Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 06:11:50 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Điện Biên Phủ trên không  (Đọc 21292 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« vào lúc: 16 Tháng Tư, 2016, 08:18:39 am »

        - Tên sách: Điện Biên Phủ trên không-Chiến thắng của ý chí và trí tuệ Việt Nam
        - Tác giả: Lưu Trọng Lân
        - Nhà xuất bản: Quân đội Nhân dân
        - Năm xuất bản: 2002
        - Số hoá: ptlinh, Đánh đông dẹp bắc
        - Hiệu đính: Giang tvx






        “Dù đế quốc Mỹ lắm súng nhiều tiền, dù chúng có B57, B52 hay “Bê” gì đi nữa, ta cũng đánh. Từng ấy máy bay,từng ấy quân Mỹ chứ nhiều hơn nữa ta cũng đánh, mà đã đánh là nhất định thắng”

LỜI CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH              
Tại Quân chủng Phòng không Không quân        
(ngày 19 tháng 7 năm 1965)
               
     



LỜI TỰA        
CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP
       




       Tháng 12 năm 1972, Tổng thống Nixơn đã huy động lực lượng không quân mạnh nhất của Mỹ - máy bay B52 - mở cuộc tập kích chiến lược chưa từng có, nhằm tàn phá Thủ đô Hà Nội và thành phố Cảng Hải Phòng, tàn sát quân và dân ta với quy mô lớn.

        Với hành động bạo ngược ấy, Nixơn muốn buộc Việt Nam phải đầu hàng, phải chấp nhận những điều sửa đổi có lợi cho Mỹ trong hiệp định đã được thỏa thuận.
        
        Một sự bất ngờ mà Mỹ không hề lường đã diễn ra. Lực lượng phòng không và không quân ta cùng với quân và dân đã đánh bại cuộc tập kích chiến lược của Mỹ, gây cho chúng những tổn thất hết sức nặng nề, buộc chúng phải chấm dứt hành động ngông cuồng, phải ngồi lại bàn đàm phán, ký kết hiệp định Pa-ri với những điều khoản đã thỏa thuận, không có chút thay đổi nào.
        
        Chiến thắng vang dội của quân và dân ta trên bầu trời Hà Nội, chiến thắng được mệnh danh là "Điện Biên Phủ trên không" sẽ mãi mãi sáng ngời trong sử sách, chính là chiến thắng của tinh thần quyết chiến quyết thắng, không gì quý hơn độc lập và tự do, của tinh thần thông minh và trí tuệ đặc biệt của dân tộc Việt Nam, đối với khối lượng sắt thép và đô la khổng lồ của đế quốc Mỹ. Con người đã thắng vũ khí; Chí nhân đã thắng tàn bạo; Chính nghĩa đã thắng phi nghĩa.

        Tập sách "Điện Biên Phủ trên không" của đồng chí Lưu Trọng Lân đã góp phần làm rõ chân lý ấy.


Hà Nội, tháng 5 năm 2001            
Đại tướng VÕ NGUYÊN GIÁP        



        
LỜI GIỚI THIỆU
       
        Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược của dân tộc ta đã giành được thắng lợi hoàn toàn, kết thúc bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975. Để đi đến thắng lợi cuối cùng, dân tộc ta đã phải trải qua biết bao khó khăn, gian khổ, mất mát và hy sinh, đồng thời cũng đã lập nên biết bao chiến công hiển hách. "Điện Biên Phủ trên không" là một trong những chiến công như thế.
      
        Vào tháng 10 năm 1972 lẽ ra giữa ta và Mỹ đã đi tới một hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam như đã thỏa thuận, nhưng phía Mỹ đã bội ước, đưa máy bay chiến lược B52 đến ném bom Hà Nội, Hải Phòng.
      
        Mưu đồ của Tổng thống Ních-xơn và tập đoàn hiếu chiến Mỹ là dùng sức mạnh của B52, con chủ bài cuối cùng, để ép ta trên bàn đàm phán, hòng buộc ta phải chấp nhận những điều kiện áp đặt của họ.
        
        Nhưng, cuộc tập kích chiến lược ồ ạt và tàn bạo bằng B52 của Mỹ đã thất bại nhục nhã. Trên 80 máy bay Mỹ bị bắn rơi, trong đó có hơn 30 chiếc là B52, cùng nhiều phi công Mỹ bị bắt. Bị tổn thất quá nhiều về máy bay chiến lược, không ép được ta bằng thế mạnh, lại bị nhân dân trong nước Mỹ và trên thế giới phản đối kịch liệt, Ních-xơn đã phải ra lệnh chấm dứt không điều kiện cuộc tập kích, phải chịu thua trên bầu trời Hà Nội, để rồi sau đó buộc phải chấp nhận thêm cuộc thua trên bàn đàm phán ở Pa-ri.

        Hiệp định Pa-ri đã được ký vào ngày 27 tháng 1 năm 1973, Mỹ cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, cam kết sẽ không dính líu về quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam, cam kết rút hết quân Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ về nước...

        "Mỹ cút" tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho nhân dân ta tiến lên đánh cho "ngụy nhào". Miền Nam nước ta được hoàn toàn giải phóng, đất nước ta hoàn toàn độc lập, thống nhất, kết thúc trọn vẹn sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo.

        Đã 30 năm kể từ ngày quân dân ta đánh thắng cuộc tập kích chiến lược bằng B52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng, nhưng vẫn còn nhiều người trong nước và trên thế giới chưa hiểu tại sao nhân dân Việt Nam thắng được không quân chiến lược Mỹ. Nhiều bạn trẻ trong những dịp "về nguồn" đã nêu khá nhiều câu hỏi xoay quanh sự kiện đánh thắng B52.

        Đồng chí Lưu Trọng Lân, nguyên là Phó trưởng phòng Tác huấn, Bộ Tham mưu Quân chủng Phòng không - Không quân đã dày công nghiên cứu, sưu tầm và trên cơ sở những tư liệu xác thực, khá phong phú, đã đưa ra những lời giải đáp sáng sủa trong cuốn sách mang tên: "Điện Biên Phủ trên không" - chiến thắng của ý chí và trí tuệ Việt Nam, góp phần giúp bạn đọc hiểu thêm về lý do tại sao quân dân ta đánh thắng được cuộc tập kích chiến lược bằng B52 của Mỹ tháng 12 năm 1972.

        Tập sách bổ sung khá nhiều nội dung bổ ích cho những bài đã viết và cho những quyển sách đã xuất bản về chiến thắng của trận đánh đất đối không lịch sử này. Với cách trình bày theo lối vấn đáp, tác giả Lưu Trọng Lân đã tập trung bám sát vào những vấn đề mà người đọc trong và ngoài quân dội quan tâm, do đó tập sách khá sinh động và hấp dẫn.

        Tôi thực sự đã bị nội dung của tập sách cuốn hút một mạch từ đầu chí cuối.

        Mặc dù tác giả đã có nhiều cố gắng sưu tầm, biên soạn, nhưng tập sách chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Mong được bạn đọc góp ý, bổ sung để tập sách đầy đủ hơn khi tái bản.

        Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2001.        
Thiếu tướng, Giáo sư ĐOÀN HUYÊN              
Nguyên Phó tư lệnh                        
Quân chủng Phòng không - Không quân            
kiêm Tư lệnh Binh chủng Tên lửa.              
« Sửa lần cuối: 09 Tháng Hai, 2021, 10:34:03 am gửi bởi ptlinh » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #1 vào lúc: 16 Tháng Tư, 2016, 04:03:24 pm »

       
LỜI NÓI ĐẦU
       
        Trong những năm qua, tôi may mắn được nhiều lần đến các cơ quan, đơn vị, các xí nghiệp, nhà trường, giao lưu và nói chuyện về lịch sử, truyền thống cách mạng, truyền thống quân đội với thế hệ trẻ thành phố Hồ Chí Minh, cả trong và ngoài quân đội, nhân những ngày lễ lớn của dân tộc.
       
        Qua những lần tiếp xúc ấy, tôi cảm nhận các bạn trẻ nắm khá tốt những vấn đề cơ bản có liên quan đến các sự kiện lịch sử, như chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, chiến thắng Tết Mậu Thân năm 1968, chiến thắng "Điện Biên Phủ trên không" năm 1972, đại thắng mùa Xuân năm 1975. Tuy nhiên, bên cạnh đó, tôi cũng lắng nghe được nhiều ý kiến thắc mắc khá lý thú, những lời đề nghị chân thành mong được giải thích sâu hơn về các sự kiện. Để đáp ứng yêu cầu đó, tôi dự định viết vài cuốn sách với hy vọng trả lời những thắc mắc nói trên của cácbạn trẻ.
       
        Ở đây tôi chỉ xin đề cập đến "Chiến dịch phòng không 12 ngày đêm" (Chú thích: Thực tế diễn ra: 11 ngày, 12 đêm, nhưng nếu tính cả ngày 18 tháng 12 là thời điểm cả ta và địch đều chuẩn bị, thì phải kể là 12 ngày, 12 đêm. Thí dụ ở căn cứ Guam, địch đã chuẩn bị máy bay, bom đạn từ sáng sớm, 12 giờ trưa B52 đã bắt đầu cất cánh.) của quân dân ta đánh thắng cuộc tập kích chiến lược đường không bằng B52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng tháng 12 năm 1972, chiến thắng "Điện Biên Phủ trên không".
       
        Với hàng loạt câu hỏi được đặt ra, rải rác, nhiều khía cạnh, tôi đã hệ thống lại và cố gắng đi sâu nghiên cứu để tìm ra lời giải đáp. Có thể chưa thỏa mãn được yêu cầu và chắc chắn còn nhiều thiếu sót, nhưng qua cuốn sách này tôi xin mạnh dạn cung cấp đến bạn đọc, nhất là các bạn trẻ, những điều lý giải về hai vấn đề quan trọng sau đây:
       
        1. Nguyên nhân vì sao quân dân ta đánh thắng được không quân chiến lược B52 của Mỹ.
       
        2. Ý nghĩa lớn lao của chiến thắng "Điện Biên Phủ trên không" đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta và ý nghĩa quốc tế của nó.
       
        Đây là hai vấn đề lớn và khá phức tạp. Để giúp bạn đọc dễ hình dung, tôi xin lần lượt trình bày những điều cần giải đáp dưới dạng câu hỏi và trả lời.
       
        Xin chân thành cảm ơn các cơ quan, các tướng lĩnh, bè bạn đã giúp tôi nhiều ý kiến bổ sung quý báu, cung cấp cho tôi nhiều tư liệu cần thiết phục vụ cho việc biên soạn tập sách này.
       
        Rất mong quý bạn đọc cho lời nhận xét và góp ý thêm.

TÁC GIẢ       
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #2 vào lúc: 16 Tháng Tư, 2016, 04:11:55 pm »

               
VÌ SAO TỔNG THỐNG MỸ NÍCH-XƠN ĐƯA
KHÔNG QUÂN CHIẾN LƯỢC B52 NÉM BOM
HÀ NỘI, HẢI PHÒNG CUỐI THÁNG 12 NĂM 1972
       
        Câu hỏi 1: Nghe nói từ tháng 10 năm 1972 giữa Việt Nam và Mỹ đã có một bản thỏa thuận ngừng bắn. Tại sao sau đó Mỹ lại đưa B52 ném bom Hà Nội?
       
        Đáp: Từ đầu tháng 3 năm 1972, theo lệnh của Tổng thống Ních-xơn, tác giả của chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", Không quân và Hải quân Mỹ đã sử dụng hỏa lực tối đa (pháo binh và máy bay) để hỗ trợ cho quân đội Sài Gòn trên mọi mặt trận ở miền Nam nước ta.
       
        Sang tháng 4, với kế hoạch mang tên "Cuộc hành binh Lai-nơ-bếch-cơ I, Mỹ lại tiến thêm một bước, đưa B52 đến ném bom Vinh, Thanh Hóa, Hải Phòng và mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai ra toàn miền Bắc, với mức độ hết sức khốc liệt. Trong nhiều tháng trời cuộc hội đàm ở Pa-ri lâm vào bế tắc.
       
        Để mở lối thoát cho cuộc đàm phán, trong cuộc họp kín ngày 8 tháng 10 ở biệt thự Lê-giê (Chú thích: Biệt thự Lê-giê của họa sĩ Fernand Léger tặng Đảng Cộng sản Pháp. Đảng Cộng sàn Pháp cho phái đoàn ta mượn làm nơi họp riêng với phía Mỹ.), phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chủ động đưa ra một bản dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam" (Chú thích: Nội dung bản dự thảo đã được Bộ Chính trị thông qua, trước khi Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ sang Pa-ri.). Sau hơn bốn ngày thương lượng, phía Mỹ đã chấp thuận những nội dung chính trong văn bản dự thảo do phía ta đưa ra và lấy đó làm cơ sở cho việc đàm phán giữa đôi bên, đồng thời thỏa thuận với ta một thời gian biểu cho việc ký kết và đi tới chấm dứt chiến tranh. Những thỏa thuận đó là:
       
        - Ngày 18 tháng 10 năm 1972: Mỹ chấm dứt ném bom trên bộ và ngừng rải mìn phong tỏa các cảng của miền Bắc Việt Nam.
       
        - Ngày 20 tháng 10: lễ ký tắt giữa cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Kít-xinh-giơ (Kissinger) được tiến hành ở Hà Nội.
       
        - Ngày 26 tháng 10: lễ ký kết hiệp định chính thức giữa bốn bên tham chiến (Chú thích: Bốn bên là: Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Chính phủ Hoa Kỳ và Chính phủ Việt Nam cộng hòa.) tại Pa-ri.
       
        - Ngày 27 tháng 10: ngừng bắn trên toàn cõi Việt Nam, hòa bình ở Việt Nam được vãn hồi.
       
        Nhưng rồi phía Mỹ lại yêu cầu ta cho lùi thời gian biểu (21 tháng 10 ngừng ném bom, thả mìn; 24 tháng 10 ký tắt; 30 tháng 10 ký chính thức; 31 tháng 10 chấm dứt chiến tranh). Với thiện chí, phái đoàn ta chấp thuận lời đề nghị đó của Mỹ.

        Một tuần lễ sau, vào ngày 20 tháng 10, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận được thư của Tổng thống Ních-xơn (Richard Nixon) khẳng định:
       
        "Hiệp định coi như đã hoàn tất. Hãy tin vào chúng tôi là có thể ký kết được hiệp định như thời gian biểu đã thỏa thuận" (Chú thích: Hồi ký của Ních-xơn: The memoirs of Richard Nixon, Grosset Dunlop, NewYork, 1978).
       
        Vậy mà sau đó, lúc bản hiệp định chỉ còn chờ chữ ký để trở thành hiện thực thì Nhà Trắng lại ngang ngược phản lại những điều đã giao ước.
       
        Kít-xinh-giơ bỏ chuyến bay đến Hà Nội, thông báo trì hoãn ngày ký kết và ngày ngừng bắn, rồi đổ tại Nguyễn Văn Thiệu, tổng thống chính quyền Sài Gòn, không chịu ký.
       
        Thực ra, chuyện Nguyễn Văn Thiệu ngúng nguẩy, làm mình lảm mẩy, phản ứng kịch liệt với quan thầy Ních-xơn là điều có thật. Tuy nhiên mọi người đều thừa hiểu rằng "cái đuôi" Thiệu, cũng như anh em Diệm -Nhu trước đây, làm sao có thể chống lại được "cái đầu” của ông chủ Mỹ (Chú thích: Có lần Ních-xơn nói với Kít-xinh-giơ: "Không thể để có cái đuôi chó phản lại cái đầu con chó được". Hen ri Kissinger, Những năm tháng ở Nhà Trắng, Nxb Fayard, Paris, 1979.).
       
        Vừa để khỏi bị mang tiếng là bỏ rơi "đồng minh”, vừa để gây sức ép tối đa buộc phía ta phải chấp nhận những điều kiện của Mỹ, một âm mưu cực kỳ hiểm độc đã hình thành trong bộ óc hung bạo của Tổng thống Mỹ Ních-xơn: Đưa B52 ném bom Hà Nội, Hải Phòng, dùng sức mạnh hủy diệt của B52 làm áp lực để buộc Hà Nội phải quỳ gối. Đó là lý do của sự bội ước trắng trợn của Mỹ sau ngày 20 tháng 10 năm 1972, mà về sau chúng ta mới rõ thêm.
       
        Ngày 23 tháng 10, không quân Mỹ ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20, bắc Thanh Hóa, trở ra. Đây lại là trò lừa bịp mới nhằm làm cho thiên hạ tưởng lầm rằng Mỹ thiện chí. Thực chất của việc Mỹ không đánh phá phía bắc vĩ tuyến 20 nữa là để dồn lực lượng máy bay, bom đạn, khống chế quyết liệt tuyến giao thông vận chuyển của ta trên vùng "cán xoong", một địa bàn nhỏ hẹp, thắt lại giữa bản đồ đất nước, từ Nghệ An đến Vĩnh Linh. Mặt khác là để thu hút, lôi kéo lực lượng phòng thủ của ta từ Hà Nội vào Quân khu 4.
 
        Không thể đợi chờ và nín nhịn được nữa trước sự bội ước và thủ đoạn tráo trở của Hoa Kỳ, ngày 26 tháng 10 Chính phủ ta ra tuyên bố công khai lên án sự quay quắt lật lọng của Nhà Trắng. Người phát ngôn của Chính phủ ta, trước đông đảo các nhà báo quốc tế ở Pa-ri đã lên tiếng tố cáo: "Hòa bình đã ở đầu ngọn bút", nhưng chính phủ Mỹ đã trở mặt, phản lại những điều đã thỏa thuận. Dư luận Mỹ và thế giới xôn xao.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #3 vào lúc: 16 Tháng Tư, 2016, 04:16:17 pm »

        Bị ta vạch mặt, Kít-xinh-giơ buộc phải tổ chức họp báo. Vốn là một kẻ gian ngoan, để che giấu âm mưu đen tối một mặt Kít thừa nhận nội dung của phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa ra là đúng, mặt khác ông ta lại ỡm ờ thanh minh và lập lờ tuyên bố: "Thưa quý bà, quý ông! Sau mười năm diễn biến, cuộc chiến tranh đã đến hồi kết thúc. Chúng ta tin rằng Hòa bình đang ở trong tầm tay".
       
        Thủ đoạn xảo trá của Kít-xinh-giơ, thông qua màn khói "Hòa bình trong tầm tay" vậy mà đánh lừa và trấn an được dư luận Mỹ. Một cú lừa thật ngoạn mục. Niềm hi vọng của nhân dân Mỹ lại được hâm nóng: Chiến tranh ở Việt Nam sắp chấm dứt. Con em họ sắp được trở về. Kết quả là những lá phiếu tín nhiệm của cử tri lại dành cho Ních-xơn (Chú thích: Bằng thủ thuật nói trên, Ních-xơn đã thắng đối thủ Mắc Ga-vơn với 61% số phiếu. Mắc Ga-vơn đã gọi: "Ních-xơn là tên gian dối! Ních-xơn là tên lừa bịp".).
       
        Sau khi mọi việc được trót lọt, phần thắng trong cuộc bầu cử đã nắm chắc trong tay, trong khi chuẩn bị tiến hành một cuộc ném bom xuống thủ đô Hà Nội, Ních-xơn cho Kít-xinh-giơ bay sang Pa-ri họp tiếp với nhiệm vụ trì hoãn và gây bế tắc hội nghị.
       
        Dặn dò trực tiếp chưa đủ, khi Kít-xinh-giơ đã đến thủ đô nước Pháp, Ních-xơn còn bảo Chánh văn phòng Hen-đơ-men (H.R.Handerman) gọi điện mật nhắc nhở thêm: "Cần tránh những điều gì tỏ ra là chúng ta phá vỡ thương lượng. Nếu xảy ra tan vỡ thì phải là do phía Hà Nội gây ra. Trong bất cứ trường hợp nào phía chúng ta cũng không được tỏ ra là bên có sáng kiến chấm dứt thương lượng" (Chú thích: Theo Hồi ký của Ních Xơn)
       
        Những ngày của tháng 11 năm 1972 ở thủ đô nước Pháp, Kít-xinh-giơ đã gây ra lắm điều rắc rối cho hội nghị và liên tiếp giở trò "gắp lửa bỏ tay người". Ông ta đòi sửa 69 điều trong những điều mà hai bên đã thỏa thuận hồi tháng 10, lại đòi miền Bắc cùng rút quân, đòi miền Nam phải là một quốc gia riêng. Phía ta không nghe thì Kít đổ tội cho ta là thiếu thiện chí, là cản trở cuộc hội đàm tiến triển.
       
        Trong cuộc họp ngày 24 tháng 11, Kít-xinh-giơ hăm dọa: nếu các ông không tỏ ra biết điều, Tổng thống chúng tôi buộc sẽ ra lệnh ngừng đàm phán và tiếp tục các hành động quân sự mà hậu quả sẽ khó lường”.
       
        Ngày 6 tháng 12, Kít-xinh-giơ lại dọa dẫm: nếu cuộc thương lượng bị tan vỡ thì chiến tranh sẽ tiếp diễn với cường độ mạnh hơn. Đến lúc đó cuộc chiến tranh sẽ thay đổi tính chất, cuộc thương lượng cũng sẽ thay đổi tính chất. Mỹ sẽ không bàn bạc về hiệp định này nữa (Chú thích: Theo sách: "Cuộc đàm phán Pa-ri về Việt Nam” - Nguyễn Thành Lê -Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội – 1999).
       
        Ngày 7 tháng 12, Ních-xơn gửi điện mật báo cho Kít-xinh-giơ: "Chúng ta sẽ ném bom dữ dội Bắc Việt, nhưng sẽ không thông báo cho công chúng biết trước", và chỉ thị Kít-xinh-giơ vẫn phải tỏ ra mềm dẻo, tiếp tục "giữ cầu" đàm phán thêm một thời gian nữa. Thật là quỷ quyệt hết chỗ nói.
       
        Để có thể đi đến ký kết hiệp định hòa bình, trong những ngày này, phía ta đã có nhiều nhân nhượng, nhưng cũng có những điều không thể nào nhân nhượng nổi. Cuối cùng đến ngày 13 tháng 12, cuộc đàm phán hoàn toàn bế tắc, phải dừng lại.
       
        Cố vấn Lê Đức Thọ nhìn thẳng vào mặt Kít-xinh-giơ cảnh báo: "Các ông gieo gió ắt phải gặp bão". Hôm đó Cố vấn Lê Đức Thọ lên máy bay về Hà Nội, còn ông Kít-xinh-giơ bay về Oa-sinh-tơn.
       
        Trước khi rời Pa-ri, trước các nhà báo ở sân bay Oóc li (Orly), Kít-xinh-giơ lớn tiếng tố cáo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phá vỡ thương lượng (!?).
       
        Ngày 14 tháng 12, giống như một ung nhọt bị vỡ, dã tâm đen tối và thầm kín bấy lâu của Ních-xơn mở bung ra. Ông ta chính thức ra lệnh: "Hải quân tiếp tục rải thủy lôi phong tỏa các cảng và các cửa sông Bắc Việt. Không quân bắt đầu cuộc tiến công bằng B52 vào Hà Nội, Hải Phòng".
       
        Y lệnh tổng thống, theo một kế hoạch chiến dịch được Lầu Năm Góc chuẩn bị hết sức chu đáo, tỉ mỉ từ trước (Chú thích: Kế hoạch tuyệt mật này được thông qua ngày 30-11-1972, với sự tham gia bàn bạc của tổng thống Ních-xơn, cố vấn Kít-xinh-giơ, Bộ trưởng Quốc phòng Le-dơ (Laird), Thứ trưởng Quốc phòng Hây-gơ (Hang) và Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân (Mo-rơ) Moorer.), các tàu chiến Mỹ tiến hành việc thả thủy lôi, còn các phi công chiến lược ở Gu-am và U-ta-pao thì chuẩn bị sẵn sàng, để đến ngày 18 tháng 12 (theo giờ Hà Nội) lái những chiến oanh tạc cơ khổng lồ ầm ầm lao tới Thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
       
        Chiều 18 tháng 12, chiếc máy bay chở Cố vấn Lê Đức Thọ hạ cánh xuống sân bay Gia Lâm. Chỉ mấy giờ sau, những loạt bom đầu tiên của B52 Mỹ đã dội xuống Hà Nội.
       
        Màn kịch "hòa bình trong tầm tay" của mưu sĩ Kít-xinh-giơ có thể lừa bịp được ai đó, nhưng với nhân dân Việt Nam, một dân tộc dạn dày chống giặc ngoại xâm và vốn có tinh thần cảnh giác truyền thống thì không dễ bị đánh lừa. Quân dân Hà Nội, Hải Phòng, nhờ vậy đã bước vào cuộc chiến đấu một cách hoàn toàn chủ động và đã giáng cho không quân chiến lược Mỹ đòn thất bại nặng nề nhất.
       
        Tờ Bưu điện Oa-sinh-tơn (Washington Post), dưới dòng tít lớn "Đợt ném bom khủng bố nhân danh hòa bình" viết: "Thất bại này buộc Tổng thống Ních-xơn và cố vấn của ông ta phải chấp nhận trở lại những điều khoản mà cách đây ba tháng họ đã bác bỏ".
       
        Lẽ ra nếu Ních-xơn không tráo trở lật lọng, không phá vỡ những "thỏa thuận tháng 10", không ra lệnh tiến công Hà Nội, Hải Phòng bằng B52 thì ông ta có thể thua trong danh dự. Làm ngược lại, ông đã bị thua trong bi thảm tột cùng.

        Đó là hệ quả tất yếu của một âm mưu bẩn thỉu hiếm có trong lịch sử.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #4 vào lúc: 16 Tháng Tư, 2016, 04:23:11 pm »

                     
SỰ CHÊNH LỆCH LỰC LƯỢNG TO LỚN GIỮA VIỆT NAM VÀ MỸ
TRONG CUỘC ĐỐI ĐẦU QUYẾT LIỆT TRÊN VÙNG TRỜI HÀ NỘI, HẢI PHÒNG
 CUỐI THÁNG 12 NĂM 1972
       
        Câu hỏi 2: Để tiếng hành cuộc tập kích chiến lược đường không đánh vào Hà Nội, Hải Phòng cuối tháng 12 năm 1972, Mỹ đã sử dụng sức mạnh tối đa. Vậy so sánh lực lượng giữa ta và Mỹ lúc đó như thế nào ?
       
        Đáp: Đây là một sự chênh lệch lực lượng hết sức to lớn, khó tưởng tượng nổi. Cán cân sức mạnh vật chất, kỹ thuật nghiêng hẳn về phía Mỹ. Cụ thể là:
       
        A. Lực lượng quân sự được Nhà Trắng và Lầu Năm Góc (Chú thích: Nhà Trắng (The White House): trụ sở nhà cầm quyền Mỹ. Lầu Năm Góc (The Pentagon ): trụ sở Bộ Quốc phòng Mỹ) huy động vào chiến dịch tập kích, mà họ gọi là cuộc hành binh Lai-nơ-bếch-cơ II (Linebacker II) (Chú thích: Linebacker: được dịch là "Tiền vệ" hoặc "Người cứu bóng trước khung thành". Chiến dịch Linebacker I: từ 6-4-1972 đến 22-10-1972. Chiến dịch Linebacker II: từ 18-12-1972 đến 29-12-1972.), gồm có:
       
        - Gần một nửa số máy bay chiến lược B52 của toàn  nước Mỹ (193 trên tổng số 400 chiếc). Thực tế xuất kích: 663 lần chiếc.
       
        - Gần một phần ba số máy bay chiến thuật của toàn nước Mỹ (1.077 trên tổng số 3.041 chiếc). Thực tế xuất kích: 3.920 lần chiếc.
       
        - Một phần tư số tàu sân bay của toàn nước Mỹ (6 trên tổng số 24 chiếc), cùng nhiều tàu chỉ huy - dẫn dường, tàu khu trục, tàu tên lửa, tàu ra-da, tàu bảo vệ, tàu cấp cứu tàu sửa chữa. . . của Hạm đội 7 ở Thái Bình Dương.
       
        Đó là chưa kể 50 máy bay tiếp dầu trên không và một số lượng lớn những máy bay phục vụ khác như: máy bay gây nhiễu điện tử từ xa, máy bay trinh sát có người lái không người lái, tầng thấp, tầng cao, máy bay chỉ huy, dẫn đường, liên lạc, cấp cứu...
       
        Chỉ tính riêng không quân chiến thuật đã bằng tổng lực lượng của hai nước mạnh nhất châu Âu hồi đó gộp lại (Anh Quốc: 600 chiếc, Tây Đức: 500 chiếc).
       
        Số máy bay chiến lược, chiến thuật được Mỹ đưa vào cuộc tập kích lần này đều là những thứ vũ khí vào loại hiện đại bậc nhất thời ấy, phần lớn được cải tiến hoàn hảo hơn nhiều so với thời kỳ chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1965-1968), gồm các loại:
       
        - Máy bay chiến lược: B52 D, B52 G.
       
        - Máy bay chiến thuật: F111a, F4 D-E-J (thay F4C, F8), F105G (thay F105F), A4E, A6A, A7 (thay A4).
       
        - Máy bay gây nhiễu điện tử từ xa: EA6A, EB66 B-C D-E, EC121
       
        - Máy bay tiếp dầu trên không: KC 135
       
        - Máy bay trinh sát có người lái tầng thấp: RF4C, RA.5C.
       
        - Máy bay trinh sát không người lái tầng thấp: 147 SB-SC-SK, 147 SRE (trinh sát đêm).
       
        - Máy bay trinh sát có người lái tầng cao: SR71 (Chú thích: SR71: bay cao 30 ki-lô-mét, bay nhanh hơn 3 lần tốc độ âm thanh.)
       
        - Máy bay trinh sát không người lái tầng cao: BQM34A
       
        - Tên lửa không đối đất: ngoài loại Sơ-rai (Shrike AGM45) còn thêm loại Xtenđơ (Standard AGM78), hiện đại hơn, tầm phóng xa hơn.
       
        - Tên lửa nhử mồi Gờ-rin Quây (Green Quail): phóng từ đuôi B52, để thu hút tên lửa tìm nhiệt K13 của MIG21.
       
        - Thiết bị gây nhiễu điện tử: được cải tiến với công suất lớn hơn, cường độ mạnh hơn, tính chất phức tạp hơn, như ALQ87, ALQ100, ALQ101, ALE29, ALR18, QLT13, ALQ76.
       
        - Hệ thống điều khiển bom la de: ngoài loại ZOT, còn thêm loại mới KNAI hiện đại hơn.
     
        Căn cứ xuất phát của các loại máy bay Mỹ:
       
        Máy bay chiến lược B52 cất cánh từ căn cứ En-đơ-xơn (Anderson) trên đảo Gu-am giữa Thái Bình Dương và căn cứ U-ta-pao ở Thái Lan.
       
        Máy bay chiến thuật các loại cất cánh từ 6 sân bay ở Thái Lan (U-đon, U-bon, Tắc-li, Cò-rạt, Na-khon Pha-nol, Nậm Phong) và từ 6 tàu sân bay (Enterprise, America, Ranger, Kitty Hawk, Oriskany, Saratoga) đậu rải rác trên một khu vực rộng gọi là trạm Yân-ki (Station Yankee) ở Biển Đông, từ đông Thanh Hóa đến đông Đà Nẵng (Chú thích: các sân bay ở miền Nam Việt Nam không trực tiếp tham gia kế hoạch Linebacker II).
       
        Ngoài ra, tất cả các căn cứ hậu cần, kỹ thuật của quân đội Mỹ ở Đông Nam Á như căn cứ Cờ-lác (Clark), Su bích (Subic) ở Phi-lip-pin, cộng thêm căn cứ Ô-ki-na-oa ở Nhật Bản đều được sử dụng để phục vụ tối đa cho trận đại oanh kích này.
       
        Tóm lại, đây là một cuộc huy động lực lượng to lớn chưa từng có của đế quốc Mỹ từ sau đại chiến thế giới lần thứ hai, tính đến lúc ấy, cho một trận tập kích chiến lược đường không.
       
        Để chỉ huy chung hai căn cứ En-đơ-xơn và U-ta-pao, Lầu Năm Góc đã cấp tốc thành lập một bộ chỉ huy lâm thời, do tướng Vốt (John Vogt) làm tư lệnh, đóng ở U ta-pao. Bộ chỉ huy này đặt dưới quyền của Bộ chỉ huy Không quân chiến lược và Bộ Quốc phòng Mỹ. Cả một guồng máy chiến tranh khổng lồ, nằm trong tay Tổng thống Ních-xơn, người duyệt kế hoạch và là tổng tư lệnh tối cao.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #5 vào lúc: 17 Tháng Tư, 2016, 12:26:24 am »

        
        B. Về phía ta:
        
        Cuối năm 1972, bộ đội Phòng không - Không quân ta cùng một lúc phải đảm đương ba nhiệm vụ rất nặng nề: vừa tiếp tục tham gia tác chiến trong đội hình quân binh chủng hợp thành ở mặt trận phía Nam, bảo vệ vùng giải phóng Quảng Trị, vừa phải bảo vệ giao thông vận chuyển trên địa bàn Quân khu 4 và trên tuyến cửa khẩu vượt Trường Sơn, đồng thời phải luôn luôn sẵn sàng đánh trả một cuộc tập kích đường không quy mô lớn của đế quốc Mỹ vào Thủ đô Hà Nội và thành phố cảng Hải Phòng.
        
        Lực lượng phòng không ta buộc phải xé nhỏ ra để đáp ứng các yêu cầu chiến lược nói trên.
        
        Vùng trời Hà Nội, Hải Phòng lúc ấy được bảo vệ bằng một lực lượng thấp hơn nhiều so với thời kỳ cao điểm trong chiến tranh phá hoại lần thứ nhất diễn ra trước đó 5 năm.
        
        Lực lượng tên lửa bảo vệ Thủ đô của chúng ta khi bước vào chiến dịch chỉ có không tới 10 tiểu đoàn. Trước và sau đêm Nô-en tăng thêm vài tiểu đoàn nữa, được bổ sung từ nơi khác đến.
        
        Pháo cao xạ của Hà Nội, Hải Phòng cùng lực lượng của Quân khu 3, Quân khu Việt Bắc, đường 1 bắc, đường 1 nam cộng tất cả lại cũng chỉ được khoảng 15 trung đoàn.
        
        Lực lượng Dân quân Tự vệ của Hà Nội, ngoài 4 trung đội pháo cao xạ 100 ly, còn có gần 200 trận địa súng tầm thấp, từ súng trường, tiểu liên, trung liên đến đại liên 12,7 ly, 14,5 ly.
        
        Máy bay tiêm kích (Chú thích: Máy bay tiêm kích: máy bay đánh chặn hoặc săn đuổi máy bay đối phương trên bầu trời, khác với máy bay cường kích chuyên đánh phá mục tiêu mặt đất.) MIG 21, loại có tính năng vượt trên tầm cao của B52, có vài trung đoàn, nhưng số phi công có khả năng bay đêm lại không nhiều.
        
        Lực lượng ra-đa cảnh giới và dẫn đường cũng chỉ có non ba chục đại đội, được bố trí rải khắp miền Bắc.
        
        Lực lượng của ta chỉ có vậy. Tình hình có thể nói là "căng như dây đàn”, nhưng khả năng chỉ đến đó, dù muốn thêm nữa cũng không được, "lực bất tòng tâm".
  
        Trong khi căn cứ xuất phát của máy bay Mỹ là những phi trường siêu hạng, những hàng không mẫu hạm khống lồ, thì căn cứ của không quân ta, số lượng chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Trừ Nội Bài là sân bay cấp I, còn lại là những sân bay cấp II, cấp III thậm chí là những sân bay dã chiến mà đường băng làm bằng đất nén.
        
        Về mặt chất lượng, tuy chúng ta đã có ra-đa п35, máy bay MIG 21, tên lửa SAM 2, pháo cao xạ 57 và 100 ly được điều khiển bằng máy chỉ huy K6-60, K6-19 và ra-đa COH9, là những thứ khá hiện đại do Liên Xô giúp, nhưng chưa phải là hiện đại nhất. Trong lúc đó phía Mỹ đã tung ra phần lớn những gì hiện đại tối tân nhất của họ.
        
        Cơ quan đầu não chiến dịch của ta là Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân, đặt sở chỉ huy trong một hang đá gần Hà Nội, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #6 vào lúc: 17 Tháng Tư, 2016, 12:30:29 am »

        Trong căn phòng Sở chỉ huy không lấy gì làm rộng, dưới ánh sáng đèn nê-ông chạy bằng máy nổ, có khi được thay thế bằng những chiếc đèn măng sông, cùng những chiếc đèn bão ám khói, tù mù, các sĩ quan phương hướng của ta vẫn liên tục ghi chép, vẫn truyền được mọi mệnh lệnh từ trên xuống và nhận được mọi báo cáo từ dưới lên; các nam nữ "tiêu đồ viên (Chú thích: Tiêu đồ viên: nhân viên đánh dấu đường bay.) vẫn thu được những tín hiệu "tích tà, tích tà”, từ trên không trung vọng về để ghi lại chính xác những mũi tên xanh đỏ (Chú thích: Mũi tên xanh (hoặc đen) chỉ đường bay của không quân địch; Mũi tên đỏ chỉ đường bay của không quân ta.) lên tấm bản đồ đánh dấu đường bay bằng mi-ca; người chỉ huy Quân chủng vẫn có thể nhìn thấy được đầy đủ các tốp B52 từ khi chúng còn ở cách xa Hà Nội ngoài 300 ki-lô-mét để kịp thời ra lệnh báo động và giao nhiệm vụ chiến đấu cho các binh chủng, các sư đoàn. Ở Sở chỉ huy Binh chủng Không quân, các sĩ quan dẫn đường vẫn liên tục "đàm thoại" với các chiến sĩ lái máy bay trên trời - dù đôi lúc có khó khăn - đưa họ vượt qua hàng rào máy bay tiêm kích địch, tiếp cận B52, thậm chí cho đến lúc các phi công xin phép ấn nút phóng tên lửa tiêu diệt kẻ thù, vẫn không ngừng liên lạc.


Căn cứ xuất phát và đường bay của B52 cùng máy bay chiến thuật Mỹ vào đánh Hà Nội - Hải Phòng
(Tháng 12 năm 1972)
       
        Rạng sáng ngày 21 tháng 12, lời biểu dương quân dân Thủ đô đánh giỏi thắng to trong đêm 20 của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, qua Sở chỉ huy Quân chủng Phòng không - Không quân, vẫn được truyền đi toàn văn xuống khắp các đơn vị, làm nức lòng cán bộ, chiến sĩ.

        Ở đây không có máy tính điện tử hỗ trợ. Tất cả mọi tính toán phục vụ người chỉ huy đều được giải quyết thông qua những bộ óc thông minh, lanh lợi của các sĩ quan quân báo, tác chiến, thông tin, các cán bộ kỹ thuật, các sĩ quan dẫn đường... mắt quầng thâm vì thiếu ngủ. Chính cái cơ quan chỉ huy hết sức khiêm nhường và không mấy qui mô bề thế ấy, cùng một lúc đã phải đương đầu với hàng loạt sở chỉ huy hết sức hiện đại của các tập đoàn không quân chiến lược, chiến thuật của quân đội Mỹ, mà đằng sau chúng là những cơ quan chỉ huy cấp trên SAC, TAC, JCB (Chú thích: SAC (Strategic Air Command): Bộ chỉ huy không quân chiến lược. TAC (Tactical Air Command): Bộ chỉ huy không quân chiến thuật. JCS (Joint Chief of Staff): Hội đồng tham mưu Liên quân (giống như Bộ Tổng Tham mưu của ta).) và Lầu Năm Góc còn nhiều lần hiện đại, tối tân hơn nữa.
        
        Căn cứ vào những số liệu về địch, ta nói trên, chúng ta có thể đi đến kết luận: so với lực lượng phòng thủ, lực lượng phi công của Mỹ rõ ràng chiếm ưu thế hơn hẳn, có thể nói là áp đảo, với sự chênh lệch hết sức to lớn về vũ khí, trang bị kỹ thuật. Chính Ních-xơn, trong cuốn sách nhan đề "Không còn những Việt Nam nữa” (Chú thích: "Không còn những Việt Nam nữa": "No more Vietnams", Richard Nixon -Arbor House, New York - 1985.) cũng đã viết: "Trong lịch sử nhân loại chưa hề có một quốc gia nào chiếm ưu thế hơn hẳn về vũ khí như Hoa Kỳ so với Bắc Việt Nam...". Đúng vậy! Đây là một cuộc chiến không cân sức (Chú thích: Đương nhiên đây chỉ mới là sự so sánh lực lượng về phương diện vũ khí, kỹ thuật, chưa nói đến sức mạnh của ý chí, trí tuệ của con người Việt Nam, của chiến tranh nhân dân Việt Nam mà các chương sau sẽ đề cập đến.). Một số người dạo ấy đã rất phân vân lo lắng, không tin chúng ta có thể thắng nổi B52 của Mỹ.
        
        Tình hình đó đặt ra trước quân dân miền Bắc nước ta, nhất là Quân chủng Phòng không - Không quân một thử thách cực kỳ to lớn.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #7 vào lúc: 17 Tháng Tư, 2016, 12:38:35 am »

     
SỨC MẠNH CỦA KHÔNG QUÂN CHIẾN LƯỢC B52
       
        A. Điểm mạnh nhất của B52. Khó khăn lớn nhất của ta. Cách khắc phục.
       
        Câu hỏi 3: Sức mạnh thực tế của B52? Chỗ nào là điểm mạnh nhất và gây cho ta nhiều khó khăn nhất (Nhiễu điện tử? Hỏa tiễn Sơ-rai? Máy bay F111A?) Ta đã khắc phục những khó khăn đó như thế nào (Cuốn cẩm nang bìa đỏ? Gánh hát rong?)
       
        Đáp:
       
        a) Những lời quảng cáo uy hiếp tinh thần đối phương:

       
        Máy bay B52 bây giờ không còn là ghê gớm nữa, nhưng khi mới ra đời, nó đã từng được quảng cáo: "B52 là siêu pháo đài bay, pháo đài bay thượng đẳng, là thần tượng của không lực Hoa Kỳ; là sản phẩm hội tụ những thành tựu kỳ diệu nhất của nền công nghiệp hàng đầu thế giới; là thứ vũ khí linh hoạt nhất trong bộ ba vũ khí chiến lược của Mỹ (tên lửa tầm xa, tàu ngầm hạt nhân, máy bay ném bom chiến lược)... B52 trút bom như mưa. Tiếng bom rơi xé không khí, gầm rít ghê rợn như dông bão. Một phi vụ B52 có thể hủy diệt cả một vùng rộng lớn. Một tốp 3 chiếc B52 sẽ biến một diện tích hơn 2 ki-lô mét vuông thành bình địa... Không một sinh vật nào có thể tồn tại nổi dưới sức công phá ghê gớm của bom B52. Đối phương sẽ bị hủy diệt về quân sự, khiếp đảm về tinh thần, bởi vì họ cảm thấy hoàn toàn bất lực trước sức mạnh tàn phá ghê gớm của B52 mà họ không có cách gì chống đỡ nổi".
       
        Với sức mạnh khủng khiếp ấy, một sức mạnh có thật, để đe dọa ta, ngày 18 tháng 6 năm 1965, Mỹ đã cho 30 chiếc B52 từ đảo Gu-am bay vào "rải thảm" (Chú thích: "Rải thảm": ném bom kiểu rải thảm (carpet-bomb). Một đợt "rải thảm" của một tốp 3 chiếc B52 có sức tàn phá bằng một trận oanh tạc của 30 đến 40 máy bay cường kích.) vùng căn cứ của ta ở Long Nguyên, huyện Bến Cát, cách Sài Gòn 50 ki-lô-mét về phía bắc. Kèm theo là những lá truyền đơn in hình một chiếc B52 đang rắc bom, với những câu hăm dọa hãi hùng, dường như để giáng một đòn cân não lên tinh thần chiến đấu của nhân dân ta. Nhiều bạn bè trên thế giới lúc đó đã lo lắng cho số phận cuộc kháng chiến của Việt Nam.
       
        b) Sức mạnh thực tế của B52? Đâu là chỗ mạnh nhất?
       
        Kể ra những lời quảng cáo trên đây quả cũng không ngoa lắm.
       
        - B52 là loại pháo đài bay khổng lố, có uy lực rất lớn. Thân hình nó cao hơn 12 mét, dài hơn 49 mét, sải cánh hơn 56 mét, nặng trên 200 tấn.
       
        - B52 có 8 động cơ phản lực, nhờ vậy có thể mang được hơn 100 quả bom với tổng trọng lượng xấp xỉ 30 tấn, nghĩa là gấp khoảng 10 lần một máy bay cường kích F4 (Chú thích: Một chiếc B52D mang 84 quả bom trong khoang bụng và 24 quả đeo dưới cánh: với tổng trọng lượng 27 tấn.) .
       
        - B52 có tầm bay cao tới 20 ki-lô-mét, ném bom ở độ cao 17 ki-lô-mét, hiệu quả nhất là từ 9 đến 11 ki-lô-mét. Nó có thể bay xa nhiều ngàn ki-lô-mét không phải tiếp dầu (Chú thích: Một chiếc B52 đã được bay thử (không mang bom) từ căn cứ Ô-ki-na-oa (Nhật Bản) đến căn cứ Tô-rê-giôn (Tây Ban Nha) trên một chặng đường 20.000 ki-lô-mét. Chuyến bay kéo dài 21 giờ 52 phút, không phải tiếp dầu trên không.). B52 lại còn được máy bay tiêm kích bảo vệ rất chặt chẽ. Mỗi khi đi ném bom, B52 bay tối thiểu một tốp (3 chiếc), trung bình sáu tốp (18 chiếc), cao nhất có thể lên tới 31 hoặc 33 tốp (93 đến 105 chiếc). Đi kèm B52 là một lực lượng rất đông máy bay F4 hộ tống, trước, sau và hai bên sườn, cách B52 từ 18 đến 20 ki-lô-mét, tạo thành một "hàng rào không thể chọc thủng", chặn đứng mọi sự tiến công của máy bay MIG, để bảo vệ cho đội hình B52 an toàn khi bay vào, cũng như khi bay thoát khỏi vùng trời đối phương.
       
        - Để khống chế từ đầu hoạt động của không quân ta, những máy bay "cánh cụp cánh xòe" F111 được giao nhiệm vụ đến trước B52, bay thật thấp để tránh ra-đa phát hiện rồi bất ngờ lao vào ném bom các sân bay.
       
        Trong quá trình chiến dịch tập kích, cả ngày lẫn đêm, nhiều tốp máy bay chiến thuật của Mỹ gồm F111 ,F105, F4, A6, được phân công chế áp các trận địa ra-đa, cao xạ và tên lửa, bằng bom và bằng hỏa tiễn (cũng tức là tên lửa) không đối đất rất quyết liệt, nhằm triệt tiêu hỏa lực phòng không của ta, đồng thời tiếp tục đánh phá các sân bay, nhất là các đường băng cất, hạ cánh.
       
        - Khi vào đánh miền Bắc nước ta, B52 hoàn toàn bay đêm để loại trừ mọi khả năng quan sát bằng những ống kính nhìn xa của các đài quan sát dưới đất, của các trận địa pháo tầm cao và khả năng nhìn trực tiếp của các phi công MIG.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #8 vào lúc: 17 Tháng Tư, 2016, 12:45:22 am »

        Tuy nhiên, sức mạnh của không quân chiến lược Mỹ trong đợt tập kích này không chỉ ở tính chất ồ ạt của cuộc hành binh với số lượng lớn máy bay B52, máy bay tiêm kích, cường kích được đưa vào sử dụng, cùng với khối lượng bom đồ sộ và với thủ đoạn lợi dụng màn đêm, mà còn ở - đây là điều chủ yếu nhất - hệ thống gây nhiễu điện tử cực mạnh (trong cùng một lúc, tác động lên mọi dải tần số của ra-đa đối phương, khiến cho ra-đa đối phương hoàn toàn mất mục tiêu), tạo thành cái "áo giáp điện tử" vững chắc, một "tấm màn điện tử" che giấu toàn bộ lực lượng tiến công, biến mỗi chiếc B52 thành một "máy bay tàng hình" đúng nghĩa, trước mắt các chiến sĩ ta.
       
        Điều làm cho ta gặp khó khăn nhiều nhất chính là ở đó. Viên tướng Giôn Mai-ơ (John C.Mayer), Tư lệnh Không quân chiến lược Mỹ đã từng nói: "Chúng ta coi chiến tranh điện tử là con đường sống còn của không lực Hoa Kỳ". Chính vì vậy, nhiễu điện tử đã trở thành thủ đoạn chủ yếu nhất trong chiến dịch 12 ngày đêm.
       
        Trong trận "không tập đại qui mô" này, khối lượng khổng lồ về máy bay và bom đạn, của hai căn cứ cách xa nhau hàng ngàn cây số, cùng với tính năng siêu việt của các phương tiện điện tử, đã được bộ máy chiến tranh Mỹ tổ chức và điều hành một cách hết sức chặt chẽ, chính xác theo một chương trình vạch sẵn, biến tất cả các yếu tố tổng hợp ấy trở thành một lực lượng tiến công mạnh mẽ chưa từng thấy. Họ tin tưởng một cách chắc chắn rằng cuộc "hành binh Lai-nơ-bếch-cơ II" nhất định thắng.
       
        c) Nhiễu điện tử đã gây khó khăn cho chúng ta như thế nào
       
        Với các phương tiện trinh sát hiện đại, không quân Mỹ đã nắm được tất cả các dải tần số của những máy móc thông tin vô tuyến và các đài ra-đa của ta, từ sóng mét đến sóng xen-ti-mét.
       
        Bằng kỹ thuật điện tử tối tân, nền công nghiệp quân sự khổng lồ của Mỹ đã trang bị cho không quân của họ những máy gây nhiễu điện tử được chế tạo hết sức tinh vi, có công suất rất lớn, liên tục được cải tiến (Chú thích: Mỗi B52 mang trong mình nó 16 máy phát nhiễu tích cực, với dải tần rộng từ 100 đến 10.000 mê-ga-héc; 2 máy gây nhiễu tiêu cực, 2 máy thu tần số ra-đa của đối phương, không kể những ra-đa dẫn đường, ra-đa phát hiện mục tiêu, ra-đa ngắm bắn, ra-đa ngắm ném bom hết sức tinh xảo.) để làm nhiễu loạn toàn bộ hệ thống thông tin và vô hiệu hóa tất cả các đài ra-đa của đối phương, từ ra-đa cảnh giới đến ra-đa điều khiển tên lửa, ra-đa ngắm của pháo cao xạ, ra-đa dẫn đường cho máy bay và ra-đa ngắm bắn của phi công MIG.
       
        Nhiễu có nhiều loại:
       
        Nhiễu tích cực: là nhiễu bằng sóng điện tử phát ra từ những chiếc máy bay EA6A, EB66B, EC121 thường được gọi là những "nhà máy điện tử di động trên không" bay ở vòng ngoài, cách Hà Nội, Hải Phòng khoảng 60 đến 100 ki-lô-mét trên hai hướng đông, tây, để gây nhiễu mạnh từ xa, gọi là nhiễu ngoài đội hình. Nhiễu tích cực còn được phát đi từ những máy bay F4, F105, A6, A7 và từ bản thân mỗi chiếc B52 bay trong đội hình tiến công, tự che dấu đội hình bay, gọi là nhiễu trong đội hình.
       
        Nhiễu tiêu cực: là hàng triệu triệu sợi kim loại màu trắng bạc cực mỏng, nhẹ như tơ, bung ra từ những quả "bom" (Mỗi quả "bom" này mang 450 bó nhiễu. Mỗi bó bung ra hàng triệu, hàng triệu sợi kim loại.) do các máy bay F4 đến trước và cả từ bụng của B52 thả xuống, bay lơ lửng, giăng kín bầu trời, tạo thành một hành lang nhiễu dày đặc. Nó giống như một bức tường khổng lồ, cao từ 5 đến 7 ki-lô-mét, dày từ 1 đến 2 ki-lô-mét, dài từ 40 đến 70 ki-lô-mét, vắt qua thung lũng sông Hồng, chắn ngang mọi cánh sóng ra-đa của ta.
       
        Trong những đêm tháng 12 năm ấy, bầu trời bình yên của Hà Nội bỗng trở thành một vùng trời đầy máy bay và đầy nhiễu loạn.
       
        Màn hiện sóng của các trắc thủ, của sĩ quan điều khiển, giống như màn hình máy vi tính, mỗi khi bị nhiễu điện tử các loại tấn công, bỗng nhiên rối loạn hoàn toàn. Các dạng nhiễu cứ quét đi quét lại, đan chéo nhau, lồng vào nhau, rối tinh rối mù lên. Nhiễu trắng xóa cả màn hiện sóng, che lấp mọi tín hiệu phản xạ, khiến cho các chiến sĩ ta hết đường nhìn thấy tín hiệu mục tiêu.
       
        Địch lại còn gây nhiễu giả B52. Những chiếc máy bay F4 hoặc F111 bay thành từng tốp, cũng bay thăng bằng, tốc độ ổn định, ở độ cao khoảng 10 ki-lô-mét giống như B52. Đặc biệt là 4 chiếc trong từng tốp bay sát gần nhau, cùng phát nhiễu, tạo thành một dải nhiễu to trên màn hiện sóng khiến các trắc thủ ta tưởng lầm đó là dải nhiễu B52.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #9 vào lúc: 17 Tháng Tư, 2016, 01:13:19 pm »

        Nhiễu điện tử của không quân Mỹ đã gây cho ta những khó khăn hết sức to lớn. Hậu quả là trong những ngày đầu thiếu kinh nghiệm, bộ đội Phòng không - Không quân và nhân dân ta đã phải chịu nhiều tổn thất, hy sinh; đặc biệt là giữa tháng 4 năm 1972:
        
        - 3 giờ sáng ngày 10 tháng 4: 12 chiếc B52 cùng 38 máy bay chiến thuật ném bom Vinh, Bến Thủy ( Nghệ An).
        
        - 2 giờ 30 sáng ngày 13 tháng 4: 6 chiếc B52 cùng 64 máy bay chiến thuật ném bom Hàm Rồng, Thọ Xuân (Thanh Hóa).
        
        - 3 giờ sáng ngày 16 tháng 4: 9 chiếc B52 cùng 261 máy bay chiến thuật ném bom Hải Phòng (máy bay chiến thuật tiếp tục đánh phá cả ngày hôm sau).
        
        Trong ba đêm đó, ra-đa của ta phát hiện B52 rất khó khăn vì bị nhiễu nặng, còn tên lửa thì không bắn rơi được chiếc B52 nào.
        
        - 9 giờ sáng ngày 16 tháng 4, địch cho 60 máy bay chiến thuật bay vào vùng trời Hà Nội, trong đó có nhiều chiếc F4 bay cao 10 ki-lô-mét gây nhiễu giả B52. Ra-đa ta hoang báo: "B52 bay vào Hà Nội”. Ba chục quả đạn tên lửa được phóng lên những tốp F4 giả B52 ấy, nhưng không có chiếc nào rơi. MIG-21 của ta cất cánh tìm diệt "B52" nhưng bị lũ F4 tiêm kích khống chế quyết liệt nên được lệnh phải quay về.
        
        Ngày 16 tháng 4, hàng trăm đồng bào ta ở Hải Phòng bị bom Mỹ sát hại, kho xăng Đức Giang của Hà Nội bị thiêu hủy phần lớn. Một thực tế quá đau lòng! Đó là những ngày nặng nề nhất của bộ đội Phòng không - Không quân, đặc biệt là đối với những đơn vị tên lửa đã từng ghi đậm chiến công cùng quân dân miến Bắc đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ (1965-1968).
        
        Nhà bình luận Gờ-rin Út (Green Wood) nhận xét1: "Những trận ném bom của B52 giữa tháng 4 năm 1972, nhất là trận đánh vào Hải Phòng, đã làm mê mẩn các nhà vạch kế hoạch Mỹ".
        
        Hí hửng trước thắng lợi đó, các tướng lĩnh Lầu Năm Góc đã đưa ra những lời tuyên bố chắc như đinh đóng cột: "Bằng kỹ thuật điện tử, không lực Hoa Kỳ có thể bịt mắt toàn bộ hệ thống ra-đa của Bắc Việt; có thể vô hiệu hóa toàn bộ hệ thống phòng không của đối phương" , "Giờ đây không quân Mỹ có thể ném bom vào bất cứ mục tiêu nào trên lãnh thổ Bắc Việt Nam", "như đi dạo chơi vào chỗ trống. Họ khẳng định: "B52 là bất khả xâm phạm", "B52 chỉ có thể bị rơi do thời tiết, hoặc do trục trặc kỹ thuật chứ quyết không thể bị bắn rơi vì hỏa lực của bộ đội phòng không - không quân Bắc Việt".
        
        Họ hợm hĩnh, họ huênh hoang bởi vì họ quá tin vào khả năng tuyệt đối của nhiễu điện tử mà họ coi là niềm kiêu hãnh của nền công nghiệp hàng đầu của Mỹ, là sức mạnh siêu phàm, là lá bùa màu nhiệm giúp họ chiến thắng.
        
        Báo chí Mỹ có dịp nhắc lại câu nói ngạo mạn của Kít-xinh-giơ: "Nước Mỹ chúng ta mạnh đến mức trong vấn đề Việt Nam, từ "thất bại" không bao giờ thuộc về phía chúng ta".
        
        Thế nhưng, thực tế diễn ra trên bầu trời Hà Nội, Hải Phòng trong những đêm cuối tháng 12 năm 1972 đã hoàn toàn trái với mong đợi của những con "diều hâu" Mỹ. Ra-đa của ta không bị mù. Thông tin liên lạc của ta không bị gián đoạn. Hệ thống phòng không của ta không bị vô hiệu hóa. Ngược lại, cuối cùng quân dân ta đã giáng cho không quân chiến lược, chiến thuật Mỹ một đòn choáng váng.
        
        Thế giới lạ lùng. Kẻ thù sửng sốt. Tuần báo Hàng không (Hoa Kỳ) coi đây là: "Một cuộc chiến tranh phản điện tử quy mô lớn đầu tiên trên thế giới". Trong cuộc chiến tranh điện tử ấy, phe phản công (Việt Nam) đã thắng phe tiến công (Mỹ).

-------------
1. John T.Green Wood : "Cuộc chiến tranh Việt Nam", Nxb. Solamander, London, 1979
« Sửa lần cuối: 17 Tháng Tư, 2016, 01:26:53 pm gửi bởi Giangtvx » Logged

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM