiêm kích thứ hai của quân đội ta, được thành lập ngày 7 tháng 9 năm 1965. Ngày đó, bay Kép cũng hoàn thành xây dựng, được đưa vào sử dụng. Căn cứ chính của Trung đoàn tại sân bay Kép - thuộc tỉnh Hà Bắc (nay thuộc Bắc Giang). Các sân bay cơ động,dự bị là Kiến An, Hòa Lạc, Gia Lâm, Yên Bái, Nội Bài (lúc đó gọi là Đa Phúc). Trung đoàn 923 sử dụng loại máy bay đông cơ có tăng lực, có thể lấy tốc độ nhanh hơn, vũ khí và tính năng cơ động căn bản như Míc-17 loại cũ. Gần hai năm liên tục chiến đấu, Trung đoàn đã tích lũy được một số kinh nghiệm, bước đầu hình thành cách đánh. Thời gian đầu, Trung đoàn thường tổ chức xuất kích biên đội 4 chiếc, đánh độc lập ở độ cao trung bình, đánh quần, đánh cự li gần, trên từng khu vực nhất định nhằm phát huy tính năng cơ động mặt bằng tốt của máy bay, tạo thế công kích có lợi, tránh tên lửa địch có hiệu quả, hạn chế máy bay địch có tốc độ lớn hơn ta. Sau một thời gian chiến đấu, ta rút kinh nghiệm, phát triển cách đánh máy bay địch bay thấp, đánh quần và thay đổi tâm vòng lượn. Ngoài đánh độc lập, Trung đoàn đã phối hợp với Míc-21 và cao xạ, tên lửa, đánh hiệp đồng nhiều trận.

        Những kinh nghiệm không chiến của các anh đi trước là vô cùng quý báu đối với chúng tôi. Mỗi kinh nghiệm trong chiến đấy đều phải đổi bằng xương máu của đồng đội. Chúng tôi nhanh chóng bay làm quen địa hình chiến đấu sắp tới, trên các chuyến bay bằng máy bay vận tải, vào lúc gần tối, khi máy bay địch ít hoạt động. Tranh thủ buổi sáng sớm, khi mặt trời sắp mọc, chúng tôi bay huấn luyện, ghép biên đội 2 chiếc, 4 chiếc, tập bay đội hình chiến đấu, cơ động mạnh và tập công kích với các biên đội trưởng đã từng qua trận mạc. Là “lính mới”, chúng tôi hiểu rằng với vẻn vẹn gần 100 giờ bay ở nhà trường và vài giờ bay khi về đơn vị, khi xáp trận, chắc không dễ dàng, nhất là trận đầu. Nhưng điều may mắn là trước khi bước vào trận đầu tiên, chúng tôi đã được các anh cán bộ chỉ bảo tận tình kể cả các đồng chí đã hi sinh. Anh hùng Nguyễn Văn Bảy, anh Võ Văn Mẫn, anh Hồ Quỳ, anh Mai Đức Toại trực tiếp đãn dắt chúng tôi vào chiến đấu. Tôi thường làm số 2 cho anh Lưu Huy Chao. Được chiến đấu cùng với các anh biên đội trưởng dạn dày lửa đạn, từng bắn rơi máy bay địch, tôi vững tin hơn.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #4 vào lúc: 12 Tháng Năm, 2016, 07:03:22 pm »

        Từ chỗ chủ quan coi thường lực lượng Míc, chúng tăng cường máy bay tiêm kích yểm trợ trong đội hình, tăng cường gây nhiễu che giấu đội hình khi vào ném bom các mục tiêu quan trọng. Không quân Mĩ tổ chức đội hình nhiều tầng để yểm trợ nhau, tổ chức những trận không chiến ác liệt. Tiêm kích bay đội hình như máy bay cuờng kích, nhử ta lên, tổ chức không chiến, thực hiện chiến dịch “quét sạch bầu trời”. Chúng đánh vào sân bay cả ngày lẫn đêm. Không quân Mĩ chú trọng đánh vào hệ thống phòng không của ta, dùng tên lửa từ xa, bắn vào các trận địa ra đa, tên lửa; đánh bom bi, bom chùm vào các trận địa cao xạ. Bầu trời Hà Nội năm 1967 cả đêm lẫn ngày rền vang tiếng súng cao xạ, tiếng rít của tên lửa, tiếng ầm vang của máy bay phản lực cất cánh ngăn chặn những đòn tấn công của giặc Mĩ. Lưới lửa tầm thấp của dân quân đặt trên những nóc nhà cao trong thành phố, trên các mố cầu Long Biên đỏ rực cả bầu trời Hà Nội. Máy bay Mĩ bay thấp đến nỗi dưới đất có thể nhìn thấy đầu phi công F-105D đội mũ bay màu trắng.

        Đầu năm 1967, địch tổ chức một số trận sử dụng nhiều máy bay tiêm kích giả làm cường kích, hòng lừa Mic của ta. Trời Hà Nội và miền Bắc trong những tháng đầu năm đầy mây. Trong hai ngày 2 và 6 tháng 1 năm 1967, Trung đoàn tiêm kích 921 xuất kích 3 biên đội, gồm 12 chiếc máy bay Míc-21 Các phi công ta vừa ra khỏi mây, chưa kịp tập hợp đội hình, tốc dộ bay lên còn nhỏ, máy bay cơ động kém, bọn địch chờ sẵn trên các đầu xuyên mây của máy bay ta. Địch hàng mấy chục chiếc F-4C dàn sẵn đội hình chiến đấu, từng đôi một, chúng phóng một lần hai đến bốn tên lửa vào mỗi chiếc máy bay Mic-21 của ta vừa ló khỏi mây. Nhiều phi công ta chưa thấy địch đâu đã bị bắn rơi. Các biên đội sau, số nào ghìm bay trong mây, hạ độ cao, trở về sân bay thì thoát. Ta bị địch bắn rơi bảy chiếc, các phi công nhảy dù thành công, chỉ bị hi sinh một mình đồng chí Đồng Văn Đe quê ở tỉnh Bến Tre. Trong cả quý I năm 1967, Trung đoàn 923 chỉ đánh được ba trận, bắn rơi được ba máy bay địch; ta có một chiếc Míc-17 bị bắn rơi và hi sinh một phi công.

        Sau những tổn thất đó, ta tổ chức rút kinh nghiệm, nghiên cứu địch, xây dựng quyết tâm chiến đấu. Chi bộ, đơn vị phát động phong trào quân sự dân chủ, tìm ra cách đánh hay; tổ chức nghiên cứu kĩ về dẫn đường của Míc-17, đánh vào đội hình lớn của địch; tranh thủ bay huấn luyện cho các phi công mới biên chế về phi đội; tập xạ kích ở độ cao thấp; dùng ngay máy bay vừa trực chiến, vừa thay nhau huấn luyện.. Trong huấn luyện, luôn sẵn sàng chuyển sang làm nhiệm vụ chiến đấu. Vì lúc này địch luôn dùng chiến thuật bay thấp, ra đa ta quản lí bầu trời không biết, có khi địch vào gần sân bay mới phát hiện được.

        Tháng 4, mùa hè năm 1967, trời bắt đầu tốt dần lên, tầm nhìn khá hơn. Máy bay địch tăng cường hoạt động bằng những biên đội lớn, đánh phá Hà Nội, Hải Phòng và hệ thống giao thông các khu công nghiệp, các nhà máy điện. Trong tháng 4, Trung đoàn 921 đánh ba trận, bắn rơi năm máy bay F-105D, chủ yếu bay từ Thái Lan qua. Ta an toàn. Trung đoàn 923 đánh 12 trận, bắn rơi 14 máy bay của không quân và hải quân Mĩ. Hàng ngày có từ hai đến ba biên đội 4 chiếc xuất kích. Ngày 19 tháng 4 năm 1967, hai biên đội xuất kích từ Gia Lâm và các sân bay Hòa Lạc đã bắn rơi bốn máy bay địch. Ta an toàn tuyệt đối. Biên đội Trung, Túc, Dung, Tân, xuất kích lúc 17 giờ 30 phút, gặp địch trên vùng trời Mai Châu - Hòa Bình. Trong trận này, anh Dương Trung Tân đã bắn rơi hai chiếc và anh Phan Văn Túc bắn rơi một chiếc. Các phi công trong một trận, bắn rơi cả bọn có tốc độ lớn F-105D và bọn AD6, tốc độ nhỏ, bay khoảng 300-400 km/giờ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #5 vào lúc: 12 Tháng Năm, 2016, 07:06:28 pm »

        Anh Lê Quang Trung sau này làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn không quân tiêm kích 925, đã bắn rơi năm máy bay Mĩ và cùng biên đội bắn rơi nhiều chiếc khác bằng máy bay Míc-17. Anh bị nạn trong lần bay kèm học viên tập xuyên mây phức tạp trên máy bay Y-Míc-15 năm 1970.

        Ngày 20 tháng 12 năm 1967, Anh Trung được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

        Anh Dương Trung Tân, đã bắn rơi 4 máy bay của Mĩ bằng Míc-17. Khi chuyển sang Trung đoàn 925, anh lái máy bay chiến đấu Míc-19. Là cán bộ phi đội, anh luôn nhận phần khó về mình. Anh đã hi sinh khi máy bay Míc-19 của anh bị thất tốc ở độ cao vừa cất cánh. Anh là một cán bộ trẻ, đầy hứa hẹn. Anh ra đi để lại cho anh em bao niềm thương tiếc.

        Anh Phan Văn Túc, một cán bộ điềm đạm, tính tình cẩn thận, chu đáo với anh em trong từng việc nhỏ. Anh đã từng bay huấn luyện cho tôi các động tác bay nhào lộn phức tạp. Trong trận mạc, anh thường là người rút sau cùng. Biên đội Lan, Túc, Quỳ, Phương đã mở mặt trận trên không ngày 3 tháng 4 năm 1965 trên bầu trời Hàm Rồng, Thanh Hóa. Anh đã bắn rơi 4 máy bay địch bằng chiếc Míc-17. Cuối năm 1989, trong lần bay biên đội đường dài ở độ cao thấp cùng đồng chí Lộc - phi đội phó, máy bay của anh vào mây đột ngột, cảm giác sai, máy bay lao vào núi, anh đã hi sinh.

        Anh Phan Văn Túc được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 28 tháng 4 năm 2000.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #6 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2016, 02:47:22 am »

        Lại kể tiếp về những ngày tháng 4 năm 1967 oanh liệt tại đất Cảng anh hùng. Giặc Mĩ liên tục cho từng đàn máy bay hải quân, cất cánh từ các tàu sân bay, đánh phá ác liệt thành phố Hải Phòng.

        Chiều ngày 23 háng 4, biên đội bốn chiếc bay theo đội hình từng đôi kéo dài, bay ở độ cao thấp, cách mặt đất 100m, không liên lạc vô tuyến điện, bí mật hạ cánh an toàn xuống sây bay Kiến An. Nhiệm vụ của phi đội là phục kích, phối hợp với bộ đội phòng khộng, đánh địch kéo vào từ phía biển. Cả ngày 24 tháng 4, địch không đánh Hải Phòng như ta dự kiến. Vào lúc 16 giờ 30 phút, nhiều tốp F-4 và F-105 bay vào từ biẻn và đánh khu vực Động Triều, Quảng Yên. Đồng chí Nguyễn Văn Tiên - Tư lệnh không quân, trực ở sở chỉ huy Quân chủng lệnh cho biên dội xuất kích. Biên đội được dẫn vòng đến khu vực Sơn Động, Hà Bắc, thuận phía mặt trời, lợi cho việc quan sát. Thời tiết tối, mây lác đác năm phần bầu trời. Biên đội Mẫn, Địch, Bảy, Hôn triển khai đội hình cảnh giởi. Dẫn đường ở mặt đất tiếp tục thông báo, địch cách ta 30km, rồi 20km, bên phải 30 độ. Số 3 Nguyễn Bá Địch báo cáo: Địch bên phải, phía trước, 10km. Biên đội trưởng Mẫn bình tĩnh ra lệnh: “Vứt thùng dầu phụ, tăng lực, số 2 theo tôi đánh tốp đầu, số 3 đánh tốp sau”.

        Bốn chiếc F-4 đầu tiên vòng ra phía biển, chúng tăng lực, khói phun ra thành từng dã dài, đen ngòm trên bầu trời. Hai chiếc F-4 ngoặt gấp xuống thấp, hai chiếc sau mở rộng giãn cách, hòng lừa đôi Míc-17 vào giữa, phóng tên lửa. Số 1 Võ Văn Mẫn không lạ gì thủ đoạn này của bọn tiêm kích Mĩ. Anh quan sát nhanh thấy số 2 Nguyễn Bá Địch ở thế công kích có lợi hơn, liện hạ lệnh “số 2, bám chiếc F-4 sau, tôi yểm hộ”. Địch ngoặt gấp, tăng lực, bám sát chiếc F-4 đang cố cơ động. Đến cự li 400m, anh nổ liền hai loạt. Ba khẩu pháo đồng thời phun lửa. Chiếc F-4 trúng đạn nổ tung, rơi chúi đầu xuống rặng núi phía trước. Mẫn, Địch vòng lại, thấy đôi Bảy, Hôn đang quần nhau với bốn chiếc F-4 ở độ cao thấp hơn. Thế trận xen kẽ, anh Bảy đang bắn hai F-4 phía trước, sau anh lại có hai chiếc F-4 đang đuổi anh bám đuôi. Anh Hôn bám theo hai chiếc F-4 đang đuổi theo anh Bảy. Đến loạt đạn thứ 2, anh Bảy nhanh chóng kết liễu một chiếc F-4 và ngoặt gấp, thoát khỏi thế nguy hiểm.

        Sở chỉ huy ra lệnh cho biên đội rút khỏi khu vực chiến đấu. Trong khu vực còn nhiều F-4 đang quần đảo, chúng hốt hoảng chuồn thẳng vì thấy hai chiếc bị bắn rơi chỉ chưa đầy bốn phút. Biên đội bay thấp, từng đôi, yểm trợ nhau, trở về hạ cánh an toàn xuống sân bay Kiến An.

        Anh em thợ máy lập tức kéo máy bay sơ tán vào hầm trong chân núi. Người và các phương tiện phục vụ, xe dầu, xe kĩ thuật, nhanh chóng sơ tán khỏi sân bay. Ta vừa sơ tán xong, thì 20 máy bay A-4 và F-4 vào đánh sân bay dữ dội. Bom nổ trùm kín sân bay, và các nhà tạm bằng tre, tranh để trực chiến của thợ máy và phi công tan tành trong mây khói. Đường băng, đường lăn bị 9 quả bom ném trúng, mỗi hố bom đường kính độ 10m, sâu từ 5 đến 7m. Không quân Mĩ tung tin là đã tiêu diệt hết lực lượng vừa cho chúng bài học và đã loại từ sân bay Kiến An ra khỏi vòng chiến đấu ít nhất hàng tháng.

        Thành ủy và Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng huy động nhân dân các xã quanh khu vực sân bay Kiến Anh cùng lực lượng, bộ đội chữa gấp đường băng, đường lăn trong đêm 23 và suốt ngày 24 tháng 4. Rạng sáng ngày 25 tháng 4, những hố bom cuối cùng và lấp xong, Tiểu đoàn sân bay huy động mọi lực lượng ra quét dọn sân bay bảo đảm an toàn cho máy bay hoạt động. Trước lúc rạng sáng, 4 máy bay Míc-17 đã được các động chí thợ máy triển khai trực chiến trong các ụ đất ở đầu sân bay.

        Biên đội Bảy, Bôn, Hôn, Địch tiếp thu máy bay, sẵn sàng cất cánh đánh địch. Các máy bay được ngụy trang, che bằng các tàu lá dừa tưới rói. Tới gần cũng khó nhận ra là có máy bay đang trực chiến trong các ụ đất được đắp cao hàng 5-7m. 10 giờ, biên đội được lệnh chỉ huy sở vào cấp 1 và 10 giờ 4 phút, được lệnh cất cánh. Biên đội được dẫn dọc theo sông Văn Úc, độ cao 1.500 mét. Vừa tới cửa sông, biên đội gặp ngay một tốp địch rất động, khoảng hơn 20 chiếc A-4, mamg  bom lặc lè dưới cánh. Số 1 ra lệnh vứt thùng dầu phụ, lệnh số 3 và 4 đánh tốp sau. Còn anh, dẫn số 2 lao thẳng vào giữa tốp mang bom đông nhất. Bất ngờ gặp míc, bọn cường kích vứt bom, mạnh thằng nào thằng nấy nhốn nháo, ngoặt gấp ra biển. Lúc này ở thế chủ động, máy bay ta đã tăng lực, tốc độ hơn hẳn bọn A-4. Anh Hôn đuổi kịp một chiếc A-4 ra tới gần bờ biển, liền nổ một loạt dài. Máy bay địch bốc cháy. Nó cố lao ra biển nhưng không được. Tên địch kịp nhảy dù ngay ở cửa sông Văn Úc. Số 4 vừa yểm trợ số 3 công kích, thấy 1 chiếc A-4 phía dưới, ở góc tiếp cận thuận lợi, anh ép cần lái, bao kĩ vòng sáng ngắm vào chiếc A-4 siết cò liền 2 loạt, máy bay địch bốc cháy, Nguyễn Bá Địch reo to: “Nó cháy rồi!”. Niềm vui chiến thắng đã cổ vũ toàn biên đội tả xung hữu đột. Bọn F-8 tiêm kích, yểm hộ đội hình từ phía sau lao lên, không chiến với bốn chiếc Míc. Bôn yểm hộ số 1, thấy một chiếc F-8 vừa phóng tên lửa vào hai chiếc Míc phía trước, anh vội hô cho bạn cơ động, tránh được. Anh bám theo chiếc F-8 này. Nó vẫn mải mê rượt theo hai chiếc Míc-17 phía trước, không ngờ có Míc bám bheo phía sau. Bôn bắn liền một loạt, đạn rơi sau máy bay địch, anh chỉnh đường ngắm, bắn loạt thứ 2, trúng ngay buồng lái chiếc F-8. Máy bay địch nổ bùng trên không như bó đuốc, rơi xuống bờ biển. Trong khi đó anh Bảy chưa nổ súng đươc. Anh đang quần nhau với bốn chiếc F-8 của địch. Anh liên tục tránh tên lửa, chuẩng bị bắn thằng trước mắt, nhìn lại phía sau, thấy địch phóng tên ửa, anh lại phải tránh.

        Chỉ trong hai phút, bọn địch bị bắn rơi liền hai chiếc A-4 và một chiếc F-8. Đội hình bị Míc phá vỡ, chúng vội hạ độ cao, tan tác bay ra biển. Biên đội cơ động yểm hộ nhau, bay dọc sông Hồng, về Gia Lâm hạ cánh an toàn.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #7 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2016, 02:51:50 am »

        Chiều 25 tháng 4, đoàn đại biểu nhân dân thành phố Hải Phòng vào Kiến An thăm anh em không quân, động viên bộ đội, đã tặng một bài “Mẫu đơn” - món quàn đậm tình nghĩa quân dân. Giữa bom đạn, các đồng chí Chủ tịch, Bí thư thành phố Cảng và nhân dân không quản nguy nan, cùng anh em không quân và công binh chữa gấp sân bay. Chiến thắng của biên đội đầy bất ngờ đối với giặc Mĩ. Lòng dân là căn cứ vững chắc cho không quân ta, cất cánh là mang chiến thắng trở về.

        Từ trận này, Trung đoàn thêm kinh nghiệm đánh phục kích, trên các sân bay địch không ngờ ta có thể cất cánh, xuất hiện ở hướng và nơi địch bất ngờ. Đây là nhân tố quan trọng của Míc-17 - loại máy bay có tốc độ hạn chế và hỏa lực chỉ có súng đánh ở cự li gần.

        Thắng lợi này có công đóng góp của các cán bộ, chiến sĩ làm công tác phục vụ. Khi địch thả bom vào sân bay, có những anh em thợ máy lấy thân mình che cho phi công đang ngồi trong buồng lái. Các đồng chí kĩ sư, thợ máy ngày đêm chăm sóc máy bay chu đáo, bảo đảm kĩ thuật hoàn hảo, máy bay tốt, súng đạn tốt. Phi công hoàn toàn yên tâm khi bay trên các chiếc Míc-17 vì đã được anh em thợ máy chăm bẵm tận tình. Ra đa tốt, các sĩ quan tham mưu, dẫn đường thông minh làm việc hết sức mình, kịp thời dẫn dắt máy bay ta tiếp địch ở thế có lợi ngay từ đầu.

        Đội ngũ cán bộ Trung đoàn, đồng chí Nguyễn Phúc Trạch - Trung đoàn trưởng, Lê Oánh - Trung đoàn phó, là những cán bộ dày dạn kinh nghiệm trong chỉ huy. Anh em cất cánh lên, nghe giọng chỉ huy của các đồng chí là rất an tâm, tin tưởng. Dẫn đường cho các biên đội Míc-17 thường là các anh Chuyên, Khoa, Lâm. Chúng tôi hiểu nhau rất kĩ về tính tình cũng như đặc điểm bay. Chỉ cần nghe khẩu lệnh từ mặt đất, ở trên trời, chúng tôi đã hiểu tình thế khẩn trương đến mức nào và phải hành động ra sao. Chiến thắng kẻ thù là kết quả của một quá trình chuẩn bị công phu của cả Trung đoàn, của Bộ Tư lệnh Quân chủng. Đúng như Bác Hồ đã dạy, chiến công này là của chung. Chúng tôi - những phi công tiêm kích, mang cả ý chí của Trung đoàn, làm công việc cuối cùng là trực tiếp tiêu diệt địch.

        Anh Nguyễn Văn Bảy vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng đợt đầu tiên của các chiến sĩ không quân, vào ngày 1 tháng 1 năm 1967. Trong những trận không chiến ác liệt, anh đã bắn rơi bảy chiếc phản lực chiến đấu của Mĩ. Anh là người bắn rơi địch nhiều nhất trong số anh em phi công lái Míc-17. Tính tình anh giản dị, bao dung, ngay thẳng. Sau khi được phong Anh hùng, anh vẫn tiếp tục dẫn biên đội đi chiến đấu và hạ thêm được một chiếc F-4.

        Anh Nguyễn Bá Địch là giáo viên bay Míc-17 của Trường Không quân Việt Nam. Để các giáo viên có kinh nghiệm trong chiến đấu, nhà trường cử một số giáo viên Míc-17 về nước tham gia chiến đấu. Anh đã bắn rơi được ba máy bay Mĩ và hi sinh giữa năm 1966 trong một trận không chiến ác liệt ở vùng rừng núi Tây Bắc. Quê anh Địch ở Hải Phòng. Anh là một giáo viên tận tình với học trò, nghiêm khấc bộc trực, hăng hái trong mọi việc. Tuy người gầy lằng nhằng nhưng sức lực của anh rất dẻo dai. Con nhà nông mà. Thầy là tấm gương sáng của đồng đội và của học trò chúng tôi.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #8 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2016, 02:54:33 am »

        Tháng 4 và tháng 5, Trung đoàn liên tục xuất kích chiến đấu. Cường độ xuất kích của không quân ta 30-40 lần/chiếc. Có trận cả ba biên đội Míc-17 cùng gặp địch. Trong một ngày Trung đoàn bắn rơi năm chiếc máy bay Mĩ. Ta an toàn. Lớp phi công mới ở trường về lần lượt được tham gia chiến đấu và nhiều người đã bắn rơi được máy bay Mĩ, lập chiến công đầu tiên trong cuộc đời chiến đấu của mình. Nhiều trận, Míc-21 cùng phối hợp chiến đấu với Míc-17. Míc-21 chủ yếu trị bọn bay cao, còn ở tầng thấp, đã có Míc-17.

        Cũng trong ngày 25 tháng 4, biên đội Trung, Điệt, Tài, Thọ xuất kích lúc 11 giờ 30 phút, băn rơi một chiếc F-105 tại vùng trời tỉnh Hòa Bình. Biên đội về hạ cánh an toàn ở sân bay Hòa Lạc. Chiếc F-105 do anh Lê Quang Trung bắn rơi là chiếc thứ năm của giặc Mĩ bị người phi đội trưởng anh hùng bắn hạ.

        Đồng chí Điệt, quê ở Nghệ An, là một trong số 18 học viên đầu tiên bay Míc-17 của Trường Không quân Việt Nam học lái máy bay ở Trung Quốc, về nước chiến đấu. Anh cao lớn, tính tình vui vẻ, anh đã bắn rơi một chiếc F-4. Trong một lần không chiến ở phía tây Hà Nội, máy bay của anh bị tên lửa F-8 bắn trúng. Anh nhảy dù ở độ cao thấp, dù vửa mở chưa hết, đã tiếp đất ở ruộng mới cày. Cột sống bị chấn thương nặng, anh bị liệt hai chân. Hiện nay anh sống cùng với vợ con ở thành phố Vinh.

        Thầy Tài quê ở Quảng Nam, về nước chiến đấu vào đầu năm 1966. Thầy đã bắn rơi hai chiếc F-4 và đã hi sinh trong trận không chiến trên bầu trời Hà Bắc. Là một chiến sĩ tham gia đánh thực dân Pháp, trình độ văn hóa lúc đầu còn hạn chế, nhưng thầy đã miệt mài học tập, rèn luyện, trở thành phi công, thành giáo viên. Thầy luôn trân trọng học trò. Thầy hi sinh khi chưa lập gia đình. Năm ấy, thầy đã hơn 30 tuổi.

        Đồng chí Thọ là một trong những phi công trẻ mới bổ sung về đơn vị, đã bắn rơi chiếc AD-6 đầu tiên trên vùng trời Hòa Bình. Anh liên tục tham gia chiến đấu nhiều trận rất ác liệt. Có lần biên đội bốn chiếc do anh dẫn đầu đã quần nhau với vài chục chiếc máy bay Mĩ. Hiện nay, anh sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #9 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2016, 02:58:50 am »

        Lại nói tiếp những trận chiến đấu của Trung đoàn trong tháng 4 và tháng 5, phối hợp với Trung đoàn 921 và các lực lượng phòng không trong các chiến dịch bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng và các trục giao thông quan trọng.

        Sáng sớm ngày 24 tháng 4 năm 1967, biên đội Toại, Hải, Chao Kỉ trực cấp 1 ở sân bay Gia Lâm. Đến 8 giờ mà trời còn mù rất nặng, đặc biệt tầm nhìn hạn chế ở độ cao 2.000m trở xuống. 9 giờ, biên đội được lệnh chỉ huy sở Trung đoàn cho vào cấp 1. Phi công ngồi sẵn trong buồng lái, vô tuyến điện sẵn sàng đợi lệnh mở máy, cất cánh. 9 giờ 15 phút, có lệnh chỉ huy sở được phép mở máy và biên đội được quầy chủ động lăn ra cất cánh gấp. Sau 3 phút, biên đội 4 chiếc, từng đôi cất cánh, đôi nọ cách đôi kia 1.500m. Gió nhẹ, biên đội vòng về hướng Xuân Mai - Hòa Bình theo sự chỉ dẫn của dẫn đuờng sở chỉ huy. Các máy bay tiêm kích của ta bay đội hình bàn tay xòe, vừa lấy độ cao, chưa ra khỏi lớp mù 2.000m, tốc độ 700km/giờ. Trong biên đội xuất kích, thường chỉ bố trí một lái mới đi ở vị trí số 2. Thực hiện phương châm đánh chắc, 3 lái cũ, kèm 1 lái mới vào trận đầu. Tôi bán sát số 1 ở cự li 200m, góc nhìn 450 như quy định. Biên đội tiếp tục lấy độ cao. Chỉ huy sở định cho đánh vào tốp 3.500m, đang ở phía Hòa Bình.

        Bất ngờ, số 4, anh Kỉ báo cáo gấp với biên đội trưởng: “địch bên trái, phía dưới, rất đông”. Theo quy định, trong tình huống khẩn cấp, biên đội trưởng là người chỉ huy trên không, có quyền thay đổi ý định chiến đấu, khi thấy cần. Anh Toại ra lệnh: “Vứt thùng dầu phụ, tôi và số 2 đánh chặn tốp đầu, số 3, số 4 đánh tốp sau. Chú ý khéo va núi”. Chúng tôi vòng gấp xuống, giảm độ cao, lao thẳng vào tốp dẫn đầu đông nhất. Bọn địch phát hiện Míc-17 ở cự li cũng rất gần vì trời mù. Đội hình địch hơn 20 chiếc F-105, bay rất thấp, độ cao 200-500m, dọc sông Đáy một bên là vách núi đá vôi sừng sũng. Lợi dụng địa hình che khuất, bọn F-105 bay thấp, định tấn công vào Hà Nội., bất ngờ gặp biên đội chúng tôi, như những mãnh hổ lao vào chúng. Bọn cường kích F-105 liền vứt bom, tháo lui. Đội hình chúng ùn lại, ta và địch quần nhau trong một thung lũng. Tôi bám theo số 1, đang bám đuổi một tốp F-105 xuống độ cao khoảng 100m. Có những chiếc F-105  to như cái thuyền, bay chéo qua buồng lái của máy bay tôi. Tôi còn nhìn được thằng F-105 đội mũ bay trắng, chui duới bụng máy bay. Tôi báo với số 1: Có hai thằng F-105 đang bám sau, chú ý cơ động.

        Tôi ngoặt gấp, tránh được bọn chúng bám ở phía sau, cự li cách địch hơn một ngàn mét. Phía trước bên trái, ở cự li độ cao 2000m, có 2 chiếc F-105 đang lách núi, tăng lực, tốc độ máy bay của tôi còn khoảng hơn 800km/giờ ở độ cao 200m. Trong thung lũng, nhiều chiếc F-105 bay ngang, bay dọc, thật là một cuộc hỗn chiến. Tôi đã nhìn rõ được màu xám của chiếc F-105 bay phía sau.

        Cự li còn hơi xa, nhưng tôi quyết định nổ súng. Tôi bắn một loạt dài, hết 5 giây. Toàn bộ số đạn trên máy bay của tôi đã tuôn hết vào chiếc số 2 của địch. Máy bay địch bốc khói, lảo đỏa. Tôi vội kéo máy bay vượt qua đỉnh núi. Tí nữa thì va vào núi. Trời mù, đánh ở độ cao thấp, máy bay địch lách núi, có đồng chí đã va vào núi sau khi bắn rơi địch. Sau 2 phút, địch tháo chạy khỏi khu vực chiến đấu, chỉ huy sở hạ lệnh rời khỏi khu vực tác chiến.

        Lần đầu gặp địch, đuổi bắn địch chạy vào khu đồi núi điệp trùng, trời mù, la bàn trên máy bay chỉ không chuẩn vì máy bay trong đánh nhau đã cơ động quá mạnh. Tôi đánh vòng thật thấp, ở độ cao 50m, quanh một hòn núi nhỏ, để định hướng về. Trên đường về, vừa cơ động, vừa kiểm tra lại các số trong biên đội thấy còn thiếu số 2. Anh Chao đang bay phía sau, dầu liệu còn khá hơn được số 1 cử quay lại tìm tôi. Tôi vô cùng mừng rỡ khi thấy máy bay số 3 quay lại đón. Hai anh em bay về Gia Lâm hạ cánh sau đôi số 1 độ 5 đến 7 phút. Trong biên đội, lần này chỉ mình tôi nổ súng được.

        Vừa tắt máy, bước xuống thang máy bay, tôi đã thấy câu khẩu hiệu trên bảng - chào mừng chiến thắng của biên đội. Đồng chí chính trị viên ôm tôi. Anh em thợ máy bắt tay chúc mừng. Biên đội Toại - Hải - Chao - Kỉ đã cản phá được một đợt máy bay Mĩ định ném bom vào Hà Hội. Ý nghĩa lớn nhất của trận đánh là ở điểm ấy. Tao ngộ chiến, toàn biên đội đều chủ động tấn công. Dù tao ngộ, nhưng ta không để rơi vào thế bị động. Biên đội trưởng đã có quyết định đúng khi hạ lệnh đánh vào tốp F-105 bay thấp mà ra đa không bắt được.
Logged

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM