Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 08:18:38 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Nghệ thuật quân sự Việt Nam trong chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc  (Đọc 42001 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #90 vào lúc: 04 Tháng Năm, 2016, 06:13:08 pm »

        Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, sự đối chọi tình huống chiến lược của ta thật sắc sảo. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, ta đã sử dụng hai cụm lực lượng tác chiến ở hai đầu Huế-Đà Nẵng và Sài Gòn buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó, tạo điều kiện thuận lợi cho tập trung lực lượng đánh dứt điểm ở Tây Nguyên trước. Nghệ thuật dẫn dắt tình huống chiến lược của ta ở đây là căng quân địch ra hai đầu dể phá thế địch ở giữa, giam chân địch khiến chúng không còn lực lượng đi tăng viện, ứng cứu cho chiến trường Tây nguyên và cũng không thể ứng cứu lẫn nhau giữa các chiến trường. Phân tán địch về chiến lược là một nghệ thuật dàn thế về chiến lược, nhột nguyên tắc quan trọng trong chỉ đạo chiến lược, nhất là đối với một kẻ địch có số quân đông. Muốn thế phải có lực lượng tại chỗ mạnh kết hợp với lực lượng cơ động bố trí một cách thích hợp và có lợi nhất.
       
        Khi đòn Tây Nguyên sắp dứt điểm mà địch không có lực lượng dự bị chiến lược đến ứng cứu thì ta tiếp tục đánh đòn gối đầu ở Huế-Đà Nẵng. Đây là một phương thức ưu việt của nghệ thuật thực hành các đòn chiến lược. Đến khi ta giải phóng Tây Nguyên trong tình hình quân địch tháo chạy hỗn loạn thì lại xuất hiện một tình huống chiến lược mới. Ta đã bắt mạch quân địch rất trúng, thấy rõ sự suy sụp về thế, về lực và cả về tâm lý-tinh thần của chúng. Trong tình huống này, nghệ thuật đối chọi chiến lược của ta là mạnh dạn thay đổi quyết tâm, từ tiến công chiến lược phát triển thành tổng tiến công chiến lược, rút ngắn kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm xuống còn một năm. Đó là vì ta đã tạo được thời cơ, sớm nắm bắt được thời cơ và kiên quyết tranh thủ thời cơ chiến lược để giành thắng lợi lớn.
       
        Đòn chiến lược thứ hai đánh vào Huế-Đà Nẵng bằng phương thức gối đầu thành công thì lại nảy sinh một tình huống chiến lược mới. Sự đối chọi chiến lược của ta lúc này là quyết tâm giải phóng Sài Gòn và cả miền Nam trước mùa mưa năm 1975, thứ không phải kéo dài đến hết năm 1975.
       
        Để thực hiện quyết tâm mới, đối chọi tình huống chiến lược mới đó, ta phải thực hành đòn chiến lược thứ ba bằng phương thức kế tiếp. Đòn chiến lược thứ ba đánh vào Sài Gòn này có tính chất kế tiếp, nhưng chưa thực hiện được kế tiếp một cách liên tục. Do đó ta phải thực hành các hoạt động tác chiến đệm bằng những chiến dịch nhỏ và trận chiến đấu ở vòng ngoài Sài Gòn làm cho địch không kịp hồi phục, chấn chỉnh lại lực lượng, không kịp điều động lực lượng, tổ chức lại phòng ngự. Trong khi đó, ta cơ động lực lượng ở Tây Nguyên và ở Huế-Đà Nẵng và hướng Sài Gòn.
       
        Lúc này thời cơ lớn về chiến lược đang phát triển thuận lợi. Bộ chỉ huy ta quyết định sử dụng lực lượng tổng dự bị chiến lược. Nghệ thuật chỉ đạo chiến lược của ta rõ ràng hơn hẳn địch về mặt sử dụng lực lượng dự bị chiến lược. Về tổ chức, quân ngụy Sài Gòn có hai sư đoàn tổng dự bị chiến lược thành hai đơn vị, hai tổ chức. Ta thì có cả một quân đoàn tổng dự bị chiến lược, thành một đơn vị, một tổ chức chặt chẽ. Về sử dụng, quân ngụy đưa sư đoàn dù thuộc lực lượng tổng dự bị chiến lược ra làm một nhiệm vụ chiến thuật quan trọng, thực hành phản kích định chiếm lại cứ điểm cỡ tiểu đoàn là Thượng Đức. Còn sư đoàn lính thủy đánh bộ địch dùng để bảo vệ Huế. Đó là một sai lầm nghiêm trọng của chúng về sử dụng lực lượng dự bị chiến lược. Còn ta thì sử dụng một quân đoàn tập trung vào thời điểm quyết định về chiến lược. Lực lượng tổng dự bị chiến lược được sử dụng đúng với vị trí và ý nghĩa của nó: lực lượng đó lại nằm trong tay bộ chỉ huy tối cao, được sử dụng một cách rất chủ động, gặp tình huống chiến lược nào cũng đối chọi được.
       
        Trong chiến tranh, sự đối chọi quyết định nhất là tung lực lượng vào đánh đòn quyết chiến cuối cùng, chắc thắng để hoàn thành dứt điểm cuộc tổng tiến công chiến lược, giải quyết thắng lợi cuộc chiến tranh. Trong đòn chiến lược thứ ba này sự đối chọi tình huống chiến lược của ta là tập trung toàn bộ lực lượng kể cả lực lượng tổng dự bị chiến lược, bảo đảm có ưu thế sức mạch áp đảo quân địch để đánh đòn quyết định cuối cùng, nhanh chóng đè bẹp hoàn toàn quân địch, kết thúc chiến danh thắng lợi.
       
        Như chúng ta đã biết, trong chiến dịch Kontum xuân-hè 1972, ở đợt một ta đã dẫn dắt tình huống và đối chọi tình huống tốt. nên đã giành được thắng lợi ở Đắc Tô-Tân Cảnh. Sang đợt hai, vì không đối chọi tình huống tốt nên ta không đánh dứt điểm được thị xã Kontum.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #91 vào lúc: 04 Tháng Năm, 2016, 06:17:22 pm »

        Đến chiến dịch Tây Nguyên xuân 1975, nghệ thuật đối chọi tình huống của ta đã có bước phát triển rõ rệt. Sau khi cắt đứt các đường số 19, 21 và 14, ta thực hành tiến công vào quận lỵ Đức Lập và thị xã Buôn Ma Thuột. Ta phán đoán địch sẽ sử dụng sư đoàn bộ binh 23 (thiếu) đổ bộ bằng máy bay lên  thẳng xuống phía đông Buôn Ma Thuột trên đường số 21 để phản kích ứng cứu cho Buôn Ma Thuột và ngăn chặn quân ta tiến xuống Nha Trang. Từ nhận định đó, ta đã nhanh chóng cơ động sư đoàn bộ binh 10 vừa đánh Đức Lập xong về dừng chân ở phía bắc thị xã Buôn Ma Thuột. Đúng như ta dự kiến, sau khi mất Buôn Ma Thuột, địch liền cho sư đoàn bộ binh 23 đến ứng cứu. Sư đoàn 10 của ta đã được chuẩn bị sẵn sàng để đối phó với tình huống đó và đã xóa sổ sư đoàn bộ binh 23 của địch.
       
        Sự đối chọi tình huống sau khi ta đánh chiếm Buôn Ma Thuột diễn ra thuận lợi là do trước đó ta đã có một sự đối chọi tình huống khá phức tạp. Trước khi ta nổ súng đánh Buôn Ma Thuột, địch cho trung đoàn 45 thuộc sư đoàn 23 ra phía bắc Buôn Ma Thuột để thăm dò. Một sư đoàn của ta đã phải tránh né một tiểu đoàn của địch để giữ bí mật ý định chiến dịch. Để kéo trung đoàn 45 của địch trở lại Plâycu, ta cho một sư đoàn (thiếu) tiến công mạnh phía tây-nam thị xã Plâycu. Đòn đó tỏ ra rất có hiệu quả. Trung đoàn 45 của địch phải tức tốc quay về Plâycu để đối phó với đòn tiến công của ta. Sự đối chọi tình huống này đã thành công.
       
        Sự đối chọi tình huống thứ ba trong chiến dịch Tây Nguyên là tình huống quân địch rút chạy khỏi Plâycu và Kontum theo đường số 7. Tình huống này diễn ra ngoài dự kiến của ta. Nhưng ta đã đối chọi thành công nhờ có thế trận tốt. Sư đoàn bộ binh 320 của ta đứng chân ở một vị trí rất cơ động trên đường số 14 giữa Plâycu và Buôn Ma Thuột: từ đó, sư đoàn có thể tiến đánh ra các hướng Buôn Ma Thuột, Plâycu, Cheo Reo, đường số 7 hoặc đường số 21. Vì vậy, khi quân địch vừa rút chạy khỏi Plâycu theo đường số 7 thì sư đoàn 320 đã kịp thời cơ động ra hướng đó và chặn đánh được ngay.
       
        Trong cuộc chiến đấu chống quân Trung Quốc xârn lược ở biên giới phía bắc nước ta tháng 2 năm 1979, trên hướng Lạng Sơn ta đã dự kiến phải chiến đấu quyết liệt với địch ở khu vực cầu Khánh Khê-Văn Quán trên đường số 1B. Từ dự kiến đó, ta đã ngoan cường ngăn chặn, đánh bại các đợt tiến công của địch từ Đồng Đăng ra Khánh Khê. Không vượt qua được trận địa của ta, quân địch phải vòng theo hướng Khánh Khê. Biết rõ mũi vòng sau đó rất lợi hại, ta đã kịp thời điều động lực lượng đến đánh bại quân địch ở Khánh Khê, bẻ gãy mũi vòng sau nguy hiểm của địch. Ở Cao Bằng, phán đoán quân địch có thể đánh vào thị trấn Nguyên Bình và tiến công đánh chiếm mỏ Tĩnh Túc, ta đã kịp thời cơ động lực lượng của bộ đội biên phòng và bộ đội địa phương phối hợp cùng dân quân xã Minh Tâm đánh bại mũi tiến công đó, bảo vệ được Nguyên Bình và Tĩnh Túc. Dân quân xã Minh Tâm đã có công lớn đánh tiêu hao, tiêu diệt, quần lộn với địch, giam chân địch, tạo điều kiện cho các lực lượng khác đến phối hợp tiêu diệt chúng.
       
        Dẫn dắt tình huống và đối chọi tình huống là nhằm tạo ra thời cơ thuận lợi, nhất là thời cơ đánh trận then chối và then chốt quyết định. Nội dung chính, yêu cầu chính, cái đích chính của chỉ huy tình huống cũng là ở chỗ đó.
       
        Chiến dịch không có trận then chốt thì không thể thắng lợi được. Muốn đánh thắng trận then chốt thì phải tạo ra thời cơ. Thời cơ là kết quả của sự đấu tranh giải quyết tình huống giữa hai bên. Thời cơ chính là tình huống thuận lợi đã phát triển đến độ chín muồi, là mâu thuẫn phát triển đến độ cao và có điều kiện giải quyết. Thắng trận then chốt là mở được cái khóa để giải quyết mâu thuẫn, để chuyển hóa tình huống; làm chuyển biến cục diện trên chiến trường.
       
        Thời cơ trận then chốt xuất hiện là đã đạt được một phần quan trọng ý định và mục đích của chỉ huy tình huống, nhưng lúc này toàn bộ ý định tác chiến vẫn chưa phải đã thực hiện được. Chỉ huy tình huống phải tiếp tục xây dựng, dẫn dắt tình huống, tạo ra tình huống thuận lợi mới, bảo đảm chu đáo các điều kiện dể đánh trận then chốt thắng lợi nhanh chóng, giòn giã. Trận then chốt thắng lợi là tạo ra bước ngoặt có ý nghĩa quyết định cho chiến dịch. Trận then chốt thắng lợi càng lớn thì chiến dịch chuyển biến càng tốt.
       
        Trong tình huống đánh địch ở trong căn cứ của chúng, khi ta kéo được lực lượng cơ động của địch ra ngoài để tiêu hao, tiêu diệt và giam chân chúng ở đó thì ta đã có thời cơ để đánh vào cứ điểm, vào căn cứ của địch. Cũng có trường hợp kéo được lực lượng cơ động của địch ra ngoài rồi nhưng vẫn chưa có thời cơ để đánh vào căn cứ mà phai tiếp tục dẫn dắt tình huống, tạo thời cơ hoặc thúc đẩy cho thời cơ chín hơn nữa. Ví dụ có thể đánh tiếp một đòn để cắt đường giao thông, làm cho căn cứ của địch mà ta định tiến công bị vây hãm, cô lập hơn nữa. Như vậy khi ta tiến công, địch không còn khả năng phản kích, ứng cứu, quân địch bị tiến công sẽ nhanh chóng bị tiêu diệt hoặc buộc phải đầu hàng: thắng lợi của ta sẽ chắc chắn hơn, nhanh gọn hơn.
       
        Trong tình huống đánh dịch ở ngoài công sự, việc tiếp tục dẫn dắt tình huống, tạo thời cơ có thể là đưa địch đi xa căn cứ của chúng hơn nữa, vào những nơi địa hình hiểm trở, làm cho địch hoàn toàn bị cô lập, các trận địa pháo cố định không thể chi viện đắc lực, xe tăng của địch hoạt động khó khăn, địch không thể đưa quân đến tăng viện ứng cứu hoặc nếu có thì ta cũng dễ đối phó và có khả năng tiêu diệt.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #92 vào lúc: 04 Tháng Năm, 2016, 06:25:41 pm »


*

*      *
       
        Trong chiến tranh tình huống diễn biến, chuyển hóa rất nhanh chóng, phức tạp, muôn hình muôn vẻ. Tình huống sinh ra tình huống, thời cơ đẻ ra thời cơ. Vì vậy, người chỉ huy phải rất linh hoạt, sáng tạo để điều khiển, dẫn dắt tình huống, dẫn dắt thời cơ. Tình huống được dẫn dắt một cách khôn khéo thì thời cơ càng chín muồi hơn và tác chiến càng giành được thắng lợi lớn hơn.
       
        Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta cũng để lại nhiều kinh nghiệm quý về chỉ huy, xử trí tình huống. Ví dụ, trong cuộc kháng chiến chống Minh,  trước tình huống viện binh cua nhà Minh kéo sang, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã chủ trương tập trung lực lượng tiêu diệt đạo quân Liễu Thăng, tạo điều kiện bức Vương Thông phải hàng. Kết hợp với đòn quân sự, hai ông chủ trương dùng đòn chính trị-ngoại giao để kết thúc thắng lợi chiến tranh. Trong thư gửi Vương Thông lúc đó đang bị vây hãm ở Đông Quan, với lý lẽ sắc bén và đanh thép, Nguyễn Trãi đã tính hộ kẻ địch "sáu điều phải thua"1. Đòn tiến công chính trị đó đã phát huy mạnh mẽ kết quả của chiến thắng quân sự, và có sức mạnh không nhỏ góp phần tạo nên thế uy hiếp và áp đảo Vương Thông, buộc y phải chịu thua xin lui binh, ta không cần tốn thêm xương máu để công phá thành Đông Quan mà vẫn đạt tới toàn thắng.
       
        Chỉ huy tình huống là một khâu rất quan trọng, có ý nghĩa then chốt, quyết định trong chỉ huy tác chiến cả trong chiến đấu, chiến dịch và chiến lược. Đó là một công việc khó khăn, phức tạp, phải qua nhiều bước như dự kiến, xây dựng, dẫn dắt, hạn chế, gạn lọc, xử trí, đối chọi tình huống; phải làm nhiều việc như nắm tình hình, phán đoán tình huống; xác định quyết tâm đặt mưu kế, lập thế trận, tổ chức sử dụng lực lượng, tiến hành các biện pháp giải quyết từng tình huống để giành thắng lợi, v.v.
       
        Mỗi bước, mỗi việc cũng như cả quá trình chỉ huy tình huống đều đòi hỏi ở người chỉ huy một ý chí và năng lực rất cao. Quán triệt đường lối quân sự của Đảng, ý định của cấp trên, người chỉ huy phải có lập trường đúng đắn, ý chí chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, quan điểm và phương pháp xem xét khoa học, năng lực tổ chức giỏi. Trong bất cứ tình huống nào, dù khó khăn đến mấy, người chỉ huy cũng phải làm chủ tình huống, chủ động, bình tĩnh, dám chịu trách nhiệm, kiên quyết và quả đoán, năng động và sáng tạo, nhạy bén và khẩn trương, thận trọng và chín chắn, kiên trì nguyên tắc nhưng xử trí linh hoạt, nắm vững nghệ thuật quân sự, kỹ thuật quân sự cần thiết, khéo tổ chức, biết phát huy tới mức cao nhất sức mạnh tổng hợp của cơ quan và đơn vị, của các lực lượng…
       
        Vì vậy, người chỉ huy phải luôn luôn rèn luyện bản lĩnh, nắm vững lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về chiến tranh và quân đội, quán triệt đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng, tổng kết những kinh nghiệm của bản thân và học hỏi những kinh nghiệm chiến đấu rất phong phú qua các cuộc chiến tranh, các trận chiến đấu ở trong nước và trên thế giới, cả xưa và nay, để không ngừng nâng cao trình độ và nghệ thuật chỉ huy của mình.
       
-------------------
1. Nguyễn Trãi. Quân trung từ mệnh tập, Nhà xuất bản Sử học, Hà Nội, 1961, tr. 49-50.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #93 vào lúc: 04 Tháng Năm, 2016, 06:36:20 pm »

 
MƯU KẾ CHIẾN TRANH
VÀ CHIẾN THẮNG BIÊN GIỚI THU-ĐÔNG 1950
       
        Chiến tranh là một quá trình đọ sức quyết liệt về lực lượng và đấu tranh gay go về trí tuệ giữa hai bên tham chiến. Hành động của mỗi bên đều chịu sự chi phối của những quy luật chung của chiến tranh, của đấu tranh vũ trang, cũng như những quy luật riêng của từng kiểu loại chiến tranh và quy luật đặc thù của từng cuộc chiến tranh cụ thể. Người nào hành động phù hợp với quy luật thì sẽ chiến thắng, kẻ đi ngược lại quy luật thì phải hứng chịu thất bại. Nói một cách khái quát, trong chiến tranh, ai mạnh hơn, thông minh hơn sẽ thắng. Giỏi hành động bằng mưu kế là một trong những biểu hiện của sự thông minh khôn khéo trong chiến tranh.
        
        Mưu kế chiến tranh là những phương sách, biện pháp, thủ đoạn được dùng trong cuộc chiến nhằm đánh lừa đối phương, điều khiển hành động của đối phương theo ý định của mình, đưa đối phương vào thế trận mình đã bày sẵn, từ đó buộc đối phượng phải phạm sai lầm. tạo yếu tố bất ngờ để đánh bại đối phương, giành thắng lợi về mình. Mưu kế thường cho phép dùng lực lượng ít hơn mà chiến thắng được đối thủ có lực lượng đông hơn, thậm chí cả trong những tình thế hiểm nghèo. Cái tinh vi trong hành động bằng mưu kế là đạt tới thành công bằng cách làm cho đối phương tự họ tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào quá trình hủy diệt chính bản thân họ.
        
        Trong lịch sử quân sự thế giới, ngay từ thời cổ đại đã có nhiều nhà quân sự nhờ giỏi sử dụng mưu kế mà đánh thắng địch thủ có lực lượng đông hơn mình. Chiến công của Ê-pa-mi-nông-đát trong trận Lóc-to-ra (năm 371 trước Công nguyên) cũng như thắng lợi của Ha-ni-ban trong trận Can (năm 216 trước công nguyên) là những ví dụ cụ thể1.
        
        Trong lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã phải nhiều lần đánh trả những kẻ thù xâm lược có quân đông hơn, có tiềm lực kinh tế và quân sự lớn hơn mình gấp nhiều lần. Trong các cuộc chiến tranh không cân sức đó, để lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn, nhân dân ta đã phát huy cao độ trí thông minh, óc sáng tạo để vận dụng mưu kế trong đánh giặc, và đã đạt được những thành công xuất sắc. Chỉ cần nhắc lại trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng đầu năm 939: Với việc khôn khéo lợi dụng quy luật thủy triều lên xuống để xây dựng bãi cọc ngầm giữa lòng sông Bạch Đằng với việc bố trí trận địa mai phục thích hợp, dùng mưu kế nhử địch vào rồi bất ngờ phản kích quật lại chúng, Ngô Quyền đã chỉ huy những đội thuyền chiến nhỏ hơn và ít hơn địch mà hủy diệt được phần lớn hạm đội Nam Hán khi nó vừa từ biển xâm nhập vào nước ta.
        
        Trong Binh thư yếu lược, một tác phẩm quân sự nổi tiếng của dân tộc ta, có đoạn nói về dùng mưu kế đánh giặc như sau: "Điều cốt yếu để đánh được địch không phải chỉ dùng sức mạnh để chống, còn phải dùng thuật để lừa. Hoặc dùng cách lừa của ta mà lừa nó; hoặc nhân cách lừa của nó mà lừa nó; lừa bằng tình, lừa bằng lợi, lừa bằng vụng, lừa bằng khôn, cũng lừa bằng sự lẫn lộn hư thực, lấy sự lừa của nó để làm cho nó bị lừa, nó lừa mà ta thì biết. Cho nên người giỏi việc binh lừa người mà không bị người lừa"2. Về thực tiễn cũng như lý luận, mưu kế chiến tranh đã sớm trở thành một nội dung quan trọng của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong lĩnh vực chiến lược và chiến thuật, và ngày nay cả trong lĩnh vực chiến dịch nữa.
        
        Lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng, chiến tranh giữ nước của nhân dân ta trong thời đại lịch sử mới, Đảng ta đã dựa trên cơ sở học thuyết Mác-Lênin về chiến tranh và quân đội, đúc kết kinh nghiệm chiến đấu phong phú của quân và dân ta, kế thừa truyền thống quân sự quý báu của tổ tiên, tham khảo kinh nghiệm quân sự trên thế giới để xác định một tổng thể các nguyên tắc của nghệ thuật quân sự nhằm chỉ đạo mọi hành động tác chiến của lực lượng vũ trang. "Mưu trí, linh hoạt, bí mật, bất ngờ" là một trong những nguyên tắc chỉ đạo đó. Nguyên tắc này mở ra một phạm vi rộng lớn cho cán bộ chiến sĩ ta ra sức sáng tạo, tìm tòi và sử dụng nhiều mưu kế hay, nhiều cách đánh thiên biến vạn hóa để giành thắng lợi trên chiến trường.
        
        Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhiều lần chỉ rõ phải biết dùng mưu kế lừa địch trong chiến tranh. Trong tác phẩm Cách đánh du kích, Người viết: “Lừa gạt quân giặc. Làm cho chúng mắt mù tai điếc, hoặc truyền đến cho chúng những tin tức sai lầm để lừa gạt chúng", "... lúc nhằm đánh vào chỗ nào, mình phải lừa quân thù không chú ý phòng bị chỗ ấy mà lại phòng bị chỗ khác, nghĩa là náo phía đông, đánh phía tây", "giả làm quân thù, kéo vào thành rồi đánh úp", "... tìm cách dụ quân giặc, đánh lừa quân giặc vào bẫy để phục kích”3, v.v.

        Nghe theo lời dạy của Người, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, các lực lượng vũ trang ta đã thường xuyên vận dụng mưu kế chiến tranh, với những hình thức, biện pháp rất linh hoạt và có hiệu quả như: nghi binh bằng cách chuẩn bị và thực hành tác chiến hay cơ động bộ đội trên hướng phụ để đánh lạc hướng địch; tung tin giả dùng phương tiện kỹ thuật để nghi binh, lừa địch; chăng gài cạm bẫy và dụ địch vào đó; cải trang đánh địch; làm trận địa giả, vũ khí giả, v.v. Những mưu kế đó được cán bộ chiến sĩ ta sử dụng một cách thông minh khéo léo trên cơ sở tính toán, cân nhắc nhiều mặt: nhiệm vụ chiến dịch chiến đấu; khả năng của ta; mạnh, yếu của địch; địa hình thời tiết ở khu vực tác chiến, v.v.
       
        Trong các mưu kế nói trên, hành động nghi binh đánh lạc hướng địch đã được bộ chỉ huy các cấp của ta vận dụng rộng rãi và có hiệu quả trong nhiều chiến dịch và trận chiến đấu. Nó nhằm thu hút lực lượng và sự cố gắng của địch vào một hoặc một số hướng khác với hướng tác chiến chủ yếu của ta. Trong mọi trường hợp, nó đều nhằm phân tán, dàn mỏng lực lượng địch, nhất là lực lượng cơ động chiến lược, tạo điều kiện thuận lợi cho ta tập trung lực lượng chủ yếu giáng đòn quyết định trên chiến trường lựa chọn. Chiến dịch Biên giới là một ví dụ sinh động về vấn đề này.

--------------
1. Trong trận Lớc-tơ-ra (Hy Lạp) ngày 5 tháng 8 năm 371 trước công nguyên, 7.500 quân Thi-vơ do Ê-pa-mi-nông-đát chỉ huy đã đánh thắng 11.000 quân Xpác-tơ do Clê-ôm-brốt chỉ huy.
        Trong trận Can (I-ta-li-a) ngày 2 tháng 8 năm 216 trước công nguyên, 50.000 quân Các-ta-giơ do Ha-ni-ban chỉ huy đã đánh tan 69.000 quân La Mã do Va-rôn chỉ huy.
        
2. Binh thư yếu lược, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tr. 183.
        
3. Hồ Chí Minh. Những bài viết và nói về quân sự, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985, t. 1, tr.138-154.

Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #94 vào lúc: 04 Tháng Năm, 2016, 06:47:19 pm »


*

*       *
       
        Tháng 6 năm 1950, Trung ương Đảng ta quyết định mở chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng một vùng đất đai biên giới phía bắc từ Cao Bằng đến Thất Khê, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc nối thông đường liên lạc quốc tế với các nước xã hội chủ nghĩa. Trong chiến cuộc thu đông 1950, Đông Bắc được chọn là hướng chính, Tây Bắc là hướng nghi binh; các chiến trường khác đều tăng cường hoạt động để phối hợp với chiến trường chính.
       
        Trong “Huấn thị về chiến dịch Cao-Bắc-Lạng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Để thắng trận này, các chiến sĩ ở mặt trận ấy phải kiên quyết dũng cảm trăm phần trăm, các chiến sĩ các khu, các mặt trận khác phải ra sức thi đua giết giặc, lập công để hết sức tiêu diệt địch, khiển chế địch, không cho phép chúng tiếp viện mặt trận Cao-Bắc-Lạng”1. Huấn thị của Người đã xác định một trong những nguyên tắc cơ bản của nghệ thuật quân sự là: phối hợp nỗ lực của các hướng và chiến trường thứ yếu với nỗ lực của tập đoàn chủ yếu hành động trên hướng chủ yếu. Tư tưởng chủ đạo của Người là: nắm vững quyền chủ động tác chiến, phân tán giam chân lực lượng địch, buộc địch phải đánh theo ý định của ta mà không được tự do hành động, nhằm mục đích "không cho phép chúng tiếp viện mặt trận Cao-Bắc-Lạng". Chỉ thị đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt mọi kế hoạch tác chiến của ta trong thu-đông 1950.
       
        Đến cuối mùa hè năm 1950, lực lượng dự bị chiến lược trong tay bộ tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương có 10-12 tiểu đoàn cơ động, trong đó vai trò ứng chiến nhanh chóng trên các chiến trường được ủy thác cho 7 tiểu đoàn dù. Lực lượng dự bị chiến lược đó phần lớn được tập trung ở Bắc Bộ, chỉ có 4 tiểu đoàn dù được bố trí ở Nam Bộ và Trung Trung Bộ. Tổng chỉ huy Pháp dự tính khi cần thiết có thể điều động 4 tiểu đoàn dù đó cùng với 2-3 tiểu đoàn bộ binh từ miền nam Đông Dương ra tăng viện cho chiến trường phía bắc.
       
        Nhằm thực hiện mục tiêu đánh lạc hướng quân địch, phân tán lực lượng dự bị chiến lược của địch để chúng không thể tiếp viện lớn cho mặt trận Cao-Bắc-Lạng, mưu kế của Bộ Tổng tư lệnh ta là: trước khi mở chiến dịch trên hướng chủ yếu ở mặt trận Đông Bắc, cần tiến hành một số cuộc tiến công và hoạt động nghi binh trên một số hướng khác ở chiến trường miền bắc. đồng thời đẩy mạnh hoạt động đánh địch của lực lượng vũ trang ta ở Trung Bộ và Nam Bộ. Bằng cách đó ta sẽ buộc đối phương phải tung lực lượng dự bị chiến lược, nhất là các tiểu đoàn dù, ra đối phó ở các hướng thứ yếu, không thể tập trung lực lượng tiếp viện cho mặt trận chính.
       
        Đến giữa tháng 8 năm 1950 tình báo Pháp xác định lực lượng của đối phương có hai khối lớn bộ đội chủ lực chính quy: khối thứ nhất và là khối chủ yếu có 6-7 trung đoàn bộ binh, trong đó có sư đoàn 308 thiện chiến, đứng chân ở mặt trận Đông Bắc; khối thứ hai và là khối quan trọng, có 7-8 trung đoàn bộ binh, trong đó có sư đoàn 304 mới thành lập bố trí trên khu vực Chợ Bến-Thanh Hóa. Ngoài ra còn có một cụm thứ yếu gồm 2 trung đoàn bộ binh hoạt động ở mặt trận Tây Bắc. Lúc đầu địch phán đoán ta có ý định mở cuộc tiến công chủ yếu vào Cao Bằng. Bộ tổng chỉ huy Pháp tuy có lo ngại trước sự lớn mạnh của bộ đội chủ lực ta, nhưng họ tin rằng ưu thế quân sự vẫn thuộc về quân đội Pháp.
       
        Thực hiện kế hoạch do Rơ-ve, tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp, đề ra; bộ tổng chỉ huy địch ở Đông Dương đã có ý định rút quân khỏi Cao Bằng để tránh thế phân tán lực lượng, đồng thời tập trung lực lượng mở cuộc tiến công đánh chiếm Thái Nguyên. Lạng Sơn và Thái Nguyên sẽ trở thành hai trụ cột chính trong trận tuyến phòng ngự chiến lược mới của thực dân Pháp. Nhưng kế hoạch của họ chưa kịp triển khai thực hiện thì các lực lượng vũ trang ta đã phát huy quyền chủ động tác chiến, tiến hành một loạt cuộc tiến công.
       
        Từ cuối tháng 8 đến đầu tháng 9 năm 1950, phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Pa-thét Lào đang tiến công thắng lợi dọc sông Mã trên đoạn Xiềng Khọ-Xốp Hào, hai tiểu đoàn của ta vây hãm địch ở Sầm Tợ và phát triển tiến công trong vùng. Liên quân Lào-Việt tạo nên một sức ép mạnh đối với toàn khu vực Sầm Nưa. Ngày 4 tháng 9, tổng chỉ huy quân Pháp phải thả một tiểu đoàn dù xuống Sầm Nưa.

--------------
1. Hồ Chí Minh. Những bài viết và nói về quân sự, t. 1 , tr. 433.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #95 vào lúc: 04 Tháng Năm, 2016, 06:55:28 pm »

           Từ tháng 8 năm 1950, trên mặt trận Tây Bắc ta tiến hành một chiến dịch nghi binh rầm rộ bằng cách; tăng cường trinh sát, địch vận ở khu vực Lào Cai; tổ chức diễn tập lớn ở Yên Bình xã với các đơn vị mang mật hiệu của sư đoàn 308; dùng hàng trăm thuyền bè và nhiều đoàn dân công vận chuyển lương thực đạn dược lên hướng Lào Cai... Trước tình hình đó, bộ Tổng chỉ huy Pháp lại phán đoán có thể cuộc tiến công chính của ta trong thu-đông đã chuyển sang hướng Lào Cai, Tây Bắc. Ngày 23 tháng 8, họ mở cuộc hành binh "cái kén" cho nhiều tiểu đoàn thọc ra vùng tự do của ta ở Phú Thọ để thăm dò và phá kế hoạch tiến công thu đông của ta, nhưng bị bộ đội dịa phương và dân quân đánh thiệt hại hàng trăm tên, đến ngày 3 tháng 9, quân địch phải vội vã rút lui.
       
        Ngày 12 tháng 9 năm 1950, bốn ngày trước khi chiến dịch Biên giới mở màn, một trung đoàn chủ lực của ta cùng với lực lượng vũ trang địa phương nổ súng tiến công vào Bắc Hà, một cứ điểm quan trọng của địch ở phía đông Lào Cai, khiến cho bộ Tổng chỉ huy Pháp càng tin chắc rằng phán đoán của họ là đúng.
       
        Đúng vào lúc địch bất ngờ nhất, sáng ngày 16 tháng 9 năm 1950, ta tiến công cứ điểm Đông Khê. đánh trận mở màn chiến dịch. Đánh Đông Khê là đánh vào nơi địch tương đối yếu nhưng lại là vị trí rất quan trọng trên tuyến Cao Bằng-Lạng Sơn. Mất Đông Khê, địch buộc phải cho quân đi ứng cứu, tạo cho ta thời cơ thuận lợi tiêu diệt chúng trong tác chiến vận động.
       
        Trước tình huống đó, bộ tổng chỉ huy quân Pháp quyết định tổ chức lực lượng ứng cứu cho Đông Khê đồng thời rút quân khỏi Cao Bằng để tránh bị tiêu diệt. Ngay chiều ngày 10 tháng 9 trong khi một tiểu đoàn dù được lệnh chuẩn bị nhảy xuống Đông Khê thì tại Lạng Sơn, một binh đoàn tác chiến cũng được thành lập để tiến lên Thất khê. Cả hai lực lượng này đều có nhiệm vụ ứng cứu cho Đông Khê và yểm trợ cho quân ở Cao Bằng rút về. Nhưng sáng ngày 18, địch chưa kịp hành động thì ta đã hoàn thành việc tiêu diệt cứ điểm Đông Khê. Bộ tổng chỉ huy Pháp đành phải ném tiểu đoàn dù xuống Thất Khê, như một thành phần của binh đoàn tác chiến mới thành lập. Binh đoàn này gồm 4 tiểu đoàn Âu-Phi do viên trung tá Lơ Pa-giơ chỉ huy, có nhiệm vụ tiến lên Đông Khê để đón cụm quân ở Cao Bằng được lệnh rút về. Ngày 21 tháng 9 một tiểu đoàn bộ binh được không vận đến Cao Bằng để tăng thêm lực lượng cho cụm quân ở đây tổ chức rút lui.
       
        Trong lúc này, ở mặt trận Tây Bắc, ta đánh tan địch ở Bắc Hà, đuổi đánh chúng trên đường tháo chạy về Xi Ma Cai; đồng thời bao vây uy hiếp mạnh thị xã Lào Cai. Sợ Lào Cai bị tiêu diệt, địch vội vã điều từ Sài Gòn ra một tiểu đoàn dù để ném xuống thị xã này.
       
        Cũng vào dịp này, tại phía nam đồng bằng Bắc Bộ, lực lượng vũ trang ta hoạt động mạnh hẳn lên, tiến công hàng loạt vị trí địch, đánh phá giao thông, diệt tề trừ gian. Bộ chỉ huy Pháp phải cấp tốc đưa đến Phát Diệm một tiểu đoàn dù để củng cố phòng ngự và ngăn chặn sự tan rã của khối ngụy binh ở khu vực này.
       
        Ở Trung Trung Bộ lực lượng vũ trang ta cũng hoạt động mạnh và đều khắp. Tiểu đoàn dù, lực lượng cơ động độc nhất của địch tại chiến trường này, đã bị xé lẻ ra thành nhiều mảnh để ném vào Bình-Trị-Thiên, Liên khu V và cả vào rừng núi Tây Nguyên nữa. Nó đã bị tiêu hao nặng và không còn khả năng tập trung lại để tiếp ứng cho chiến trường chính.
       
        Từ tháng 5 đến giữa tháng 9 năm 1950, chiến trường Nam Bộ tương đối yên tĩnh. Đột nhiên, bước vào tuần lễ cuối của tháng 9, các lực lượng vũ trang ta chuyển sang tiến công và hoạt động rất mạnh, thu hút về phía mình các tiểu đoàn cơ động của địch trên chiến trường này. Trước sức uy hiếp mạnh của bộ đội chủ lực ta trên tuyến Bến Cát-Thủ Dầu Một, bộ chỉ huy quân Pháp buộc phải tung vào Dầu Tiếng một tiểu đoàn dù để bám giữ lấy vùng cao su quan trọng đó.
       
        Hoạt động tiến công mạnh mẽ của các lực lượng vũ trang ta trên khắp các chiến trường từ nam đến bắc đã phân tán, căng kéo địch đến cực độ và đặt bộ tổng chỉ huy Pháp trước một tình thế gay cấn. Trong tay họ chỉ còn một tiểu đoàn dù ở Sài Gòn và 2 tiểu đoàn bộ binh ở Bắc Bộ. Mà tình hình lúc này ở Lào Cai, Sầm Nưa, Phát Diệm, Thừa Thiên, Dầu Tiếng không cho phép rút về bất cứ một tiểu đoàn dự bị cơ động nào.
       
        Tuy đã phải vứt bỏ ảo tưởng đánh chiếm Thái Nguyên để xây dựng thế trận phòng ngự chiến lược mới, nhưng trước tình hình nguy ngập ở biên giới Đông Bắc, tổng chỉ huy quân Pháp cũng phải cố vét lực lượng dự bị còn lại tổ chức một cuộc tiến công lên thị xã Thái Nguyên, với hy vọng kéo chủ lực ta về giao chiến ở đây để đỡ đòn cho biên giới, lực lượng này gồm 1 tiểu đoàn dù điều động từ Sài Gòn ra, 2 tiểu đoàn bộ binh thuộc lực lượng tổng dự bị và 2 tiểu đoàn bộ binh khác rút từ tay bộ chỉ huy Pháp tại chiến trường Bắc Bộ.Ngày 29 tháng 9, các đơn vị bộ binh theo đường bộ và đường sông tiến lên Thái Nguyên. Ngày 1 tháng 10, tiểu đoàn dù cũng được thả xuống thị xã này. Cùng ngày, trên mặt trận Đông Bắc, binh đoàn Lơ Pa-giơ từ Thất Khê tiến đến phía nam Đông Khê thì bị chặn đứng. Ngày 3 tháng 10, binh đoàn Sác-Tông cũng vội vã rút khỏi Cao Bằng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #96 vào lúc: 04 Tháng Năm, 2016, 07:04:13 pm »

        Đây là thời điểm hết sức quan trọng của cuộc chiến. Sau chiến thắng Đông Khê, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: có thể địch sẽ cố chiếm lại Đông Khê để giữ vững Cao Bằng, hoặc phải đánh lên để đón quân ở Cao Bằng rút về. Người vạch ra mưu kế tác chiến của ta là "nhử thú dữ vào tròng" để "khép vòng lưới thép” tiêu diệt chúng.
       
        Đúng vào lúc bộ tổng chỉ huy Pháp sử dụng hết lực lượng dự bị chiến lược của họ thì Bộ Tổng tư lệnh của ta quyết định tập trung lực lượng chủ lực ở mặt trận Đông Bắc tiêu diệt hai binh đoàn Lơ Pa-giơ và Sác-tông tại khu vực Đông Khê. Cụm quân địch ở Thái Nguyên thì giao cho các lực lượng vũ trang tại chỗ bám đánh, tiêu hao và giam chân chúng tại đấy.
       
        Cho đến lúc đó, các tướng tá Pháp dựa theo "kinh nghiệm” của họ và với căn bệnh cố hữu "chủ quan, khinh địch", vẫn tin rằng tập đoàn chủ lực của đối phương chưa có khả năng tiến hành tác chiến chính quy trên quy mô lớn, và nếu đối phương có "liều lĩnh" đụng độ với quân viễn chinh Pháp trong một cuộc chiến tranh vận động chính quy thì 8 tiểu đoàn "thiện chiến” của Pháp ở khu vực biên giới sẽ thừa sức đánh bại từ 15 đến 18 tiểu đoàn chủ lực của Việt Nam. Trên phạm vi chiến lược, tổng chỉ huy quân Pháp cho rằng mình đã phân phối đúng đắn lực lượng và phương tiện cho các viên chỉ huy chiến trường để họ đủ sức đối phó với các hành động của đối phương. Tuy vậy, để được yên tâm hơn, sau khi suy tính, cân nhắc kỹ, ông ta quyết định rút tiểu đoàn dù từ Sầm Nưa về Hà Nội. Tiểu đoàn này đã bị kiệt sức sau một tháng bị các lực lượng vũ trang cách mạng Lào-Việt bám đánh liên tục.
       
        Tình huống đã diễn ra đúng như mưu kế tác chiến của ta. Từ ngày 5 đến ngày 7 tháng 10 năm 1950, tại dãy núi Cốc Xá và điểm cao 477 trong khu vực Đông Khê, các đơn vị chủ lực của ta đã giáng đòn quyết định, vận động tiến công tiêu diệt hoàn toàn hai binh đoàn Lơ Pa-giơ và Sác-tông gồm 8 tiểu đoàn, trong đó có 5 tiểu đoàn cơ động thiện chiến vào bậc nhất của địch, với toàn bộ ban tham mưu của chúng.
       
        Chiều ngày 8 tháng 10 năm 1950, trước sự kêu cứu của quan quân địch tại các vị trí còn lại trên biên giới Đông Bắc, tổng chỉ huy quân Pháp đành ném nốt xuống Thất Khê tiểu đoàn dù cuối cùng vừa điều từ Sầm Nưa về và mới chỉ được nghỉ ngơi có vài ngày chưa kịp lại sức. Song trước thế tiến công và sức ép mạnh của quân ta, từ ngày 10 đến ngày 23 tháng 10, quân địch lần lượt rút chạy khỏi Thất Khê, Na Sầm, Đồng Đăng, Lạng Sơn đến Đình Lập, An Châu về sát Tiên Yên.
       
        Ở mặt trận Thái Nguyên, quân địch bị đánh thiệt hại nặng, ngày 10 tháng 10 phải tháo chạy khỏi thị xã. Trên mặt trận Tây Bắc, trước sức tiến công của ta, ngày 2 tháng 11 địch buộc phải rút khỏi Lào Cai, sau đó liên tiếp bị đánh bật khỏi Sa Pa, Phong Thổ. Ngày 6 tháng 11 chúng cũng buộc phải rút khỏi thị xã Hòa Bình.
       
        Cuộc tiến công chiến lược thu-đông 1950 của ta, trong đó có chiến dịch Biên giới, đã giành được thắng lợi hết sức to lớn. Thắng lợi đó như Chủ tịch Hồ Chí Linh đã chỉ rõ, là do: "Trung ương lãnh đạo sáng suốt. Các cấp địa phương chỉ đạo đúng đắn. Các cơ quan quân, dân, chính đoàn kết, phối hợp chặt chẽ, hành động nhất trí”; "Chiến sĩ ta rất hăng hái, anh dũng..."; "Nhân dân ta rất tốt... nồng nàn yêu nước, hăng hái hy sinh"; “Giặc chủ quan khinh địch, không ngờ ta mạnh như vậy và tiến bộ nhanh như vậy, nên chúng hớ hênh không đề phòng cẩn thận"1.
       
        Bộ tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp đã bị hoàn toàn bất ngờ về ý đồ chiến lược của ta, về quy mô rộng lớn của cuộc tiến công, về sức mạnh và khả năng tác chiến của bộ đội chủ lực ta trên chiến trường chính. Đặc biệt họ đã hoàn toàn bất ngờ trước diễn biến mau lẹ của trận vận động tiến công của ta, chỉ trong 4 ngày, từ ngày 5 đến ngày 7 tháng 10 năm 1950, đã tiêu diệt gọn hai binh đoàn Âu-Phi thiện chiến, đẩy họ đến thảm bại không lường trước được. Nắm trong tay những lực lượng lớn, được trang bị vũ khí tốt hơn hẳn đối phương, có khả năng cơ động cao, nhưng bộ tổng chỉ huy Pháp đành đóng vai những "khán giả" bất lực, tận mắt chứng kiến các binh đoàn thiện chiến nhất của mình bị diệt vong mà không có cách gì để cứu vãn.
       
        Thực ra họ còn có thể làm gì được nữa khi ngay từ đầu đã mắc phải mưu kế của đối phương, đã hành động theo sự điều khiển của Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, lần lượt tung hết các đơn vị dự bị chiến lược ra khắp các chiến trường Đông Dương, trước khi diễn ra những tình huống quyết định trên chiến trường chính. Khi đã tung đi rồi, họ lại không thể thu về khi cần thiết, vì các lực lượng đó đã bị đối phương giam chân, tiêu hao tiêu diệt từng phần. Kế sách cuối cùng của họ là ném 5 tiểu đoàn còn lại lên Thái Nguyên hòng co kéo chủ lực của đối phương, đỡ đòn cho biên giới, cũng chỉ là cố gắng tuyệt vọng đã nhanh chóng tiêu tan trước một thế trận chiến tranh nhân dân vô cùng hiểm hóc.

        Thất bại của địch trong thu-đông 1950 là do Bộ tổng chỉ huy quân Pháp đã liên tiếp phạm những sai lầm. Những sai lầm ấy không phải họ ngẫu nhiên mắc phải mà là những sai lầm tất yếu của nền nghệ thuật quân sự tư sản lỗi thời trong một cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa, phải đương đầu với nền nghệ thuật quân sự vô sản tiên tiến và ưu việt của một dân tộc bất khuất. kiên cường và dày dạn kinh nghiệm chống xâm lược, vấp phải một thế trận chiến tranh nhân dân vô địch. Những sai lầm và thất bại ấy, đế quốc Mỹ sau này vẫn tiếp tục phải hứng chịu, mặc dù chúng giầu hơn, mạnh hơn rất nhiều và đã dày công rút tỉa những bài học từ thất bại của thực dân Pháp và nghiên cứu kinh nghiệm của nhiều cuộc chiến tranh xâm lược khác trên thế giới. Và bất cứ kẻ xâm lược nào khác dù hung hăng và xảo quyệt đến đâu cũng sẽ phải lặp lại những sai lầm và thất bại ấy, nếu chúng liều lĩnh gây chiến tranh xâm lược Việt Nam.
       
--------------
1. Hồ Chí Minh, Những bài viết và nói về quân sự, t. 1, tr. 443.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #97 vào lúc: 04 Tháng Năm, 2016, 07:10:17 pm »

 
MƯU KẾ VÀ THẾ TRẬN
TRONG CUỘC TIẾN CÔNG CHIẾN LƯỢC
ĐÔNG-XUÂN 1953-1954
VÀ CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ
       
        Ba mươi năm đã qua nhưng bài học thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ vẫn còn nóng hổi trong trái tim chúng ta và mang tính thời đại sâu sắc. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính mến đã nói: "Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ càng làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời đại ngày nay: chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc nhất định thất bại, cách mạng giải phóng của các dân tộc nhất định thành công"1. Điện Biên Phủ còn là tiếng sét kinh hoàng giáng vào mọi mưu toan gây chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động khác hòng thôn tính nước ta.
       
        Ngày nay, nhìn lại chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ trong cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954, chúng ta càng thêm tự hào về Đảng ta, người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng đã vận dụng sáng tạo học thuyết Mác-Lênin về chiến tranh và quân đội vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, đồng thời kế thừa những tinh hoa về tài thao lược, ý chí quật cường của dân tộc trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước.
       
        Để tìm hiểu thêm sự đúng đắn, tài giỏi, trong việc chỉ đạo chiến tranh cách mạng của Đảng dẫn tới chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử, không thể không kể đến nghệ thuật mưu kế và thế trận đã được Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo. Mưu kế và thế trận là những yếu tố rất quan trọng của nghệ thuật quân sự nói chung và nghệ thuật chỉ huy nói riêng.

*

*      *
       
        Cuối năm 1953-đầu năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta bước sang một giai đoạn mới. Tình hình so sánh lực lượng giữa ta và địch đã có những chuyển biến quan trọng có lợi cho ta. Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của chúng ta là một cuộc chiến tranh chính nghĩa vì độc lập, thống nhất của Tổ quốc. Để đánh bại chiến tranh xâm lược do thực dân Pháp gây ra, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, nhân dân ta đã tiến hành một cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, với sức mạnh tổng hợp của khối đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công nông. Toàn dân ta đã nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ: "Bất kỳ đàn ông đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân, cứu nước"2. Khắp nơi đều xây dựng lực lượng kháng chiến, mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một trận địa đánh giặc kiên cường. Trên cơ sở đó, thế trận chiến tranh nhân dân đã được xây dựng và phát triển ngày càng vững mạnh và rộng khắp trên cả nước.
       
        Các lực lượng vũ trang ta, từ chỗ lúc đầu mới là những đơn vị nhỏ bé, trang bị thô sơ, sau tám năm kháng chiến đã trưởng thành nhanh chóng, với ba thứ quân ngày càng lớn mạnh. Các đại đoàn chủ lực đã ra đời và được tôi luyện, thử thách trong chiến tranh. Sự phối hợp giữa ba thứ quân cùng với phong trào toàn dân đánh giặc ngày càng chặt chẽ. Với những thắng lợi liên tiếp của quân và dân ta, từ chiến dịch Việt Bắc Thu-Đông 1947, chiến dịch Biên giới Thu-Đông 1950, các chiến dịch Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung (Hà-Nam-Ninh) năm 1951, chiến dịch Hoà Bình Đông-Xuân 1951-1952 đến các chiến dịch Tây Bắc Thu-Đông 1952, Thượng Lào Xuân 1953, với thế trận chiến tranh nhân dân ngày càng phát triển mạnh mẽ trên cả ba nước Đông Dương, thế chủ động trên chiến trường đã thuộc về ta.
       
        Trong khi đó thực dân Pháp ngày càng sa lầy trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Quân đội viễn chinh Pháp và quân đội tay sai phải chịu nhiều tổn thất nặng nề, khu vực chiếm đóng của chúng ngày càng bị thu hẹp, quân lính mệt mỏi, tinh thần ngày càng sa sút. Mâu thuẫn thuộc về bản chất của một cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa ngày càng bộc lộ. Đứng trước cuộc chiến tranh "bẩn thỉu” kéo dài và hao người tốn của đó, nước Pháp ngày càng lâm vào tình thế khủng hoảng trầm trọng.
       
        Hình thái chiến trường Đông-Xuân 1953-1954 đã có những thay đổi lớn. Vùng tự do và căn cứ du kích của ta đã trải rộng từ biên giới Lạng Sơn-Cao Bằng-Hà Giang-Lào Cai, bao gồm hầu hết miền Tây Bắc (chỉ trừ Nà Sản và Lai Châu) tới vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh, từ nam phần Trung Bộ tới bắc Tây Nguyên. Nhiều căn cứ địa cách mạng xen kẽ với địch từ cực nam Trung Bộ tới miền tây Nam Bộ. Những làng và cụm làng kháng chiến mọc lên chi chít ngay ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Với tình trạng đó, bộ tham mưu quân Pháp đã phải gọi tấm bản đồ thể hiện hình thái chiến trường đồng bằng Bắc Bộ là bản đồ "lên sởi".

---------------
1. Hồ Chí Minh. Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1970, tr. 253.

2. Hồ Chí Minh. Những bài viết và nói về quân sự, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985, t.1, tr. 222.

Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #98 vào lúc: 04 Tháng Năm, 2016, 08:20:02 pm »

        Đánh giá tình hình quân sự lúc đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định:
       
        “BÊN ĐỊCH: ... Lực lượng địch bị tiêu hao nhiều (tính đến tháng 11 năm 1953, độ 32 vạn). Quân số Âu-Phi ngày càng thiếu. Trên chiến trường chính, địch càng bị động. Mới đây, địch cố thọc ra vùng tự do ở Liên khu 3 và một vài nơi ở bờ biển Liên khu 4, nhưng thế của địch căn bản vẫn là bị động”.
       
        “Tuy vậy, hiện nay lực lượng địch vẫn còn mạnh. Ta không được khinh địch…”
       
        “BÊN TA: … Từ thu Đông năm 1950. ta đã thắng to trong bảy chiến dịch và đã nắm được chủ động trên chiến trường chính. Ta đã giải phóng phần lớn vùng Tây Bắc to rộng. Phong trào du kích lên mạnh khắp các nơi”.
       
        “Những đợt chỉnh quân về chính trị và kỹ thuật có kết quả tốt. Quân đội ta đã trưởng thành nhanh chóng về số lượng và chất lượng"1.
       
        Lúc này, thực dân Pháp với sự tăng cường can thiệp của đế quốc Mỹ bằng viện trợ quân sự ngày càng tăng, âm mưu tiếp tục kéo dài và mở rộng chiến tranh tìm cách giành lại thế chủ động trên chiến trường hòng chuyển bại thành thắng và chấm dứt chiến tranh trên thế mạnh. Cử Na-va sang thay Xa-lăng làm tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương, chính phủ La-ni-en hy vọng có thể xoay chuyển lại cục diện của chiến tranh.
       
        Hòng thoát khỏi thế phòng ngự bị động và thất bại liên tiếp trên chiến trường Đông Dương, Na-va đề ra một kế hoạch chiến lược mang đầy tham vọng: xây dựng lực lượng cơ động chiến lược lớn hơn lực lượng cơ động chiến lược của đối phương để chuyển sang tiến công làm chuyển biến tình thế, đẩy mạnh xây dựng quân ngụy để đảm nhiệm việc chiếm đóng các địa phương, tạo điều kiện tập trung quân Âu-Phi xây dựng lực lượng cơ động chiến lược. Na-va dự định chỉ trong vòng 18 tháng sẽ giành lại thế chủ động chiến lược.
       
        Na-va phán đoán có ba hướng chiến lược có thể bị ta uy hiếp là: đồng bằng Bắc Bộ, Tây Bắc Việt Nam-Thượng Lào và miền Nam Đông Dương. Ông ta nhận định: đồng bằng Bắc Bộ là một địa bàn xung yếu có thể là hướng tiến công chính của chủ lực đối phương. Tây Bắc Việt Nam và Thượng Lào là vùng rừng núi mà phòng ngự của Pháp có nhiều sơ hở, nhưng đối phương không thể mở những cuộc tiến công quy mô lớn và dài ngày do địa hình hiểm trở và khó khăn trong việc giải quyết hậu cần kỹ thuật. Miền Nam Đông Dương là khu vực mà lực lượng chủ lực của đối phương chưa có nhiều, nhưng lực lượng của Pháp cũng yếu hơn so với ở đồng bằng Bắc Bộ, lại bố trí phân tán. Ở đây có vùng Tây Nguyên xung yếu nối liền với Hạ Lào và chiến trường Nam Bộ; nếu chủ lực đối phương mở cuộc tiến công lớn ở vùng này thì có khả năng gây ra đảo lộn lớn trong thế trận của hai bên. Từ những nhận định đó, Na-va vạch ra kế hoạch tác chiến gồm hai bước. Bước một: trong Đông-Xuân 1953-1954, tránh giao chiến toàn bộ với các đơn vị chủ lực cơ động của đối phương; ở phía bắc vĩ tuyến 18, giữ thế phòng ngự chiến lược; ở phía nam vĩ tuyến 18: thực hành tiến công nhằm chiếm đóng tất cả các vùng tự do của đối phương nhất là Liên khu 5 và vùng Hậu Giang Nam Bộ. Bước hai: sang Đông-Xuân 1954-1955, khi lực lượng cơ động chiến lược của Pháp đã được xây dựng đủ mạnh thì tập trung toàn bộ lực lượng quyết chiến với chủ lực đối phương trên chiến trường miền Bắc, giành thắng lợi quyết định.
       
        Theo phương hướng đó, mùa thu 1953 thực dân Pháp tăng viện ngay cho quân viễn chinh 12 tiểu đoàn lấy từ Pháp, Bắc Phi và rút từ Triều Tiên về. Na-va quyết định rút quân khỏi Nà Sản (Tây Bắc) và cố sức tập trung được 84 tiểu đoàn cơ động; riêng ở đồng bằng Bắc Bộ là 44 tiểu đoàn, chiếm hơn 50 phần trăm lực lượng cơ động của Pháp trên toàn chiến trường Đông Dương. Theo lệnh quan thầy, ngụy quyền bù nhìn Bảo Đại ra “dụ” tổng động viên, bắt hàng chục vạn thanh niên vào lính để mở rộng quân ngụy.
       
        Tháng 9 năm 1953, Bộ chính trị Ban Chấp hành trung ương Đảng ta họp bàn về chủ trương tác chiến Đông-Xuân 1953-1954. Hội nghị đã khẳng định sự đúng đắn của phương hướng chiến lược mà Hội nghị lần thứ 4 của Trung ương Đảng đã vạch ra, và xác định chủ trương tác chiến trong Đông-Xuân 1953-1954 là: Sử dụng một bộ phận chủ lực mở những cuộc tiến công vào những hướng địch sơ hở, đồng thời tranh thủ cơ hội tiêu diệt địch trong vận động ở những hướng địch có thể đánh sâu vào vùng tự do của ta; trong lúc đó, đẩy mạnh chiến tranh du kích ở khắp các chiến trường sau lưng địch. Bộ Chính trị nhận định: lúc này địch tập trung cao độ quân chủ lực để tác chiến với ta ở đồng bằng; chiến trường đồng bằng có nhiều thuận lợi cho địch, đánh lớn vào đồng bằng chỉ có thể thu được những thắng lợi có hạn, không thay đổi được cục diện chiến tranh mà chủ lực ta có thể bị tiêu hao. Tây Bắc Việt Nam và Lào là nơi địch yếu nhưng chúng không thể bỏ. Đưa bộ đội chủ lực lên hướng đó, mặc dù có khó khăn rất lớn về tiếp tế, nhưng ta buộc địch phải phân tán lực lượng, tranh thủ tiêu diệt sinh lực địch. Đồng thời đẩy mạnh hoạt động ở các chiến trường sau lưng địch để tiêu hao và giam chân địch, tạo điều kiện để tiến tới giải phóng đồng bằng Bắc Bộ.

---------------------
1. Hồ Chí Minh. Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tr. 145-147.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #99 vào lúc: 04 Tháng Năm, 2016, 08:25:08 pm »

        Phương hướng chiến lược và chủ trương tác chiến mà Đảng đề ra trong Đông-Xuân 1953-1954 là sự thể hiện của mưu kế chiến lược: căng địch ra mà đánh, trói địch lại mà diệt, giữ vững quyền chủ động đánh địch trên cả hai mặt trận trước mặt và sau lưng địch, phối hợp các chiến trường trên phạm vi cả nước và phối hợp trên toàn chiến trường Đông Dương, tạo thời cơ để tập trung lực lượng tiêu diệt lớn quân địch trên chiến trường ta lựa chọn vào thời gian thích hợp.
        
        Mưu cao nhất là mưu lừa địch. Nắm vững phương hướng chiến lược của Đảng, quán triệt một nguyên tắc cơ bản của nghệ thuật quân sự là "mưu trí, linh hoạt bí mật, bất ngờ", chúng ta đã thực hiện thành công nhiều biện pháp nghi binh lừa địch như: chuẩn bị hành quân, tác chiến; di chuyển bộ đội; tung tin giả... để đánh lạc hướng địch. Kết quả là đã làm cho địch phán đoán lầm ý định của ta. Trong khi bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp còn đang thăm dò, mò mẫm xem đại bộ phận quân chủ lực ta đang tập trung và triển khai tác chiến về hướng nào, thì Na-va nhận được tin tình báo cho rằng ta đang chuẩn bị tiến công vào đồng bằng Bắc Bộ với lực lượng của các sư đoàn 320, 308, 312, 304 và có thể cả một bộ phận của sư đoàn 316. Thế là Na-va quyết định hành động trước. Ông ta ra lệnh cho các cấp dưới "phải ra tay trước, phải hành động sớm hơn đối phương, phải điều khiển chiến trận. Khẩu hiệu là giành quyền chủ động..."1. Hè-Thu năm 1953. quân Pháp đã mở hàng chục trận càn quét trong vùng chúng tạm chiếm ở Bắc Bộ, Bình-Trị-Thiên, Nam Bộ; mở cuộc tiến công lớn mang tên “chiến dịch Hải âu” đánh ra tây-nam Ninh Bình và địa đầu Thanh Hóa. Nhưng chúng đã không giành được một thắng lợi nào đáng kể, lại còn bị các lực lượng vũ trang địa phương và một bộ phận chủ lực của ta tiêu hao, tiêu diệt một phần không nhỏ.
        
        Tháng 11 năm 1953, Na-va nhận được tin tình báo cho biết: một bộ phận chủ lực của ta đang hành quân lên hướng Lai Châu: quân tình nguyện Việt Nam và quân đội Pa-thét Lào đang chuẩn bị tiến công ở Trung Lào; bộ đội chủ lực của ta ở Liên khu 5 ráo riết chuẩn bị tiến vào Tây Nguyên... Na-va đã thấy rõ hướng tiến công chủ yếu của ta không phải là đồng bằng Bắc Bộ như ông ta đã phán đoán, nên phải bị động thay đổi kế hoạch. Từ giữa tháng 11, Na-va vội vã cho 6 tiểu đoàn Âu-Phi tinh nhuệ nhảy dù xuống chiếm Điện Biên Phủ, đồng thời trước sức uy hiếp của ta, ông ta quyết định rút quân chiếm đóng khỏi Lai Châu, vừa để tránh bị tiêu diệt vừa có thêm lực lượng tăng cường cho Điện Biên Phủ. Na-va cũng điều động binh đoàn cơ động số 2 và 2 tiểu đoàn độc lập tăng cường cho hướng Trung Lào. Như vậy ta đã buộc địch phải phân tán lực lượng, điều một bộ phận quân chủ lực của chúng lên Tây Bắc và Trung Lào.

        Kế hay nhất là kế điều địch và quan trọng nhất là điều lực lượng cơ động chiến lược của địch. Đó là nghệ thuật rất cao trong nghệ thuật chỉ huy nhằm thực hiện phương hướng chiến lược của ta: tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, phân tán lực lượng địch để tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng tự do của ta. Dùng mưu kế để lừa địch, điều địch, phân tán lực lượng địch rồi bất ngờ nhằm vào nơi sơ hở, hiểm yếu của địch để đánh tiêu diệt, đánh chắc thắng, đó là nét nổi bật của nghệ thuật mưu kế và thế trận trong Đông-Xuân 1953-1954. Thực hiện phương châm "tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt" mà Bộ Chính trị đã đề ra, chúng ta đã điều động được địch theo ý định của ta, căng địch ra mà đánh, buộc chúng phải phân tán lực lượng, đối phó lúng túng, còn ta thì nắm chắc khối chủ lực để tùy theo tình hình diễn biến trên chiến trường mà xử trí một cách hết sức chủ động, linh hoạt.
        
        Để tiếp tục đánh lạc hướng phán đoán của địch và phân tán khối chủ lực cơ động của chúng ra các chiến trường khác, tạo điều kiện cho việc tập trung lực lượng và chuẩn bị tiến công của ta ở Điện Biên Phủ, cuối tháng 12 năm 1953, ta tiến công địch ở Trung Lào, làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng ngự của địch ở chiến trường này, rồi thừa thắng phát triển tiến công xuống Hạ Lào. Cuối tháng 1, đầu tháng 2 năm 1954, ta tiến công quét sạch địch ở bắc Tây Nguyên, giải phóng thị xã Kontum. Cuối tháng 1 năm 1954, quân đội ta cùng với bộ đội Pa-thét Lào mở đợt tiến công ở Thượng Lào, phá vỡ phòng tuyến sông Nậm Hu mà địch mới xây dựng để nối liền Thượng Lào với Điện Biên Phủ. Ta thừa thắng phát triển lên phía bắc giải phóng Phông-xa-lỳ, nối liền khu giải phóng của cách mạng Lào với Tây Bắc Việt Nam. Địch buộc phải điều ngay lực lượng cơ động tăng cường cho Luông Pha-băng hòng giữ cho thế trận của chúng ở Thượng Lào khỏi sụp đổ.
        
        Ở đồng bằng Bắc Bộ, Bình-Trị-Thiên, Nam Trung Bộ và Nam Bộ, các lực lượng vũ trang địa phương và bộ đội chủ lực của các quân khu cũng đẩy mạnh chiến tranh du kích ở vùng sau lưng địch, đánh trả mãnh liệt các cuộc càn quét của địch, với phương châm đánh nhỏ ăn chắc, tiêu hao sinh lực địch, mở rộng căn cứ du kích của ta, thu hút và giam chân chủ lực địch để phối hợp với chiến trường chính.

-------------------
1. Hăng-ri Na-va. Đông Dương hấp hối, Nhà xuất bản Plông, Pa-ri, 1958
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM