Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 01:25:40 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Trận quyết chiến lịch sử Xuân 1975  (Đọc 26682 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #90 vào lúc: 07 Tháng Tư, 2016, 08:14:24 pm »

       
        Từ thực tiễn tổ chức bảo đảm cơ động trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, về phía công binh có thể rút ra mấy kết luận sau đây:

        a) Trong tác chiến hợp đồng binh chủng để bảo đảm cho các binh đoàn cơ động nhanh, kịp thời cơ chiến dịch, thì ngoài hệ thống đường chiến lược, chiến dịch hoàn chỉnh, thì phải có những phương thức bảo đảm cơ động thích hợp với từng tình huống cụ thể.
       
        b) Trong việc sử dụng lực lượng bảo đảm cơ động, nhất là trong bảo đảm cơ động chiến lược, lực lượng tại chỗ giữ vai trò chủ yếu. Đó là lực lượng rộng rãi nhất, hùng hậu nhất, có khả năng to lớn nhất. Phát huy sức mạnh của các lực lượng tại chỗ là một vấn đề có tính quy luật để phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân. Tuy nhiên, lực lượng bảo đảm giao thông tại chỗ thường gồm nhiều ngành khác nhau (công nhân giao thông, thanh niên xung phong, công binh...), do nhiều cấp quản lý (trung ương, quân khu, tỉnh...), lên chỉ phát huy được sức mạnh khi có sự tổ chức phân công hợp lý, chỉ huy thống nhất chặt chẽ.
       
        c) Trong bảo đảm cơ động chiến dịch, tình huống chiến đấu diễn ra rất khẩn trương, trên địa hình vùng mới giải phóng, không có điều kiện trinh sát địa hình từ trước và khó ém sẵn được lực lượng tại chỗ. Vì vậy, việc tổ chức những đội bảo đảm vận động mạnh đi trước đội hình tiến công là cần thiết. Điều này càng quan trọng khi quân đội được trang bị hiện đại hơn, tìm mỗi loại binh khí kỹ thuật có những yêu cầu riêng về bảo đảm cơ động. Mặt khác lực lượng tại chỗ dù đông cũng chỉ có thể bố trí ở những trọng điểm mà không thể rải ra khắp tuyến đường.
       
        d) Địa hình nước ta có nhiều sông ngòi: trung bình cứ 5 - 10km có một sông suối hẹp (10 - 20m); 15 - 20km có một sông rộng khoảng 100m; 30 - 50km có một sông rông khoảng 300m trở lên. Vì vậy, trong chiến dịch, bảo đảm vượt sông là một việc làm khó tránh, mặc dù trong phương án tác chiến đã cố gắng chọn hướng tấn công thích hợp, ít sông ngòi. Bảo đảm vượt sông nhanh chóng, bí mật, an toàn trở thành một khâu quan trọng của bảo đảm cơ động. Trọn cách tổ chức vượt sông phù hợp với từng tình huống của chiến dịch là một điều kiện để bảo đảm cho vượt sông thành công.
 
*
*   *
       
        Nói về thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ không thể không nhắc tới cuộc hành quân thần tốc của quân Tây Sơn từ Phú Xuân (Huế) ra Bắc Hà đại phá quân Thanh mùa xuân năm 1789.
       
        Trong lời tuyên dương bộ đội công binh làm đường trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Bộ chỉ huy chiến dịch chỉ rõ: "không có con đường ấy,  không có chiến dịch này".

        Với tư tưởng chỉ đạo "Thần tốc, táo baọ, bất ngờ, chắc thắng", cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 đã giành được thắng lợi hoàn toàn.
       
        Từ những vấn đề trên, chúng ta càng thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề bảo đảm cơ động trong chiến tranh. Trong chiến tranh hiện đại, tác chiến hợp đồng binh chủng quy mô lớn yêu cầu nâng cao tính cơ động của bộ đội về chiến lược, chiến dịch càng hết sức quan trọng; nhất là trong điều kiện sử dụng vũ khí chết người hàng loạt, thì cơ động cao, tập chung và phân tán nhanh là một điều kiện cơ bản để quân đội giữ gìn được lực lượng và tác chiến thắng lợi.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #91 vào lúc: 07 Tháng Tư, 2016, 08:17:14 pm »

       
MỘT SỐ KINH NGHIỆM CÔNG TÁC ĐẢNG - CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ
TRONG MÙA XUÂN 1975
                               
Trung tướng LÊ LINH       
               
        Nói đến những nguyên nhân thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, phải khẳng định một trong những nguyên nhân quan trọng là chúng ta đã tiến hành tốt công tác Đảng - công tác chính trị trong lực lượng vũ trang. Trong chiến tranh đó là một nhiệm vụ quan trọng để biến sức mạnh tinh thần thành lực lượng vật chất nhằm chiến thắng kẻ thù.
       
        Nội dung của niềm tin và thắng lợi trong mùa xuân năm 1975 là gì, nó bắt nguồn từ đâu và biến thành sức mạnh vật chất như thế nào? Theo chúng tôi đó là sự dự đoán thời cơ và từ đó xây dựng ý chí, quyết tâm với nhiều biện pháp giành thắng lợi.

        Thời cơ trong cách mạng, trong chiến tranh không phải nảy sinh một cách ngẫu nhiên mà được tạo lên bởi sự kết hợp hữu cơ những điều kiện khách quan và chủ quan trong quá trình vận động của cách mạng của chiến tranh. Quá trình vận động của cách mạng miền Nam trong nhiều năm, nhất là từ sau hiệp định Pa-ri, đã tạo ra tình thế mới làm nảy sinh thời cơ chiến lược lịch sử giải phóng hoàn toàn miền Nam.
       
        Phát hiện nhận thức sâu sắc và nắm đúng thời cơ trong cách mạng và chiến tranh nói chung, trong từng chiến dịch nói riêng, là một yếu tố góp phần quyết định thắng lợi của trận đánh, chiến dịch và toàn quốc chiến tranh.

        V.I Lê-nin nói: "Trong mọi cuộc chiến tranh rốt cuộc thắng lợi đều tuỳ thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường... Việc quần chúng nhận thức được mục đích và nguyên nhân của chiến tranh có một tầm quan trọng to lớn và đó là sự bảo đảm cho thắng lợi".
       
        Làm cho các cán bộ, chiến sĩ hiểu được giá trị của mỗi thời điểm lịch sử mở ra những bước ngoặt trong cục diện chiến tranh, là trách nhiệm của công tác Đảng, công tác chính trị. Từ cuối năm 1974, sau khi Bộ Chính Trị, Quân ủy Trung ương hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, công tác Đảng - công tác chính trị đã tích cực giáo dục, tuyên truyền sâu rộng về tình thế cách mạng đang chuyển động, về thời cơ lớn đang đền gần để chuẩn bị tư tưởng và tổ chức cho từng cấp, từng dơn vị, cho toàn quân và toàn dân.
       
        Chiến tranh là sự tiếp tục của chính trị và bạo lực; chiến tranh phải đặt dưới sự lãnh đạo chính trị nhạy bén và vững chắc, thể hiện ở chỗ cơ quan lãnh đạo, chỉ huy phải nắm vững tình hình chính trị ở từng thời điểm để vạch ra kế hoạch tác chiến thích hợp nhất giành thắng lợi cao nhất. Năm 1974 cách mạng miền Nam đã chuyển sang thế tiến công liên tục và ngày càng giành được ưu thế so với địch. Tình hình các chiến trường từ giữa năm 1974 cho phép ta đánh giá địch đang trong thế đi xuống khó bề cứu vãn. Nich-xơn đổ làm cho học thuyết Nich-xơn và chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" lung lay tận gốc. Thầy đồ, tớ ắt phải lao đao. Năm 1974, phong trào đấu tranh của nhân dân các đô thị miền Nam lên rất cao, thể hiện sức mạnh chính trị - tinh thần và ý chí tự giải phóng của nhân dân miền Nam. Tinh thần ngụy quân, ngụy quyền rối ren, khủng hoảng nặng nề. Phải làm gì và làm như thế nào để giành thắng lợi? Đó là câu hỏi đặt ra cho các cán bộ chiến sĩ đang hàng ngày phải nắn gân, thử sức quân địch.
       
        Nhớ lại trận đánh Quảng Trị năm 1972, ta phải dùng lực lượng lớn gồm nhiều đơn vị chủ lực là địa phương mạnh mới giải phóng được tỉnh Quảng Trị và giữ được thị xã vài tháng. Nhưng đầu tháng 1 năm 1975 chỉ với một lực lượng vừa phải, ta đã giải phóng được tỉnh Phước Long mà địch không đủ sức phản kích chiếm lại. So sánh hai sự kiện đó có thể kết luận: Mỹ đã cút thì nếu ta tấn công mạnh ngụy ắt phải nhào. Mỹ đã cút thì khó bề quay trở lại cứu vớt ngụy quyền Sài Gòn. Tinh thần và sức chiến đấu của quân ngụy sẽ xuống nhanh cùng với mức giảm sút chi viện của Mỹ.
       
        Giải phóng Phước Long là một tín hiệu quan trọng, một tiền đề báo trước, một bước ngoặt lịch sử, cho phép đánh giá khả năng can thiệp của Mỹ là rất hạn chế.

        Hầu hết cán bộ, chiến sĩ đều thấy rõ thời cơ đang đến, thời cơ có thể xuất hiện bất ngờ và liên tục nên cần phải chuẩn bị lực lượng về mọi mặt để có thể kịp thời hành động giành thắng lợi giòn giã trên từng chiến trường. Công tác đảng - công tác chính trị đã góp phần tích cực làm cho cán bộ chiến sĩ nắm vững thời cơ chiến lược trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975.
               
        Chiến dịch Tây Nguyên với trận then chốt mở đầu Buôn Ma Thuột đánh trúng huyệt kẻ thù đã làm rung chuyển toàn bộ Tây Nguyên, buộc ngụy quyền Sài Gòn phạm sai lầm chiến lược: rút lui để thực hiện co cụm chiến lược. Trận Buôn Ma Thuột tạo cho ta thời cơ lớn và thế trận mới để tiếp tục thực hiện thắng lợi các đòn tiếp theo: tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng địch từ Plây-ku, Công Tum định co cụm về đồng bằng, tạo đà phát triển tiến công nhanh chóng xuống các tỉnh ven biển miền Trung.
       
        Trận Buôn Ma Thuột chứng minh một bước phát triển mới của bộ đội ta về mặt chiến thuật: tác chiến hợp đồng binh chủng nhịp nhàng, bí mật, bất ngờ tới phút cuối cùng, đạt kết quả chiến đấu rất cao. Phương án tác chiến cụ thể, kế hoạch hiệp đồng tỉ mỉ, chính xác, sự nhạy bén với tình huống, sự sáng tạo về chiến thuật trong quá trình trận đánh, biểu hiện sức mạnh chính trị - tinh thần, nghệ thuật nắm thời cơ đã biến thành lực lượng vật chất để chiến thắng quân địch.
       
        Từ rối loạn đến sai lầm về chiến lược, cuộc rút lui của địch khỏi Tây Nguyên đã trở thành cuộc tháo chạy hỗn loạn. Khả năng này đã nằm trong dự kiến chiến lược của Bộ Chính trị, Quân uỷ trung ương và Bộ Tổng tư lệnh. Vì vậy dù chiến dịch Tây Nguyên chưa kết thúc nhưng khi thời cơ đã mở ra từ chiến thắng Tây Nguyên, quân và dân Khu 5, Trị - Thiên đã giải phóng Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Huế và nhiều vùng rộng lớn ven biển miền Trung. Thế trận của địch sụp đổ từng mảng, thế của ta đang dâng lên như nước thủy triều. Đây là sự vận dụng sắc sảo quy luật vận động, phát triển từ tuần tự đến nhảy vọt trong cách mạng và chiến tranh, thể hiện tính nhạy bén, quyết đoán, khả năng nắm bắt thời cơ của các cấp chỉ đạo chiến lược, chỉ huy chiến dịch. Nó cũng thể hiện trí tuệ, tài năng, hiệu quả hành động của từng đơn vị, từng cán bộ, chiến sĩ trong từng trận chiến đấu khi đã nhận thức được thời cơ và quán triệt ý định cấp trên. Có thể nói việc giải phóng nhanh gọn một số tỉnh miền Trung Trung Bộ và thắng lợi của chiến dịch Huế - Đà Nẵng là kết quả của sự nhạy bén về nắm bắt thời cơ, vì các sự kiến đó diễn ra trong điều kiện ta chưa có sự chuẩn bị trực tiếp cho các chiến trường này.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #92 vào lúc: 07 Tháng Tư, 2016, 08:18:10 pm »

       
        Ở đây người chỉ huy phải có tầm nhìn sâu rộng, nhìn toàn bộ chiến trường miền Nam và thế trận của từng chiến trường, những điều kiện cụ thể của từng trận đánh nắm chắc quy luật vận động của sự vật, nhạy bén trong dự đoán; từ đó khẩn trương chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức, làm cho mỗi cán bộ, chiến sĩ hiểu được tình hình, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ không điều kiện khi thời cơ đến. Đây cũng là trách nhiệm của công tác đảng - công tác chính trị. Phải bồi dưỡng cho mỗi cán bộ, chiến sĩ nhận rõ thời cơ, có tinh thần quả cảm, kiên quyết, ý thức tổ chức cao trong mọi hành động chiến đấu, phát huy tính năng động, vận dụng kinh nghiệm tích luỹ từ nhiều năm để giải quyết đúng đắn các tình huống chiến thuật. Đi đôi với công tác tư tưởng, công tác tổ chức, là cơ sở vững chắc để bảo đảm thắng lợi. Có tổ chức, chuẩn bị chiến đấu tốt mới giành được thắng lợi triệt để. Chuẩn bị chu đáo về lực lượng, vũ khí, cơ sở vật chất, về thế trận, cách đánh... là cơ sở của niềm tin thắng lợi. Nhận thức tư tưởng vững vàng phải đi đôi với công tác tổ chức chặt chẽ.
       
        Tư tưởng và tổ chức là hai mặt gắn bó hữu cơ với nhau mà công tác đảng - công tác chính trị phải nắm vững và thực hiện tốt. Tư tưởng và tổ chức đều phải nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo của từng đơn vị, từng cán bộ, chiến sĩ, tạo nên sức mạnh lớn nhất để giành thắng lợi cao nhất.
       
        Chỉ trong thời gian rất ngắn, chúng ta đã hoàn thành được những nhiệm vụ rất quan trọng, tạo thế và điều kiện thuận lợi để rút ngắn thời gian giải phóng hoàn toàn miền Nam. Đó là một bước phát triển cao của nghệ thuật nắm thời cơ, vận dụng cách đánh sáng tạo trong mỗi chiến dịch, mỗi trận đánh. Không phải ngẫu nhiên mà lực lượng ta lại áp đảo được lực lượng địch, mà đó là kết quả của sự nhạy bén với thời cơ, tính sắc sảo và kiên quyết khi xử trí các tình huống chiến dịch trên cơ sở dự đoán đúng xu thế phát triển của chiến dịch. Thực tiễn đã chứng minh rõ các quân đoàn chủ lực là quả đấm mạnh quyết định giành thắng lợi triệt để trong giai đoạn cuối của chiến tranh. Cuộc chiến đấu sôi nổi và bền bỉ trong nhiều năm của các lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang tại chỗ là cơ sở vững chắc cho các đơn vị chủ lực phát huy vai trò của mình. Nhưng đánh như thế nào trong các tình huống khác nhau, đó là vấn đề rất quan trọng đặt ra cho người chỉ huy. Phải luôn luôn nắm chắc hai công tác chủ yếu là tư tưởng và tổ chức trong lãnh đạo, chỉ huy, chiến dịch, chiến đấu, nhiệm vụ chiến đấu, vị trí của mỗi trận đánh được quán triệt đến từng chiến sĩ, đồng thời phải tổ chức chiến đấu chủ đáo và xử trí đúng đắn các tình huống chiến dịch chiến đấu. Các trận đánh đều có những tình huống phức tạp đòi hỏi cách đánh khác nhau.
       
        Trận Buôn Ma Thuột là một ví dụ của cách đánh thọc sâu phá vỡ từ phía trong, trong điều kiện ta chưa thông thạo thời cơ chiến trường và địa hình. Khu vực phòng ngự của Phan Rang có lực lượng mạnh, nhưng do ta tổ chức chiến đấu nhanh, dùng cách đánh mãnh liệt, bất ngờ táo bạo của bộ đội binh chủng hợp thành tiến công trong hành tiến, nên đã phá tan cụm phòng thủ kiên cố của địch.
       
        Như vậy, việc giáo dục cho bộ đội hiểu sâu tình hình và nhạy bén nắm trắc thời cơ mới là bước đầu. Công tác đảng - công tác chính trị còn phải đi sâu vào nhiệm vụ chiến đấu cụ thể để phát huy tính năng động sáng tạo của cán bộ và chiến sĩ để tìm ra những cách đánh táo bạo, phù hợp với từng tình huống chiến dịch, chiến đấu. Trong quá trình chiến đấu, thường nảy sinh các tình huống phức tạp mà ta khó dự kiến trước được hết. Trong những tình huống như vậy, chỉ có thể giải quyết thắng lợi, nhiệm vụ chiến đấu nếu mỗi người chỉ huy và cán bộ chiến sĩ phát huy đầy đủ trách nhiệm, có bản lĩnh giỏi và tính năng động cao. Công tác đảng - công tác chính trị trong các chiến dịch mùa xuân 1975 đã đề ra được những khẩu hiệu hành động đúng lúc và phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ chiến dịch, chiến đấu. Những khẩu hiệu đó là sự cụ thể hoá mục tiêu và những biện pháp lớn để thực hiện nhiệm vụ, biến sức mạnh của sự lãnh đạo chính trị, tư tưởng thành sức mạnh vật chất thông qua hành động chiến đấu của toàn đơn vị, từng cán bộ chiến sĩ. Chiến dịch Tây Nguyên là chiến dịch mở màn cuộc tổng tiến công chiến lược. Trong quá trình chiến dịch đã nảy sinh nhiều tình huống phức tạp, địch ngoan cố chống trả, ta phải dành giật ác liệt từng vị trí. Những khẩu hiệu như "Kiên quyết đột phá Buôn Ma Thuột", "Chặn đứng địch ở Cheo Reo" đã thực sự tăng thêm sức mạnh cho các bộ chiến sĩ. Ở chiến trường phía nam Huế, khi quân địch điên cuồng phản kích hòng chiếm lại những vị trí đã mất, khẩu hiệu "Giữ vững từng điểm cao, tạo thế cho mùa hè" được tung ra đúng lúc đã chỉ mỗi cán bộ, chiến sĩ mục tiêu, phương hướng hành động để giành thắng lợi. Khi sư đoàn bộ binh 1 của ngụy bắt đầu bắt đầu tan rã thì khẩu hiệu "Không cho một tên lính của sư đoàn 1 ngụy chạy thoát" lại là động lực mạnh mẽ thôi thúc người chiến sĩ xông lên giành thắng lợi triệt để.
       
        Khi quân địch trong thành phố Đà Nẵng hoang mang dao động cực độ thì khẩu hiệu "Nắm thời cơ, kiên quyết giải phóng Đà Nẵng" đã trở thành tiếng kèn xông trận chỉ rõ thời cơ và phát huy sức mạnh như nước vỡ bờ của các cánh quân tiến vào thành phố. Trên đường tiến quân vào giải phóng thành phố Sài Gòn - Gia Định, có cán bộ, chiến sĩ nào không tự hào và xúc động khi thấy mình được tham gia chiến dịch mang tên Bác Hồ vô vàn kính yêu. Niềm vinh dự được chiến đấu trong trận quyết chiến cuối cùng để thực hiện. Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ đã thực sự là vũ khí tinh thần vô địch của các lực lượng vũ trang ta.
       
        Các quân đoàn 1 và 2 đã hành quân với  khí thế thần tốc táo bạo và quyết thắng để xông vào sào huyệt cuối cùng của địch. "Thần tốc, táo bạo" là phương hướng hành động và "Quyết thắng" là mục tiêu nhất định phải giành được.

        Để bảo đảm chiến đấu thắng lợi, ngoài việc giáo dục quán triệt quyết tâm, nhiệm vụ chiến đấu, bồi dưỡng ý chí quyết chiến quyết thắng, nêu khẩu hiệu chỉ đạo hành động, công tác đảng - công tác chính trị còn chú trọng đi sâu vào việc bảo đảm cụ thể những điều kiện thực hiện nhiệm vụ trong từng trận đánh. Trên đường tiến sâu của bộ đội ta từ Đà Nẵng vào Sài Gòn với tốc độ cao, làm sao để mọi việc sửa đường, bắc cầu, nấu ăn, vệ sinh, dân vận... đều được thực hiện khẩn trương, chu đáo? Chỉ huy như thế nào khi nhiều đơn vị cùng hành quân gấp, việc bảo đảm hậu cần, gặp rất nhiều khó khăn? Đó là những nội dung mà công tác đảng - công tác chính trị đã quan tâm cùng các cơ quan tham mưu, hậu cần hiệp đồng chặt chẽ, tổ chức cụ thể.
       
        Tổ chức là giải quyết những yêu cầu cụ thể mà hoạt động chiến đấu đặt ra. Ví dụ: trên đường hành quân, trong từng xe có thể có chiến sĩ và cán bộ nhiều trung đội, đại đội khác nhau; phải thống nhất chỉ huy, hướng dẫn và phân công cụ thể trong các tình huống khác nhau; khi địch bán pháo từ tàu biển vào hay đổ bộ bằng trực thăng để chặn đường hành quân; khi bị tắc đường; lúc nào nấu ăn, ai làm vệ sinh hay dân vận ở nơi tạm nghỉ, công tác bảo vệ trong hành quân phải làm gì... Công tác đảng - công tác chính trị phải biết phát huy vai trò của các tổ chức Đảng, chi đoàn thanh niên, phát huy sức mạnh của đông đảo quần chúng để giải quyết những vấn đề cụ thể. Các cuộc họp chớp nhoáng của các tổ chức Đảng, cấp ủy, chi bộ, chi đoàn đã bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động của các cán bộ chiến sĩ. Con đường mà họ đang đi tới không ít trở ngại, nhưng do hiểu sâu nhiệm vụ, có quyết tâm cao và được tổ chức tốt nên họ đã đi, đã đến và chiến thắng.
       
        Công tác đảng - công tác chính trị còn phải đi sâu vào các giai đoạn: trước, trong và sau chiến dịch, chiến đấu để xác định cụ thể nội dung và biện pháp công tác tư tưởng, công tác tổ chức, xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ có lòng hăng hái, tự tin khi bước vào trận đánh, sáng tạo dũng cảm, táo bạo trong chiến đấu và có tính kỷ luật, vững vàng khi ngừng tiếng súng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #93 vào lúc: 07 Tháng Tư, 2016, 08:19:51 pm »

         
MỘT SỐ VẦN ĐỀ VỀ CHUẨN BỊ HẬU CẦN
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN 1975
                                 
Đại tá NGÔ VI THIỆN       
             
        Để bảo đảm cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 toàn thắng, ngành hậu cần đã phải chuẩn bị từ nhiều năm trước, đặc biệt đã dồn sức tích cực chuẩn bị từ 1973 để đón thời cơ chiến lược. Chính việc chuẩn bị hậu cần lâu dài nhưng rất khẩn trương với những biện pháp sáng tạo nên bước phát triển mới về hậu cần để bảo đảm đầy đủ và kịp thời cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy thần kỳ. Ngay từ đầu năm 1973, chấp hành Nghị quyết của Hội nghị Quân ủy trung ương ngày 18 tháng 12 năm 1972, ngành hậu cần đã triển khai công tác chuẩn bị theo kế hoạch ba năm, bảo đảm cho các tình huống chiến tranh, chuẩn bị cho thời cơ chiến lược. Khối lượng vật chất kỹ thuật phải chuẩn bị rất lớn, trong đó khối lượng phải vận chuyển từ hậu phương vào các chiến trường trong ba năm với khối lượng xấp xỉ với khối lượng đã vận chuyển cho chiến trường trong cả 13 năm trước đó1, trong điều kiện khả năng có nhiều hạn chế.
       
        Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 10 - 1973) nêu rõ: "Ra sức xây dựng và củng cố các vùng giải phóng là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng"; "phải có kế hoạch thực hiện hậu cần tại chỗ, xây dựng các vùng kinh tế, bảo đảm một phần lương thực thực phẩm, từng bước xây dựng vùng căn cứ địa về mọi mặt"; "tích cực xây dựng, phát triển, hoàn thiện các tuyến giao thông vận tải chiến lược". Nghị quyết đã chỉ ra phương hướng cơ bản để khắc phục khó khăn, phát huy sức mạnh tổng hợp về hậu cần bảo đảm cho thời cơ chiến lược. Chấp hành nghị quyết của Trung ương Đảng, các chiến trường đã ra sức xây dựng và củng cố căn cứ địa, vùng giải phóng để thực hiện hậu cần tại chỗ. Mạng đường giao thông vận tải chiến lược, chiến dịch phát triển nhanh chóng. Trên cơ sở đó, thế bố trí hậu cần ở các chiến trường được điều chỉnh phù hợp với yêu cầu tác chiến trên các hướng chiến dịch, đảy mạnh vận động, tạo nên dự trữ lớn để chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược.
       
        1. Xây dựng và củng cố các vùng giải phóng, thực hiện hậu cần tại chỗ
       
        Năm 1959, sau khi có Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II), các địa phương đã xây dựng những cơ sở và khu an toàn, các chiến trường đã xây dựng các căn cứ ở những vùng chiến lược quan trọng, đồng thời mở rộng và củng cố thế làm chủ ở vùng rừng núi và nông thôn đồng bằng; từ đó, tạo điều kiện để thực hiện hậu cần tại chỗ ở các chiến trường. Trong những năm từ 1960 đến 1972, theo thống kê chưa đầy đủ, ta đã khai thác được hơn 250.000 tấn vật chất, bình quân gần 20.000 tấn/năm, bộ đội tự sản xuất gần 51.000 tấn, bình quân gần 4.000 tấn/năm, đáp ứng được 1/3 nhu cầu vật chất sủ dụng ở chiến trường.
       
        Trong hai năm 1973 - 1974, ta đã mở rộng và củng cố vùng giải phóng nối liền miền Tây Trị - Thiên tới vùng rừng núi Khu 5, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Tại vùng giải phóng cũng như các khu vực đã giành được quyền làm chủ, ta ổn định được tình hình chính trị, đời sống và sản xuất của nhân dân. Do đó chỉ trong hai năm 1973 - 1974 ở các chiến trường miền Nam đã khai thác được gần 104.000 tấn, bình quân hơn 10.000 tấn/năm, gấp 2.5 lần so với trước. Khối lượng vật chất đó đã đáp ứng  được gần 1/4 nhu cầu của chiến trường. Đây là nỗ lực rất cao của các chiến trường. Do nhu cầu vật chất kỹ thuật cho tổng tiến công rất lớn, yêu cầu thời gian rất khẩn trương nên chủ yếu phải vận chuyển từ hậu phương vào2. Tuy nhiên, khối lượng vật chất khai thác tại chỗ có giá trị rất lớn và giảm bớt được một phần vận chuyển rất tốn kém từ hậu phương vào. Đưa được một tấn vật chất đến chiến trường thì trung bình tiêu thụ và tổn thất trên tuyến vận chuyển cũng mất gần một tấn.
       
        Như vậy, xây dựng và củng cố căn cứ địa, vùng giải phóng là một vấn đề chiến lược trong chiến tranh giải phóng ở nước ta, nhằm tạo chỗ đứng chân và bàn đạp tiến công cho lực lượng vũ trang cách mạng, đồng thời tạo cơ sở để thực hiện hậu cần tại chỗ, bảo đảm phục vụ nhanh nhất, kịp thời nhất cho nhu cầu tác chiến, giảm bớt khâu vận chuyển từ xa tới vốn rất khó khăn tốn kém vì mạng đường giao thông chưa phát triển, phương tiện vận tải hạn chế và địch đánh phá ác liệt.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #94 vào lúc: 07 Tháng Tư, 2016, 08:21:35 pm »

       
        2. Xây dựng và hoàn thiện mạng đường giao thông vận tải chiến lược và chiến dịch.
       
        Chấp hành Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) từ năm 1959 ta đã tổ chức các tuyến vận tải vào các chiến trường miền Nam: tuyến đường bộ 559 và tuyến đường biển 759. Do đế quốc Mỹ có lực lượng hải quân mạnh và hiện đại khống chế được Biển Đông, tuyến vận tải biển tuy đã ra sức khắc phục khó khăn, mở nhiều tuyến, tìm nhiều phương thức vận chuyển nhưng cũng chỉ vận chuyển được một khối lượng tương đối nhỏ và chỉ thực hiện được trong một số năm. Việc vận chuyển cho các chiến trường miền Nam chủ yếu dựa vào tuyến đường bộ dọc Trường Sơn. Trong hơn 13 năm (từ năm 1959 đến cuối năm 1972), đường Hồ Chí Minh từ tuyến gùi thồ bí mật đã được xây dựng thành một mạng đường giao thông vận tải chiến lược dài 9.310 km với bốn trục dọc, vượt qua các cửa khẩu trên địa bàn rừng núi hiểm trở, điều kiện khí hậu thời tiết rất khắc nghiệt, địch lại dùng không quân đánh phá ác liệt thường xuyên. Với tuyến giao thông vận tải quân sự chiến lược đó, hậu phương miền Bắc đã đưa khối lượng vật chất kỹ thuật ngày càng lớn cho chiến trường miền Nam. Nhưng đường vận chuyển còn kéo dài vì chạy trên đất bạn ở phía tây Trường Sơn, và chưa đáp ứng được yêu cầu vận chuyển khối lượng vật chất kỹ thuật lớn. Chấp hành Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng (khoá II) cuối năm 1973, ta đã nhanh chóng hoàn chỉnh mạng đường chiến dịch để chuẩn bị đón thời cơ lớn. Các chiến trường đã mở rộng địa bàn, tiêu diệt và bức rút các vị trí địch còn khống chế một số đầu mối giao thông ở Tây Nguyên, mở thông hành lang đông Trường Sơn. Tuyến vận tải quân sự đông Trường Sơn được nhanh chóng xây dựng từ đường số 9 qua các khu vực hậu phương của Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên vào miền Đông Nam Bộ. Với nỗ lực phi thường, trong hơn hai năm chúng ta đã xây dựng thêm 3.480 km đường ô tô (lớn hơn tổng chiều dài đường giao thông xây dựng trong 13 năm trước đó), đưa chiều dài mạng đường vận tải chiến lược lên 16.790 km với 6 trục dọc ở cả đông và tây Trường Sơn.

        Có mạng đường vận tải chiến lược được xây dựng ngày càng hoàn chỉnh, các lực lượng vận tải đã chuyển sang hình thức vận chuyển lớn theo đội hình trung đoàn tập trung trên cung độ dài để nâng cao hiệu suất. Trên tuyến 559 đã triển khai 3 sư đoàn công binh khu vực, mở đường và giữ các tuyến đường đông, tây Trường Sơn, sử dụng 1 sư đoàn bộ binh và 1 sư đoàn phòng không để bảo vệ hành lang vận chuyển, bảo đảm cho 2 sư đoàn (gồm 8 trung đoàn) vận tải ô tô, 4 trung đoàn đường ống và 4 trung đoàn giao liên chuyển thương với 6.770 ô tô vận tải, làm nhiệm vụ vận tải chiến lược vào các chiến trường.
       
        Đồng thời với việc hoàn chỉnh mạng đường giao thông vận tải, ngành hậu cần đã quyết tâm chuyển hẳn sang hình thức vận chuyển xăng dầu cung độ dài bằng đường ống. Ta đã hoàn chỉnh một hệ thống đường ống dài 4.990 km từ hậu phương miền Bắc tới các chiến trường miền Nam theo hai trục đông và tây Trường Sơn với 250 trạm bơn đẩy và hút thuộc trung đoàn đường ống (4 ở hậu phương, 4 ở tuyến 559). Ta đã sử dụng thành công các loại ống và trang bị cơ động trên địa hình trung bình để xây dựng thành tuyến đường ống chiến lược vượt qua nhiều địa hình phức tạp, nhiều núi cao, sông rộng với lưu tốc độ lớn... Do đó, trong hơn hai năm từ giữa 1973 đến giữa 1975, đã chuyển từ hậu phương vào các chiến trường hơn 303.000 tấn, gấp 2 - 3 lần khối lượng vận chuyển và cơ động binh khí kỹ thuật trên các hướng.
       
        Với  mạng đường vận tải chiến lược và mạng đường ống đó, trong hơn hai năm vừa thực hiện kế hoạch cơ bản đồng thời khẩn trương chuẩn bị cho kế hoạch thời cơ, các tuyến vận tải chiến lược đã vận chuyển vào các chiến trường gần 379.000tấn, đạt 119,6% kế hoạch, bằng 54% tổng số vật chất giao cho các chiến trường trong 16 năm. Chỉ trong 2 năm 4 tháng, đã giao cho các chiến trường một khối lượng lớn hơn 13 năm trước. Điều đó nói lên sự tập trung nỗ lực, bước phát triển nhảy vọt trong công tác vận tải chuẩn bị cho tổng tiến công. Để bộ đội có thể cơ động áp sát các mục tiêu chiến dịch, để vận tải cơ giới tới được các khu vực tác chiến, các chiến trường đã ra sức mở tuyến đường chiến dịch, chỉ trong hơn hai năm đã làm gần 4.000km đường ôtô chiến dịch nối liền với tuyến vận tải chiến lược, gồm các trục dọc theo chiều dài của chiến trường và các trục ngang vào các hướng dự kiến tiến công.
       
        Như vậy, khi bước vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, mạng đường chiến lược và chiến dịch dài hơn 20 nghìn km đã nối liền hậu phương lớn tới các chiến trường, tới các khu vực tiếp giáp với địch trên các hướng tác chiến, do đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc cơ động lực lượng và binh khí kỹ thuật, vận chuyển vật chất kỹ thuật bảo đảm cho các chiến dịch đánh thắng. Cũng nhờ mạng đường chiến dịch đã vươn vào sát khu vực tác chiến, nên sau khi tiến công thắng lợi đã nhanh chóng nối liền mạng đường chiến dịch của ta với mạng đường ở phía địch, tận dụng được cả mạng đường sẵn có để cơ động lực lượng và vận chuyển.
       
        Có thể nói, trong giai đoạn chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công chiến lược, việc xây dựng hoàn chỉnh mạng đường giao thông vận tải chiến lược và chiến dịch là một thành công lớn, một biện pháp chiến lược cơ bản, tại điều kiện để vận chuyển được khối lượng lớn vật chất kỹ thuật dự trữ cho tác chiến, bảo đảm cho cuộc hành quân thần tốc của các binh đoàn vào tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh đúng thời gian quy định.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #95 vào lúc: 07 Tháng Tư, 2016, 08:22:39 pm »

       
        3. Xây dựng các căn cứ hậu cần chiến lược, chiến dịch trên các chiến trường.
       
        Sau cuộc tiến công chiến lược năm 1972, khu vực bắc Quảng Trị được giải phóng, hậu cần chiến lược và hậu cần 559 đã triển khai lực lượng và kho tàng ven đường số 9 từ Đông Hà đến Bản Đông, tạo chân hàng vận chuyển vào chiến trường theo các trục dọc cả đông và tây Trường Sơn. Dọc tuyến vận chuyển  đông Trường Sơn, đã triển khai các cụm kho trên các hướng để tiếp cận các căn cứ hậu cần của chiến trường.
       
        Các chiến trường cũng điều chỉnh bố trí các căn cứ hậu cần trong các vùng giải phóng trên các hướng chiến dịch. Quân khu Trị - Thiên đã triển khai các căn cứ hậu cần trên hướng tiến công vào Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế. Quân khu 5 xây dựng căn cứ hậu cần phía sau của chiến tranh, đồng thời triển khai các căn cứ hậu cần phía trước trên các hướng tiến công vào Quảng Nam - Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định và chuẩn bị cho hướng phát triển xuống Phú Yên. Tây Nguyên đã triển khai các căn cứ hậu cần trên các khu  vực bắc, trung, nam của chiến tranh, chuẩn bị cho các hướng tiến công vào Công Tum, Plây-ku nhất là Buôn Ma Thuột.
       
        Các Quân khu thuộc B2 cũng triển khai các căn cứ hậu cần; Quân khu 6 trên hướng tiến công vào Phan Thiết, Hàm Tân; Quân khu 7 trên hướng tiến công vào ven đô và nội đô Sài Gòn; Quân khu 8 trên hướng tiến công vào nam Sài Gòn, Mỹ Tho và lộ 4; Quân khu 9 trên hướng tiến công vào độ thị, trọng điểm là Cần Thơ.
       
        Riêng ở chiến tranh miền Đông Nam Bộ thế trận hậu cần đã được xây dựng và chuẩn bị từ những năm chống chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ. Đến năm 1972 để bảo đảm cho chiến dịch giải phóng Lộc Ninh, An Lộc và nhất là từ năm 1973 để chuẩn bị cho  thời cơ lớn, các đoàn hậu cần đã triển khai thành thế trận hậu cần quanh mục tiêu chiến lược chủ yếu là Sài Gòn. Với 8 căn cứ hậu cần (gọi là các đoàn hậu cần) đã tổ chức thành hai thê đội hậu cần bảo đảm cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng; thê đội một gồm 5 căn cứ phía trước áp sát Sài Gòn trên 5 hướng: đông và đông-nam, đông-bắc, tây-bắc, tây và tây- bắc, tây-nam; thê đội hai gồm ba căn cứ phía sau với nhiệm vụ tiếp nhận vật chất kỹ thuật từ tuyến chiến lược chuyển vào bảo đảm cho các lực lượng đứng chắn trên địa bàn kịp thời bổ sung vật chất kỹ thuật cho các đoàn hậu cần thê đội một. Nhờ vây, các quân đoàn chủ lực hành quân tới là triển khai chiến đấu được ngay, thực hành trận quyết chiến chiến lược cuối cùng đúng thời cơ quy định.
       
        Như vậy, trong hai năm 1973 - 1974, hậu cần chiến lược và hậu cần các chiến trường đã điều chỉnh và bố trí lại các căn cứ hậu cần trên các hướng chiến dịch theo phương án tiến công, ở các khu vực có thế lợi và vững chắc nhất, dựa vào mạng đường chiến lược, chiến dịch, tạo thành một thế lực vững chắc và liên đoàn hỗ  trợ cho nhau. Trên thế vững đó, đã có một lực mạnh với các đơn vị hậu cần sẵn sàng bảo đảm cho tác chiến, với dự trữ vật chất kỹ thuật hơn 250.000 tấn khi bước vào tổng tiến công.
       
        Trong chuẩn bị vật chất, đạn dược là vấn đề khó nhất. Từ sau Hiệp đinh Pa-ri, viện trợ quốc tế về vũ khí đạn dược giảm hẳn: So với năm 1972 thì năm 1973 chỉ bằng 66%; năm 1974 bằng 29.6%; năm 1975 hoàn toàn không còn. Ta phải tổ chức thu vét đạn ở hậu phương, sửa chữa từng viên đạn pháo hỏng, đồn địch phải đưa ra phía trước, nhưng cũng chỉ dựa vào chiến tranh đạt 75% nhu cầu. Cộng với số đạn còn lại ở chiến tranh, dự trữ về đạn là hơn 75.000 tấn, mới đạt 91% kế hoạch. Nhưng trong tổng tiến công, trên các chiến tranh, do tốc độ tiến công mạnh, địch bị tiêu diệt và tan rã từng mảng lớn nên đạn dược tiêu thụ ít. Đến chiến dịch Hồ Chí Minh, ta dồn đạn pháo còn lại của các chiến trường cho trận quyết chiến cuối cùng, cộng với số đạn chiến lợi phẩm thu được nên dự trữ đạn cao hơn yêu cầu, thực hiện được càng đánh càng mạnh, càng có dự trữ lớn.
       
        Có thể nói, trên cơ sở đã chuẩn bị từ hơn mười năm trước, trong hơn hai năm trực tiếp chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, ta đã xây dựng được thế trận hậu cần chiến lược, chiến dịch tương đối hoàn chỉnh. Thế trận hậu cần đó đã kịp thời chuyển hoá, lực lượng hậu cần đã kịp thời cơ động theo đà phát triển tác chiến. Khi cuộc tiến công phát triển, cả hậu cần chiến lược và hậu cần quân khu, quân đoàn đã cơ động theo, kết hợp chặt chẽ với địa phương huy động nhân lực vật lực, thu chiến lợi phẩm ngay tại vùng mới giải phóng để bảo đảm nhịp độ tiến công thần tốc, tiến công liên tục, truy kích tiêu diệt và làm tan rã lực lượng địch. Hậu cần đã góp phần đắc lực vào Đại thắng mùa xuân 1975 của nhân dân ta. Các đồng chí lãnh đạo bộ Quốc phòng đã đánh giá: "Các lực lượng hậu cần và kỹ thuật đã ra sức vươn lên khắc phục khó khăn, phát huy sáng tạo, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Thành công rất đáng tự hào của việc bảo đảm hậu cần, bảo đảm kỹ thuật, bảo đảm cơ động... đã đánh dấu một bước trường thành vượt bậc của các binh đoàn chi viện chiến lược của ta".
       
        Đạt được như vậy là nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nhờ hậu phương miền Bắc đã dốc toàn lực chi viện cho toàn tuyến miền Nam, nhờ các chiến trường đã ra sức khai thác khả năng hậu cần tại chỗ bảo đảm cho tác chiến. Các lực lượng hậu cần đã quán triệt nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân sự, quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công, kết hợp chặt chẽ hậu cần quân đội với hậu cần địa phương, được sự giúp đỡ to lớn của nhân dân, đã tạo lên sức mạnh tổng hợp to lớn về hậu cần, có sức mạnh hậu cần tại chỗ để bảo đảm cho hành quân thần tốc và tác chiến của các binh đoàn chủ lực cơ động.
       
        Những kinh nghiệm về chuẩn bị hậu cần cho thời cơ lớn năm 1975 thật phong phú, đã tạo nên một bước phát triển mới của công tác hậu cần.

        Chúng ta đã phát huy được sức mạnh tổng hợp về hậu cần trong điều kiện nước ta, bảo đảm cho cuộc tiến công chiến lược quy mô lớn, với nhiều chiến dịch tiến công kế tiếp nhau của binh đoàn chủ lực trên không gian rộng của một nửa đất nước và trong thời gian rất khẩn trương, kết hợp với hoạt động tác chiến và nổi dậy của lực lượng tại chỗ. Những kinh nghiệm đó cần được nghiên cứu với tình hình thực tế ngày nay của đất nước.
       
        Trong kháng chiến chống Mỹ, ta đã xây dựng các vùng căn cứ ở miền Nam, thực hiện đựơc hậu cần tại chỗ để bảo đảm cho lực lượng vũ trang bám trụ và tác chiến ở chiến trường. Ngày nay, trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, hậu cần tại chỗ vẫn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Có hậu cần tại chỗ mới bảo đảm được nhanh nhất, kịp thời nhất cho chiến đấu, cho cả hai phương thức tiến hành chiến tranh, cho cả lực lượng cơ động và lực lượng tại chỗ.
       
        Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, ta đã xây dựng được tương đối hoàn chỉnh thế trận hậu cần chiến lược và chiến dịch có thế vững, lực mạnh, bảo đảm cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy với quy mô lớn và trên không gian rộng một nửa đất nước.

        Ngày nay, trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, cần nghiên cứu thế trận hậu cần trong điều kiện mới. Trong đó, nổi nên vấn đề xây dựng mạng đường giao thông vận tải, nhất là tuyến chiến dịch, vấn đề triển khai các căn cứ hậu cần có đủ dự trữ theo quy định, có lực lượng bảo đảm (chủ yếu là về vận tải và quân y), kết hợp chặt chẽ với hậu cần địa phương, hậu cần nhân dân. Có như vậy mới tạo được một mạng lưới bảo đảm hậu cần rộng khắp và có sức mạnh tổng hợp, thực hiện được "nơi nào có chiến đấu là có hậu cần bảo đảm".
       
        Từ bảo đảm hậu cần trong chiến tranh giải phóng đến bảo đảm hậu cần trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, công tác hậu cần nhất thiết phải có những bước phát triển mới, nhưng vẫn phải xuất phát từ điều kiện thực tế của đất nước, kế thừa những truyền thống tốt đẹp, những kinh nghiệm xương máu trong các cuộc chiến tranh giải phóng vừa qua.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #96 vào lúc: 07 Tháng Tư, 2016, 08:25:29 pm »

 
ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH - TUYẾN HẬU CẦN CHIẾN LƯỢC PHÍA TRƯỚC
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DÂY XUÂN 1975
                                                         
Đại tá NGUYỄN VIỆT PHƯƠNG         
       
        Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vừa qua và đến tận ngày này, tuyến vận tải quân sự chiến lược Trường Sơn vẫn là một huyền thoại đối với giới nghiên cứu quân sự và chính khách phương Tây. Họ nói: "Con đường mòn Hồ Chí Minh không chỉ là con đường tiếp tế mà còn là một biểu tượng của cuộc chiến tranh Việt Nam... nhưng người Mỹ lại coi sự đau khổ của họ bắt nguồn từ con đường ấy"1. Các nhà chiến lược quân sự Mỹ đã phải tham phiền: "Đường mòn Hồ Chí Minh lúc đầu chỉ là con đường bộ độ, ngày nay đã trở thành một trận đồ bát quái...". Và tiếng nói chung của họ là: "Nếu không có nó - con đường mòn ấy - thì chiến tranh đã có thể kết thúc".
       
        Thực ra, mãi sau này các chuyên gia quân sự Mỹ và các nước khác mới nhận thức rõ điều đó. Đối với chúng ta, ngay từ khi đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam, Đảng ta đã sớm xác định rõ tầm quan trọng của tuyến đường giao thông Bắc - Nam.

        Trong chiến tranh xâm lược Việt Nam và các nước Đông Dương, đế quốc Mỹ lấy nước ta làm địa bàn chiến lược, phục vụ mưu đồ tiêu diệt phong trào cách mạng ba nước. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, địch đã gấp rút thiết lập hành lang ngăn chặn sự liên lạc giữa hai miền Nam, Bắc Việt Nam, hòng cô lập cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước.

        Nhiệm vụ chiến lược của nhân dân ta là phải hoàn thành nhiệm vụ cách mạng giải phóng miền Nam và giúp đỡ cách mạng hai nước Lào, Cam-pu-chia anh em.
       
        Xét cả về lý luận và thực tiễn đề phải khẩn trương tổ chức sự chi viện mọi mặt từ hậu phương lớn đến tiền tuyến lớn, bảo đảm đánh thắng chiến tranh xâm lược của giặc Mỹ. Do đó việc xây dựng hệ thống giao thông đường bộ ngày càng hoàn chỉnh trên dãy Trường Sơn, hình thành tuyến hậu cần chiến lược phía trước nối liền hậu phương với tiền tuyến, tạo thành chỗ dựa trực tiếp cho cách mạng miền Nam và cách mạng hai nước bạn, là một đòi hỏi khách quan hết sức cấp bách. Trong nghị quyết tháng 9 năm 1966 gửi đoàn 559, Quân uỷ Trung ương khẳng định: "Tuyến 559 là con đường chi viện cho miền Nam, cho Bạn cơ bản nhất, chủ yếu nhất, có ý nghĩ chiến lược vô cùng quan trọng trước mắt và lâu dài...". Điều đó đã  được thể nghiệm sâu sắc qua các giai đoạn chiến tranh, và đặc biệt trong giai đoạn chuẩn bị cho thời cơ chiến lược lịch sử.
       
        Tuyến vận tải quân sự chiến lược Trường Sơn từ khi mới sinh ra đã mang những đặc điểm cơ bản là: phải triển khai trên địa bàn núi rừng trùng điệp hiểm trở, thời tiết khắc nghiêt, qua những vùng không dân hoặc thưa dân, kinh tế chưa phát triển, ta không dựa vào nguồn vật chất khai thác tại chỗ; con đường bị kẹp giữa hai hệ thống kiểm soát của địch ở đông - tây Trường Sơn, là vùng mà Mỹ tự do thí nghiệm các kiểu loại chiến tranh điện tử, hoá học, khí tượng. Đến thời kỳ chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công chiến lược lại xuất hiện một đặc điểm nổi bật là: hình thành hai vùng có chiến sự và không có chiến sự trên tuyến vận tải chiến lược, do Mỹ đã rút và ngụy không có đủ sức ngăn chặn. Đặc điểm này đưa lại thuận lợi hết sức to lớn đối với công tác vận tải quân sự trong giai đoạn chuẩn bị cho thời cơ lịch sử giải phóng hoàn toàn miền Nam.
       
        Để tranh thủ thuận lợi đó, Quân uỷ Trung ương chỉ đạo nhanh chóng chuyển toàn bộ tuyến 559 lên quy mô hoạt động lớn, hoàn chỉnh thế trận hậu cần chiến lược phía trước của quân đội, nhằm tiếp nhận được sự chi viện hết sức to lớn của hậu phương, tạo nguồn cơ sở vật chất kỹ thuật tại chỗ phong phú, bảo đảm cơ động lực lượng nhanh tới các hướng, thực hiện thắng lợi các đòn tác chiến chiến lược khi thời cơ xuất hiện.
       
        Trong chiến tranh, cơ động kịp thời những bình lực lớn là một yếu tố cực kỳ quan trọng để tạo lên sức mạnh áp đảo quân địch trên từng hướng, trong từng thời gian nhất định, góp phần quyết định thành bại của chiến dịch, chiến lược. Với hoàn cảnh nền kinh tế nói chung và tiềm lực quốc phòng nói riêng của nước ta trong thời kỳ này, lời giải của luận đề "cơ động binh lực lớn kịp thời" là phát triển mạnh đường cơ giới liên hoàn vững chắc, tạo nguồn dự trữ vật chất tại chỗ dồi dào, chuẩn bị sẵn sàng những tổ chức vận tải cơ giới tập trung lớn. Đó chính là sự quan triệt tư tưởng quân sự của Đảng và nguyên tắc cơ bản của công tác hậu cần quân đội ta trong điều kiện chiến tranh hiện đại.
       
        Từ năm 1973, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh đã chỉ đạo kiên quyết mở trục dọc đông Trường Sơn, tiếp cận các căn cứ hậu cần chiến trường; mở rộng và nâng chất lượng đường phía tây Trường Sơn, tăng tốc độ bình quân của xe cơ giới lên 20km/giờ; chi viện cho các quân khu phát triển mạng đường cơ giới tuyến chiến dịch tiếp cận tuyến chiến đấu, nối thông với tuyến chiến lược. Bộ phê chuẩn biên chế ba sư đoàn công binh (470, 472, 473) và 3 trung đoàn công binh độc lập được trang bị phương tiện cơ giới tương đối mạnh với số quân hàng chục nghìn người để thực hiện tốt các chỉ tiêu về xây dựng đường cầu. Đến cuối năm 1974, hệ thống đường tây Trường Sơn mở được 1.050km, hệ thống đường tây Trường Sơn mở thêm 563km, cải tạo nâng cấp 853km, đoạn Plây Khốc - Bù Gia Mập, vận chuyển được cả hai mùa theo tỷ lệ thích hợp.
       
        Trong thời kỳ này, tư tưởng chỉ đạo đối với nhiệm vụ vận chuyển là: số lượng đủ, chất lượng tốt, hoàn thành sớm, thọc sâu vươn xa. Bộ tư lệnh 559 được thành lập 2 sư đoàn ôtô 571 và 471 đảm trách vận chuyển chỉ tiêu kế hoạch và sẵn sàng bảo đảm cơ động binh lực lớn vào bất kỳ lúc nào. Các cung vận chuyển trước đây nay không còn thích hợp nữa, toàn tuyến tổ chức lại thành hai cung cơ bản: Đông Hà - Bến Giàng và Bến Giàng - Lộc Ninh, chạy đội hình trung đoàn theo chiều thuận. Các khu căn cứ hậu cần được điều chỉnh lại; khu căn cứ cơ bản của tuyến triển khai từ cảng Cửa Việt lên Khe Sanh, phát triển sang nam, bắc đường số 9 từ 3 đến 4 km. Trên hệ thống đường đông và tây Trường Sơn, có các căn cứ của sư đoàn đặt trên các trục thuận tiện cơ động ra các hướng chiến trường.
       
        Với hình thức và quy mô tổ chức mới, đã giảm tối đa thời gian phải dừng xe, bốc xếp hàng lên xuống, hạn chế tổn thất và đặc biệt đã bảo đảm yêu cầu đồng bộ, nâng hiệu suất vận chuyển mùa khô 1973 - 1974 lên 360% so với năm 1970 - 1973. Tổng khối lượng vật chất giao cho các chiến trường lên 35.000 tấn dự trữ, nâng tổng khối lượng của tuyến chiến lược lên 135.000 tấn vật chất kỹ thuật, phân bổ trên các khu vực căn cứ đi ra từng hướng chiến trường. Năm 1974, các sư đoàn đã vận chuyển đến các chiến trường đạt 149% mức chỉ tiêu (gấp 5,45 lần so với năm 1972); các điểm giao nhận ở xa  hơn nên tổng số tấn/km tăng lên 2,5 lần so với những năm trước (trên 80 triệu tấn/km).
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #97 vào lúc: 07 Tháng Tư, 2016, 08:27:01 pm »

       
        Các đơn vị binh khí kỹ thuật được bố trí theo trục riêng, có trạm cấp phát bổ sung phù hợp với cung độ hành quân. Bỏ tuyến giao liên đi bộ, sử dụng 4 trung đoàn ôtô chuyên trách 4 cung giao liên cơ giới, bảo đảm chở quân ra mặt trận mỗi tháng từ 18 đến 20 nghìn người mang theo trang bị vũ khí bộ binh.
       
        Song song với phát triển vận tải đường bộ, tuyến vận tải đường sông trên Trường Sơn cũng tăng sức vận chuyển, đạt 7 triệu 61 vạn tấn/km. Riêng tuyến đường ống được đặc biệt chú trọng đầu tư, phát triển nhảy vọt từ 6,5 triệu lên 18,2 triệu tấn/km. Đã kéo dài tuyến ống 1.400km tiếp cận chiến trường Nam Bộ, bao gồm 113 trạm bơm, 46 kho dự trữ với 270.000m3 nhiên liệu. Đây là khâu then chốt bảo đảm nhịp độ phát triển của tuyến vận tải quân sự chiến lược.
       
        Cuối năm 1974, sau khi kiểm tra toàn diện, Thường trực Quân uỷ Trung ương đánh giá: "Tuyến 559 đã nỗ lực vượt bậc phục vụ các chiến trường, thực hiện thắng lợi quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang và nhân dân ta giữ quyền chủ động tiến công, đánh bại được kế hoạch bình định lấn chiếm của địch, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng của ta..."1

        Có thể nói qua 15 năm xây dựng và chiến đấu, hệ thống đường Hồ Chí Minh đã thực sự trở thành tuyến hậu cần chiến lược phía trước, phát huy tác dụng hết sức to lớn đối với sự phát triển của cách mạng giải phóng ba nước Đông Dương. "Những khối lượng rất lớn lương thực, vũ khí, xăng dầu, trang bị được vận chuyển vào các chiến trường bảo đảm tốt nhiệm vụ hậu cần cho cuộc chiến tranh giải phóng ở giai đoạn cuối cùng" .
       
        Năm 1975, trước khi bước vào chiến dịch Tây Nguyên, Đại tướng Văn Tiến Dũng báo cáo về Bộ Chính trị; "Tuyến 559 đã .... tạo được một khối lượng vật chất lớn để bảo đảm cho năm 1975 và cả cho thời cơ phát triển để hoàn thành nhiệm vụ năm 1976... Có thể nói, do công tác chuẩn bị tốt, giữ được bí mật mà ta có đầy đủ yếu tố cần thiết để giữ quyền chủ động trong cả quá trình tổng tiến công chiến lược. Những yếu tố đó là: có lực lượng hùng hậu, có hậu cần đầy đủ và mạnh, có khả năng cơ động lớn cả về đường sá và phương tiện".

        Trên cơ sở đánh giá chính xác so sánh lực lượng địch - ta, Bộ Chính trị quyết định mở trận tiến công chiến lược đầu tiên trên chiến trường Tây Nguyên.
       
        Nhờ sớm chuẩn bị, Bộ tư lệnh 559 đã nhanh chóng tổ chức lực lượng mạnh đặc trách phục vụ mặt trận: các đơn vị ô tô của sư đoàn 471 khẩn trương đưa hàng sâu đến các cụm kho giáp lưng bộ đội; bí mật cơ động sư đoàn bộ binh 968 đến bắc Tây Nguyên hoạt động thu hút địch; điều 2 trung đoàn pháo cao xạ hành quân vào nam Tây Nguyên đánh máy bay địch; điều tiểu đoàn công binh mở đường cho xe tăng và pháo binh bí mật tiếp cận địch, điều tiểu đoàn công binh bắc cầu phao vượt sông khẩn cấp, chọn các đại đội công binh thao địa hình, có kỹ thuật tháo gỡ mìn giỏi, cơ động theo các mũi tiến công; tiểu đoàn thông tin trực tiếp phục vụ Bộ chỉ huy Mặt trận v.v...

        Được bảo đảm vững chắc, kịp thời về vật chất, kỹ thuật, bộ đội ta đã bất ngờ đánh chiếm nhanh gọn Buôn Ma Thuột, một tử huyệt trong hệ thống phòng ngự của địch ở miền Tây. Chiến dịch Tây Nguyên phát triển, sư đoàn ô tô 471, sư đoàn công binh 470 và các binh chủng kỹ thuật khác của 559 được lệnh tập trung bảo đảm cao nhất cho yêu cầu tác chiến. Bộ tư lệnh 559 khẩn trương điều tiết hai trung đoàn pháo cao xạ, 1 trung đoàn bộ binh và công binh đến bảo vệ Buôn Ma Thuột, Công Tum, Plây-ku thay cho bộ đội chủ lực thực hành truy kích định. Các trung đoàn ô tô được sử dụng để cơ động lực lượng tiến công địch rút chạy về phía Đông.
       
        Thừa thắng các binh đoàn chủ lực phối hợp với địa phương đánh chiếm đường số 7, 19, 21 tiến xuống đồng bằng, chia cắt địch trên chiến trường miền Trung, hình thành thế bao vây, chia cắt, tiêu diệt các binh đoàn địch ở phía Bắc. Bộ tư lệnh 559 quyết định sử dụng 15 đại đội công binh thuộc các binh đoàn công binh tây Trường Sơn  triển khai bảo đảm an toàn giao thông trên các trục đường bộ đội hành quân.
       
        Cuộc tiến công vũ bão đã làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng ngự của địch trên chiến trường miền Nam. Quân địch ở Quảng Trị, Thừa Thiên và nhiều nơi ở Khu 5, Nam Bộ tan vỡ từng mảng trước sức tiến công của bộ đội ta.

        Ngày 25 tháng 3 năm 1975, Bộ chính trị hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam trước mùa mưa, chủ trương đó đặt tuyến 559 trước một vấn đề đòi hỏi phải giải quyết có hiệu quả. Trên cơ sở thế trận hậu cần đã được chuẩn bị, tích luỹ từ lâu, tuyến 559 đã thực hiện tốt nhiệm vụ, nhanh chóng sử dụng 2 sư đoàn ô tô để chuyển 3 quân đoàn chủ lực và bảo đảm hành quân cho các binh chủng kỹ thuật đến vị trí chiến dịch đúng thời hạn; liên tiếp vận chuyển hoàn thành chỉ tiêu 167.000 tấn vật chất giao cho các hướng, cung cấp 68.472 tấn nhiên liệu; bảo đảm giao thông an toàn trên 30.000 km đường (gồm cả những trục đường mới giải phóng); kịp thời thực hiện chủ trương điều sư đoàn pháo cao xạ, các trung đoàn, sư đoàn bộ binh, 4 trung đoàn công binh phối thuộc chiến đầu cho các quân khu, quân đoàn.
       
        Lúc này trên chiến trường Cam-pu-chia, tình hình chiến sự đang tiến triển thuận lợi. Theo yêu cầu của lực lượng cách mạng Cam-pu-chia, Bộ tổng tư lệnh chỉ thị cho 559 tổ chức chi viện khẩn cấp. Một trung đoàn được giao nhiệm vụ này. Các chiến sỹ lái xe thay nhau chạy suốt ngày đêm, chỉ trong một tuần lễ đã vượt trên 1.000km đường núi, giao 800 xe tốt và đủ hàng kịp tăng cường hoả lực mạnh cho quân giải phóng Cam-pu-chia mở cuộc tiến công lớn chiếm Nông Pênh ngày 17 tháng 4 năm 1975.
       
        Đến thời điểm này, không gian bảo đảm của tuyến hậu cần chiến lược 559 không còn hạn chế trên địa bàn Trường Sơn, cũng không chỉ phục vụ một hai mặt trận trên những địa hình quen thuộc mà cùng một lúc phải đảm bảo hậu cần cho các đòn chiến lược diễn ra trên không gian cả ba nước Đông Dương, mở rộng đến địa bàn các vùng mới giải phóng.

        Khi bước vào chiến dịch Hồ Chí Minh, thế và lực của ta đã lên tới đỉnh cao, nhiều tỉnh, thành miền Nam đã được giải phóng, tạo ra hậu phương chiến lược mới, có nhân lực, vật lực tại chỗ rất lớn. Cả nước theo lời kêu gọi của Đảng và Chính phủ, đã huy động mọi tiềm năng đến mức cao nhất để bảo đảm giành toàn thắng trong trận đánh cuối cùng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #98 vào lúc: 07 Tháng Tư, 2016, 08:31:40 pm »

       
        Ngày 27 tháng 4 năm 1975, Bộ chính trị Trung ương Đảng khẳng định thời cơ tổng tiến công vào Sài Gòn đã chín muồi. Bộ chỉ huy chiến dịch duyệt lại mọi mặt chuẩn bị và kết luận; "Ta đã hoàn thành việc tập trung lực lượng, tập trung khí tài kỹ thuật và các cơ sở vật chất khác đạt ưu thế áp đảo quân địch. Đã triển khai xong thế bao vây chia cắt chiến dịch, cô lập Sài Gòn đến cao độ. Chiến dịch lịch sử này đã có những cơ sở đảm bảo chắc thắng".
       
        Từ thực tiễn phong phú nói trên, chúng tôi mạnh dạn nêu lên mấy vấn đề để nghiên cứu.
       
        Những kết quả đạt được của tuyến 559 trong cuộc Tổng tiến công chiến lược xuân 1975 là đỉnh cao thắng lợi của công tác hậu cần quân đội ta. Tuy nhiên đó không phải chỉ là kết quả của thời kỳ chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công chiến lược (1973-1975) mà là thành tựu của cả quá trình 16 năm chiến đấu, xây dựng theo đúng đường lối chiến tranh nhân dân, quan điểm liên minh chiến đấu giữa ba dân tộc trên  bán đảo Đông Dương; đó cũng chính là biểu hiện trực tiếp sức mạnh của hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa được huy động vào cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam vào giao đoạn chót.
       
        Dưới góc độ nghiên cứu giải trí lịch sử của đường Hồ Chí Minh, gợi lên ý nghĩa thực tiễn về bản chất "tiến công" của tuyến vận tải quân sự chiến lược. Ngay từ khi còn là con đường "mòn" nó đã là còn đường của chủ trương cách mạng tiến công. Trong quá trình xây dựng, phải quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công của Đảng trong tổ chức lực lượng, phương thức bảo đảm, v.v... thì mới hoàn thành được nhiệm vụ.
       
        Được Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương lãnh đạo theo tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng, bộ đội Trường Sơn đã kiên trì xây dựng tuyến vận tải cơ giới với nhiều phương thức hoạt động kết hợp, khẩn trương triển khai quy mô tổ chức binh chủng hợp thành thực hiện nhiệm vụ vận tải chiến lược. Đặc biệt đã chuẩn bị được khả năng bảo đảm cơ động nhanh cho các binh đoàn chủ lực, chi viện lớn trong thời gian ngắn cho các hướng chiến trường, chuẩn bị khối lượng cho đòn quyết định đầu tiên đánh trúng tử huyệt quân thù. Trên cơ sở thế trận hậu cần chiến lược phía trước được bảo đảm đầy đủ, vững chắc, đã xuất hiện cách đánh thích hợp vào nơi điểm yếu của quân địch (khác với cách đánh năm 1972 ở Quảng Trị). Như vậy thế trận hậu cần và phương thức tác chiến, đồng thời yêu cầu của chiến thuật, nghệ thuật chiến dịch cũng đòi hỏi hoạt động hậu cần phải vươn lên trình độ tương ứng.
       
        Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, những điều kiện vật chất kỹ thuật chuẩn bị sẵn trên địa bàn chiến lược Trường Sơn đã góp phần tích cực giải quyết vấn đề "không gian rộng" của chiến trường, "thời gian ngắn" của chiến cuộc. Trên cơ sở "thế" đã chuẩn bị mà phát huy "lực" sẵn có, tuyến đường Hồ Chí Minh đã cùng với tuyến hậu phương quốc gia, kết hợp tuyến hậu phương cần chiến dịch bảo đảm đắc lực cho bộ đội ta tiến công liên tục, chia cắt chiến lược, bao vay chiến dịch, truy kích thần tốc, tiến tới chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giành thắng lợi nhanh chóng và trọn vẹn.
       
        Đánh giá vai trò trọng yếu của tuyến đường Hồ Chí Minh, đồng chí Trường Chinh nói: "Muốn đánh thắng quân xâm lược, về hạ tầng cơ sở của cuộc kháng chiến chúng ta phải có những con đường chiến lược như đường Trường Sơn, và biết sử dụng con đường ấy một cách tốt nhất để lập nên những chiến công vĩ đại".
       
        Đại tướng Võ Nguyên Giáp coi sự ra đời và phát triển của tuyến đường Hồ Chí Minh là "một trong những thành công kiệt xuất của đường lối chính trị, quân sự của Đảng ta, là những kinh nghiệm quý báu làm phong phú thêm khoa học và nghệ thuật quân sự của nước ta"2

         Nếu trong chiến tranh, đường Trường Sơn là thế đứng chiến lược để tổ chức tiến công địch, giải phóng đất nước, thì ngày nay Trường Sơn giữ vị trí như thế nào trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa?
       
        Năm 1973, đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn đến thăm bộ đội Trường Sơn, đã chỉ rõ: "Đường Trường Sơn là con đường nối liền Nam Bắc, thống nhất nước nhà; là con đường tương lai giàu có của Tổ quốc ta". Khi cả nước đã hoàn thành sự nghiệp giải phóng thì bộ đội Trường Sơn được nhanh chóng chuyển sang nhiệm vụ xây dựng kinh tế kết hợp với củng cố quốc phòng.
       
        Ngày nay trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vấn đề xây dựng vùng rừng núi Trường Sơn, khai thác tiềm năng kinh tế, phát triển hệ thống giao thông, củng cố quốc phòng vững mạnh có tầm quan trọng rất lớn. Trong một tương lai không xa, hàng triệu héc ta đất hoang sẽ trở thành đất thuộc, sẽ có hàng trăm nông trường, hàng vạn xã trên cao nguyên, được nối liền bằng mạng đường giao thông thuận tiện. Về mặt quốc phòng, khi có hệ thống giao thông cơ giới hoàn chỉnh kết hợp với mạng đường cho các phương tiện thô sơ, nối liền với các tuyến giao thông nội địa, sẽ tạo thành thế liên hoàn vững chắc. Đó là một nhân tố trọng yếu bảo đảm cho nhân dân ta đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #99 vào lúc: 07 Tháng Tư, 2016, 08:34:45 pm »

        
MẤY BÀI HỌC VỀ CHỈ ĐẠO CÔNG TÁC
KỸ THUẬT TRONG MÙA XUÂN 1975
                               
Trung tướng LÊ VĂN TRI        
       
        Thực tiễn hoạt động công tác kỹ thuật chi viện chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, nhất là trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, đã cho chúng ta nhiều kinh nghiệm bổ ích về chỉ đạo bảo đảm kỹ thuật trong tác chiến chiến lược, chiến dịch và chiến đấu. Chúng tôi xin nêu khái quát mấy bài học về chỉ đạo công tác kỹ thuật trong Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 nhằm đề xuất một số vấn đề mà nhiều cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp thường quan tâm trong tác chiến và trong xây dựng lực lượng.
        
        1. Đảm bảo đạn dược là một nhiệm vụ trung tâm của công tác bảo đảm kỹ thuật trong tác chiến.
        
        Đạn dược là một bộ phận của vũ khí, có tác dụng trực tiếp tiêu diệt sinh lực địch, phá hoại các phương tiện và công trình chiến đấu của chúng. Do đó đạn dược là một yếu tố vật chất thể hiện trực tiếp sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang. Có đường lối đúng đắn, có ý chí chiến đấu kiên cường, có cơ cấu tổ chức thích hợp, có cách đánh sáng tạo, có vũ khí đạn dược đủ là đã có những yếu tố căn bản để giành thắng lợi trên chiến trường.

        Trong lịch sử chiến đấu và trưởng thành của quân đội ta, đã có những tình huống chiến đấu khẩn cấp mà đạn dược được coi là yếu tố có giá trị quyết định thắng lợi.
        
        Quy mô chiến tranh càng lớn, mức độ chiến đấu càng ác liệt, trang bị vũ khí càng nhiều thì nhu cầu bảo đảm đạn dược càng lớn và phức tạp. Trong điều kiện nền công nghiệp nước ta chưa phát triển, địa hình đất nước hẹp và dài, khí hậu khắc nghiệt, chiến trường ở xa hậu phương, quân thù lại ra sức đánh phá ác liệt tuyến giao thông thì bảo đảm đạn dược trong tác chiến càng trở thành một nhiệm vụ nặng nề, phức tạp.
        
        Nhiệm vụ bảo đảm đạn dược còn có mối quan hệ với phương thức tiến hành chiến tranh và đối tượng tác chiến cụ thể. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, ta sử dụng các binh đoàn chủ lực tác chiến tập trung, hợp đồng binh chủng, phối hợp với tác chiến và nổi dậy của bộ đội địa phương, dân quân tự vệ và lực lượng chính trị quần chúng, để tiêu diệt và làm tan rã một đối tượng tác chiến gồm trên một triệu quân với vũ khí trang bị hiện đại của Mỹ. Vì vậy trong trận quyết chiến chiến lược này chúng ta đã xác định bảo đảm đạn dược là một nhiệm vụ trung tâm của kế hoạch bảo đảm kỹ thuật trong tác chiến chiến lược và chiến dịch.
        
        Thực hiện nhiệm vụ đó, chúng ta đã chuẩn bị từ nhiều năm trước, tập trung nhiều nhân lực, vật tư, phương tiện với những cố gắng phi thường của cả hậu phương và tiền tuyến nên đã đưa được một khối lượng lớn đạn dược vào các chiến trường. Các kho dự trữ của Bộ và của các quân khu phía bắc từ Đồng Đăng đến Vĩnh Linh đều khẩn trương huy động đạn cho các chiến trường. Hệ thống kho trạm của tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn và hệ thống kho chiến dịch của các quân khu phía Nam, nơi nào cũng có đạn vận chuyển đi các hướng chuẩn bị sẵn sàng cung cấp cho các đơn vị, đón thời cơ lớn.
        
        Trong quá trình tổng tiến công, các binh đoàn chủ lực đều có đủ lượng đạn mang theo; mặt khác vừa chiến đấu vừa thu hồi đạn dược của địch, sử dụng kịp thời và bổ sung lượng dự trữ chiến đấu. Các đơn vị trực tiếp chiến đấu ở những nơi có sự chống cự ác liệt của địch đều được bảo đảm đạn dược đầy đủ.
        
        Các kho dự trữ cấp chiến dịch đưa đạn lên xe thành những phân kho cơ động, bám sát đội hình các mũi tiến công. Các đơn vị vận tải cơ giới từ hậu phương lớn tiếp tục chuyển thẳng đạn dược vào tận chiến trường bằng đường bộ, đường biển và cả đường không. Các kho dự trữ chiến lược tiến nhận viện trợ và cấp phát đạn dược ra tuyến vận tải. Các nhà máy quốc phòng tiếp tục sản xuất những chi tiết để bổ sung đồng bộ, tận dụng đạn dược của địch mới thu được. Các đoàn tiếp quản ở các vùng mới giải phóng đã kịp thời thu gom đạn dược, kiểm tra bổ sung đồng bộ và thực hiện các quyết định điều chỉnh bổ sung đạn dược cho mặt trận. Quân khu 5 vừa giải phóng xong phần đất miền Trung đã chuyển ngay đạn dược vào chi viện cho chiến trường Nam Bộ. Từ hậu phương chiến lược, một đoàn xe lớn của các kho, xưởng, trường và cơ quan kỹ thuật chở các loại đạn cỡ lớn, thuốc nổ mạnh và mìn lõm đánh hầm ngầm đến chiều 28 tháng 4 đã áp sát mặt trận Sài Gòn, sẵn sàng chi viện cho các đơn vị đột phá công sự vững chắc của địch trong thành phố.
        
        Nhìn chung, cả hệ thống bảo đảm đạn dược cho cuộc tổng tiến công đã hoạt động có hiệu quả. Trong quá trình tổng tiến công, do thế và lực của ta rất mạnh lại đánh trúng, rất hiểm nên địch tan rã nhanh chóng, lượng tiêu thụ đạn dược không lớn lắm. Nhưng quyết tâm và kế hoạch bảo đảm đạn dược của ta đã trù liệu cho một tình huống phức tạp hơn nhiều.
        
        Để làm tốt nhiệm vụ bảo đảm đạn dược cho cuộc tổng tiến công, công tác kỹ thuật đã giải quyết nhiều mối quan hệ phức tạp. Cấp chiến lược và cấp chiến dịch xác định phương hướng nhiệm vụ, chỉ tiêu kế hoạch, chỉ đạo tổ chức thực hiện các mặt sản xuất, tiếp nhận viện trợ, dự trữ, bảo quản, cấp phát và theo dõi kết quả vận chuyển tới các chiến trường. Cấp chiến thuật phải đi sâu vào các vấn đề kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu chiến đấu của từng loại súng, pháo, nhiệm vụ của từng đơn vị.
        
        Bảo đảm đạn dược cho cuộc tổng tiến công là hoạt động tổng hợp của nhiều ngành, nhiều cấp, là kết quả giải quyết nhiều mối quan hệ phức tạp giữa các nhiệm vụ sản xuất, dự trữ, vận chuyển, bảo đảm cầu đường, đánh địch phá hoại kho tàng và giao thông, huấn luyện bảo quản sử dụng ở đơn vị. Giải quyết tốt các mối quan hệ có tính quy luật đó và nắm được quy luật phát triển của những điều kiện tạo thành kết quả bảo đảm đạn dược là yêu cầu đặt ra cho công tác chỉ đạo bảo đảm kỹ thuật trong tác chiến chiến lược và chiến dịch.

        Xác định bảo đảm đạn dược là nhiệm vụ trung tâm của công tác bảo đảm kỹ thuật phải tập trung mọi khả năng chỉ đạo thực hiện, là một bài học sâu sắc đã được thực tế kiểm nghiệm trong cuộc tổng tiến công đại thắng xuân 1975. Trước tình hình nhiệm vụ của quân đội ta hiện nay, chúng ta cần nghiên cứu sâu hơn nữa về cơ sở lý luận và yêu cầu thực tiễn của nhiệm vụ bảo đảm đạn dược trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM