Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 04:05:36 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tướng Giáp qua hai cuộc chiến tranh Đông Dương  (Đọc 37253 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #120 vào lúc: 04 Tháng Tư, 2016, 11:51:24 am »

       
Chương 24

Cuối cùng là hoà bình

        Đúng, chúng ta đã thắng Hoa Kỳ. Nhưng bây giờ chúng ta đang bị rung chuyển trước nhiều vấn đề. Chúng ta không đủ ăn. Chúng ta là một nước nghèo, kém phát triển. Tiến hành chiến tranh, thật đơn giản; nhưng quản lý một đất nước, thật cực kỳ khó khăn.
       
Phạm Văn Đồng       

        Về mặt tài chính, cái giá của chiến tranh Việt Nam thật đồ sộ đổi với Hoa Kỳ nhưng nhỏ nhoi đối với Bắc Việt Nam. Vì người Liên Xô và người Trung Quốc thanh toán phần lớn hoá đơn. Đến cuối cùng, người Mỹ tốn mỗi năm 30 tỷ đô la; Liên Xô và Trung Quốc mỗi nước khoảng 1 tỷ đô la.

        Năm 1965, Alexei Kossyguine Thủ tướng chính phủ Liên Xô đến Hà Nội và hứa viện trợ mỗi năm tương đương một tỷ đô la ngoài những triệu đô la mà Liên Xô đã chấp nhận cho Việt Nam. (Ông cũng đề nghị, không được hoan nghênh, chế độ Hà Nội tìm kiếm một giải pháp hoà bình với Hoa Kỳ). Trung Quốc cũng vậy tỏ ra rất hào hiệp suốt những năm dài chiến tranh; ngoài việc viện trợ vật chất và tài chính, Trung Quốc đã gửi sang hàng nghìn chuyên gia và cố vấn; ở miền Bắc Việt Nam đã có trên 40.000 huấn luyện viên và kỹ thuật viên Trung Quốc.

        Về mặt con người, chiến tranh Việt Nam còn đắt giá hơn nhiều khi Nixon vào ghế tổng thống, khoảng 30.000 quân Mỹ đã chết ở Việt Nam; một năm sau, còn thêm 10.000 người chết. Kết thúc chiến sự, những con số công khai về tổn thất của Mỹ trong toàn bộ thời gian chiến tranh là như sau: Khoảng 46.000 chết trong chiến đấu (trong đó 13.000 lính chuyên nghiệp khoảng 13%) cộng thêm khoảng 10.000 binh sĩ chết vì tai nạn máy bay hoặc tai nạn khác; khoảng 300.000 binh sĩ bị thương. Các lực lượng liên quân hơn 5.200 người chết: 4.407 Nam Triều tiên, 469 Úc và Niu Zilân, 350 Thái Lan.

        Tổn thất trong quân đội cộng hoà miền Nam Việt Nam được phân phối như sau: khoảng 137.000 chết và 300.000 bị thương. Đối với dân thường miền Nam Việt Nam, những con số đáng tin cậy là từ 355.000 đến 415.000 chết và gần 750.000 bị thương.

        Về phía cộng sản, Quân đội nhân dân Việt Nam và quân giải phóng miền Nam không tính những người không chiến đấu-đã phải chịu những tổn thất nặng nề. Ông Giáp cho là có 600.000 người chết (bao gồm những người hy sinh trong chiến đấu, và tất cả những người bị sốt rét và các bệnh nhiệt đới khác); về phía mình, Washington đưa tin quân cộng hoà miền Nam Việt Nam có 800.000 người chết và Việt Cộng, một triệu.

        Ở miền Bắc chiến tranh đã gây nên 400 triệu đô la tổn thất về vật chất kỹ thuật (nhưng người ta thấy khó lòng mà thống kê được những con số thiếu chính xác này). Với một tổng thu nhập hằng năm là 1,7 triệu đô la (năm 1972) vào loại thấp nhất châu Á, Hà Nội chắc chắn phải nhiều năm mới khôi phục được.

        Khi ngừng bắn đã được thực hiện ở miền Nam Việt Nam đã có hơn nửa triệu người tị nạn. Trợ cấp hàng năm của chính phủ cho những người tị nạn chỉ đạt được chưa đầy một nửa ngày chi tiêu trong chiến tranh của Hoa Kỳ. Lyndon Johnson đã chết ngày 23 tháng giêng năm 1973 trước khi ký Hiệp định Paris 5 ngày. Hiệp định qui định:

        Ngừng bắn tôn trọng hiện trạng, các lực lượng quân đội của hai bên phải ở lại trên những vị trí họ đang đóng ngày này.

        Rút hết quân Mỹ khỏi miền Nam.

        Trao đổi tù binh chiến tranh trong phạm vi 60 ngày.

        Cấm đưa thêm lực lượng vào miền Nam Việt Nam đối với cả 2 bên.

        Hai hội đồng chịu trách nhiệm kiểm tra tiệc tôn trọng lệnh ngừng bắn.

        Nói cách khác, sau những năm thương lượng, Hoa Kỳ phải chấp nhận một tối thiểu tuyệt đối: rút hết toàn bộ quân đội, đổi lấy sự trở về của tù binh chiến tranh. Tất cả những nỗ lực của họ, những thương vong của họ không phục vụ cho ai hết, vì quân đội cộng hoà miền Nam Việt Nam không suy chuyển ở lại tại chỗ, sẵn sàng để tiếp tục chiến đấu.

        Ngày 9 tháng 8 năm 1974 Tổng thống Nixon (được bầu lại năm 1972) phải từ chức sau vụ Watergate; Phó Tổng thống Gerald Ford thay thế. Một chi tiết nhỏ về lịch sử thú vị, những người có trách nhiệm trong vụ trộm Watergate là nhóm quan chức chính phủ đã giấu dư luận những vụ ném bom bí mật ở Campuchia.

        Chiến tranh chống Mỹ đã khép lại, nhưng Võ Nguyên Giáp không có ý định nghỉ ngơi. Đối với ông, đó chỉ là một thời gian ngắt quãng ngắn ngủi trong cuộc marathon cho đến khi nước Việt Nam thống nhất mới kết thúc.

        Ở hội nghị lần thứ 21 họp tháng 10 năm 1973, các nhà lãnh đạo miền Bắc quyết định ưu tiên cho một cuộc tấn công quân sự, chiến tranh tâm lý chuyển xuống hàng thứ hai. Tất cả cho hành động cuối cùng mà họ gọi là "giải phóng” miền Nam.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #121 vào lúc: 04 Tháng Tư, 2016, 11:54:24 am »

        Ông Giáp là Tổng tư lệnh đã gần 20 năm và đảm nhiệm thêm trách nhiệm chinh trị cao. Các lực lượng quân đội Bắc Việt Narn không ngừng được tăng cường; quân đội của ông bây giờ đứng thứ ba thế giới với 800.000 người. Ông cũng phải để tâm dành thời gian cho không quân và hải quân. Đó là một gánh rất nặng cho riêng một người.

        Bên ngoài có nhiều lý do để nghĩ rằng miền Nam giữ quyền độc lập sau khi quân Mỹ rút. Quân đội cộng hoà miền Nam gồm 450.000 binh sĩ, hơn 100.000 thuộc lực lượng hải quân và không quân. Ngoài ra, còn một nửa triệu quân địa phương và dân quân, một dạng địa phương của lực lượng du kích của ông Giáp: Nên nhớ rằng có rất nhiều người dân thường Nam Việt Nam phản đối các hình thức thống nhất với miền Bắc.

        Tất nhiên một trong những nhóm người sợ nhất việc thống nhất là các thành viên của lực lượng vũ trang miền Nam Việt Nam trước đây cũng như hiện nay, nếu quân cộng sản đến, thì chắc chắn họ là những người đầu tiên bắt vào tù hoặc hành quyết. Sau đó là những nhà buôn đã làm giàu vì có quan hệ với Hoa Kỳ; khi người ta giơ ngón tay lên cho họ, tiền của của họ sẽ không có cách gì cứu vãn được. Và vô số các công chức, cũng như nhiều người đã làm việc cho quân Mỹ, những người ít nhiều đã giúp đỡ Hoa Kỳ giữ lấy miền Nam; nhiều người trong số họ chẳng được lợi lộc gì nhiều về kinh tế, nhưng không thể qua mắt những kẻ tố cáo. Cuối cùng là những công dân bình thường, họ biết rằng khi những người miền Bắc tới đây đời sống họ càng xuống thấp, vì bóc lột miền Nam để kích thích nền kinh tế nghèo nàn của miền Bắc. Tính đến sự phản đối mạnh mẽ ấy, ý thích chống lại quân cộng sản đủ mạnh để đẩy lùi họ (lý lẽ cuối cùng là số phận của họ trông chờ vào quân đội cộng hoà miền Nam Việt Nam).

        Về mặt tổ chức tốt, huấn luyện tốt, được trang bị một học thuyết quân sự tiến bộ trong những năm dài chiến đấu bên cạnh quân Mỹ, quân đội miền Nam phải chứng tỏ họ có bản lĩnh cao. Mặc dầu vậy, các đơn vị chiến đấu chỉ còn nửa quân số còn lại là bộ phận dư thừa. Năm 1974 tiếp theo những khó khăn về kinh tế, tổng thống Thiệu đã giảm mạnh ngân sách quốc phòng, ông đã phải cắt bớt lương, những phụ tùng thay thế, xây dựng trận địa, đạn dược cho huấn luyện; binh lính chỉ có quyền hưởng hai đôi giày một năm mà không phải ba đôi như trước... và yếu tố quan trọng nhất, tấm lòng không ở đấy.

        Sự ra đi của quân Mỹ không làm gì để tăng thêm hư hỏng, hủ hoá, gian lận, và chính sách gia đình trị có mặt ở khắp nơi. Tinh thần, hiệu quả, kỷ luật không ngừng xuống cấp. Phần lớn những người lính mới ra đi từ những gia đình theo chính sách phân loại từ nhiều năm nay: những người thanh niên có anh ruột đang chiến đấu trong hàng ngũ Việt Cộng được gọi vào lính cộng hoà miền Nam; các thành viên của Việt Cộng lẫn vào trong quân đội cộng hoà vì không có công ăn việc làm nơi họ sinh sống. Thật không đáng ngạc nhiên khỉ những người cộng sản chuyển sang tấn công, quân đội cộng hoà miền Nam tan rã trong vòng vài ngày. Một số đơn vị hoặc cá nhân chiến đấu kịch liệt-những người tích cực nhất hoặc những người không có gì để mất-nhưng họ chỉ là một thiểu số.

        Văn Tiến Dũng ngày 5 tháng giêng 1975 được cử giữ chức tư lệnh chiến dịch giải phóng Sài Gòn, tổ chức cuộc tấn công ngày 8 tháng 4 năm 1975 trên 5 mặt trận khác nhau với 22 sư đoàn chia thành 5 quân đoàn. Ngày 25 tháng 3 Huế thất thủ; ngày 30 đến Đà Nẵng (ngày 7 tháng 4 Lê Đức Thọ người đã đàm phán hoà bình ở Paris, đến miền Nam Việt Nam để quan sát trận tấn công). Ngày 17 sự kiện đưa đến những hậu quả khắc nghiệt và khủng khiếp Phnom Penh thủ đô Campuchia rơi vào tay Khơme đỏ Pol Pot. Ngày 29, những người Mỹ cuối cùng rời khỏi Sài Gòn; ngày 30 đại tá Bùi Tín nhận sự đầu hàng của thủ đô miền Nam. Tất cả đã kết thúc. Để đến lúc này, phải chiến đấu 30 năm.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #122 vào lúc: 04 Tháng Tư, 2016, 11:57:41 am »

        Quân đội cộng hoà miền Nam không thể chống cự nổi trận tấn công cuối cùng. Vân Tiến Dũng kể: "Sau khi chiến thắng quân Mỹ và quân ngụy, chúng ta đã chiếm được một số lượng vũ khí và vật chất kỹ thuật. Chúng ta đã bố trí một lực lượng vũ trang mạnh và một số trang bị kỹ thuật hiện đại để giải phóng miền Nam".

        Đúng như điều họ đã làm.

        Mai Thế Chính người đã phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam đã kể cho tác giả nghe câu chuyện sau đây:

        “Tôi cưới vợ tháng 4 năm 1967, vợ tôi rất lo lắng cho tôi. Trong 6 tháng, chúng tôi có quyền gửi và nhận những bức thư, nhưng không bao giờ tôi cho vợ tôi biết hoàn cảnh thiếu thốn của chúng tôi, tôi không bao giờ nói rằng chúng tôi thiếu ăn, chúng tôi bị ngập lụt, và bom bỏ như mưa xung quanh. Trái lại tôi lại nói với cô ấy rằng nếu tôi chết, cô vẫn chưa đến 30 tuổi, cô phải đi tái giá. Tôi cũng nói với cô rằng, nếu cô đã quá 30 tuổi, thì tuỳ cô quyết định ở lại với các con hoặc đi bước nữa. Đó là điều tôi viết cho vợ tôi.

        Tôi đã tham dự cuộc tổng tấn công vào Sài Gòn. Năm quân đoàn tấn công theo 5 hướng khác nhau. Tôi ở Quân đoàn 3 tấn công Sài Gòn từ hướng Tây. Đơn vị tôi đã bắt đầu chiến đấu trên Tây Nguyên, trước khi theo đường 17 và phía Đông. Phần lớn thời gian quân địch, quân ngụy bỏ chạy, nhưng ở một vài nơi, chúng chiến đấu dữ dội. Hàng nghìn lính ngụy bị bắt làm tù binh. Ở nhiều nơi quân địch bỏ lại hàng đống lớn quần áo, mũ và vũ khí bên vệ đường, mà họ vứt bỏ để làm người thường dân.

        Có sự thi đua tích cực xem ai là người đầu tiên cắm lá cờ trên dinh Độc Lập, tất cả phải lỗ lực để đạt được vinh dự đó. Cuối cùng, Quân đoàn 2 là những người đầu tiên. Rất tiếc đã không phải là chúng tôi.

        Sau thắng lợi, mọi gia đình chiến sĩ đều mong đợi người thân trở về. Lúc này, vợ tôi đang học Đại học ở Hà Nội. Họ bảo cô rằng nếu bỏ trường đại học về đi gặp chồng thì mất một năm học hoàn toàn, nhưng cô ấy cứ đi, hy vọng chồng cô trở về.

        Khi mọi chuyện đã kết thúc, tôi theo đường bộ từ Sài Gòn ra Hà Nội, mất ba ngày. Ngày 1 tháng 6 tôi đã trở về và đã gặp vợ tôi.

        Phải hơn một năm để thực hiện thống nhất miền Nam và miền Bắc-một năm khủng khiếp vì lo sợ và lộn xộn. Đối với nhân dân Mỹ, hình ảnh trên truyền hình về những người vừa móc vào mắt xích trực thăng vừa kêu la vừa rơi xuống mái nhà đại sứ quán Hoa Kỳ ở Sài Gòn là khúc tưởng mềm cho thời kỳ dai dẳng và thảm hại của lịch sử nước Mỹ. Đối với những người khác, không phải là kết thúc mà là một sự bắt đầu mới.

        Sau khi thống nhất, một triệu người đàn ông, đàn bà và trẻ con rời miền Nam Việt Nam: những người Boat people đầu tiên. Khoảng 100.000 người ở lại được tập trung vào những trại "cải huấn". Một số ít bị cầm tù trong 3 năm hoặc hơn; ban ngày, nói chung họ đi chặt tre trong rừng, buổi tối dành cho những buổi huấn luyện làm cho họ nhận rõ sai lầm. Nói chung không đến nỗi dễ sợ như người ta tưởng. Những bài học của chiến dịch cải cách ruộng đất 1956 còn chưa quên; mục tiêu bây giờ là xoá đi và cải tạo mà không phải tiêu diệt.

        Ít lâu sau việc giải phóng miền Nam, ông Giáp và các ủy viên Bộ Chính trị khác đã vào Sài Gòn để thưởng thức thành quả của thắng lợi. Nhưng họ chưa thể kết thúc, chưa thể.

        Ở Campuchia, Pônpôt trở thành người chủ đất nước tổ chức một vụ khủng bố trắng toàn xã hội. Đa số dân thành thị bị đuổi về làm việc ở nông thôn bằng vũ lực. Ai chống lại sẽ giết, gần như tất cả những nhà tri thức, kể cả bác sĩ, nhà khoa học và công chức phải suy nghĩ, tổ chức lại và lãnh đạo họ là mối nguy hiểm cho chế độ mới. Các thành phố suy sụp và chết-cũng như vậy trong những vùng nông thôn đối với mùa màng, và những người nông dân đói không hy vọng cày cấy trở lại.

        Cái kinh nghiệm tàn nhẫn ấy của chủ nghĩa xã hội khoa học trả giá bằng sinh mệnh của 2 hoặc 3 triệu người dân Campuchia không ai biết con số chính xác: có quá nhiều đầu lâu để mà đếm. Cuộc diệt chủng chấm dứt khi lực lượng quân giải phóng miền Nam tràn sang đất Campuchia tháng 12 năm 1978, một kế hoạch hành quân do ông Giáp đề xuất và lãnh đạo (họ phải ở lại cho đến tháng 12 năm 1989).

        Năm 1980 Văn Tiến Dũng kế tục sự nghiệp của ông làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ông Giáp vẫn còn ở lại Bộ Chính trị, và phụ trách công tác Khoa học và Kỹ thuật; nhiều năm ông làm Phó Thủ tướng.

        Tháng 7 năm 1991 một tháng trước ngày kỷ niệm sinh nhật lần thứ 80, Võ Nguyên Giáp không còn ở trong Bộ Chính trị.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #123 vào lúc: 04 Tháng Tư, 2016, 12:01:53 pm »

        
Chương 25

Ông Giáp-Bản tổng kết

        Chúng tôi muốn sống trong hoà bình và hữu nghị với tất cả các quốc gia trên thế giới.
        
Ông Giáp với Tác giả        

        Cuốn sách này đã thuật lại cuộc đời của Võ Nguyên Giáp và lịch sử của Quân đội nhân dân Việt Nam. Sự thật không phải quân đội, mà chinh nhân dân đã thắng trong cuộc chiến tranh, nhưng làm sao có thể tách đôi? Nhân dân là quân đội: tất cả đều là chiến sĩ...

        Đàn ông và đàn bà Việt Nam là những người thực sự đã gây dựng nên thắng lợi; Tổng tư lệnh xuất chúng. Cụ Hồ Chí Minh là người lái con thuyền, nhưng ông Giáp là người chỉ huy các lực lượng vũ trang.

        "Của cải dành riêng” của Cụ Hồ Chí Minh là Đảng Cộng sản, nhưng của ông Giáp là quân đội, và là quân đội nhân dân đã giành thắng lợi trong chiến tranh. Trong giới hạn này, ông Giáp có thể tự hào đã giành hai thắng lợi to lớn và là nguồn gốc của thống nhất và độc lập của đất nước ông. Rất nhiều thắng lợi của ông đã làm cho ông trở thành một trong những người chỉ huy vĩ đại nhất của tất cả các thời đại.

        Ông Giáp đã thật sự là một nhà chiến lược vĩ đại? Vì bốn lý do không dễ dàng gì để trả lời câu hỏi đó:

        Dưới chế độ ông phục vụ, mọi quyết định được tiến hành tập thể; trong phạm vi quân sự, ông là người đứng đầu trong số những người ngang hàng (Primus inter pares) nhưng chỉ mình ông là trọng tài.

        Nước Việt Nam còn là một xã hội đóng kín, có khả năng mở hơn cách đây vài năm, nhưng những người từ phương Tây tư bản chủ nghĩa đến đã quan tâm đến quá khứ rất gần đây, không đánh giá cao.

        Tôi có thể đến Hà Nội vì cánh cửa đã mở, vì tôi là một tác giả nổi tiếng, vì tôi đã là một người lính và như vậy đối với ông Giáp trong lúc trò chuyện dễ chấp nhận hơn một nhà văn không có kiến thức quân sự và cũng vì tôi là một công dân Anh quốc, có thể khách quan hơn một người Pháp hoặc một người Mỹ.

        Cuối cùng, người Việt Nam là những người rất kín đáo; nói công khai những vấn đề cá nhân là không chấp nhận được-nên để tấm lòng ngay thẳng trước những người không quen biết; những chi tiết của đời tư, những tư tưởng và tình cảm sâu kín đều cấm ky. Một quyển tiểu sử "cho Tây phương” là không phù hợp.

        Nhưng bản thân những sự việc đủ sức thuyết phục và chúng đã tập trung đủ những chỉ số để có một sự đánh giá.

        Từ năm 1944 đến năm 1975, mọi người biết đến cuộc đời của ông Giáp không thể tách khỏi những trận chiến đấu những trận tấn công và những sáng kiến khác của ông. Trong nhiều công trình ông đã tham gia, hoặc với tư cách Đại tướng, hoặc với tư cách thành viên của Chính phủ. Ông Giáp đã giữ chức Tổng tư lệnh quân đội ròng rã ba mươi năm và đã tham dự vào những cuộc thảo luận chính trị ở cấp cao trong gần 50 năm: hai sự việc chưa bao giờ có trong lịch sử. Ngoài ra rất khó so sánh với các vị tướng khác, sự kết hợp giữa hoạt động du kích ở phạm vi lấy tác chiến thông thường cũng là việc chưa bao giờ có.

        Ông Giáp đã tỏ rõ những đức tính xuất chúng trong tất cả mọi lĩnh vực lớn nhất của chiến tranh. Về chiến lược, ông đã có một tầm quan sát sâu sắc các sự kiện và đã khoanh vùng những vấn đề chủ yếu; ông đã làm lung lay đối phương bằng sử dụng sáng suốt những lực lượng từ nhiều điểm: ở Lào, ở Campuchia, trong vùng châu thổ sông Cửu Long, trên các cao nguyên Tây Nguyên, vùng đồng bằng ven biển, hai bên bờ vùng giới tuyến phi quân sự.

        Về chiến thuật, ông Giáp là bậc thầy trong nghệ thuật chiến tranh du kích; về mặt này, ông là người chỉ huy vĩ đại nhất của mọi thời đại. Trong lĩnh vực chiến tranh thông thường, ông biết cách đổi mới: ví dụ ở Điện Biên Phủ ông đã sử dụng giao thông hào tiếp cận xói mòn những lực lượng phòng ngự, phá huỷ từ vị trí phòng ngự này đến vị trí phòng ngự khác trước khi vượt qua số còn lại. Hơn ai hết, ông đã làm cho chiến sĩ của ông hiểu được sự cần thiết và những nguyên tắc của một "timing” tốt, tác dụng của bất ngờ, ngụy trang và động tác giả; ví dụ các đơn vị của ông đã ẩn nấp kín đáo đến nỗi quân địch chỉ phát hiện được họ khi người đứng đầu bị loạt đạn ngay sát gần; so sánh với những hầm hố của quân Mỹ như Khe Sanh có thể chụp ảnh được qua vệ tinh.

        Trong lĩnh vực hậu cần, ông thật xuất sắc suốt cuộc chiến tranh Đông Dương, không có một sự làm chủ hoàn hảo hơn về công tác hậu cần mà không thể thực hiện đượctrong chiến dịch Điện Biên Phủ. Cũng như vậy, trong cuộc chiến tranh Việt Nam, đường mòn Hồ Chí Minh đã cung cấp tiếp tế cho Quân đội nhân dân Việt Nam và quân giải phóng miền Nam ròng rã mấy năm trời.

        Chỉ có ít người chỉ huy quân sự tỏ ra có tinh thần làm chủ được mọi yếu tố làm nên thắng lợi. Hơn nữa, ông Giáp biết phái đi điều gì cơ bản cho cấp này; mặt khác làm sao ông có thể đảm nhiệm lâu dài như vậy những trách nhiệm cao cấp? ông khuyến khích "những con người trên trận địa, những người biết rõ dịa điểm, tình trạng và thời gian thích hợp nhất để hành động, được quyền quyết định.

        Khi tôi hỏi tướng Marcel Bigeard bình luận về năng lực quân sự của ông Giáp, tướng Bigeard trả lời rất khâm phục ông Giáp. "Ông đã học thuộc những bài học sai lầm và không lặp lại chúng" và "ông đã chỉ huy thắng lợi những đơn vị của ông trong thời gian dài đáng chú ý; trong vòng 30 năm đã lập nên một kỳ tích chưa từng có". Bất kỳ lúc nào "đối với Giáp, đời sống bản thân không đáng gì". Bigeard cũng rất tôn trọng những người Việt Nam. "Họ là những người dũng cảm, ngay thăng, thông minh, lao động" ông thành thật xúc cảm thêm: "người Việt Nam yêu chúng ta, và chúng ta, những người Pháp cũng yêu họ. một ngày nào đó, chúng ta sẽ cưới nhau...".

        Về phần mình, tướng William C. Westmoreland cũng rất khâm phục người Việt Nam. Họ tin tưởng những người cùng làm việc ở miền Nam, nhưng "vấn đề lớn là những người nông dân ở xa thành phố không tôn trọng chính phủ trung ương chút nào: dưới con mắt họ, không có gì hơn là chế độ thuộc địa kéo dài, do đó chúng ta khó mà liên minh với họ trong cuộc chiến tranh này", hơn nữa "có rất nhiều dân tộc thiểu số; không phải là một xã hội đồng nhất."
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #124 vào lúc: 04 Tháng Tư, 2016, 12:09:49 pm »

        Còn về phẩm chất của một người chỉ huy quân sự lỗi lạc: khả năng ra những quyết định, sức mạnh tinh thần, khả năng tập trung, không quên trí thông minh đã gắn bó tất cả các phẩm chất trên- Westmoreland tin tưởng ông Giáp "có tất cả các phẩm chất đó". Đó là một con người rất "quyết tâm, một vì tướng vĩ đại". Song ông "mắc lỗi vì lạc quan: mặc dù mọi nỗ lực suốt trong cuộc tấn công nhân dịp Tết, ông không thấy dấu hiệu nào của tổng khởi nghĩa mà ông đã tính toán".

        Xung quanh vấn đề nhận xét con người Westmoreland nghĩ rằng ông Giáp "không có sự lựa chọn, những tài năng thường hiếm. Westmoreland nhận xét ông Giáp làm chủ được bản thân: "Mọi người chỉ huy quân sự ở cấp cao phải có phẩm chất ấy, nếu không không thể lâu dài được". Ông Giáp là người táo bạo quyết tâm, ông có "khả năng chi phối những người của ông vì những câu chuyện huyền thoại xung quanh ông và vầng sáng lạc quan của ông". Ông Giáp "tin vào sức thuyết phục của ông; ông tưởng rằng điều người ta muốn nói với ông vì họ nghĩ rằng điều đó ông muốn nghe". Chắc rằng ông cũng luôn luôn đối xử như thế với những cán bộ cao cấp, hoặc là linh hoặc là chính khách.

        Trả lời một câu hỏi về cuộc đời chính trị kéo dài của ông Giáp, Westmoreland hăng hái cho rằng đối với một vị tướng, điều đó phụ thuộc dư luận công chúng: "Nếu không được sự nâng đỡ của dư luận, không vị tướng nào có thể tự đặt ra cho mình, dù cho uy lực của niềm tin bản thân đến thế nào". Và sở dĩ Hoa Kỳ không thắng được là vì "các mặt tiêu cực của cuộc chiến tranh đã là đối tượng cho công luận quá khích (vì các loại thông tin đại chúng), còn các mặt tích cực thực tế không được tỏ rõ". Hơn nữa nếu Hoa Kỳ đã sử dụng ngay từ năm 1968 một lực lượng máy bay B52 như năm 1972, thì Hà NộI đã phải ngồi lại bàn đàm phán từ ngày đó; chiến tranh sẽ không kéo dài và hàng nghìn sinh mạng của Mỹ và Việt Nam đã được cứu vớt". Song câu trả lời ấy cho rằng dư luận công chúng Mỹ ở thời kỳ ấy đã tha thứ cho một sáng kiến như vậy ư? Hoàn toàn không chắc chắn như thế. Năm 1968, đất nước bị chia rẽ hơn bao giờ hết kể từ cuộc chiến tranh ly khai; còn 1972, trái lại Tổng thống Nixon có thể dựa vào ý chí thất vọng của nhân dân Mỹ để tìm một giải pháp với bất kỳ giá nào, hoặc gần như thế

        Khi nói về chiến tranh sức mạnh của nhân cách ông xuất hiện thật rõ như trong trang bài có quan hệ đến Điện Biên Phủ.

        Thường xuyên, công tác hậu cần đặt ra những vấn đề khó khăn không kém những khó khăn về tác chiến. Chính vì vấn đề cung cấp khó khăn như vậy, cho nên quân địch đã không bao giờ tưởng tượng được rằng chúng ta có thể khắc phục khó khăn ấy...

        Nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các Hội đồng cung cấp tiền phương, đã đem một tinh thần anh dũng và gian khổ rất cao ra phục vụ mặt trận. Từng đoàn xe hơi anh dũng đã vượt suối băng ngàn… Từng đoàn xe đạp thồ, hàng vạn chiếc, từ khắp các nơi tiến ra mặt trận, mang lương thực đạn dược để cung cấp cho quân đội giết giặc. Từng đoàn thuyền lớn nhỏ hàng nghìn chiếc, từng đoàn bè mảng, hàng vạn chiếc, vượt thác ghềnh mang lương thực đạn dược ra mặt trận...

        Từng đoàn ngựa thồ từ trên vùng dân tộc Mèo, Mán xuống, từ các địa phương lại, lũ lượt tiến ra mặt trận... Hàng vạn anh chị em dân công, thanh niên xung phong, lấy sức người mà chuyển lương thực, đạn dược, ngày đêm trèo đèo lội suối mặc máy bay của địch, mặc bom nổ chậm...

        Chưa bao gờ, người thanh niên ta đã đi đến nhiều nơi như vậy... Từ đồng bằng đến rừng núi, trên các đường lớn và các đường con, trên các dòng sông, các con suối, đâu đâu cũng nhộn nhịp hẳn lên...".

        Rõ ràng, một sự ồn ào náo nhiệt được phản ánh trong bài này.

        Từ buổi thiếu niên, ông Giáp đã nuôi chí cộng sản. Khốn khổ những quan niệm của ông rất ít thay đổi theo năm tháng-khốn nỗi vì với trí thông minh của mình, ông có thể trông thấy những tội lỗi của hệ thống chính trị và bảo đảm một cuộc đời tốt đẹp hơn cho những người yêu nước. Hình như lúc nào ông cũng tìm thấy kinh thánh treo trên cây ấy ở An Xá. Như một người cộng sản ở thời kỳ Trung đại sợ hãi những hậu quả ghê gớm của một biểu hiện tà giáo nho nhỏ, ông đã lệ thuộc đi theo con đường mác xít-lêninnít mà Cụ Hồ Chí Minh truyền lại. Trong những tác phẩm của ông, ngoài chủ nghĩa cộng sản, bản thân ông không có gì để nói nhưng ông không có thể tự giải phóng khỏi sự gò bó của Bộ Chính trị.

        Thật thú vị nếu biết được ông Giáp nghĩ gì về sự sụp đổ của hệ thống cộng sản ở Đông âu, sự tan rã của hiệp ước Varsovie, sự chia thành từng mẩu của Liên Xô. Tóm lại sự tan rã của trật tự xã hội chủ nghĩa thế giới mà ông đặt hy vọng vào đó.

        Quan điểm của cá nhân tôi thì ông là người khiêm tốn nhưng thiếu kiên nhẫn, thân mật nhưng dư uy nghiêm: sức nặng của lịch sử vẫn luôn luôn tồn tại. Có lẽ ông thiếu cái chân thành nhưng đó là nét đặc điểm Việt Nam: không bao giờ bộc lộ, luôn giữ lại cái gì đó dự bị. ông là người thay đổi tính khí đột ngột nhưng là người rất duyên dáng, và hóm hỉnh. Và ông dễ bị cuốn hút, khi đã lao vào một đề tài gì đó khó mà dừng lại.

        Còn về “thích ăn diện" thì mỗi lần tôi gặp ông, ông đều mang một bộ quân phục ka ki cũ không huân chương hoặc huy hiệu trừ hai phù hiệu đỏ trên ve áo. Cổ và cánh tay áo đã sờn; mỗi lần ra đi người giúp việc giúp ông mặc cái áo bông cừu mà phần da đôi chỗ đen vì dùng nhiều.

        Về những gì có liên quan đến sức khoẻ và những bệnh tật của ông, chỉ có dấu hiệu không bình thường mà tôi quan sát được là chứng máy mắt trái thỉnh thoảng.

        Không có gì chứng tỏ ông ốm đau; ông còn đặc biệt nhanh nhẹn đối với một người ở lứa tuổi ông. Cho đến mùa hè 1991, ông đã hoàn thành một ngày dài làm việc với tư cách Chủ tịch hội đồng Khoa học kỹ thuật mà nhiệm vụ là thoát khỏi sự chậm chế trong Khoa học kỹ thuật của Việt Nam.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #125 vào lúc: 04 Tháng Tư, 2016, 12:13:20 pm »

       
Chương 26

Đoạn kết

        Một số người đã chiến đấu ở Điện Biên Phủ không còn nữa. Decastries mất năm 1991 ở tuổi 85 với bao kỷ niệm. Già nua, bệnh tật và mất trí, Langlais đã thực hiện một bước nhảy cuối cùng từ cửa sổ cao tầng năm 1988. (Khi biết tin, các chiến hữu của ông đã đến dự lễ tang đúng theo nghi lễ của ông). Tràn ngập vinh quang và uy tín, Bigeard sống dưới bóng nhà thờ Toul: ở tuổi 65, cặp mắt vẫn linh lợi, ông ta vẫn tiếp tục đi bộ hàng ngày 7 km và bơi 10 lần chiều dài bể bơi.

        Hàng triệu và hàng triệu cựu chiến binh của cuộc chiến tranh Việt Nam vẫn còn sống mãi với ít niềm vinh quang. Nụ cười của Nixon vẫn còn đó. Westmoreland cũng vậy vốn là lính nhảy dù, thọ 77 tuổi, đôi mắt đầy nghị lực trước những lời chỉ trích nặng nề mà ông là đối tượng. ông ngồi yên như một người lính già. (Westmoreland được khen thưởng trên mức ông ta đáng được nhận ở Việt Nam: ông ta đã chơi khá hay nước cờ và ông chấp nhận thua trận).

        Mac Namara cũng vậy vẫn còn mãi, yên lặng như một nấm mồ. Lyndon B.Johnson chết năm 1973 ở tuổi 65, bối rối và cô đơn: một người hết sức cố gắng để hành động đúng, nhưng ông đã nhầm. Ông Giáp vẫn luôn luôn còn đó, tràn đầy nhiệt tình và nghị lực. Thắng lợi là một trường lực mạnh mẽ của tâm hồn. Về nhiều phương diện, ông đã đúng.

        Bây giờ tôi chuẩn bị tạm biệt Hà Nội, người ta yết cầu tôi gửi một chai Uytki làm quà chia tay Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tôi thực hiện với một nỗi lo lắng khôn nguôi: vì điều đó đối với tôi, là một sự xúc phạm đối với ông, một trong những nhân vật vĩ đại của thế kỷ 20, chắc gì ông đã cần đến một người ngoại quốc vãng lai tặng một chai rượu.

        Mặt tích cực là những con người mà tôi đã gặp đã làm việc với họ thì thật thân tình và cởi mở, lịch lãm và hợp tác. Khắp nơi người ta trông thấy hàng trăm trẻ em ăn mặc sạch sẽ, tươi cười trò chuyện ồn ào.

        Nhưng đối với tôi, quyển sách này tràn đầy kịch tinh, những bộ xương của hàng triệu người của nhiều quốc gia khác nhau, nhưng phần lớn là Việt Nam, đang yên nghỉ trong những rừng rậm bị cày xới vì bom đạn ở Đông Dương. Tên tuổi của hàng chục nghìn người trong số học được khắc vào bia đá của nhiều vùng ở nước Pháp, ở đảo Coóc ở khu phố trung tâm của lính lê dương, được khắp lên trên một vòng cung dài bằng đá cẩm thạch đen, cái biển trưng của thất bại gồm tượng đài Lincoln ở Washington, và trong trái tim, khối óc của tất cả những ai đã phải chịu mất mát họ.

       
Bristol, Anh quốc, tháng 10 năm 1991       

HẾT
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM