chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 13138
|
|
« Trả lời #260 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2016, 05:40:35 pm » |
|
PHỤ LỤC 1. BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO 2. PHÚ NÚI CHÍ LINH 3. VĂN BIA VĨNH LĂNG Bình Ngô đại cáo, Chí Linh sơn phú, Lam Sơn Vĩnh Lăng bi là ba bài văn hay, ghi được nhiều tư tưởng chính trị và quân sự của Nguyễn Trãi. Cả ba bài văn đều viết bằng chữ Hán, đã được nhiều người dịch ra tiếng Việt. Trong sách này, chúng tôi nhiều lần trích dẫn ba bài văn đó, và tham khảo những bản dịch trước, chúng tôi có dịch lại với ý muốn cho được sát với những ý của Nguyễn Trãi về chính trị và quân sự. Vậy chúng tôi in vào phần Phụ lục ba bản dịch, kèm theo bản phiên âm nguyên văn chữ Hán và chú giải, để bạn đọc tiện tham khảo và đối chiếu.N. L. B. BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO(Bản phiên âm chữ Hán)Đại thiên hành hóa, Hoàng thượng nhược viếtNhân nghĩa chi cử vụ tại an dân Điếu phạt chi sư tất tiên khử bạo Duy ngã Đại Việt chi quốc Thực vi văn hiến chi bang Sơn xuyên chi phong vực ký thù Nam Bắc chi phong tục diệc dị Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương Tuy cường nhược thời hoặc bất đồng Nhi hào kiệt thế vị thường phạp Cố Lưu Cung tham công nhi thủ bại Triệu Tiết hiếu đại nhi xúc vong Toa Đồ ký cầm ư Hàm Tử quan Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải Kê chư vãng cổ quyết hữu minh trưng Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà Trí sử nhân tâm chi oán bạn Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân Nguỵ đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngã quốcBÌNH NGÔ ĐẠI CÁO(ĐẠI CÁO ĐÁNH THẮNG GIẶC NGÔ)1Thay trời làm việc, nhà vua thường nói 2 Làm việc nhân nghĩa, cốt để yên dân Dấy quân đánh dẹp trước tiên trừ bạoXem như nước nhà Đại Việt Thật là văn hiến quốc gia 3 Núi sông bờ cõi đã riêng Phong tục Bắc Nam cũng khác Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần, mở mang dựng nước Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, đứng vững một phương Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau Nhưng hào kiệt đời nào cũng có Cho nên Lưu Cung tham công mà thất bại 4 Triệu Tiết hám rộng phải tiêu vong 5 Cửa Hàm Tử đã bắt Toa Đô Biển Bạch Đằng lại giết Ô Mã 6 Việc xưa xem xét, chứng cớ còn rành Gần đây, nhân họ Hồ chính sự phiền hà Khiến trong nước nhân tâm oán hận Quân cuồng Minh thừa dịp hại dân Đảng nguỵ gian manh tâm bán nước _________________________________________ 1. Ngô tức Minh, Chu Nguyên Chương là vua đầu nhà Minh đã nổi lên ở đất Ngô, sau khi diệt nhà Nguyên, đóng đô ở Kim Lăng là đất Ngô cũ, cho nên nhà Minh cũng gọi là nhà Ngô, nước Minh là nước Ngô, quân Minh là quân Ngô.2. Bài Bình Ngô Đại Cáo còn tới ngày nay là do một số sách cũ chép lại, như: Đại việt sử ký toàn thư, Hoàng Việt văn tuyển của Bùi Huy Bích, Ức Trai di tập của Dương Bá Cung, v.v... Các bản chép trong các sách thường có những chữ dùng không giống nhau. Sự khác nhau này chỉ là về lời văn, nó không làm thay đổi những ý chính và những sự việc chính trong bài văn. Thí dụ: câu đầu trong Bình Ngô Đại Cáo ở Hoàng Việt văn tuyển, chỉ có gọn hai chữ "cái văn" nghĩa là "từng nghe". 3. Văn hiến thường được giải thích là văn hóa, văn minh. Ở đây, Nguyễn Trãi giải thích hai chữ văn hiến rất hay, bằng 10 câu văn liền ở dưới. Theo Nguyễn Trãi, một nước có văn hiến là một nước hình thành và tồn tại từ lâu đời, có giang sơn bờ cõi riêng biệt, có đời sống văn hóa xã hội riêng, có đời sống chính trị và một nhà nước hoàn toàn độc lập với các nước khác và có một truyền thống anh hùng, đã đánh thắng mọi cuộc xâm lược từ bên ngoài. Định nghĩa văn hiến như thế, thật là đầy đủ, xác đáng.4. Lưu Cung là vua Nam Hán cho quân sang xâm lược Việt Nam, đã bị Ngô Quyền đánh cho đại bại trên sông Bạch Đằng (năm 938).5. Triệu Tiết là tướng nhà Tống đã cùng Quách Quỳ đem quân sang xâm lược Việt Nam, bị danh tướng của ta là Lý Thường Kiệt đánh cho thất bại nặng nề trên khu vực sông Cầu và phải xin điều đình để được rút quân về nước.6. Toa Đô và Ô Mã Nhi là hai danh tướng của quân Nguyên xâm lược đã bị thất bại thảm hại trong những cuộc hành quân của chúng trên đất Việt Nam: Toa Đô bị chém lấy đầu tại trận, Ô Mã Nhi bị bắt sống, và sau bị giết ở ngoài biển.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 13138
|
|
« Trả lời #261 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2016, 05:48:45 pm » |
|
Hân thương sinh ư ngược diễm Hãm xích tử ư họa khanh Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng Liên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên Bại nghĩa thương nhân, càn khôn cơ hồ dục tức Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mi hữu nghiết di Khai kim trường tắc mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa Thái minh châu tắc xúc giao long nhi cắng yêu thẩn hải Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tỉnh Điễn vật chức thúy cầm chi võng la Côn trùng thảo mộc, giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh Quan quả điên liên, câu bất hoạch dĩ an kỳ sở Tuấn sinh linh chi huyết, dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha Cực thổ mộc chi công, dĩ sùng công tư chi giải vũ Châu lý chi chinh dao trùng khốn Lư diêm chi trữ trục giai không Quyết Đông hải chi ba bất túc dĩ trạc kỳ ô Khánh Nam sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác Thần nhân chi sở cộng phẫn, thiên địa chi sở bất dung Dư, phấn tích Lam Sơn, thê thân hoang dã Niệm thế thù khởi khả cộng đái Thệ nghịch tặc nan dĩ câu sinh Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư
Nướng dân đen trên lò bạo ngược Vùi con đỏ dưới hố tai ương1 Dối trời lừa dân, kế quỉ đủ ngàn vạn cách Đem binh gây hấn, tội ác đầy hai chục năm Nghĩa nát, nhân tan, đất trời muốn dứt Sưu cao, thuế nặng, đằm núi vét trơn Xông pha nơi lam chướng, lên rừng sâu, phá núi đãi vàng Lăn lộn với thuồng luồng, xuống biển cả liều thân mò ngọc Sách nhiễu dân, lấy hươu đen khắp nơi cạm bẫy Tàn hại vật, đòi chim biếc mọi chốn lưới dăng Cây cỏ côn trùng không thể sống Khốn cùng quan quả chẳng yên thân2 Hút máu nhân dân, lũ hung đồ miệng răng nhờn béo Ức người xây dựng, chỗ công tư dinh thự nguy nga Nơi châu huyện, sưu thuế mấy tròng Chốn hương thôn, cửi thoi vắng lặng Tát cạn nước Đông hải, không rửa sạch tanh hôi Chặt hết trúc Nam sơn, chưa ghi đủ tội ác3 Thần người đều căm giận, trời đất chẳng dung tha Ta, phát tích Lam Sơn, nương thân hoang dã Quyết chẳng đội trời cùng kẻ địch Thề không chung sống với quân thù Đau lòng nhức óc, đã quá mười năm Nếm mật nằm gai, chỉ đâu một buổi Quên ăn đầy giận, cố học sâu thao lược binh thư _______________________________________ 1. Dân đen, con đỏ hay thương sinh, xích tử đều là những tiếng để chỉ quần chúng lao khổ tức quảng đại quần chúng nhân dân trong thời đại phong kiến. 2. Quan là goá vợ, quả là goá chồng. 3. Ở thời đại chưa có giấy viết, người phương Đông dùng mảnh tre, mảnh trúc để ghi chép.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 13138
|
|
« Trả lời #262 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2016, 05:56:17 pm » |
|
Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý Đồ hồi chi chí, ngộ mị bất vong Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thời Chính tặc thế phương trương chi nhật Nại dĩ nhân tài thu diệp Tuấn kiệt thần tinh Bôn tẩu tiền hậu giả ký phạp kỳ nhân Mưu mô duy ốc giả hựu quả kỳ trợ Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp nhi hư tả Nhiên kỳ đắc nhân chi hiệu, mang nhược vọng dương Do kỷ chi tâm, thậm ư chửng nịch Phẫn hung đồ chi vị điễn Niệm quốc bộ chi do truân Linh sơn chi thực tận kiêm tuần Khôi huyện chi chúng vô nhất lữ Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm Cố dư ích lệ chí dĩ tế vu gian Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị Dĩ quả địch chúng, thường thiết phục dĩ xuất kỳ Tốt năng dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo Bồ Đằng chi lôi khu điện xiết
Xét xưa nghiệm nay, gắng tìm hiểu hưng vong mọi lẽ Chí lo khôi phục, thức ngủ không quên Chính khi cờ nghĩa phất lên Là lúc thế giặc đương mạnh Vậy mà tuân kiệt lưa thưa như sao sớm Nhân tài lác đác tựa lá thu1 Bôn tẩu đó đây, ít kẻ đỡ đần2 Mưu mô bàn bạc, thiếu người giúp rập Một niềm lo cứu nhân dân, những bực tức, miền Đông muốn tới3 Tha thiết đón xe hiền giả, hằng ngóng trông bên tả vẫn không4 Mong người hiền như trông biển cả mịt mùng Làm điều nhân là tự mình, phải gấp vội hơn cứu người bị đuối Giận quân giặc vẫn chưa diệt được Lo vận nước còn phải gian truân Khi Linh sơn lương cạn mấy tuần Lúc Khôi huyện quân không một lữ5 Ấy trời muốn thử ta trao nhiệm vụ Nên ta càng cố trí vượt gian nan Giơ gậy làm cờ, bốn phương dân cày tập hợp6 Rượu hòa nước lã, một lòng tướng sĩ cha con7 Lấy yếu thắng mạnh, nên bất ngờ tiến đánh Lấy ít địch nhiều, thường đặc phục ra kỳ8 Rốt cùng, lấy đại nghĩa thắng hung tàn Lấy chí nhân thay cường bạo9 Bồ Đằng sấm ran chớp giật ____________________________________ 1. Về mùa thu, lá cây còn ít; về buổi sớm, sao mọc rất thưa. Nói nhân tài thưa thớt như lá thu, sao sớm, tức nói có ít quá. 2. Bôn tẩu: Lo chạy ngược xuôi. 3. Những bực tức, miền đông muốn tới, lấy ý một lời nói của Lưu Bang (Hán Cao tổ). Lưu Bang bị Hạng Vũ phong cho vào ở đất Tây Thục, Lưu Bang bực tức nói với Tiêu Hà: "Dư diệc dục đông nhĩ, an năng uất uất cửu cư thử hồ" (Ta cũng muốn tới miền đông, không thể yên chịu bực tức ở mãi đây được). 4. Bên tả vẫn không: thời xưa, khi tiếp khách hay khi cùng ngồi, thì bên tả chỗ mình ngồi là để mời khách quý. Thời Chiến quốc, ở nước Nguỵ có một người hiền, ở ẩn là Hầu Doanh. Công tử nước Nguỵ cho người mang lễ vật trọng hậu tới mời ra giúp việc. Hầu Doanh từ chối không nhận. Công tử nước Nguỵ mở tiệc rượu, mời đông tân khách. Khi khách đã ngồi yên, công tử lên xe ngựa, thân đi mời Hầu Doanh, và để trống chỗ ngồi bên tả ở trên xe để đón Hầu Doanh cùng ngồi. Ý câu này Nguyễn Trãi muốn nói Lê Lợi khẩn khoản đón mời người hiền, nhưng người hiền tới còn ít. 5. Mỗi tuần là mười ngày. Mỗi lữ là 500 quân. Linh sơn và Khôi huyện: xem trong sách (chương II, đoạn viết về 5 năm đầu của khởi nghĩa Lam Sơn). 6. Dân cày là dịch chữ manh lệ trong nguyên văn. Manh là dân cày, lệ là phụ thuộc, nghèo hèn. Manh lệ có nghĩa là dân cày nghèo, tức quảng đại quần chúng nông dân. 7. Rượu hòa nước lã: thời xưa, hai nước Sở và Tấn đánh nhau. Có người đem dâng vua Sở một vò rượu ngon. Vua muốn để toàn quân cùng hưởng, nhưng rượu có ít. Vua Sở liền đổ cả vò rượu xuống sông rồi bảo mọi người cùng múc uống. Cảm động trước tinh thần đồng cam cộng khổ đó, quân sĩ càng nức lòng chiến đấu và đã đánh thắng nước Tấn. 8. Thường đặt phục ra kỳ: nguyên văn là "thường thiết phục dĩ xuất kỳ". Nếu bỏ chữ "xuất kỳ" không dịch, là bỏ một ý quân sự quan trọng của Nguyễn Trãi trong đoạn văn này. "Xuất kỳ" hay "ra kỳ" là một khái niệm quân sự cổ. Xuất kỳ nghĩa đen là ra kỳ binh, nghĩa rộng là biến hoá linh hoạt các phép đánh. Trong binh pháp xưa có nói: "thiện xuất kỳ giả, vô cùng như thiên địa, bất kiệt như giang hà; chung nhi phục thủy, nhật nguyệt thị dã; tử nhi phục sinh, tứ thời thị dã...", có thể dịch là “giỏi ra kỳ thì biến hoá vô cùng như trời đất, cuồn cuộn chảy như nước sông vô tận, hết rồi lại bắt đầu như mặt trời mặt trăng, đã qua rồi lại đến như bốn mùa thay đổi vậy...". Ở đây, Nguyễn Trãi đã dùng chữ "ra kỳ" theo nghĩa rộng của binh pháp xưa, để nói lên rằng nghĩa quân Lam Sơn đã giỏi vận dụng linh hoạt các cách đánh, phù hợp với tình huống cụ thể của từng trận đánh, để thắng giặc. 9. Yếu đánh mạnh, ít đánh nhiều, đánh tập kích, đặt phục binh, ra kỳ binh nói ở đây, chỉ là những chiến lược chiến thuật chủ yếu của thời kỳ đầu của cuộc khởi nghĩa, chứ không phải của toàn bộ cuộc khởi nghĩa. Nhưng, khi mới khởi nghĩa, tuy chỉ vận dụng những chiến lược, chiến thuật của chiến tranh du kích như vậy thôi, mà cuối cùng vẫn đánh thắng được hung tàn, đè bẹp được cường bạo, vì có đại nghĩa, có chí nhân. Đó là ý nghĩa của bốn câu văn này. Trong những giai đoạn sau của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, chiến lược chiến thuật đánh địch ngày càng linh hoạt, phong phú, không chỉ đánh địch bằng phục kích, tập kích, mà còn đánh vận động, đánh trận địa, đánh thành và nhiều khi lấy mạnh thắng yếu, lấy nhiều đánh ít.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 13138
|
|
« Trả lời #263 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2016, 06:00:22 pm » |
|
Trà Lân chi trúc phá khôi phi Sĩ khí dĩ chi ích tăng Quân thanh dĩ chi đại chấn Trần Trí, Sơn Thọ, văn phong nhi trĩ phách Lý An, Phương Chính, suyễn tức dĩ thâu sinh Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vi ngã hữu Tuyển phong tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý Tốt Động chi thi mãn dã, di xú thiên niên Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký khiêu kỳ thủ Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bộc quyết thi Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần Mã Anh cứu đấu nhì nộ giả ích nộ Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất Vị bỉ tất cải tâm nhi dịch lự Khởi ý phục tắc nghiệt dĩ tốc cô Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhân Tham nhất thời chi công, nhi di tiếu ư thiên hạ Toại sử Tuyên Đức ư giảo đồng, độc binh vô yếm Viên mệnh Liễu Thăng chi nọa tưởng, dĩ du cứu phần Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng ký dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến Bản niên bản nguyệt Mộc Thạnh diệc phân đồ tự Vân Nam nhi lai
Trà Lân trúc chẻ tro bay Sĩ khí càng tăng Quân thanh càng mạnh Trần Trí, Sơn Thọ, nghe tin mất vía Lý An, Phương Chính, nín thở tháo thân Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh đã thuộc về ta1 Tuyển quân tiến thẳng, Đông Đô cũng thu hết đất Ninh Kiều máu chảy thành sông, trôi tanh muôn dặm Tốt Động thây phơi đầy nội, để thối ngàn thu2 Tâm phúc giặc, Trần Hiệp bêu đầu Sâu mọt dân, Lý Lượng bỏ xác Vương Thông hòng gỡ rối, thua vẫn hoàn thua Mã Anh muốn cứu nguy, tức càng thêm tức3 Nó đến lúc chí cùng lực kiệt, nên phải đành chờ chết bó tay Ta mưu dẹp bằng đánh vào lòng, không chiến trận mà địch phải khuất4 Những tưởng chúng sửa lòng đổi nghĩ Nào hay chúng còn gây ác ra tai Hợm mình một ý, vẫn muốn gieo vạ nước người Tham công một thời, chỉ để mua cười thiên hạ Khiến Tuyên Đức trẻ ranh cùng binh độc vũ quá5 Sai Liễu Thăng tướng nhát, chữa cháy đổ dầu thêm Tháng chín Đinh Mùi, Liễu Thăng đưa quân, do Khâu Ôn tiến xuống Cũng năm tháng ấy, Mộc Thạnh chia đường, tự Vân Nam kéo sang _____________________________________ 1. Tây Kinh tức Thanh Hóa, nơi có thành Tây Đô. 2. Trong Chí Linh Sơn Phú, Nguyễn Trãi tả trận Ninh Kiều, Tốt Động bằng những ý khác: "Trận Ninh Kiều như đê vỡ kiến trôi. Trận Tốt Động như gió rung cây gãy”. 3. Trong Chí Linh sơn phú, Nguyễn Trãi thuật lại tình cảnh bọn tướng địch lúc ấy bằng hai câu khác: "Trần Hiệp, Lý Lượng như hổ ngã hầm sâu, Vương Thông, Mã Kỳ như cá trong vạc cháy" 4. Binh pháp cổ cũng nói tới ý này: ”... thiện dụng binh giả, khuất nhân chi binh, nhi phi chiến dã", hoặc "bất chiến nhi khuất nhân chi binh, thiện chi thiện giả dã", nhưng không nói rõ khi nào thì có thể không chiến trận mà địch phải khuất. Nguyễn Trãi nói rõ là khi địch đã chí cùng lực kiệt. Binh pháp có nói đó là phép đánh mưu "Thử mưu công chi pháp dã", nhưng không nói "mưu công", đánh mưu như thế nào. Nguyễn Trãi nói rõ mưu dẹp bằng đánh vào lòng "Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất". Đó là một ưu điểm, một sáng tạo trong tư tưởng quân sự của Nguyễn Trãi. 5. Tuyên Đức là vua Minh, khi ấy còn ít tuổi.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 13138
|
|
« Trả lời #264 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2016, 08:14:50 pm » |
|
Dư tiền ký tuyển phục binh tắc hiểm dĩ tồi kỳ phong Hậu hựu điệu kỳ binh tuyệt lộ dĩ đoạn kỳ thực Thập bát nhật Liễu Thăng ký vi ngã quân sở công, kế truỵ ư Chi Lăng chi dã Nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vi ngã quân sở bại, thân tử ư Mã Yên chi sơn Nhị thập ngũ nhật Bảo định Lương Minh trận hãm nhi táng khu Nhị thập bát nhật thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn cảnh Ngã tự nghênh nhận nhi giải Bỉ tức đảo qua tương công Kế nhi tứ diện thêm binh dĩ bao vi Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt Viên tuyển tì hưu chi sĩ Thân mệnh trảo nha chi thần Ẩm tượng nhi hà thủy can Ma đao nhi sơn thạch khuyết Nhất cổ nhi kình khoa ngạc đoạn Tái cổ nhi điểu tán quân kinh Quyết hội nghĩ ư băng đê Chấn cương phong ư khô diệp Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản Thượng thư Hoàng Phúc diện phọc nhi tựu cầm Cương thi tắc ư Lạng Sơn, Lạng Giang chi đồ Tiến huyết xích ư Xương Giang, Bình Than chi thủy Phong vân vị chi biến sắc Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang
Ta trước đặt phục binh giữ hiểm, đập nát tiền phong Sau đưa kỳ binh đánh chặn, cắt đường lương thực1 Ngày mười tám, Liễu Thăng bị đánh, Chi Lăng trúng kế Ngày hai mươi, Liễu Thăng bị bại, Mã Yên tan thây Ngày hai mươi lăm, Bảo định bá Lương Minh trận hãm bỏ mình Ngày hai mươi tám, Binh thượng thư Lý Khánh kế cùng thắt cổ Ta đưa dao, tới đâu tan đấy Giặc quay giáo đánh lộn cùng nhau Tiếp thêm quân bốn mặt bao vây Hẹn giữa tháng mười cùng diệt giặc Lựa quân hùm gấu Cử tướng vuốt nanh Voi uống mà cạn nước sông Dao mài mà mòn đá núi2 Đánh trống trận đầu, phanh thây kình ngạc Đánh trống trận nữa, tan tác chim muông Đường kiến đục, đê lún vỡ toang Cơn gió thổi, lá khô rụng trụi Đô đốc Thôi Tụ quỳ gối chịu tội Thượng thư Hoàng Phúc trói tay nộp mình Lạng Sơn, Lạng Giang, thây chất đầy đường Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước Mây gió âu sầu biến sắc Trời giăng thảm đạm mịt mờ ________________________________ 1. Trong hai câu này, Nguyễn Trãi nói rõ việc dùng phục binh và kỳ binh để đánh thắng Liễu Thăng. Nếu không dùng chữ kỳ binh trong bản dịch thì không làm rõ được cái ý vận dụng phục binh, kỳ binh trong binh pháp xưa. 2. Hai câu này, ý nói: voi nhiều tới mức có thể uống nước mà cạn cả sông, gươm dao nhiều tới mức mài vào đá mà mòn cả núi. Những ý này nói lên cái thế của nghĩa quân Lam Sơn lúc đó là lấy nhiều đánh ít, lấy mạnh thắng yếu, đánh vận động, đánh trận địa, đánh thành luỹ, chứ không chỉ lấy ít đánh nhiều và đánh tập kích, phục kích như thời kỳ đầu khởi nghĩa.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 13138
|
|
« Trả lời #265 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2016, 08:19:05 pm » |
|
Kỳ Văn Nam binh vi ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hát nhi tiên dĩ phá đảm Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Thăng quân sở bại ư Cần Trạm, toại lạn tạ bôn hội nhi cẩn đắc thoát thân Lãnh Câu chi huyết chử lưu, giang thủy vị chi ô yết Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng Lưỡng lộ cứu binh, ký bất toàn chủng nhi câu bại Các thành cùng khấu diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngã hổ khất lân chi vĩ Thần vũ bất sát, ngã diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm Tham tướng Phương Chính, nội quan Mã Kỳ, tiên cấp thuyền ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn kinh phách tán Tổng binh Vương Thông, tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh Bỉ ký úy tử tham sinh nhi tu hảo hữu thành Dư dĩ toàn quân vi thượng nhi dục dân đắc tức Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn Ức diệc cổ kim chi sở vị kiến văn Xã tắc dĩ chi điện an Sơn xuyên dĩ chi cải quán Càn khôn ký bĩ nhi phục thái Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ Vu dĩ tuyết thiên cổ vô cùng chi sĩ Ô hô! Nhất nhung đại định, hất thành vô cạnh chi công Tứ hải vĩnh thanh, đản bá duy tân chi cáo Bá cáo thiên hạ, hàm sử văn tri
Binh Vân Nam bị quân ta đánh chặn ở Lê Hoa, sợ mà vỡ mật Bọn Mộc Thạnh nghe quân Thăng thua to nơi Cần Trạm, bỏ chạy thoát thân1 Lãnh Câu máu chảy đầy dòng, nước sông nức nở Đan Xá thây chồng khắp núi, cỏ nội đẫm hồng2 Hai đạo cứu binh, chửa quay chân đã bại Các thành giặc khốn, đều cởi giáp xin hàng Tướng giặc cầm tù, vẫy đuôi cọp đói cầu thương hại3 Uy thần chẳng giết, thể lượng đất trời đức hiếu sinh Tham tướng Phương Chính, nội quan Mã Kỳ, trước cấp hơn năm trăm thuyền, đã vượt biển, vẫn hồn kinh phách lạc Tổng binh Vương Thông, tham chính Mã Anh, lại cho trên mấy nghìn ngựa, đã về nước, còn ngực đập chân run Nó đã sợ chết tham sống, phải thành khẩn cầu hòa Ta để cho giặc toàn quân4 mà dân ta được nghỉ Chẳng những là mưu kế cực sâu xa Mà cũng thật cổ kim chưa đã thấy Xã tắc từ đây vững yên Giang sơn từ nay đổi mới Càn khôn hết bĩ lại thái Nhật nguyệt hết mờ lại trong Mở rộng nền thái bình muôn thủa Rửa sạch điều hổ thẹn nghìn thu Hỡi ơi! Một khi mặc giáp nước yên ngay5, sự nghiệp vẻ vang khôn sánh kịp Bốn biển thanh bình dân hưởng mãi, lệnh truyền đổi mới sớm ban ra Bá cáo thiên hạ, ai nấy tỏ tường ___________________________________ 1. Cần Trạm tức vùng Kép, Cần Dinh bây giờ, phía trên thị xã Bắc Giang chừng 20 ki-lô-mét. 2. Lãnh Câu, Đan Xá là hai địa điểm ở gần ải Lê Hoa. Lê Hoa ở phía biên giới Hà Giang - Vân Nam. 3. Chí Linh sơn phú cũng có 3 câu tương tự như 3 câu này. 4. Ở đây Nguyễn Trãi đã mượn một câu có sẵn trong binh pháp cổ để nói lên chủ trương của ta lúc ấy là tha cho mười vạn hàng binh, để cho chúng được toàn quân về nước. Cố nhiên toàn quân này chỉ là toàn quân còn lại của chúng khi chúng đầu hàng. Binh pháp cổ có nói: “Phù dụng binh chi pháp, toàn quốc vi thượng, phá quốc thứ chi; toàn quân vi thượng, phá quân thứ chi; toàn lữ vi thượng, phá lữ thứ chi, v.v…” có thể dịch là "Phép dùng binh là: "Giữ được vẹn nước (địch) là thượng sách, phá nước (địch) là kém; giữ được vẹn quân (địch) là thượng sách, phá tan quân (địch) là kém, giữ được vẹn lữ (của địch) là thượng sách, phá tan lữ (của địch) là kém...", cho nên chúng tôi hiểu mấy chữ "Dư dĩ toàn quân vi thượng...” của Nguyễn Trãi trong bài này là Nguyễn Trãi muốn nói "ta theo thượng sách: để cho địch được toàn quân...” do đấy mà tha cho mười vạn hàng binh về nước. Như vậy hai chữ "toàn quân" ở đây là toàn quân địch, chứ không phải toàn quân ta. Hiện nay có bản dịch "Dư dĩ toàn quân vi thượng" là "Ta muốn toàn quân làm cốt” hoặc "Ta lấy toàn quân làm hơn”, theo cái ý "toàn quân" là toàn quân ta, không phải toàn quân địch. Nếu hiểu là toàn quân ta như thế thì trái với nghĩa câu "toàn quân vi thượng" của binh pháp cổ và có lẽ không đúng với ý của Nguyễn Trãi muốn diễn đạt ở đây. 5. Nguyên văn chữ Hán "Nhất nhung đại định" là rút ra từ một câu trong Kinh Thư: "Nhất nhung y, thiên hạ đại định" có nghĩa là "Một khi mặc áo nhung, tức áo chiến, thì thiên hạ được bình yên". Cả một ý dài như vậy mà rút lại thành 4 chữ "Nhất nhung đại định" nên rất khó dịch. Có bản tạm dịch là "một mảnh nhung y" hay "một tấm nhung y", có bản dịch chệch ra là "một gươm đại định", v.v... Ở đây chúng tôi tạm dịch lại câu này với ý muốn giữ được ý chính của 4 chữ "nhất nhung đại định", mà không chú trọng được nhiều tới thể thức hành văn.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 13138
|
|
« Trả lời #266 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2016, 09:08:36 pm » |
|
CHÍ LINH SƠN PHÚ
Thần long khởi hề phi Lam kinh Thiên qua chỉ hề sóc tái thanh Sáng nghiệp chi công thành bí tí Tây thổ chi sơn xuyên hữu linh Ê ngã hoàng chi thánh vũ Đương tứ phương chi kinh dinh Quốc bộ phương truân, tâm khốn lự hành Ký ư thiên nhi thủ tất, nãi lệ chí dĩ cánh thành Thử kim nhật sở dĩ hóa Hồ Việt vi nhất gia, nhi tư sơn đắc dĩ thiên cổ thùy danh dã Đương kỳ nghĩa binh sơ khởi, tặc thế phương trương Nhất quốc anh hào, thu diệp vẫn sương Chí thôn Ngô hề, thục Chủng thục Lãi Đồ hưng Hán hề, thục Bình thục Lương Ngã hoàng phương độn tích vu tư sơn, duy sản thái dĩ mai quang Thê tử lưu ly, sĩ tốt tán vương Tuy xử khốn nhi ích hanh, tri tương hưng chi hữu tường Cung giới trụ dĩ vi y, thực thái căn nhi vi lương Chí cấp cấp ư đồ hồi, tâm uất uất nhi bất vương
PHÚ NÚI CHÍ LINH
Rồng thiêng dậy, bay rợp Lam kinh1 Giáo trời chỉ, dẹp tan Bắc binh Dựng nước thành công nhiều khó nhọc Miền Tây2 sông núi hẳn anh linh Ôi! Vua ta tài thánh vũ Đứng lên bốn phương kinh dinh. Vận nước gian truân, khổ tâm lo tính Thấy lẽ tất yếu của trời, càng quyết trí để nghiệp thành Nhờ thế ngày nay Hồ Việt được một nhà, mà núi này cũng lưu danh muôn thuở Khi nghĩa quân mới dấy là lúc thế giặc đương hăng Anh hào cả nước lưa thưa như lá thu gặp sương3 Chí nuốt giặc Ngô, ai Chủng, ai Lãi Mưu dựng nghiệp Hán, ai Bình, ai Lương4 Vua tạ ẩn náu núi này, đành bặt tăm hơi, bưng kín ánh sáng Vợ con lưu lạc, quân sĩ tha phương Trong cảnh khốn vẫn bền lòng, vững tin ở ngày hưng vượng Lấy giáp sắt làm áo mặc, lấy rễ rau làm quân lương Chí rộn ràng lo khôi phục, lòng u uất thật khôn lường ___________________________________ 1. Lam Kinh là Lam Sơn, quê của Lê Lợi, từ khi Lê Lợi lên làm vua, tại đó có xây dựng cung điện nên gọi là Lam Kinh. 2. Miền tây, hay Tây thổ, Tây kinh, Tây đô đều chỉ miền Thanh Hóa thời bấy giờ. 3. Mùa thu, lá cây bị khô rụng, gặp sương càng rụng nhiều. Ý câu này muốn nói anh hào cả nước ít ỏi quá. 4. Thời xưa, ở Trung Quốc, nước Việt bị nước Ngô đánh chiếm, về sau vua nước Việt là Câu Tiễn được những người có tài là Văn Chủng, Phạm Lãi giúp sức, đánh thắng được nước Ngô, khôi phục được nước Việt. Khi nhà Hán khởi nghiệp, Lưu Bang cũng được những người có tài như Trương Lương, Trần Bình giúp sức, nên đánh được nước Tần, diệt được nước Sở, dựng nên cơ đồ đế vương ở Trung Quốc. Tới đây Lê Lợi cũng muốn có được những người tài như thế.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 13138
|
|
« Trả lời #267 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2016, 09:11:07 pm » |
|
Tưởng tư sơn ư thử thời hề, khởi bất tự hồ Hán hoàng chi tại Mang Đãng giả da Do kỳ tri bỉ tri kỷ, năng nhược năng cường Đãi thời tứ tệ, thu phong liễm mang Chẩm tân nhi ngọa, huyền đảm nhi thường Tư tuyết tiền sỉ, dĩ phục cố cương Tưởng tư sơn ư thử thời hề, khởi bất tự hồ Cối Kê chi thê Việt vương giả da Ký nãi thu kỳ tàn tốt, phủ dưỡng ích cần Nội tu chiến cụ, ngoại thác hòa thân Quyên kim mộ sĩ, sát tượng hưởng quân Nhân hoài thân thượng dĩ tử trưởng, tư dục hiệu lực dĩ thù ân Ư thị: luyện binh tuyển tướng, chế thắng xuất kỳ Sinh nhục tử vinh, tri ngã quân chi khả dụng Hầu lương khí giới, giai nhân địch dĩ vi ti Vạn toàn dĩ thủ, nhất thốc bất di Cầm Bành khể tảng dĩ hiến địa Phương Chính hư hát nhi động nghi Nãi cứ hiểm nhi lập công Hựu đa phương dĩ ngộ chi Dạ tắc cử hoả, trú tắc trương kỳ Đỗ Gia chi xâm địa tranh tiện Khả Lưu chi độ giang trầm si Lôi khu điện xiết, trúc phá khôi phi Chu Kiệt hạm xa, Hoàng Thành bộc thi
Tưởng núi này lúc ây khác nào đất Mang Đãng khi Hán hoàng khởi nghiệp1 Biết người, biết mình, khi mềm, khi mạnh Chờ thời, rình mệt, giấu nhọn, che sắc Gối củi nằm gai, ngậm cay nuôi đắng Lo rửa nhục trước, giành lại quê hương Tưởng núi này khi đó, khác nào đất Cối Kê2 thời Việt vương ẩn náu Thế rồi, thu nhặt tàn quân, nuôi dưỡng ân cần Trong sửa chiến cụ, ngoài giả hòa thân Quyên tiền mộ lính, giết voi khao quân Ai cũng thân người trên, chết cho người trưởng, cố sức để đền ân Từ đấy, luyện quân kén tướng, đánh địch ra kỳ3 Chết vinh hơn sống nhục, biết quân ta dùng được Lấy của giặc đánh giặc, thu quân lương vũ khí Vẹn toàn vững kế, một mũi tên không để phí Cầm Bành rạp đầu dâng đất Phương Chính khiếp vía chạy dài Bèn giữ hiểm để lập công Lại nhiều phương lừa đánh địch Đêm lửa đốt, ngày cờ bay Sớm chiếm Đỗ Gia, giành thế tiện trên núi ấy Trước vượt Khả Lưu, đánh đắm địch tại sông này Sấm ran chớp giật, trúc chẻ tro bay Chu Kiệt bỏ cũi, Hoàng Thành phơi thây _______________________________________ 1. Mang Đãng: vùng núi ở Giang Tô. Lưu Bang trước khi dấy binh đánh Tần thường ẩn náu tại đây. 2. Cối Kê là tên một dãy núi, khi Việt vương Câu Tiễn bị nước Ngô đánh bại, phải tới đó nương náu và xây dựng lại lực lượng, rồi cũng từ đó tiến ra khôi phục đất nước. 3. "Xuất kỳ" hay "ra kỳ" là một khái niệm quân sự cổ. Xuất kỳ nghĩa đen là ra kỳ binh, nghĩa rộng là biến hoá linh hoạt các phép đánh. Trong binh pháp xưa có nói: "thiện xuất kỳ giả, vô cùng như thiên địa, bất kiệt như giang hà; chung nhi phục thủy, nhật nguyệt thị dã; tử nhi phục sinh, tứ thời thị dã...", có thể dịch là “giỏi ra kỳ thì biến hoá vô cùng như trời đất, cuồn cuộn chảy như nước sông vô tận, hết rồi lại bắt đầu như mặt trời mặt trăng, đã qua rồi lại đến như bốn mùa thay đổi vậy...". Ở đây, Nguyễn Trãi đã dùng chữ "ra kỳ" theo nghĩa rộng của binh pháp xưa, để nói lên rằng nghĩa quân Lam Sơn đã giỏi vận dụng linh hoạt các cách đánh, phù hợp với tình huống cụ thể của từng trận đánh, để thắng giặc.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 13138
|
|
« Trả lời #268 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2016, 09:16:11 pm » |
|
Nghệ An chi địa dĩ vi ngã hữu Tây Đô chi tiệp, tật ư tiêu trì Giáp đạo hồ tương, lai giả như qui Hào kiệt hàm phẫn dĩ thiết xỉ Phụ lão cảm khấp nhi hư hi Ngã chi quân thanh nhật dĩ ích chấn Tặc chi bôn mệnh, nhật dĩ ích bì Ninh Kiều chi băng đê hội nghĩ Tốt Động chi kính phong tồi nuy Trần Hiệp, Lý Lượng chi thâm khanh trụy hổ Vương Thông, Mã Kỳ chi phí đỉnh ngư nhi Vạn Lý chi sơn hà khắc phục Đông Đô chi thị tứ bất di Đương thử chi thời khởi bất tự hồ Hán Cao Cai Hạ tứ diện chi vi giả da Nại hà, cuồng lỗ chi tham tâm bất trấp Cử quốc chi viện binh phục lai Dĩ du cứu phần, lạc họa hạnh tai Liễu Thăng tống tử nhi Chi Lăng lưu huyết Mộc Thạnh tiêu độn nhi Lãnh kinh tích hài Lưỡng lộ cứu binh, bất toàn chủng nhi câu bại Các xứ tặc thành, bất huyết nhận nhi tự khai Trạo vĩ khất lân, thành thiết khảm ai Đương thử chi thời khởi bất tự hồ Câu Tiễn chi khốn Ngô vương ư Cô Tô đài giả da
Đánh Nghệ An, đất thuộc về ta Thắng Tây Đô, tin như bão dậy Giỏ cơm bầu nước, người xin theo đông như hội trẩy Hào kiệt căm thù tức giận nghiến răng Phụ lão cảm khích mừng vui rơi lệ Ta quân thanh ngày càng lừng lẫy Giặc sinh mệnh ngày một hao gầy Trận Ninh Kiều như đê vỡ kiến trôi Trận Tốt Động như gió rung cây gãy1 Trần Hiệp, Lý Lượng, như hổ ngã hầm sâu Vương Thông, Mã Kỳ, như cá trong vạc cháy Non sông muôn dặm đã thu lại Chợ búa Đông Đô chẳng đổi thay Lúc đó khác nào Hán Cao tổ thuở trước bốn mặt đem quân bao vây Cai Hạ2 Vậy mà lũ giặc cuồng, lòng tham tối mắt Đưa viện binh bên nước sang đây Đem dầu chữa cháy, lấy họa làm hay Liễu Thăng bỏ xác, Chi Lăng lai láng máu Mộc Thạnh trốn đêm, Lãnh kinh tràn ngập thây Cứu binh hai đạo, chân quay chưa kịp đã thua dài Thành giặc các nơi, đầu cúi chịu hàng không máu vấy Thảm thiết kêu xin, vẫy đuôi van lạy Lúc ấy khác nào Câu Tiễn bức khốn vua Ngô ở Cô Tô đài thuở trước _____________________________________ 1. Cùng một hình ảnh "đê vỡ, kiến tan", Nguyễn Trãi đã viết theo hai cách. Trong Chí Linh sơn phú, Nguyễn Trãi viết là "băng đê hội nghĩ”. Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi viết là "hội nghĩ ư băng đê". Chúng tôi chưa nắm được thực ý của Nguyễn Trãi trong hai cách viết này. Trong Bình Ngô đại cáo, chúng tôi dịch theo ý "kiến đục vỡ đê” (quyết hội nghĩ ư băng đê). Trong Chí Linh sơn phú, chúng tôi dịch theo ý "đê vỡ kiến tan" (băng đê hội nghĩ). Cả hai ý này đều có nghĩa. Hiện nay, các bản dịch cũng thường dịch theo hai ý này. 2. Cai Hạ là nơi Hạng Vũ bị Lưu Bang vây khốn.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 13138
|
|
« Trả lời #269 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2016, 09:17:08 pm » |
|
Tuy nhiên Hán Cao tổ chi qui mô hoằng viễn, chính tự ngô hoàng kim nhật chi thịnh Câu Tiễn đặc thủ kỳ phục thù chi chí nhi dĩ, khởi túc dĩ nghĩ nghị kỳ vạn nhất tai Chí nhược, thần vũ bất sát, đại đức hiếu sinh Niệm quốc gia trường cửu chi kế Phóng thập vạn khất hàng chi binh Tu lưỡng quốc chi hòa hảo Tức vạn thế chi chiến tranh Toàn quốc vi thượng duy đồ tập ninh Thị tắc ngã hoàng chi thịnh đức, hựu khởi Cao tổ đồng nhật chi câu ngữ Tương dữ nhị đế tam vương nhi tịnh xưng giả dã Ta hồ, cổ vãng kim lai, bách thế khả suy Nghiêu hưng Đường hầu, Thuấn khởi trắc vi Thành Thang chi tai tự Bạc, Thái vương chi thiên vu Kỳ Cái đa nạn nãi hưng bang chi bản Nhi ân ưu thực khải thánh chi ky Lịch biến đa tắc tư lự thâm Kế sự viễn tắc thành công kỳ Đế vương chi hưng, mạc bất do ty Nhiên tắc ngã hoàng hưng vương chi nghiệp, thực do thử sơn nhi sáng thủy Nhi ngã hoàng chi long công thịnh đức, trường dữ thử sơn nhi nguy nguy giả hồ Nãi bái thủ khể thủ nhi hiến ca viết Thiên khải thánh hề địa hưng vương Càn khôn thảo muội hề vận tế phi thường Đổ Linh Sơn chi nga nga hề, niệm tích nhật chi gian khổ Phủ vương nghiệp chi du cơ hề, hà nhật năng vương Nguyện kỷ thịnh đức dĩ lặc trinh mân hề, vĩnh thuỳ bất hủ Cắng thiên cổ dữ vạn cổ hề, đồng thiên địa nhi trường cửu.
Nhưng thịnh đức của vua ta ngày nay, chỉ quy mô rộng lớn của Hán Cao tổ mới sánh kịp Còn như Câu Tiễn, ngoài chí phục thù là đáng kể, thì trong muôn phần không so được với vua ta Đến như: uy thần chẳng giết, đức lớn hiếu sinh Nghĩ kế nước nhà trường cửu Tha cho mười vạn hàng binh Gây lại hòa hảo cho hai nước Dập tắt chiến tranh cho muôn đời Địch phải theo thượng sách: nước vẹn toàn1, dân được an ninh Như thế thì thịnh đức của vua ta Cao tổ nhà Hán sánh sao kịp Vua ta phải ngang hàng với hai đế ba vương2 lừng danh thuở trước Than ôi! Xưa đi nay lại, trăm đời nên nghĩ Nghiêu nổi dậy từ Đường hầu, Thuấn khởi nghiệp tự hàn vi Thành Thang dấy nghĩa nơi đất Bạc, Thái vương khởi binh tại núi Kỳ Nhiều hoạn nạn là nền dựng nước Lắm lo toan là gốc trị vì Biến cố trải nhiều thì suy nghĩ sâu Mọi việc lo trước thì thành công kỳ Nổi nghiệp đế vương, không thể khác thế Vậy thì vua ta dựng nghiệp thật đã tự núi này trở đi Công cao đức cả của vua ta cũng sẽ cùng núi này hùng vĩ muôn đời Bèn cúi đầu chắp tay, dâng lời ca rằng Trời sinh vua thánh, đất dấy nghiệp vương Càn khôn mờ mịt, vận hội phi thường Nhìn Linh Sơn cao vút, nhớ những ngày gian khổ Vỗ nghiệp vương bền vững, không một ngày xao lãng Xin ghi thịnh đức vào đá, lưu truyền bất hủ Ngàn vạn đời sau, vẫn cùng trời đất dài lâu _________________________________ 1. "Toàn quốc vi thượng” là chữ có sẵn trong binh pháp cổ (xem chú thích số 29) có nghĩa là "giữ được toàn vẹn nước địch là thượng sách". Ở đây, không thể hiểu "toàn quốc vi thượng" là "ta lấy việc giữ toàn vẹn nước địch, tức nước Minh, làm thượng sách", vì ta không đem quân sang đánh nước Minh, và Nguyễn Trãi cũng không nói là “Dư dĩ toàn quốc vi thượng", như đã nói "Dư dĩ toàn quân vi thượng" trong Bình ngô đại cáo. Nhưng nếu hiểu là "ta lấy việc giữ toàn vẹn nước ta làm thượng sách" hay "giữ vẹn nước là hơn” hoặc "chỉ cần vẹn đất" thì trái với nghĩa "toàn quốc vi thượng" của binh pháp cổ. Ở đây, chúng tôi hiểu Nguyễn Trãi muốn nói là ta buộc địch phải theo binh pháp xưa, lấy "toàn quốc vi thượng" tức "chúng phải rút quân về, lấy việc giữ toàn vẹn nước địch làm thượng sách”, do đấy mà nước ta an toàn, dân ta được nghỉ. Chúng tôi đã dịch theo ý đó. 2. Hai đế ba vương (nhị đế, tam vương): nhị đế là Nghiêu và Thuấn. Tam vương là Phục Hi, Thần Nông, Hoàng đế. Đây là tên những vua trong truyền thuyết Trung Quốc.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
|