Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 07:58:40 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Trận quyết chiến lịch sử Xuân 1975  (Đọc 26676 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #10 vào lúc: 04 Tháng Tư, 2016, 10:56:07 pm »

        
MẤY VẤN ĐỀ ĐẤU TRANH VŨ TRANG
TRONG CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG MIỀN NAM
                           
Đại tướng LÊ TRỌNG TẤN        
       
        Đấu tranh vũ trang là đặc trưng của mọi cuộc chiến tranh. Đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị là hai mặt đấu tranh cơ bản của chiến tranh cách mạng miền Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược. Ngay từ những năm 1960 - 1961, khi nhân dân ta ở miền Nam phát triển khởi nghĩa vũ trang thành chiến tranh giải phóng, chiến tranh cách mạng, Đảng ta đã sớm xác định vai trò của đấu tranh vũ trang trong cuộc chiến tranh này. Trong thư gửi Xứ uỷ Nam Bộ đề ngày 20 tháng 4 năm 1961, đồng chí Lê Duẩn, Tổng bí thư của Đảng ta, đã khẳng định: "Đấu tranh chính trị và vũ trang sẽ diễn ra đồng thời, nhưng từ đây đấu tranh vũ trang chuyển sang đóng vai trò ngày càng quyết định"1. Đồng chí đã chỉ ra rằng: "kinh nghiệm nhiều cuộc cách mạng chỉ rõ khởi nghĩa không thể thành công được nếu địch không bị thất bại về quân sự"2 và  "muốn tiến tới tổng khởi nghĩa thì phải làm cho quân đội địch bị đánh bại mà ở đây quân địch bị đánh bại chủ yếu là do lực lượng vũ trang cách mạng của ta"3. Đồng chí Tổng bí thư còn vạch rõ : "Đi đôi với đấu tranh chính trị và binh vận, đấu tranh quân sự trở thành cuộc đọ sức chủ yếu giữa ta và địch"4.
        
        Đấu tranh vũ trang của chiến tranh cách mạng miền Nam phát triển từ đấu tranh chính trị và khởi nghĩa của quần chúng; từ chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy, rồi kết hợp chiến tranh chính quy với chiến tranh du kích, kết hợp tác chiến của các binh đoàn chủ lực với tác chiến du kích. Trong sức mạnh tổng hợp đó, tác chiến của các binh đoàn chủ lực - chiến tranh chính quy - giữa vai trò quyết định trong việc tiêu diệt những bộ phận sinh lực lớn và quan trọng của quân địch, làm chuyển biến cục diện chiến trường và kết thúc chiến tranh thắng lợi.
        
        Sức mạnh và hiệu lực tác chiến của các binh đoàn chủ lực chỉ có thể được phát huy trong sức mạnh của cuộc chiến tranh toàn dân và toàn diện, theo đường lối chính trị và đường lối quân sự của Đảng, sự chỉ đạo chiến lược của Ban Chấp hành trung ương và Bộ Chính trị. Những chủ trương lớn về xây dựng các binh đoàn chủ lực, các binh chủng, quân chủng kỹ thuật hiện đại, cũng như những quyết định sử dụng những quả đấm chiến lược trong quá trình chiến tranh là do Bộ Chính trị quyết định. Tác chiến của các binh đoàn chủ lực luôn luôn kết hợp chặt chẽ với chiến tranh du kích, với các đòn tiến công chính trị, có khi cả tiến công ngoại giao. Vì vậy, nghệ thuật tác chiến của các binh đoàn chủ lực trong chiến tranh cách mạng miền Nam có những đặc điểm, nội dung và hình thức biểu hiện khác với chiến tranh chính quy trong những cuộc "chiến tranh cổ điển" chỉ bằng quân đội.
        
        Có thể rút ra mấy quy luật phát triển của phương thức tiến hành chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực của chiến tranh cách mạng miền Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược như sau.
        
        1. Tác chiến của các binh đoàn chủ lực (chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực) luôn luôn kết hợp với tác chiến du kích (chiến tranh du kích hay chiến tranh nhân dân địa phương), với đấu tranh chính trị và các hình thức đấu tranh khác.
        
        Là một phương pháp đấu tranh vũ trang cơ bản, phát triển từ đấu tranh du kích, nghệ thuật tác chiến của các binh đoàn chủ lực ngay khi bắt đầu xuất hiện đã kết hợp với chiến tranh du kích. Sự kết hợp đó được thực hiện trong cả chiến thuật, chiến dịch và chiến lược, trong cả quá trình chiến tranh. Đó là biểu hiện tập trung của "toàn dân đánh giặc", của sự kết hợp sức mạnh chiến đấu của ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và quân dân tự vệ. Sinh ra trong điều kiện của cuộc đấu tranh toàn dân và toàn diện, tác chiến của các binh đoàn chủ lực còn kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị của quần chúng, với khởi nghĩa từng phần, với mũi tiến công binh vận của nhân dân trên cả ba vùng chiến lược. Chiến tranh du kích và đấu tranh chính trị của quần chúng tiến công liên tục ở khắp nơi đã phân tán giam chân từ 2 phần 3 đến 8 phần 10 lực lượng, phương tiện của địch vào những nhiệm vụ giữ gìn "an ninh" căn cứ, hậu phương, đối phó với cuộc đấu tranh của quần chúng tại vùng chúng kiểm soát. Có thời kỳ toàn bộ đội quân ngụy gồm hơn 60 vạn tên cùng với những sư đoàn sừng sỏ của Mỹ như "Anh cả đỏ", "Tia chớp nhiệt đới", A-mê-ri-cơ, sư đoàn lính thuỷ đánh bộ số 3... đều phải lao vào đối phó với chiến tranh du kích và phong trào đấu tranh của nhân dân chống chính sách "bình định" của Mỹ - ngụy. Do đó các binh đoàn chủ lực của ta đã có điều kiện tự do hành động, tiến công tiêu diệt những tập đoàn lực lượng quan trọng của địch trên hướng chủ yếu, trong điều kiện ta chỉ có ưu thế tương đối, hoặc không có ưu thế về lực lượng và phương tiện so với địch.
        
        Những trận đánh lớn, những chiến dịch tiến công và phản công quy mô ngày càng lớn của các binh đoàn chủ lực đã tiêu diệt những bộ phận quan trọng quân chủ lực tinh nhuệ của địch, làm suy yếu khối cơ động chiến lược của chúng, mở ra những địa bàn rộng lớn. Những cuộc tiến công đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho chiến tranh du kích, cho các cuộc nổi dậy giành chính quyền làm chủ của nhân dân, hỗ trợ đắc lực cho chiến dịch tiến công tổng hợp ở đồng bằng nông thôn, các cuộc đấu tranh chính trị ở thành thị. Đó là một trong ba "quả đấm" chiến lược của chiến tranh cách mạng miền Nam.
        
        Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 là một bước phát triển điển hình về sự kết hợp tác chiến của các binh đoàn chủ lực với chiến tranh du kích và nổi dậy của quần chúng. Hệ thống các chiến dịch tiến công hiện đại quy mô lớn được thực hiện kế tiếp nhau thắng lợi trong thời gian ngắn, tiêu diệt những tập đoàn lực lượng chủ yếu của địch trên những hướng chiến lược quyết định, đã tạo điều kiện chưa từng có cho chiến tranh du kích và nổi dậy của quần chúng phát triển đến đỉnh cao. Phối hợp với các chiến dịch đó, chiến tranh du kích và nổi dậy của quần chúng đã tiến công địch ở khắp nơi, đẩy nhanh đà suy sụp và tan rã của quân địch, giành quyền làm chủ địa phương. Tiêu biểu ở đồng bằng sông Cửu Long, chớp thời cơ tập đoàn lực lượng chủ yếu của địch bị tiêu diệt và tan ra ở vùng xung quanh Sài Gòn, lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị ở địa phương đã đẩy mạnh tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công quét sạch toàn bộ lực lượng địa phương của địch, đập tan hệ thống ngụy quyền từ ấp, xã đến tỉnh, thực hiện tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã.
« Sửa lần cuối: 05 Tháng Tư, 2016, 10:53:19 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #11 vào lúc: 04 Tháng Tư, 2016, 10:59:11 pm »

        
        2. Tác chiến các binh đoàn chủ lực phát triển từ các trận đánh của bộ binh, tiến lên các chiến dịch quy mô nhỏ, rồi chiến dịch hợp đồng binh chủng, quân chủng quy mô lớn, và các cuộc tiến công chiến lược với trình độ hiện đại ngày càng cao.
        
        Trong chiến tranh nhân dân ở miền Nam, lúc đầu bộ đội chủ lực chỉ tổ chức và thực hành từng trận đánh bằng lực lượng tiểu đoàn, trung đoàn bộ binh. Tiếp đó, xuất hiện các chiến dịch tiến công quy mô nhỏ còn mang tính du kích của các trung đoàn, trung đoàn tăng cường hoặc sư đoàn bộ binh. Rồi đến các chiến dịch tiến công, phân công hợp đồng giữa bộ binh, pháo binh, đặc công, phòng không được tổ chức và thực hành trên nhiều hướng, tiêu diệt nhiều tiểu đoàn Mỹ, nhiều chiến đoàn quân ngụy. Bước phát triển vượt bậc được đánh dấu bằng các chiến dịch tiến công, chiến dịch phản công hiện đại quy mô lớn vào năm 1971-1972. Do đó những chiến dịch hợp đồng giữa các sư đoàn bộ binh, các trung đoàn, lữ đoàn pháo binh, xe tăng - xe bọc thép, tên lửa, pháo cao xạ, đặc công... Đỉnh cao là các cuộc tiến công chiến lược quy mô ngày càng lớn, trình độ hiện đại ngày càng cao bao gồm một hệ thống chiến dịch, chủ yếu là chiến dịch tiến công, các trận đánh lớn, các đợt hoạt động diễn ra đồng thời hoặc kế tiếp nhau trên các hướng quan trọng, kết hợp chiến tranh chính quy với chiến tranh du kích và các cuộc đấu tranh chính trị, các cuộc nổi dậy của quần chúng theo một kế hoạch và sự chỉ đạo thống nhất, những cuộc tiến công chiến lược đó đã làm phá sản các chiến lược chiến tranh của Mỹ-ngụy, và cuối cùng kết thúc chiến tranh thắng lợi.
        
        Cuộc tiến công chiến lược vĩ đại xuân 1975 là sự phát triển đỉnh cao của nghệ thuật tác chiến của các binh đoàn chủ lực. Trước hết, công tác chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công đã được tiến hành toàn diện và tương đối sớm. Việc xây dựng, phát triển lực lượng, nhất là xây dựng các binh đoàn chủ lực, các quân đoàn lục quân binh chủng hợp thành, các đơn vị tác chiến lớn của các binh chủng, quân chủng là một nội dung cơ bản của công tác chuẩn bị đó. Quân đoàn 1, quân đoàn 4, quân đoàn 2, các trung đoàn, lữ đoàn pháo binh, xe tăng, các sư đoàn phòng không hợp thành, trung đoàn đặc công... đã dần dần được xây dựng theo yêu cầu tác chiến quy mô lớn vào năm 1973. Công tác động viên, tuyển quân trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa được tiến hành trên quy mô lớn. Riêng các tỉnh thuộc quân khu 3 đã động viên gần một nửa triệu thanh niên tham gia bộ đội.
        
        Nhờ đó, khi đánh đòn quyết định vào Sài Gòn, trong tay Bộ Tổng chiến trường. Quân đoàn 3 và binh đoàn 322 được hình thành trong quá trình cuộc tổng tiến công. Công tác huấn luyện chiến đấu nhằm thẳng vào nâng cao trình độ tác chiến hợp đồng quy mô lớn cho bộ đội, nâng cao trình độ tổ chức và thực hành các chiến dịch tiến công, nhất là tiến công vào thành phố, vào các tổ chức phòng ngự lớn của địch. Để cơ động những lực lượng lớn, đáp ứng những nhu cầu vật chất - kỹ thuật của tác chiến hiện đại, ta đã củng cố mở rộng hệ thống đường chiến lược dài tới 20.000km, hệ thống bảo đảm vật chất kỹ thuật trên các hướng chiến lược. Bộ Chính trị đã huy động lực lượng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, chuẩn bị từng bước, cụ thể cho cuộc Tổng tiến công.
        
        Điểm nổi bật nữa của cộng tiến công chiến lược xuân 1975 là tổ chức chỉ đạo, chỉ huy chính xác, nhạy bén của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, của Bộ Tổng tư lệnh. Trước hết, đó là sự lựa chọn đúng các đòn quyết định, hình thành các chiến dịch có ý nghĩa chiến lược để thực hiện các đòn đó ở Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng, Sài Gòn- Gia Định, có dự kiến cả chiến dịch ở đồng bằng Nam Bộ, nhưng Bộ Chính trị cho là không cần thiết một khi đã giải quyết được Sài Gòn - Gia Định. Bộ Chính trị đã quyết định thành lập từng bộ tư lệnh cho từng chiến dịch để bảo đảm thống nhất chỉ đạo, chỉ huy trên từng chiến trường: chiến dịch ở Tây Nguyên do đồng chí Hoàng Minh Thảo làm tư lệnh, đồng chí Đặng Vũ Hiệp làm chính uỷ. Chiến dịch Huế- Đà Nẵng do đồng chí Lê Trọng Tấn làm tư lệnh, đồng chí Chu Huy Mân làm chính uỷ. Chiến dịch Hồ Chí Minh do đồng chí Văn Tiến Dũng là tư lệnh, đồng chí Phạm Hùng làm chính uỷ...
        
        Nhằm đảm bảo chắc thắng cho đòn quyết định, ngày 1 tháng 4 năm 1975, đồng chí Lê Duẩn đã điện cho đồng chí Phạm Hùng, đồng chí Lê Đức Thọ và đồng chí Văn Tiến Dũng... gấp rút tăng thêm lực lượng ở hướng tây Sài Gòn, thực hiện chia cắt và bao vây chiến lược, triệt hẳn đường số 4 và áp sát Sài Gòn. Đồng thời, nhanh chóng tập trung lực lượng ở hướng đông - nam, đánh chiếm những mục tiêu quan trọng, thực hiện bao vây, cô lập hoàn toàn Sài Gòn từ phía Long Khánh, Bà Rịa Vũng Tàu.
        
        Tổ chức sẵn sàng những đơn vị chủ lực được trang bị binh khí kỹ thuật thật mạnh, để lúc thời cơ xuất hiện thì tự khắc đánh chiếm những mục tiêu quan trọng nhất ở trung tâm thành phố Sài Gòn.
        
        Ở đồng bằng sông Cửu Long, cần thúc đẩy các lực lượng quân sự, chính trị của ta hành động mạnh bạo, khẩn trương, phát triển tiến công và nổi dậy, tiêu diệt chỉ khu quận lỵ, phá banh từng mảng lớn hệ thống kìm kẹp của địch, nhanh chóng mở rộng vùng giải phóng ở các khu vực trọng điểm"1.
        
        Ngày 9 tháng 4 năm 1975, đồng chí Tổng bí thư còn nhắc Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh: "...cần chuẩn bị thêm mấy ngày nữa, đợi phần lớn lực lượng của quân đoàn 3 và quân đoàn 1 (cả bộ binh và binh khí kỹ thuật) vào đến nơi hãy bắt đầu cuộc tiến công"2. Đến ngày 14 tháng 4, Bộ tư lệnh chiến dịch nhận được điện: "Bộ Chính trị đồng ý chiến dịch giải phóng Sài Gòn lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh"3.
        
        Kết luận Hội nghị Bộ Chính trị ngày 7 tháng 1 năm 1975 nhấn mạnh: "Đánh trận cuối cùng này, trước hết là nhiệm vụ của các lực lượng quân sự, chính trị trên chiến trường Nam Bộ, trong đó có lực lượng của Sài Gòn - Gia Định, đồng thời là nhiệm vụ của quân và dân cả nước, trong đó khối chủ lực Miền và các binh đoàn chủ lực từ các chiến trường khác đến, đóng vai trò quyết định"4. Thực tế cho thấy: chúng ta đã làm đúng chỉ thị của Bộ Chính trị nên đã giành thắng lợi lớn; nếu làm không đúng thì gặp khó khăn.
        
        Lần đầu tiên, tác chiến của các binh đoàn chủ lực diễn ra với 5 quân đoàn chủ lực cùng hàng chục trung đoàn, lữ đoàn pháo binh, xe tăng, phòng không, gồm hơn 30 vạn cán bộ, chiến sĩ, hiệp đồng chặt chẽ giữa các đơn vị, các binh chủng, quân chủng, các lực lượng, các hướng, giữa mặt đất và trên không, trên mặt nước, phối hợp nhịp nhàng với chiến tranh du kích và nổi dậy của quần chúng. Tất cả cùng tiến công vào một mục tiêu lớn theo phương thức tiến công trong hành tiến, chia cắt, bao vây, tiêu diệt tập đoàn lớn quân địch tại hang ổ của chúng, với tốc độ cao và hiệu lực mạnh, giành toàn thắng.
        
        Sức mạnh của miền Bắc xã hội chủ nghĩa qua đường Trường Sơn và sức mạnh tại chỗ của cách mạng miền Nam, trong khối liên minh chiến lược và chiến đấu với cách mạng Lào, cách mạng Căm-pu-chia, và sự giúp đỡ của Liên Xô, của các nước xã hội chủ nghĩa khác, là nguồn gốc tạo nên sự phát triển không ngừng, cùng những bước phát triển nhảy vọt của sức mạnh chiến đấu của các binh đoàn chủ lực.
« Sửa lần cuối: 05 Tháng Tư, 2016, 10:53:44 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #12 vào lúc: 04 Tháng Tư, 2016, 11:01:06 pm »

        
        3. Tác chiến của các binh đoàn chủ lực vận dụng nhiều cách đánh linh hoạt, sáng tạo và đạt hiệu lực cao.

        Trong chiến tranh du kích, quân và dân ta đã được thế giới ca ngợi là "những người du kích kiểu mẫu". Đồng thời, trong chiến tranh chính quy, trong tác chiến của các binh đoàn chủ lực, quân ta cũng tỏ rõ nghệ thuật đặc sắc của mình. Đó là nghệ thuật hạn chế chỗ mạnh của địch, khoét sâu chỗ yếu của chúng, tận dụng thế trận hiểm hóc, lợi hại của chiến tranh nhân dân, phát huy đầy đủ chỗ mạnh của ta, nhất là chỗ mạnh tuyệt đối về chính trị - tinh thần, tạo nên sức mạnh hơn địch để đánh thắng địch, đạt mục đích cao nhất với tổn thất thấp nhất.
        
        Các binh đoàn chủ lực đã lấy tiến công làm hành động cơ bản, chủ yếu trên chiến trường, phù hợp với quy luật lấy nhỏ thắng lớn. Kết hợp chặt chẽ với chiến tranh du kích, với nổi dậy của nhân dân, phát huy tốt thế trận xen kẽ, cài răng lược, vận dụng nhiều phương pháp tiến công phong phú, các binh đoàn chủ lực của ta đã tiến công thắng lợi ngay cả khi địch chiếm ưu thế về số lượng các sư đoàn (như vào những năm gay go 1967 - 1969, địch có 24 sư đoàn, ta 7 sư đoàn). Bộ đội chủ lực ta đã thực hiện tiến công địch ở mọi nơi, mọi lúc, coi tiến công quân địch ở ngoài công sự là cách tiến công có hiệu quả trong điều kiện phải lấy ít đánh nhiều, đồng thời cũng tiến lên tiến công quân địch trong công sự, công phá các tập đoàn phòng ngự mạnh của địch ở thành phố. Chiến dịch tiến công là một loại hình chiến dịch phổ biến của quân ta.
        
        Các trận chiến đấu phòng ngự cũng được bộ đội chủ lực vận động trong quá trình tiến công, nhằm giữ vững địa hình có lợi, chia cắt quân địch, củng cố kết quả của chiến dịch tiến công. Những trận chiến đấu phòng ngự liên tiếp hình thành một số chiến dịch phòng ngự đã diễn ra trong quá trình cuộc tiến công chiến lược, như ở Thành Cổ và vùng giải phóng Quảng Trị. Tuy nhiên, khi phòng ngự, đi đôi với tổ chức phòng ngự vững chắc, kết hợp chặt chẽ xung lực với công sự và hoả lực, bộ đội chủ lực ta cũng tích cực vận dụng các hành động tiến công, kết hợp phòng ngự với tiến công (như cách đánh kết hợp chốt với vận động tiến công), coi các hành động phản xung phong, phản kích và các hành động tiến công khác là một trong những yếu tố quyết định thắng lợi của phòng ngự.
        
        Các binh đoàn chủ lực còn vận dụng phản công khá phổ biến trong quy mô chiến dịch, coi chiến dịch phản công cũng là một loại hình chiến dịch phổ biến, rất có hiệu quả để đánh bại quân địch đi tiến công. Khác với lẽ thông thường là chống lại quân địch tiến công bằng phòng ngự, các binh đoàn chủ lực của ta trong quá trình chiến tranh lại dùng chiến dịch phản công để đánh lại những cuộc tiến công lớn của địch như chiến dịch phản công ở Tây Ninh đầu năm 1967, đánh bại cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ty, chiến dịch phản công ở đường số 9 - Nam Lào năm 1971, v.v. Nét tiêu biểu của các chiến dịch phản công này là không trải qua chiến dịch phòng ngự mà được tiến hành với tư cách tiến công để đánh bại quân địch đi tiến công, như một loại hình chiến dịch riêng.
        
        Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 đã chứng minh sự vận dụng ở trình độ cao những cách đánh của các binh đoàn chủ lực. Nhiều cách đánh mới đã được vận dụng với hiệu lực cao. Đó là cách tiến công các tập đoàn mạnh quân địch trong hệ thống phòng thủ được tổ chức sẵn trong các thành phố lớn, bằng tác chiến hợp đồng quy mô lớn; là sự kết hợp tiến công trong hành tiến với bao vây, chia cắt quân địch trong quy mô chiến dịch để nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu quan trọng; là đánh đuổi địch với quy mô chiến dịch; là đổ bộ đánh chiếm các đảo và quần đảo....

        4. Tác chiến của các binh đoàn chủ lực thể hiện tập trung tư tưởng chiến lược tiến công, thực hiện làm chủ và tiến công, tiến công và làm chủ.
        
        Quá trình tiến công của lực lượng vũ trang kết hợp với nổi dậy của quần chúng đã phát triển từ nhỏ đến lớn từ cục bộ đến toàn bộ, gắn liền với quá trình giành, giữ vững và mở rộng quyền làm chủ của nhân dân cơ sở, làm chủ địa phương, làm chủ chiến trường để đánh địch một cách chủ động, đánh địch trên thế trận lợi hại, vừa tiến công tiêu diệt vừa giữ gìn, xây dựng và phát triển lực lượng ta. Nhiều binh đoàn chủ lực đứng vững và tích cực hoạt động trên các địa bàn chiến lược trọng yếu như miền Đông Nam Bộ, sát Sài Gòn, Tây Nguyên, Trị Thiên... tạo nên thế uy hiếp địch càng lớn, giam chân một bộ phận lực lượng quân địch ở đây.

        Các binh đoàn đó cùng bộ đội địa phương, dân quân du kích, lực lượng chính trị của quần chúng đánh địch càn quét, tiến công địch liên tục bằng mọi lực lượng và phương pháp, phá chính quyền địch, lập chính quyền cách mạng. Qua đó xây dựng lực lượng, xây dựng cơ sở chính trị, cơ sở hậu cần tại chỗ, xây dựng, phát triển thế trận tiến công, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch, biến vùng tạm kiểm soát của địch thành tiền tuyến đánh địch và hậu phương tại chỗ của ta. Điều rất quan trọng là các binh đoàn chủ lực của ta dựa vào thế trận làm chủ, thế trận trực tiếp tiếp xúc để thực hiện những đòn đánh bất ngờ, đánh đau, đánh hiểm đối với địch, và hạn chế chúng triển khai lực lượng lớn trên mặt đất, sử dụng ồ ạt với quy mô lớn không quân và hải quân như chúng mong muốn.

*
*     *

        Chiến tranh nhân dân, theo Ph.Ăng-ghen là cuộc chiến tranh cách mạng thật sự, khác với các cuộc chiến tranh của các chính phủ, các quân đội, các cuộc chiến tranh theo chiến lược thông thường. Nội dung cơ bản của chiến tranh nhân dân ngày nay là chiến tranh chính nghĩa do Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo; mục đích chính trị của chiến tranh phản ánh quyền lợi cơ bản của nhân dân; lực lượng tiến hành chiến tranh là lực lượng của toàn dân; phương pháp tiến hành chiến tranh là phương pháp đấu tranh phong phú, sáng tạo, có hiệu lực của quần chúng cách mạng. Phản ánh nội dung cơ bản đó, đấu tranh vũ trang của chiến tranh nhân dân thể hiện tập trung tư tưởng toàn dân đánh giặc, kết hợp chặt chẽ chiến tranh chính quy và chiến tranh du kích, kết hợp ba thứ quân, thực hiện tiến công và làm chủ, làm chủ và tiến công. Đó là một trong những quy luật đấu tranh vũ trang của chiến tranh cách mạng miền Nam đã được quân và dân ta phát hiện, vận dụng sáng tạo và rất thành công, đánh bại đội quân xâm lược hiện đại nhất, đông mạnh nhất thế giới tư bản, tinh nhuệ nhất của nước Mỹ đế quốc chủ nghĩa.
« Sửa lần cuối: 05 Tháng Tư, 2016, 10:54:29 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #13 vào lúc: 04 Tháng Tư, 2016, 11:07:02 pm »

       
ĐỈNH CAO NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ CỦA
CHIẾN TRANH NHÂN DÂN VIỆT NAM
TRONG ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN 1975
                       
Thượng tướng HOÀNG MINH THẢO       
       
        Cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 đã kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại, đưa dân tộc ta bước vào một kỷ nguyên mới: cả nước độc lập thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Nói đến mùa xuân 1975 đại thắng là nói đến đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử; khẳng định giá trị lịch sử của sự kiện xuân 1975 là khẳng định bước phát triển mới, bước phát triển nâng cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong suốt 30 năm chiến tranh giải phóng và giữ nước, đánh thắng rất oanh liệt hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, cũng là khẳng định bước phát triển và lớn mạnh toàn diện của quân đội ta qua những chặng đường chiến đấu và chiến thắng vô cùng vẻ vang.

        Nhưng chúng ta đều biết, nghệ thuật quân sự Việt Nam hình thành từ rất sớm. Qua các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, chiến tranh giữ nước và cứu nước, nền nghệ thuật đó không ngừng phát triển, mang sắc thái của đất nước, con người, trí tuệ Việt Nam. Đến hai cuộc chiến tranh giải phóng chống Pháp và chống Mỹ trong thời kỳ hiện đại, dưới ngọn cờ bách chiến, bách thắng của Đảng tiền phong và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, quân và dân đã kế thừa và nâng cao những kinh nghiệm đánh giặc, giữ nước và cứu nước của tổ tiên, đưa nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân phát triển lên một trình độ mới về chất. Riêng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứ mỗi một lần đánh thắng một chiến lược chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ trên đất nước ta, nghệ thuật quân sự trên cả ba lĩnh vực chiến lược, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật đều đạt một bước tiến mới. Cuộc Tổng tiến công và nổi dây xuân 1975 - trận quyết chiến chiến lược thần tốc đánh bại cố gắng quân sự lần cuối cùng của Mỹ - ngụy ở miền Nam nước ta, kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ - là cái mốc lịch sử đánh dấu đỉnh cao của nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại mới.
       
        Những vấn đề nổi bật nói lên thành công tiêu biểu của nghệ thuật quân sự trong cuộc Tổng tiển công và nổi dậy xuân 1975 là:

        - Nghệ thuật chỉ đạo chiến lược rất tài giỏi, sắc bén và chính xác của Đảng ta: đánh giá đúng so sánh lực lượng địch, ta, đã hạ quyết tâm chiến lược chính xác, kịp thời, tổ chức và xây dựng lực lượng, thiết lập thế trận tiến công: tạo thời cơ, chớp thời cơ mở trận quyết chiến chiến lược thần tốc để giành thắng lợi nhanh chóng, triệt để.
       
        - Nghệ thuật tổ chức và thực hành chiến dịch, chiến thuật rất sáng tạo, khôn khéo để đạt hiệu suất chiến đấu cao, hiệu quả chiến dịch lớn trong ba chiến dịch then chốt của cuộc tổng tiến công chiến lược; kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng, kết hợp tác chiến của các binh đoàn chủ lực với chiến tranh nhân dân ở địa phương để phát huy sức mạnh tổng hợp, hình thành sức mạnh tiến công áp đảo quân địch, thực hiện đánh bất ngờ, đánh nhanh, dứt điểm nhanh, đè bẹp mọi sự kháng cự của địch.
       
        1. Bước phát triển mới về nghệ thuật quân sự trong mùa xuân 1975 là bước phát triển cao về nghệ thuật chỉ đạo chiến lược, biểu hiện tập trung ở nghệ thuật cao và tranh thủ thời cơ chiến lược. Trên cơ sở đánh giá toàn bộ tình hình chiến lược, nhất là nhận định đúng thế và lực của địch trong hai năm 1973-1974, dựa chắc trên thế và lực của cách mạng và chiến tranh cách mạng nước ta sau thắng lợi có tính chất bước ngoặt "Đánh cho Mỹ cút", Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã đi đến nhận định và phân tích thời cơ, dự kiến khả năng giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, đồng thời dự kiến cả phương án giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975 nếu thời cơ lớn xuất hiện và ta có đủ điều kiện. Phương án tranh thủ thời cơ trở thành một phương án rất quan trọng.
       
        Trong quá trình chỉ đạo chiến tranh, Đảng ta luôn chủ động sáng tạo thời cơ có lợi và kịp thời tận dụng thời cơ để tiêu diệt lớn quân địch, tạo bước nhảy vọt làm chuyển biến cục diện chiến tranh cách mạng, giành thắng lợi quyết định. Từ thời cơ trong chiến đấu, thời cơ trong chiến dịch đến thời cơ chiến lược, chúng ta đã đưa cuộc chiến tranh giải phóng chống Mỹ phát triển, đánh thắng từng chiến lược chiến tranh cuối cùng của Mỹ - ngụy, kết thúc đúng lúc cuộc kháng chiến thần thánh chống Mỹ.
       
        Trận đột phá có ý nghĩa chiến lược Buôn Ma Thuột trong chiến dịch mở màn cuộc tiến công chiến lược mùa xuân 1975 đã cho ta khả năng thời cơ và giải phóng toàn bộ vòng Tây Nguyên đưa đến sự phát triển thắng lợi của chiến dịch Huế - Đà Nẵng. Trong khi chiến dịch Tây Nguyên còn đang diễn biến, ta đã tạo thời cơ mới để quyết định mở chiến dịch quyết chiến cuối cùng giải phóng Sài Gòn - Gia Định, nhanh chóng kết thúc cuộc kháng chiến.
       
        Bộ chỉ huy tối cao nhấn mạnh phương châm "táo bạo, bất ngờ, chắc thắng", đặc biệt tận dụng yếu tố bất ngờ. Ta thực hiện nghệ thuật nghi binh lừa địch trong mỗi chiến dịch, đặc biệt là trong đòn chiến lược khởi đầu. Chiến dịch Tây Nguyên đạt được yếu tố bất ngờ về chiến lược là một đòn cực kỳ sắc bén và lợi hại. Bất ngờ về chiến lược của ta tuy không lớn lắm nhưng sức mạnh đã được nhân lên gấp bội để đạt hiệu quả chiến dịch lớn nhất. Muốn giành yếu tố bất ngờ, ngoài yêu cầu bí mật, còn phải có mưu cao, kế hiểm - mưu lừa địch và kế điều địch. Lừa địch và điều khiển được địch hành động theo ý ta mới tạo được bất ngờ tối đa và giành được chủ động tối đa. Trong chiến tranh chống một kẻ địch mạnh, thì bất ngờ và chủ động là những yếu tố cơ bản của thắng lợi. Đó là bí quyết của nghệ thuật lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn của tư tưởng quân sự truyền thống Việt Nam.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #14 vào lúc: 04 Tháng Tư, 2016, 11:08:59 pm »

        Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, Bộ Chính trị Trung  ương Đảng và Bộ Tổng tư lệnh quyết định chọn Tây Nguyên làm hướng tiến công chính trên toàn bộ chiến trường miền Nam, chọn Buôn Ma Thuột làm điểm đột phá mở màn chiến dịch Tây Nguyên. Đó là một đòn đánh hiểm, rất bất ngờ, nhằm đúng chỗ sơ hở và là nơi hiểm yếu của địch nên đã giành được toàn thắng cho chiến dịch Tây Nguyên, tạo bước ngoặt quyết định cho giai đoạn kết thúc chiến tranh, dẫn đến sự sụp đổ dây chuyền của thế trận chiến lược của địch trên toàn miền Nam.
       
        Cách đánh về chiến lược của ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 đã thể hiện nét độc đáo là: mặc dù địch biết sẽ bị đánh lớn, nhưng chúng vẫn buộc phải phân tán, dàn mỏng lực lượng, không dành nổi một đơn vị nào cỡ sư đoàn làm lực lượng cơ động chiến lược. Ta đánh nhiều nơi cùng một lúc bằng các đòn tiến công lớn của chủ lực gối đầu nhau theo phương châm "căng địch ra mà đánh, trói địch là mà diệt", khiến kẻ địch đã bị động lúng túng lại càng suy yếu và bế tắc không sao ứng cứu nổi, cuối cùng phải cam chịu thất bại.
       
        Sau khi mất Tây Nguyên, địch bị vỡ thế chiến lược. Tình thế đó liên tiếp tạo ra cho những khả năng mới và thời cơ mới về chiến dịch, chiến lược. Đó cũng là cơ sở thực thế để Đảng ta khẳng định kịp thời và chính xác quyết tâm giải phóng miền Nam trước mùa mưa năm 1975.
       
        Chiến lược của ta đã điều khiển được chiến lược của địch, buộc địch từ thế phòng ngự chiến lược vội vã chuyển sang co cụm chiến lược, từ tích cực đối phó, phản kích giành giật chuyển sang thế tháo chạy hỗn loạn. Từ thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên, qua chiến dịch Huế- Đà Nẵng đến chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 đã chứng minh rực rỡ bước phát triển mới về nghệ thuật chỉ đạo chiến lược cao hơn nhiều so với các chiến cuộc đã diễn ra trước đó. Đó là ba chiến dịch lớn có ý nghĩa chiến lược nằm trong một quy hoạch chiến lược tổng thể, thống nhất của Bộ Tổng tư lệnh và được tiến hành theo các bước phát triển của chiến lược. Sự phối hợp giữa các chiến dịch với nhau, giữa các chiến dịch với phong trào nổi dậy của quần chúng trên các địa bàn chiến dịch đã diễn ra cả trong tình huống chiến lược và tình huống chiến dịch. Các chiến dịch dù phải đảm nhiệm những hướng và nhiệm vụ chiến lược khác nhau, song luôn luôn tạo điều kiện và tiền đề cho nhau phát triển thắng lợi. Chiến dịch Tây Nguyên tạo điều kiện cho chiến dịch Huế - Đà Nẵng giành thắng lợi nhanh chóng. Hiệu quả lớn của hai chiến dịch đó kết lại, tạo cơ sở cả về lực lượng, thế trận và cách đánh cho sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đòn quyết chiến cuối cùng kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
       
        Bước phát triển cao của nghệ thuật chỉ đạo chiến lược còn thể hiện ở việc thiết lập thế trận tiến công thần tốc của trận quyết chiến chiến lược kết thúc chiến tranh.
       
        Ta xây dựng thế trận chiến lược vững chắc trên cơ sở thế tiến công quân sự kết hợp với nổi dậy của quần chúng, thế kết hợp chiến tranh nhân dân ở các địa phương với tác chiến của các binh đoàn chủ lực. Thế trận đó đã tạo điều kiện cơ bản cho quân và dân ta phát huy quyền chủ động, nhân sức mạnh tiến công lên gấp bội cả về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật. Có thể nói, sở dĩ ta có được những đòn chiến lược rất mạnh gối đầu nhau là do lập được thế trận chiến tranh nhân dân sâu hiểm qua hàng chục năm.
       
        Trong khoảng thời gian hai năm 1973-1974, ta đã tăng cường cho các hướng chiến trường ở miền Nam một khối lượng nhân lực và vật chất rất lớn, tạo điều kiện để có thể phát triển chiến dịch cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Bằng các cuộc phản công và tiến công kiên quyết trước hành động chiến tranh "lấn chiếm bình định" của địch, bằng việc tổ chức tốt tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn với một mạng đường sá và đường ống dẫn dầu rất lớn, ta xây dựng thế trận và lực lượng hậu cần hùng mạnh với hệ thống kho trạm dự trữ lớn, chuẩn bị chu đáo cho hoạt động tác chiến của các lực lượng dự bị chiến lược. Do vậy mà lực lượng từ sư đoàn đến quân đoàn cơ động của ta đã có thể mở một loạt chiến dịch kế tiếp nhau trong hai tháng mùa xuân năm 1975.
       
        Ngay từ đầu năm 1973, cả năm 1974 cho tới đầu năm 1975, Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung  ương và Bộ Tổng tư lệnh đã chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời việc chuẩn bị chiến trường, triển khai thế trận, chuẩn bị lực lượng, tích trữ cơ sở vật chất cho các chiến dịch lớn. Điều này được thể hiện tập trung nhất ở việc ra sức xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa vững mạnh, phát huy mạnh mẽ vai trò căn cứ địa cách mạng của cả nước, phát huy tác dụng quyết định của hậu phương lớn trong giai đoạn kết thúc chiến tranh bằng trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Ta đã xây dựng được 4 binh đoàn cơ động chiến lược hùng mạnh, nhiều đơn vị chủ lực cấp sư đoàn, phát triển bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và khối dân quân tự vệ ở cơ sở. Các lực lượng vũ trang ba thứ quân được tăng cường mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, cả về trang bị vũ khí và tiếp tế hậu cần...
       
        Như vậy, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 đã phát triển cao hơn hẳn các cuộc tổng tiến công chiến lược trong các giai đoạn lịch sử trước (Tết Mậu Thân 1968, Xuân - hè 1972) ở chỗ chúng ta đã xây dựng được một thế trận chiến lược thọc sâu, chia cắt, cài xen với địch rất mạnh và hiểm hóc. Nhờ đó ta đã phát huy được cao độ quyền chủ động tiến công, và khi thời cơ lớn xuất hiện, với lực lượng đột kích mạnh cỡ quân đoàn và nhiều quân đoàn, kết hợp với chiến tranh nhân dân ở địa phương phát triển rộng khắp, chúng ta đã đánh địch trên một thế mạnh chưa từng có, gây bất ngờ lớn cho địch. Đó là thế mạnh áp đảo, nhanh chóng đè bẹp mọi sự phản kháng của quân địch, chỉ không đầy hai tháng tiến công liên tục, mạnh mẽ, thần tốc đã tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng chiến lược lớn gồm trên một triệu quân địch, giành toàn thắng cho cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #15 vào lúc: 04 Tháng Tư, 2016, 11:10:49 pm »

       
        2. Đỉnh cao của nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam còn thể hiện ở bước phát triển mới, sáng tạo về nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy thần tốc.
       
        Có thể nói, mùa xuân 1975 là mùa xuân của chiến dịch tiến công. Trong một thời gian rất ngắn, gần như cùng một lúc, các chiến dịch gối đầu nhau phát triển thắng lợi dồn dập. Ngoài ba chiến dịch có ý nghĩa chiến lược nối tiếp nhau hợp thành nội dung cơ bản của cuộc Tổng tiến công chiến lược là chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí Minh, còn xuất hiện xen kẽ những chiến dịch tiến công của bộ đội chủ lực tại chỗ để tạo thế, các chiến dịch tổng hợp và chiến dịch đồng bằng đông dân như khu 5, Nam Bộ để diệt địch, phá "bình định", mở vùng... với những cách đánh chiến dịch rất sáng tạo, với những chiến thuật phong phú, linh hoạt và táo bạo.
       
        Trận đánh hiểm vào Buôn Ma Thuột đã mở đường đưa chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi nhanh chóng, dồn dập khiến địch không kịp trở tay. Chiến dịch Tây Nguyên đại thắng tạo ra khả năng rất thuận lợi cho chiến dịch Huế - Đà Nẵng tiến triển mau lẹ, khiến quân địch không kịp co cụm.
       
        Chiến dịch Huế - Đà Nẵng là một bước phát triển cao về nghệ thuật tận dụng thời cơ. Sau khi địch thua nặng ở Tây Nguyên, Bộ Chính trị và Quân uỷ trung ương đã kịp thời chỉ đạo mặt trận Trị - Thiên và quân đoàn 2 chuyển hướng tiến công rất nhanh từ phía Bắc về phía Nam Huế, nhanh chóng giải phóng thành phố Huế; chỉ đạo quân khu 5 chuyển hướng từ phía nam ra phía bắc tiến thẳng về Đà Nẵng với tư tưởng chỉ đạo "kịp thời nhất, nhanh chóng nhất, táo bạo nhất, bất ngờ nhất và chắc thắng". Mất Tây Nguyên, địch ở Huế - Đà Nẵng đã vô cùng hoang mang dao động. Sau khi mất Huế, thành phố Đà Nẵng càng cực kỳ hỗn loạn. Lực lượng ta đã nhanh chóng áp sát tiến công vào thành phố từ ba hướng bắc, tây, nam. Địch buộc phải bỏ kế hoạch co cụm, định tháo chạy nhưng không thoát. Chỉ trong vòng 32 giờ ta đã giải phóng Đà Nẵng, thành phố lớn thứ hai và là một căn cứ quân sự liên hợp rất mạnh của Mỹ-ngụy ở miền Nam. Ta đã tiêu diệt và đánh tan quân đoàn 1 và quân khu 1 của ngụy. Cùng với chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng đã làm thay đổi hẳn lực lượng so sánh địch, ta về mặt chiến lược. Thế chiến lược của ta càng vững chắc; địch lâm vào thế suy sụp đột biến. Tình hình đó tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho chúng ta đi đến đòn quyết chiến chiến lược cuối cùng - chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
       
        Qua ba chiến dịch lớn, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật của quân đội ta đã có những bước phát triển mới về nghệ thuật tạo thế và cài thế chiến dịch. về chọn hướng tiến công chủ yếu, đặc biệt về vận dụng cách đánh chiến dịch và chiến thuật, về tổ chức chỉ huy, về bảo đảm hậu cần chiến dịch, cho phép chúng ta rút ra nhiều bài học phong phú và sinh động về nhiều mặt. Để có được những chiến dịch tiến công sắc bén, những "quả đấm" rất mạnh làm rung chuyển, tan vỡ và sụp đổ hoàn toàn hệ thống tổ chức chỉ huy và thực hành chiến dịch của các cấp chỉ huy và lực lượng vũ trang, còn phải nói đến nghệ thuật kết hợp cách đánh của các binh đoàn chủ lực và cách đánh của chiến tranh nhân dân địa phương rộng khắp, sáng tạo, kịp thời. Chúng ta đã gây cho địch những bất ngờ lớn, khiến chúng không kịp trở tay, muốn co cụm mà không được, muốn chống đỡ để trì hoãn bước tiến thần tốc của ta thì không làm nổi, muốn tháo chạy cũng không thoát, cuối cùng phải chịu bị tiêu diệt và tan rã hoàn toàn. Quán triệt và vận dụng sắc sảo đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng trong mùa xuân 1975, đại bộ phận lực lượng chủ lực của ta đã cài xen vào toàn bộ chiều sâu phòng ngự của địch, áp sát mục tiêu chiến dịch quan trọng, rút ngắn khoảng cách giữa ta và địch, giữa các phương tiện hoả lực của ta với mục tiêu cần tiêu diệt hoặc khống chế. Nét đặc sắc về phát triển nghệ thuật chiến dịch của ta là ở chỗ cuộc tiến công như vũ bão của các quân đoàn từ nhiều hướng luôn gắn liền với nổi dậy của quần chúng ở các vùng nông thôn, đô thị trên địa bàn chiến dịch, thực hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ. Đó là hệ quả tất yếu của sự kết hợp hai phương thức đấu tranh quân sự và chính trị, kết hợp tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng trong phạm vi chiến dịch, tạo nên sức mạnh phi thường của nghệ thuật quân sự nói chúng, của nghệ thuật chiến dịch nói riêng trong mùa xuân 1975 đại thắng.
       
        Bước phát triển hoàn toàn mới so với các chiến dịch trước đó trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, là sự phát triển toàn diện về sức mạnh chiến đấu, trước hết là về trình độ tác chiến của bộ đội chủ lực trong các chiến dịch có ý nghĩa chiến lược. Điều này đã vượt ngoài dự đoán và trở thành điều bất ngờ lớn đối với Mỹ-ngụy. Ngoài các lực lượng bộ binh là chính, trong các chiến dịch còn có sự tham gia của hầu hết các binh chủng, quân chủng với trang bị vũ khí tương đối hiện đại. Quy mô tác chiến hợp đồng binh chủng, quân chủng trong các chiến dịch xuân 1975 cũng có bước phát triển mới của nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật của quân đội ta. Nó không chỉ thể hiện khả năng mới về nghệ thuật của tổ chức chỉ huy và điều hành chiến dịch mà còn thể hiện khả năng làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật và trình độ tác chiến cao của các lực lượng vũ trang ta nói chung, của các binh chủng, quân chủng kỹ thuật nói riêng, đặc biệt là việc sử dụng vũ khí, phương tiện hiện đại lấy được của địch, từ pháo binh, xe tăng đến cả máy bay để đánh địch trong tiến công hợp đồng binh chủng, quân chủng.
       
        Sự phát triển về nghệ thuật chiến dịch đã tạo điều kiện vận dụng thành công chiến thuật như: điều khiển địch theo ý định của ta, lừa địch, nhử địch vào kế của ta mà đánh; đánh địch trong công sự và ngoài công sự; đánh địch co cụm và đánh địch rút chạy; đánh địch trong điều kiện không có chuẩn bị hoặc chuẩn bị rất gấp; đánh thọc sâu bằng các binh đoàn cơ giới vào các trung tâm chỉ huy địch trong các căn cứ quân sự lớn, trong thị xã thành phố lớn và cả đánh địch trên các hải đảo.v.v...
       
        Chính nhờ có sự sáng tạo lớn trong vận dụng chiến thuật nên chúng ta không những đã khai thác được sức mạnh tổng hợp của các binh chủng, quân chủng, các loại vũ khí, phương tiện trong nhiều tình huống chiến dịch, chiến đấu trên từng loại địa hình tác chiến mà còn đóng góp có ý nghĩa vào sự phát triển chiến thuật của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Cách đánh của ta trong mùa xuân 1975 vừa kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc, vừa phát triển và nâng lên một trình độ mới rất cao những kinh nghiệm tích luỹ được từ cuộc kháng chiến chống Pháp và các giai đoạn của chiến tranh giải phóng chống Mỹ trước đó. Cách đánh đó đã kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa anh hùng cách mạng với trí thông minh, sáng tạo của bộ đội ta trong điều kiện và hoàn cảnh của trận quyết chiến chiến lược vĩ đại kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #16 vào lúc: 04 Tháng Tư, 2016, 11:13:39 pm »

       
NGỌN CỜ QUYẾT THẮNG CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN 1975
       
Đại tá PHẠM CHÍ NHÂN       
       
        Sau thắng lợi vẻ vang đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân pháp được đế quốc Mỹ giúp sức, nhân dân ta mới giải phóng được một nửa đất nước. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ hất cẳng Pháp, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng. Với tinh thần cách mạng triệt để của giai cấp công nhân, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên quyết lãnh đạo nhân dân ta ra sức xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đấu tranh hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước.
       
        Trước âm mưu, thủ đoạn chiến tranh của đế quốc Mỹ, cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam đã phát triển từ đấu tranh chính trị và khởi nghĩa từng phần thành chiến tranh giải phóng. Là linh hồn của cuộc kháng chiến cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân đánh Mỹ. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà nội dung cơ bản nhất là tư tưởng chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại mới, được thể hiện trong đường lối chính trị và đường lối quân sự của Đảng và là ngọn đuốc soi đường cho quân và dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, cho đến thắng lợi cuối cùng.
       
        Từ rất sớm, khi trả lời các nhà báo vào tháng 7 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch mặt chỉ tên kẻ thủ mới rất nguy hiểm là đế quốc Mỹ, lúc bấy giờ còn đang giấu mặt. Năm 1954, nhân dân ta đánh thắng thực dân Pháp, cũng tức là đế quốc Mỹ bị thua một keo đầu. Thế nhưng chúng không can tâm chịu thất bại. Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ cái bản chất "chết thì chết, nết không chừa"1 của đế quốc Mỹ, nhắc nhở cho toàn dân thấy rõ chúng "còn nhiều âm mưu hung ác và xảo quyệt"2.
       
        Với nhãn quan chiến lược và phương pháp khoa học, Người đã chỉ rõ đế quốc Mỹ là kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân ta, phân tích sâu sắc chỗ mạnh tạm thời và chỗ yếu rất cơ bản của địch, sức mạnh tổng hợp của nhân dân ta trong thời đại mới, và nói lên niềm tin tất thắng: "Nhân dân Việt Nam nhất định thắng, Giặc Mỹ xâm lược nhất định thua"3.
       
        Đã quyết đánh Mỹ, lại phải biết đánh thắng Mỹ. Là nhà tổ chức vĩ đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng hết lòng chăm lo xây dựng và tổ chức lực lượng cách mạng trên cả hai miền, bồi dưỡng những nhân tố cơ bản để giành thắng lợi cho cuộc kháng chiến.
       
        Thấm nhuần tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sử dụng bạo lực cách mạng với hai lực lượng chính trị và vũ trang, quân và dân miền Nam, được sự chi viện mạnh mẽ của hậu phương lớn miền Bắc, đã tiến hành khởi nghĩa từng phần ở nông thôn và từ khởi nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao, kết hợp khởi nghĩa của quần chúng với chiến tranh cách mạng, đánh địch bằng ba mũi giáp công trên cả ba vùng chiến lược, liên tục nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi dậy, giành thắng lợi từng bước, liên tiếp đánh bại các chiến lược "chiến tranh đặc biệt", "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ. Quân và dân miền Bắc đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ trên hậu phương lớn, hết lòng chi viện miền Nam, Bác khen: "Nam Bắc hai miền đều đánh giỏi"1 và chỉ rõ: "Vì độc lập, vì tự do", phải "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào"2.
       
        Ngày 3 tháng 9 năm 19693, Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta. Biến đau thương thành hành động cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta chung sức chung lòng đã đánh cho Mỹ cút vào năm 1973, đưa đến thời cơ chiến lược nghìn năm có một vào mùa xuân 1975, thừa thắng xông lên đánh cho ngụy nhào, thực hiện trọn vẹn quyết tâm chiến lược của Bác Hồ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #17 vào lúc: 04 Tháng Tư, 2016, 11:15:06 pm »

        
*
*      *
       
        Trên chặng đường cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt là trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 và chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta, đứng đầu là đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn, phát huy ý chí và trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, đã kế thừa xuất sắc và phát triển sáng tạo tư tưởng quân sự đầy sức sống của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau đây là một số điểm nổi bật:
        
        1. Sự thống nhất giữa quyết tâm chiến lược với ý chí độc lập dân tộc và thống nhất đất nước
        
        Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải đi đôi với chủ nghĩa xã hội và thống nhất đất nước. Đó là một chân lý, một quy luật. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, quyết tâm của Bác là phải "Kiên quyết đánh tan giặc thực dân cướp nước, để tranh độc lập và thống nhất thật sự cho nước ta"4. Người dạy: "không có gì quý hơn độc lập tự do"5, và cũng không có gì vui hơn "Bắc Nam sum họp"6. Miền Nam luôn ở trong trái tim Người cũng chính vì lẽ đó.
        
        Chia cắt là chính sách cố hữu của tất cả bọn đế quốc, thực dân trước đây cũng như ngày nay. Ngay từ lúc ra đi tìm đường cứu nước năm 1911, cùng với lòng yêu nước thương nòi, ý chí thống nhất đã cháy bỏng trong lòng người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Đất nước lúc bấy giờ đã bị đế quốc Pháp chia là ba kỳ - Bắc kỳ và Trung kỳ theo chế độ bảo hộ, Nam kỳ theo chế độ thuộc địa - để dễ bề cai trị và bóc lột.

        Việc đưa quân Tưởng Giới Thạch vào chiếm đóng phá bắc và quân Anh vào phía Nam nước ta sau chiến tranh thế giới thứ hai dưới chiêu bài tước khí giới quân Nhật thực chất cũng là âm mưu của bọn đế quốc hòng chia cắt và xâm chiếm nước ta. Khi thực dân Pháp quay trở lại, nơi đầu tiên chúng đánh chiếm vẫn là Nam Bộ, nơi chúng đã đặt bàn chân xâm lược trước tiên khi thực hiện âm mưu thôn tính nước ta vào giữa thế kỷ XIX. Chính vì nhìn rõ tâm địa của kẻ thù mà ngay từ những ngày đầu tiên Nam Bộ kháng chiến Bác Hồ dã nói: "Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ, là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên"1. Ý chí sắt đá của Người là: "Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!"2.
        
        Đánh Mỹ là để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước, để bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, để đập tan âm mưu chia cắt Việt Nam của bọn cướp nước.

        "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào" cũng chính là để cả nước độc lập, thống nhất, có độc lập, thống nhất mới có hoà bình thực sự. Trên đất nước Việt Nam chiến đấu, vang lên tiếng nói đanh thép của Bác Hồ: "Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi"3. Đó là biểu hiện của ý chí thống nhất, quyết tâm chiến lược của Người, ý chí và quyết tâm đó thấm nhuần sâu sắc tư tưởng cách mạng  bạo lực và tinh thần cách mạng triệt để của giai cấp công nhân. Quyết tâm chiến lược đó được thể hiện nhất quán trong lời kêu gọi của Bác ngày 20 tháng 7 năm 1969: "... đánh cho quân Mỹ phải rút hết sạch, đánh cho ngụy quân, ngụy quyền sụp đổ hết"4. Lời nói đó của Người vừa thể hiện quyết tâm, vừa chỉ rõ yêu cầu và mục tiêu chiến lược quân sự. "Rút hết sạch" là không còn một bóng tên xâm lược, dù là lính Mỹ cầm súng hay trá hình dưới các vỏ "cố vấn" trong chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh". "Sụp đổ hết" là toàn bộ máy ngụy quân, ngụy quyền phải bị đập tan triệt để. Cả nước sạch bóng quân thù. Cả nước độc lập, thống nhất, cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy mới đúng là: "Toàn thắng ắt về ta"5.
        
        Nắm vững sự thống nhất giữa quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược và ý chí thống nhất đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau khi quân Mỹ rút khỏi miền Nam, Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Đảng tháng 10 năm 1973 đã vạch rõ: "Con đường cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng". Hội nghị cũng đề ra nhiệm vụ trong giai đoạn mới: "Hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà".
        
        Với tinh thần cách mạng triệt để, vận dụng chiến lược và sách lược tài tình, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta xông lên giành thắng lợi hoàn toàn ngay trong mùa xuân 1975. Dù cho ngụy quân, ngụy quyền lồng lộn đối phó, dù cho đế quốc Mỹ và các thế lực phản động quốc tế tìm cách ngăn cản ta hòng vớt vát quyền lợi của chúng và cứu nguy cho bọn tay sai, dưới ngọn cờ Quyết thắng của Bác Hồ, quân và dân ta không chút hữu khuynh co thủ, không sợ Mỹ quay trở lại, không có ảo tưởng với Hiệp định Pa-ri, không dừng lại ở "chính phủ liên hiệp ba thành phần", đã kiên quyết "đánh cho ngụy nhào", thực hiện triệt để quyết tâm chiến lược của Bác Hồ. Và ngay sau ngày giải phóng, mặc dầu còn nhiều khó khăn, tháng 4 năm 1976 với việc bầu cử Quốc hội mới của cả nước, thực hiện thống nhất đất nước về mặt nhà nước, hai miền Nam Bắc đã "sum họp một nhà", chung một nền cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không qua một giai đoạn quá độ nào khác nữa.
« Sửa lần cuối: 05 Tháng Tư, 2016, 10:55:16 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #18 vào lúc: 04 Tháng Tư, 2016, 11:16:35 pm »

        
        2, Tư tưởng chiến lược tiến công, ra sức tạo thời cơ và tranh thủ,tận dụng thời cơ chiến lược
        
        Chiến lược quân sự của khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh giải phóng của nhân dân ta chống lại kẻ thù có tiềm lực lớn về quân sự và kinh tế là đánh lâu dài, giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Chiến lược đó phản ánh tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh: kẻ địch là "vỏ quýt dày", ta phải có thời gian để mà mài "móng tay nhọn", rồi mới "xé toang xác chúng ra"1.
        
        Người chủ trương "quyết kế trường kỳ kháng chiến"2 nhưng phải "kiên quyết, không ngừng thế tiến công"3. Đánh lâu dài phải là một quá trình tiến công rất kiến quyết, rất tích cực: phải thực hiện làm chủ để tiến công, tiến công để làm chủ. "Thắng từng bước" không có nghĩa là "tiến từ từ từng bước" như V.I. Lê-nin đã phê phán, mà phải tích cực tạo thời cơ, chớp thời cơ và tận dụng thời cơ, tiến lên giành thắng lợi quyết định, đưa cuộc kháng chiến lâu dài đến toàn thắng.
        
        Tư tưởng chiến lược tiến công là nét nổi bật trong tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nét đặc sắc đó trong khoa học lãnh đạo chiến tranh cách mạng của Người đã soi sáng chặng đường cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sau khi quân Mỹ cút về nước, khi tình hình còn phức tạp, chiến tranh đang tiếp diễn và đang gặp khó khăn trước mắt, tháng 10 năm 1973, Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Đảng đã phân tích sâu sắc tình hình và khẳng định: "Thắng lợi của chúng ta là thắng lợi của tư tưởng chiến lược tiến công. Cách mạng là tiến công"; "Sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai là một quá trình đấu tranh lâu dài, phức tạp và gian khổ, trải qua nhiều bước quá độ. Ta phải kiên quyết tiến công, đồng thời phải biết giành thắng lợi từng bước, củng cố trận địa của cách mạng để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn".
        
        Dưới ánh sáng Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Đảng và các nghị quyết của Quân uỷ trung ương, dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của Bộ Chính trị, trong hai năm 1973-1974, quân và dân miền Nam đã kiên quyết tiến công địch, tạo ra một cục diện mới trên chiến trường và thu được nhiều kết quả to lớn trong công tác chuẩn bị thế trận chiến lược. Vào cuối năm 1974, một tình thế mới đã xuất hiện: ta liên tục nắm quyền chủ động trên chiến trường, sức ta đã mạnh hơn địch, khả năng của quân và dân ta giành thắng lợi lớn với nhịp độ tương đối nhanh đã rõ.
        
        Trước tình hình đó, tháng 10 và tháng 12 năm 1974 Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã thông qua kế hoạch chiến lược hai năm 1975-1976, và sau thắng lợi đầu mùa khô ở miền Đông Nam Bộ, đặc biệt là trên đà thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên, trước thời cơ cụ thể, ngày 18 tháng 3 năm 1975, Bộ chính trị lại hạ quyết tâm giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975, và sau đó là giải phóng ngay trước mùa mưa năm ấy.
        
        Tạo được thời cơ rồi, phải tận dụng thời cơ phát triển cách mạng thắng lợi. Bác Hồ đã dạy: "Trong quân sự thời gian rất là quan trọng. Có tranh thủ thời gian mới bảo đảm được yếu tố thắng địch"1. Quân và dân ta đã tận dụng thời cơ lịch sử, tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 bắt đầu bằng mũi tiến công quân sự "đi trước một bước", bằng những đòn tiến công của bộ đội chủ lực đánh lớn, đánh hiểm, đánh đau, kết hợp với nổi dậy của quần chúng ở khắp nơi, đồng thời kiềm chế Mỹ và các thế lực phản động, cô lập ngụy cao độ để "đánh cho ngụy nhào". Đó là nghệ thuật tiến công, là nghệ thuật tranh thủ và tận dụng thời cơ. Và đó cũng là nghệ thuật chọn phương pháp và hình thức đấu tranh để kết thúc chiến tranh thắng lợi. Về vấn đề này, Bác Hồ đã nói: "Tuỳ tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng"1. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh sự đúng đắn trong tư tưởng quân sự của Người. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta mùa xuân 1975 đã được thực hiện tài giỏi bằng các đòn tiến công quân sự mãnh liệt và liên tiếp, kết hợp với nổi dậy của quần chúng ở mức độ khác nhau, tạo thành sức mạnh to lớn, đập vỡ từng mảng, tiêu diệt nhanh, gọn từng bộ phận lớn quân địch, tiến tới đánh tan đạo quân ngụy đông hàng triệu tên, lật đổ toàn bộ ngụy quyền tay sai.
        
        Ở đây, tác dụng của các đòn chủ lực gợi nhớ tới lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "... về quân sự, nguyên tắc chính là nguyên tắc tập trung lực lượng"2, tới sự quan tâm của Bác Hồ đối với việc xây dựng "đội chủ lực", từ đội vũ trang Cao Bằng (1941), đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (1944) và các đội du kích khác, đến Quân đội nhân dân Việt Nam, từ buổi sơ khai cho đến ngày xây dựng tiến lên chính quy hiện đại. Sự chăm lo của Bác từ cái ăn, cái mặc đến chất lượng chiến đấu của bộ đội, không chỉ là tình cảm của người Cha thân yêu, mà còn là sự đánh giá đúng đắn vai trò của bộ đội chủ lực trong chiến tranh cách mạng, nhất là ở những thời điểm quyết định.
        
        Sự kế tục và phát triển tư tưởng tạo thời cơ và tranh thủ thời cơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh khiến lịch sử được lặp lại theo vòng xoắn ốc đi lên. Việc Bộ Chính trị chọn hướng tiến công chiến lược của đòn chủ lực mở đầu là nam Tây Nguyên gợi nhớ tới sự quan tâm của Bác Hồ đối với thế hiểm yếu của miền rừng núi Tây Đông Dương và quyết định chọn hướng chủ yếu là Tây Bắc, hướng thứ yếu là Trung và Hạ Lào trong đông - xuân 1953-1954. Với cuộc tiến quân thần tốc, bất ngờ, chắc thắng của các binh đoàn chủ lực cơ động và các cuộc nổi dậy mạnh mẽ của quần chúng ở khắp mọi nơi trong mùa xuân 1975, tư tưởng "Chớp thời cơ" trong cách mạng tháng Tám 1945, trong Điện Biên Phủ 1954 một lần nữa lại được tái hiện trên một quy mô lớn.
        
        Ở đây, quy mô phát triển biện chứng từ tuần tự đến nhảy vọt dưới tác động của các nhân tố năng động chủ quan đã được mô tả bằng hiện thực lịch sử. Những gì đã được chuẩn bị bằng trí tuệ và xương máu suốt hai mươi năm kháng chiến, tất yếu

        "Sẽ vùn vụt như toàn núi lửa
        Sẽ ầm ầm như ngọn thuỷ trào
        Sẽ kéo theo tất cả đồng bào
        Sẽ đè bẹp cả loài lang sói"


        như Bác Hồ đã viết năm 1942 trong bài thơ Nhóm lửa.
        
        Việc vận động các gia đình binh sĩ ngụy kêu gọi chồng, con mình trở về với nhân dân, dùng tù binh kêu gọi địch hạ vũ khí đầu hàng cách mạng, cũng mang lại kết quả tốt. Chính sách nhân đạo của ta đối với ngụy quân, ngụy quyền sau ngày toàn thắng đã tạo thêm điều kiện nhanh chóng ổn định tình hình vùng mới giải phóng ở miền Nam. Mũi tiến công binh vận vì thế không những có ý nghĩa bổ trợ cho hoạt động chiến đấu mà còn là một thắng lợi về chính trị, được nhân dân đồng tình và cảm phục. Nhân dân ta đã làm đúng lời Bác dạy: "Chúng ta chỉ đòi quyền độc lập, tự do chứ chúng ta không vì tư thù, tư oán; làm cho thế giới biết rằng chúng ta là một dân tộc văn minh, văn minh hơn bọn đi giết người cướp nước"1.
        
        Ngày 14 tháng 4 năm 1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta đã quyết định trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ lấy tên là chiến dịch Hồ Chí Minh. Đó chính là vì Đại thắng mùa xuân 1975 là một chiến công vĩ đại dâng lên Người, đồng thời là một chiến công được lập nên dưới ngọn cờ quyết thắng của Bác, ngọn cờ đã đưa nhân dân ta đến những chiến công kỳ diệu của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
« Sửa lần cuối: 05 Tháng Tư, 2016, 10:55:52 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #19 vào lúc: 04 Tháng Tư, 2016, 11:17:53 pm »

        
        3. Xây dựng hậu phương và phát huy vai trò của hậu phương trong thời cơ chiến lược

        Xây dựng hậu phương, xây dựng căn cứ địa, bồi dưỡng sức dân là tạo nên một nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh cách mạng, thực hiện càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng, cho đến thắng lợi hoàn toàn. Muốn có hậu phương mạnh, căn cứ địa mạnh, phải dựa vào dân, phải bồi dưỡng sức dân. Đó là một nội dung cơ bản trong tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

        Trong tác phẩm Cách đánh du kích viết năm 1941, Bác đã dành hẳn một chương XIII để nói về căn cứ địa, Người viết: "Có chính quyền cách mạng của địa phương, có căn cứ địa vững vàng, đội du kích nhờ đó mà phát triển lực lượng và hoá ra quân chính quy"1. Trong những ngày xây dựng đội vũ trang ở Cao Bằng, Bác luôn căn dặn hoạt động của đội phải tạo nên "nhân sơn" (núi người), "nhân hải" (biển người) làm chỗ dựa cho cách mạng. Hậu phương "nhân hải" thấm nhuần tư tưởng chiến tranh nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một phát triển sáng tạo học thuyết quân sự Mác - Lê-nin, khác hẳn tư tưởng chiến thuật "biển người" trong chiến lược quân sự xâm lược của bọn bành trướng.

        Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hậu phương trong kháng chiến chống Pháp là "vừa kháng chiến, vừa kiến quốc"2, là "thực túc thì binh cường", "hậu phương thi đua với tiền phương"3, là "Mỗi quốc dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài"4, và "phải giải phóng nông dân khỏi ách phong kiến, phải bồi dưỡng cho nông dân thì mới động viên đầy đủ lực lượng to lớn đó, dốc vào kháng chiến để tranh thắng lợi"5. Bác căn dặn: "Không được phung phí nhân lực vật lực của dân. Khi huy động nên vừa phải, không nên nhiều quá, lãng phí vô ích"6.

        Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhân dân ta có hậu phương lớn là miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Đó là bước phát triển mới về chất so với cuộc kháng chiến chống Pháp. Phát huy thuận lợi to lớn đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết lòng chăm lo xây dựng miền Bắc để làm tròn nhiệm vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Tư tưởng của Bác về hậu phương lúc này là: "Miền Bắc là nền tảng, là gốc rễ của lực lượng đấu tranh của nhân dân ta. Nền có vững, nhà mới chắc. Gốc có mạnh cây mới tốt"7, là "Mỗi người làm việc bằng hai"8 để "xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, làm cơ sở vững mạnh cho sự nghiệp giải phóng miền Nam"1, là "hết sức hết lòng ủng hộ đồng bào miền Nam ruột thịt"2. Nói chuyện lần cuối cùng với cán bộ cao cấp toàn quân ngày 11 tháng 5 năm 1969, Bác không quên căn dặn: "Phải cố gắng cùng với các địa phương làm tốt hơn nữa nhiệm vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn, để đánh thắng giặc Mỹ. Đó là nhiệm vụ hàng đầu"3.

        Trải qua quá trình 20 năm xây dựng và chiến đấu, miền Bắc đã phát triển một bước tiềm lực quân sự và kinh tế, lại được ủng hộ, sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, đã đứng vững và không ngừng lớn mạnh trước thử thách của chiến tranh. Với tiềm lực đó, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, miền Bắc đã phát huy mạnh mẽ tác dụng của hậu phương chiến lược, không những làm chỗ dựa vững chắc cho cuộc chiến đấu của miền Nam về chính trị và ngoại giao, mà còn chuẩn bị và chi viện hết mình bằng sức người, sức của trên quy mô chưa từng thấy, góp phần tăng cường sức mạnh quân sự cho miền Nam đánh thắng. Từ tháng 2 năm 1973 đến tháng 2 năm 1975, 3.778 ki-lô-mét đường chiến lược Đông và Tây Trường Sơn và 4.000 ki-lô-mét đường chiến lược đã được xây dựng, củng cố và mở rộng, vận chuyển đến các chiến trường miền Nam 36 vạn tấn vật chất các loại, phục vụ đánh lớn. Từ năm 1972 đến đầu năm 1973, miền Bắc đã tuyển 47 vạn quân, trong đó tăng cường cho miền Nam 26 vạn.

        Ở miền Nam, thực hiện "làm chủ và tiến công, tiến công và làm chủ" quân và dân ta đã mở rộng và củng cố vùng giải phòng, xây dựng và phát huy vai trò của hậu phương tại chỗ, tạo thế, tạo lực cho thời cơ chiến lược mới. Năm 1974, khu 5 tiêu diệt và bức rút trên 300 cứ điểm. Mùa khô 1974-1975, miền Đông Nam bộ giải phóng 14 xã, 54 ấp, 94.000 dân. Riêng trong năm 1974, khu 8 và khu 9 giải phóng 638 ấp với 93 vạn dân. Tính đến cuối năm 1974, quân số chủ lực và địa phương của ta trên chiến trường miền Nam phát triển lên gần 40 vạn: Riêng chủ lực đã lên gần 30 vạn, xấp xỉ với khối chủ lực chủ ngụy.

        Trên cả hai miền, chỉ trong hai năm 1973-1975, 3 quân đoàn và 3 sư đoàn chủ lực đã được xây dựng, trong đó hai quân đoàn được xây dựng ngay tại chiến trường.

        Được như vậy là vì chúng ta có hậu cần nhân dân dựa chắc vào hậu phương lớn miền Bắc với "các hợp tác xã là đội quân hậu cần của quân đội chiến đấu ngoài mặt trận"4. và hậu phương tại chỗ ở miền Nam, ở đó tổ chức Đảng được xây dựng và củng cố, chính quyền cách mạng trong sạch và có hiệu lực, con người được vun trồng, sức dân được chăm lo bồi dưỡng. Nếu trong những năm đầu chống Pháp và suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ lịch sử đã từng ghi lại các cuộc hành quân Nam tiến và "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" của lớp lớp cán bộ, chiến sĩ của hậu phương lớn anh hùng, thì trong những giờ phút hào hùng của cuộc tổng tiến công và nổi xuân 1975, hình ảnh của cuộc tiến quân thần tốc của các binh đoàn chủ lực lại được ghi đậm nét trên trang sử vẻ vang thắng Mỹ của dân tộc Việt Nam ta. Rõ ràng thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 là chiến công chung của cả nước, cả tiền tuyến và hậu phương. Tư tưởng nhân dân trong xây dựng hậu phương của Bác Hồ được phát triển đến một đỉnh cao mới.
« Sửa lần cuối: 05 Tháng Tư, 2016, 10:56:18 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM