Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 05:45:50 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13  (Đọc 46591 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #20 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 08:44:07 am »

Các học viện, nhà trường, quân đội kiện toàn đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, cơ sở vật chất, tiếp nhận học viên, chuẩn bị tiến hành đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo kế hoạch được giao. Các học viện, nhà tường đang huấn luyện theo kế hoạch trước đây tiếp tục huấn luyện hết chương trình, không tổ chức cho học viên ra trường sớm như dự định trong chiến tranh. Hệ thống nhà trường ngoài quân đội tiếp nhận học viên do quân đội cử đi học.

Tháng 6-1976, tại Trường Sĩ quan Lục quân 1, Bộ Tổng tham mưu mở lớp tập huấn cho cán bộ cao cấp, trung cấp toàn quân về tổ chức, phương pháp huấn luyện một số vấn đề về điều lệnh, chiến thuật, kỹ thuật, binh chủng, thể dục thể thao.

Đối với các đơn vị trực tiếp làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu tiến hành huấn luyện theo các nội dung quy định của Bộ, đồng thời căn cứ vào nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu của đơn vị, huấn luyện bổ sung những nội dung kỹ thuật, chiến thuật cá nhân và phân đội nhỏ, đẩy mạnh giáo dục chấp hành điều lệnh, điều lệ, chế độ, tư thế, lễ tiết, tác phong quân nhân. Các đơn vị chuyên làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế tổ chức huấn luyện theo đặc điểm nhiệm vụ của đơn vị, chú trọng huấn luyện chấp hành điều lệnh, điều lệ, kỷ luật quân đội.

Chiến sĩ mới các đơn vị được huấn luyện theo chỉ thị (11-8-1976) của Bộ Tổng tham mưu. Đây là lần đầu tiên quân đội tuyển quân và huấn luyện một số quân lớn trên phạm vi cả nước và tất cả các đơn vị được huấn luyện theo chương trình thống nhất gồm cả chính trị, quân sự và hậu cần. Cán bộ các cấp chú trọng huấn luyện tại trường kết hợp với huấn luyện tại chức, học tập bồi dưỡng văn hóa đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, quản lý, chỉ huy bộ đội.

Mùa huấn luyện quân sự năm 1976 kết thúc. Toàn quân cơ bản hoàn thành chương trình, nội dung huấn luyện do Bộ đề ra. Một trong những kết quả nổi bật của công tác huấn luyện là hiện tượng vi phạm kỷ luật quân đội, nhất là những vi phạm nghiêm trọng đã giảm rõ rệt. Bản lĩnh chính trị, trình độ chính quy, hiện đại, khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu được nâng cao, bảo đảm cho quân đội hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

Nhằm đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, từ tháng 12-1975, Quốc hội và Chủ tịch nước quyết định bãi bỏ Lệnh tổng động viên cục bộ (ban hành ngày 21-4-1965) để thực hiện tuyển quân thời bình; sửa đổi, bổ sung Luật nghĩa vụ quân sự (ban hành ngày 10-4-1965). Nhà nước quy định quân nhân dự bị loại 1 (18 đến 35 tuổi) và loại 2 (18 đến 25 tuổi). Lực lượng dự bị động viên được đăng ký, quản lý, huấn luyện và tuyển quân thực hiện theo chế độ thời bình thống nhất trên cả nước. Chế độ phục viên, xuất ngũ, chuyển ngành của quân nhân đã hoàn thành nghĩa vụ phục vụ trong quân đội được thực hiện thống nhất theo luật định hiện hành.

Lực lượng dân quân tự vệ được tổ chức ở tất cả các đơn vị hành chính sự nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, cơ quan, trường học. Dân quân tự vệ vừa sản xuất vừa tham gia công tác quốc phòng, an ninh ở địa phương. Đến cuối năm 1976, hầu hết các phường, khóm ở miền Nam có từ 1 tổ đến 1 tiểu đội du kích, tự vệ. Ở miền Bắc, các huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An), Nam Ninh (Nam Định), Tiền Hải (Thái Bình), Khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên được chọn làm thí điểm nghiên cứu xây dựng tổ chức lực lượng dân quân, tự vệ phù hợp với quy mô sản xuất công nghiệp và nông nghiệp theo hướng tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Lực lượng dân quân tự vệ biển được xúc tiến xây dựng ở các địa phương ven biển, trong những ngành và đơn vị hoạt động, sản xuất trên biển.

Trước yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng kinh tế đất nước trong điều kiện mới, Đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một bộ phận lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân tham gia xây dựng kinh tế, góp phần khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh, nhanh chóng ổn định đời sống nhân dân, tạo cơ sở để tiếp tục phát triển kinh tế những năm tiếp theo. Lực lượng quân đội tham gia xây dựng kinh tế đã hình thành từ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sau chiến tranh, Bộ Quốc phòng căn cứ vào quyết định của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, căn cứ vào kế hoạch nhà nước 5 năm (1976-1980) và những đề xuất của các cơ quan chức năng, chủ yếu của Tổng cục Hậu cần để tổ chức và triển khai lực lượng quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế. Đến cuối năm 1975, Bộ Quốc phòng đã ấn định 250.000 quân là lực lượng chuyên làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế của quân đội. Các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu cũng tham gia lao động sản xuất phù hợp với đặc điểm từng cơ quan, đơn vị.

Ngày 31-3-1976, Bộ Chính trị ra Nghị quyết Về vấn đề quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế, xác định: Đi đôi với nhiệm vụ bảo vệ đất nước, nhiệm vụ xây dựng kinh tế, xây dựng đất nước là một nhiệm vụ chính trị to lớn hiện nay của quân đội ta; đó là nhiệm vụ của toàn quân. “Cùng với việc thực hiện đầy đủ yêu cầu xây dựng quân đội chính quy, hiện đại và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đất nước, phải huy động mọi khả năng về lực lượng, thời gian, vật tư, thiết bị, v.v., của quân đội có thể huy động để làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế”(1). Để phát huy mức cao nhất khả năng lao động sáng tạo của toàn quân trong điều kiện cụ thể hiện nay, “quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế theo các quy mô lớn, vừa và nhỏ, phấn đấu theo hướng tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, kết hợp cơ giới, nửa cơ giới với thủ công, phấn đấu theo hướng đẩy mạnh cơ giới hóa; làm ở tất cả các vùng, chú trọng những vùng chiến lược quan trọng có nhiều khó khăn trong việc điều động lực lượng lao động tới; tập trung làm những việc lớn có yêu cầu chuyên môn kỹ thuật để có điều kiện nâng cao trình độ hiểu biết về kinh tế và kỹ thuật của cán bộ, chiến sĩ”(2).


(1), (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.37, tr.68-69.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #21 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 08:45:35 am »

Quân ủy Trung ương xác định: Các cấp Đảng phải tích cực lãnh đạo quân đội tham gia xây dựng kinh tế trên quy mô lớn, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa; trên cơ sở đó mà xây dựng một nền công nghiệp quốc phòng lớn mạnh, xây dựng lực lượng vũ trang hiện đại. Đây vừa là một nhiệm vụ chiến lược cơ bản lâu dài của quân đội ta, vừa là một nhiệm vụ thuộc về bản chất của quân đội cách mạng, của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Tháng 4-1976, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng tổ chức Hội nghị cán bộ cao ấp toàn quân nghiên cứu quán triệt Nghị quyết Bộ chính trị Về vấn đề quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế. Tại hội nghị, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nêu rõ vị trí, mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ của lực lượng vũ trang, quân đội trong thời kỳ mới: Sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đất nước là nhiệm vụ chiến lược hàng đầu, quan trọng bậc nhất. Xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ chiến lược cơ bản, rất quan trọng của quân đội. Đại tướng nhấn mạnh: Cán bộ chủ trì, chỉ huy, lãnh đạo và các cấp phải thông suốt nhiệm vụ cán bộ toàn quân đi đôi với học tập quân sự, nhất thiết phải học tập kinh tế, cán bộ cao cấp mà không hiểu kinh tế thì không bao giờ làm nhiệm vụ của mình tốt được. Nên bản thân quân đội phải mở trường bồi dưỡng, đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế và gửi một số sang đào tạo ở các trường của Nhà nước(1).

Thực hiện chủ trương của Đảng, các lực lượng vũ trang nhân dân thực hiện nhiệm vụ xây dựng kinh tế triển khai xây dựng trên các lĩnh vực, khắp mọi miền và ở hầu hết các ngành kinh tế quan trọng của đất nước (nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thủy lợi, xây dựng cầu, đường, xây dựng cơ bản công nghiệp và dân dụng…). Các nhà máy, xí nghiệp quốc phòng do Tổng cục Kỹ thuật quản lý tập trung bảo đảm vũ khí, trang bị cho lực lượng vũ trang và dành một phần năng lực để làm một số mặt hàng dân dụng do Nhà nước đặt hàng, góp phần giải quyết khó khăn đời sống của nhân dân và lực lượng vũ trang. Các đơn vị sẵn sàng chiến đấu tận dụng đất đai thuộc diện đơn vị quản lý, đồng thời quan hệ với chính quyền địa phương nơi đóng quân để xin đất tăng gia (trồng trọt, chăn nuôi), tự túc một phần lương thực, thực phẩm cho đơn vị, góp phần cải thiện một bước đời sống của bộ đội.

Ngày 4-3-1976, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 59/CP thành lập Tổng cục Xây dựng kinh tế trực thuộc Bộ Quốc phòng, có chức năng, nhiệm vụ giúp Bộ Quốc phòng lập kế hoạch và chỉ đạo lực lượng quân đội tham gia xây dựng kinh tế; xây dựng các đơn vị chuyên làm kinh tế; thay mặt Bộ Quốc phòng quan hệ với các cơ quan ngoài quân đội; chấp hành các chế độ kinh doanh hoạch toán kinh tế, các chính sách của Nhà nước và quân đội.

Cơ cấu tổ chức cơ quan Tổng cục Xây dựng kinh tế và các đầu mối trực thuộc Tổng cục được xây dựng trên cơ sở cơ quan và đơn vị thuộc Bộ Tư lệnh 559, một số đơn vị thuộc Tổng cục Hậu cần và Bộ Tư lệnh Công binh.

Bộ Quốc phòng quy định cấp quân khu được tổ chức cục xây dựng kinh tế; các quân chủng, binh chủng và tỉnh có lực lượng chuyên trách xây dựng kinh tế được tổ chức phòng hoặc ban xây dựng kinh tế.

Lực lượng chuyên trách xây dựng kinh tế của toàn quân đến cuối năm 1976 được tổ chức thành 30 đoàn tương đương sư đoàn và 241 đoàn tương đương trung đoàn trực thuộc các quân khu, Quân chủng Hải quân, Tổng cục Hậu cần và Tổng cục Xây dựng kinh tế.

Các đơn vị xây dựng kinh tế của quân đội khẩn trương và đẩy mạnh triển khai thực hiện các nhiệm vụ xây dựng kinh tế do Chính phủ giao trong kế hoạch nhà nước 5 năm (1976-1980):

1- Xây dựng các khu kinh tế nông nghiệp với diện tích 40 vạn hécta gồm các khu chuyên canh cây công nghiệp, cây lương thực ở Hà Tiên, Đồng Tháp Mười, miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Thuận Hải.

2- Trồng rừng, khai thác gỗ, kinh doanh tổng hợp về lâm nghiệp ở Gia Nghĩa, Koong Hà Nừng, nam Long Đại, tây Nghệ An, sông Đà, khu nguyên liệu giấy Hàm Yên - Bắc Quang, khu lâm nghiệp Hắc Xam ở miền núi Tây Bắc.

3- Làm đường sắt Thống nhất đoạn từ Minh Cầm đến Tiên An thuộc Quảng Bình - Quảng Trị, tiếp tục làm đường ở phía nam Trường Sơn và giúp Lào làm các đường số 7, 8, 9.

4- Xây dựng công trình công nghiệp và dân dụng ở mỏ apatít Lào Cai, khu mỏ Quảng Ninh, thủy điện Hòa Bình, khu nhà ở tại Xuân Mai và Hà Nội.

5- Sản xuất vật liệu xây dựng.

6- Đánh bắt và nuôi trồng hải sản kết hợp với bảo vệ vùng biển, nuôi tôm xuất khẩu ở Năm Căn.

Để duy trì một đội quân thường trực mạnh thời bình, phù hợp với khả năng kinh tế và yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, Bộ Quốc phòng chỉ đạo đẩy mạnh xây dựng lực lượng dự bị hùng hậu và lực lượng dân quân, du kích, tự vệ rộng rãi.


(1) Lịch sử Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, t.II (1975-2004), tr.40.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #22 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 08:46:59 am »

Như vậy, cùng với việc xây dựng về mặt chính trị, việc chấn chỉnh kiện toàn cơ cấu tổ chức lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân, một trong những công tác quân sự sau Đại thắng mùa Xuân 1975, từ thời chiến chuyển sang thời bình đã tạo ra những nhân tố quan trọng để tăng cường sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cả nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Quân và dân cả nước nỗ lực phấn đấu thực hiện các nghị quyết của Trung ương Đảng, các chỉ tiêu trong năm đầu (1976) của kế hoạch nhà nước 5 năm (1976-1980), tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng(1), kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng ở mỗi địa phương và trên quy mô toàn quốc. Các lực lượng vũ trang, quân đội nhân dân tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ quân sự cần kíp trước mắt do Quân ủy Trung ương đề ra, đẩy mạnh giáo dục, huấn luyện chính trị, quân sự, nâng cao cảnh giác sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, khẩn trương triển khai thực hiện nhiệm vụ xây dựng kinh tế, kết hợp chặt chẽ quốc phòng với kinh tế, góp phần tăng cường tiềm lực mọi mặt của đất nước, của chủ nghĩa xã hội, tăng cường sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Trong kế hoạch nhà nước 5 năm 19760-1980 có nhiệm vụ phát triển và cải tạo kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, nhằm xây dựng một bước cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, mà bộ phận chủ yếu là cơ cấu công - nông nghiệp, cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động. Trên cơ sở đó xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang và quân đội nhân dân. Nhiệm vụ hàng đầu trong 5 năm là tập trung cao độ sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp tạo ra một bước phát triển vượt bậc về công nghiệp, đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp; phát triển công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm (cả tiểu thủ công nghiệp và thủ công nghiệp) nhằm giải quyết vững chắc nhu cầu của cả nước về lương thực, thực phẩm và một phần quan trọng hàng tiêu dùng, cải thiện một bước đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân, tạo tích lũy cho công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, đáp ứng những yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân.

Thực hiện quyết định của Đảng và Nhà nước, các tỉnh, thành phố trong cả nước đã từng bước được quy hoạch lại đáp ứng cho yêu cầu xây dựng bộ máy nhà nước từ trung ương xuống các địa phương phù hợp với phương hướng xây dựng phát triển cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, kinh tế trung ương với kinh tế địa phương, kinh tế với quốc phòng, với phương châm xây dựng tỉnh, thành phố thành đơn vị chiến lược về kinh tế và quốc phòng, xây dựng huyện thành đơn vị kinh tế nông - công nghiệp và pháo đài quân sự.

Các cấp, các ngành trung ương và địa phương nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp hiện đại trên cả nước, trên địa bàn tỉnh và cơ cấu công nghiệp trên địa bàn huyện đã làm biến đổi quan trọng cơ cấu giai cấp trên cả nước cũng như trên mỗi vùng miền, địa phương. Bên cạnh giai cấp nông dân tập thể, giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển. Tỷ lệ thành phần giai cấp công nhân trong cả nước và ở các địa phương tỉnh, thành phố đều tăng cường với sự phát triển của các ngành công nghiệp. Đội ngũ công nhân kỹ thuật, cán bộ kỹ thuật trung cấp, cán bộ tốt nghiệp đại học tăng nhanh, nhất là ở các trung tâm công nghiệp, các tỉnh và thành phố lớn Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng,… Sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu giai cấp, với sự phát triển nhanh của giai cấp công nhân đã tác động lớn đến chất lượng của lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, đáp ứng cho nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế và củng cố quốc phòng.

Nền kinh tế cả nước và từng địa phương tuy còn rất khó khăn do điểm xuất phát và trình độ phát triển thấp, nhưng bước đầu đã có những cơ sở vật chất nhất định, gồm những cơ sở nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải xây dựng cơ bản, truyền thanh, y tế, giáo dục, nghiên cứu khoa học. Sự phân bố dân cư, các cơ sở kinh tế ở từng địa phương cũng như trên cả nước cho phép xây dựng hậu phương tại chỗ và hậu phương quốc gia, kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, tăng cường tiềm lực mọi mặt của đất nước, của mỗi địa phương, của nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân.

Phương châm xây dựng huyện vững mạnh, thật sự trở thành đơn vị kinh tế nông - công nghiệp; lấy huyện làm địa bàn tổ chức lại sản xuất, tổ chức và phân công lại lao động một cách cụ thể và kết hợp công nghiệp và nông nghiệp, kinh tế toàn dân với kinh tế tập thể, công nhân với nông dân trở thành điều kiện cơ bản để kết họp kinh tế với quốc phòng, xây dựng huyện thành pháo đài quân sự trong nền quốc phòng toàn dân.

Mỗi huyện (quận, thị xã) với trình độ phát triển khác nhau, nhưng đều có những điều kiện cơ bản để phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng. Với quy hoạch mới, huyện có số dân và diện tích thích hợp. Cơ sở vật chất kỹ thuật ở cấp huyện chưa nhiều và có nơi còn yếu, nhưng huyện nào cũng có những khả năng về thông tin, y tế, giao thông, sửa chữa trang bị, phương tiện, về lương thực, thực phẩm để tạo ra những điều kiện, khả năng mới để giải quyết những nhiệm vụ kinh tế, xã hội và đáp ứng những nhu cầu của quốc phòng, của lực lượng vũ trang tại chỗ, của tỉnh và cả nước.

Bộ máy lãnh đạo, chính quyền, tổ chức quần chúng, lực lượng vũ trang, cơ cấu kinh tế bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thủ công nghiệp, công nghiệp, cơ cấu cơ sở vật chất của sản xuất, y tế, giáo dục, văn hóa, quốc phòng trên địa bàn huyện, bảo đảm cho huyện có đủ khả năng và điều kiện thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng.

Thực hiện sự kết hợp đó, các huyện đều chú trọng chỉ đạo, quản lý thống nhất và tập trung, thực hiện ngay từ khi xác định kế hoạch xây dựng huyện về mọi mặt, bao gồm cả lĩnh vực quân sự, quốc phòng trong việc phân bố lao động và tổ chức lực lượng vũ trang, trong tổ chức bố trí các cơ sở sản xuất và quân sự. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng trên địa bàn huyện trở thành một biện pháp chiến lược để vừa đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, vừa tăng cường sức mạnh quốc phòng, “xây dựng huyện thành pháo đài quân sự”.


(1) Cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng văn hóa, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật đóng vai trò then chốt.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #23 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 08:48:08 am »

Các địa phương (tỉnh, thành phố, huyện) đẩy mạnh xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, xã hội kết hợp củng cố quốc phòng - an ninh. Theo kế hoạch chiến lược thống nhất. Những tiềm năng mới của nền quốc phòng toàn dân từng bước được tạo ra theo mô hình xây dựng của mỗi địa phương trong quy hoạch tổng thể của cả nước. Thế chiến lược phòng thủ đất nước tiếp tục được điều chỉnh, tăng cường, trong đó hệ thống bố trí của quân đội nhân dân trên cả nước được kết hợp chặt chẽ với hệ thống bố trí của mỗi địa phương. Mỗi địa phương (tỉnh, thành phố, huyện) trong nền quốc phòng toàn dân trở thành một mắt xích quan trọng trong hệ thống phòng thủ của quân khu và cả nước. Xây dựng tỉnh với cơ cấu công - nông nghiệp thành đơn vị chiến lược về kinh tế quốc phòng, xây dựng huyện với cơ cấu nông - công nghiệp thành pháo đài quân sự chính là biểu hiện tập trung của sự kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, tạo nên một trong những tiềm lực hàng đầu của nền quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Nhằm đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976), nêu rõ: “tích cực xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Sức mạnh quốc phòng của nhân dân ta là sức mạnh của đường lối chính trị, quân sự của Đảng, là sức mạnh tổng hợp toàn diện của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ xây dựng và củng cố quốc phòng là nhiệm vụ của toàn dân, toàn quân, của hệ thống chuyên chính vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chúng ta phải xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, có lực lượng thường trực mạnh, lực lượng hậu bị rộng rãi và được huấn luyện tốt, có quân đội nhân dân chính quy, hiện đại gồm các quân chủng, binh chủng cần thiết, có bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, có lực lượng dân quân tự vệ hùng hậu”(1).

Đại hội đã quyết nghị những vấn đề cơ bản về đường lối quốc phòng và đường lối chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc do Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo, do các ban ngành của Đảng và Nhà nước, nòng cốt do các cơ quan chức năng thuộc Bộ Quốc phòng nghiên cứu và đề xuất từ sau Đại thắng mùa Xuân 1975. Những vấn đề quân sự - quốc phòng được thể hiện nổi bật với các quan điểm: Xây dựng đất nước, bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, coi đó là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chuyên chính vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế.

Có thể thấy, sức mạnh quốc phòng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là sức mạnh toàn diện, sức mạnh toàn diện, sức mạnh tổng hợp của chế độ xã hội chủ nghĩa. Lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân, có lực lượng thường trực mạnh và lực lượng hậu bị rộng rãi. Lực lượng vũ trang có hai nhiệm vụ là luôn luôn sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và tích cực tham gia xây dựng kinh tế góp phần xây dựng đất nước. Thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự và chế độ quân đội xây dựng kinh tế. Ra sức phát triển công nghiệp quốc phòng, chú trọng hiện đại hóa lực lượng quốc phòng và khả năng phòng thủ của đất nước.

Sang năm 1977, cùng với các mặt hoạt động xây dựng đất nước, quân và dân ta đẩy mạnh công cuộc củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân theo hướng chính quy, hiện đại. Nội dung chủ yếu là: Cảnh giác sẵn sàng chiến đấu, nâng cao chất lượng chiến đấu, xây dựng quân đội theo hướng chính quy, hiện đại, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh; hoàn thành các chỉ tiêu sản xuất, xây dựng kinh tế; tích cực tham gia xây dựng lực lượng sản xuất theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ quốc tế giúp cách mạng Lào và cách mạng Campuchia.

Những tháng đầu năm 1977, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân tiếp tục được đẩy mạnh. Các lực lượng vũ trang được chấn chỉnh về tổ chức biên chế, điều chỉnh quân số, triển khai thế bố trí trên các địa bàn chiến lược, phù hợp với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Đối với nhiệm vụ xây dựng kinh tế, các lực lượng vũ trang nhân dân đã đạt được những kết quả khích lệ trên mặt trận xây dựng kinh tế. Các đơn vị chuyên trách xây dựng kinh tế của quân đội nỗ lực lao động sản xuất, đã hình thành 8 vùng chuyên canh nông nghiệp, 4 vùng lâm nghiệp, 2 cơ sở đánh bắt hải sản; đồng thời huy động một bộ phận lực lượng tham gia xây dựng các công trình công nghiệp trọng điểm (Nhà máy thủy điện Hòa Bình, Khu mỏ Quảng Ninh, phục vụ khai thác dầu khí ở vùng biển phía Nam, làm đường bộ và đường sắt Thống nhất Bắc - Nam, đường Trường Sơn, giúp bạn Lào xây dựng đường số 7…).

Những nỗ lực của các lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân triển khai thực hiện nhiệm vụ xây dựng kinh tế đã cùng cả nước khắc phục hậu quả chiến tranh, giảm ngân sách quốc phòng, đặc biệt là góp phần thực hiện chủ trương phân bố lại lực lượng sản xuất, phân bố dân cư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trên quy mô cả nước và ở mỗi địa phương, đặc biệt trên các vùng, miền, địa bàn chiến lược, biên giới, biển đảo, tăng cường thế chiến lược phòng thủ đất nước, hình thành thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Nhưng thành tựu bước đầu về xây dựng kinh tế của các lực lượng vũ trang nhân dân đã góp phần vào sự tăng trưởng của nền kinh tế đất nước so với những năm kháng chiến chống Mỹ.

Ngày 21 tháng 2 năm 1977, Trung ương Đảng ra chỉ thị về việc: “Tăng cường lãnh đạo công tác quân sự địa phương trong giai đoạn mới”. Tiếp theo, ngày 6 tháng 3 năm 1977, Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết “Về phương hướng nhiệm vụ quân sự năm 1977”. Đánh giá thành tựu bước đầu đạt được về củng cố quốc phòng và xây dựng lực lượng vũ trang, Quân ủy Trung ương nêu rõ: Thực hiện nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của mình, các lực lượng vũ trang đã bước đầu tăng cường phòng thủ, sẵn sàng chiến đấu ở các khu vực trọng điểm, bắt đầu chuyển hướng các mặt công tác và xây dựng lực lượng, huấn luyện bộ đội và bồi dưỡng cán bộ, nghiên cứu và tổng kết, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và bảo đảm hậu cần và tích cực giải quyết các vấn đề sau chiến tranh. Nhiệm vụ xây dựng kinh tế được nhanh chóng quán triệt và triển khai thực hiện trong toàn quân.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.37, tr.587.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #24 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 08:49:17 am »

*
*   *

Trong những năm đầu Tổ quốc thống nhất, trên cơ sở phân tích sâu sắc đặc điểm tình hình quốc tế, khu vực và trong nước, Đảng ta đã đề ra đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, tổ chức và lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân khẩn trương chấn chỉnh tổ chức biên chế, triển khai thế bố trí lực lượng trên các địa bàn chiến lược, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân; đồng thời tham gia xây dựng kinh tế đất nước, kết hợp kinh tế với quốc phòng, tạo cơ sở để tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong những năm tiếp theo, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

Công cuộc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang và quân đội nhân dân trong bước khởi đầu sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước đã đạt được những kết quả quan trọng. Nền quốc phòng toàn dân được xây dựng trên cơ sở nền tảng của chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt. Toàn dân, toàn quân phát huy quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, không ngừng khắc phục khó khăn, nâng cao ý thức trách nhiệm và nỗ lực xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân. Thành tựu của đất nước trong những năm đầu đất nước thống nhất đã đạt được trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự, quốc phòng, an ninh đã tạo nên những tiềm năng mới cho đất nước. Tiềm lực quân sự, quốc phòng, sức mạnh tổng hợp, toàn diện của nền quốc phòng toàn dân được nâng cao gắn liền với sự phát triển của đất nước.

Chất lượng tổng hợp của lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân được nâng cao, đáp ứng vai trò làm lực lượng nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước. Quân đội nhân dân đã tiến hành kiện toàn, củng cố tổ chức, biên chế, điều chỉnh thế bố trí chiến lược, tăng cường phòng thủ đất nước, xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy, hiện đại, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ quân sự cần kíp trước mắt, nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đồng thời tham gia xây dựng kinh tế, kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, góp phần xây dựng đất nước.

Công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong những năm đầu đất nước thống nhất đã để lại những bài học kinh nghiệm sâu sắc. Trên lĩnh vực quân sự - quốc phòng, việc quán triệt đường lối và nhiệm vụ cách mạng, đường lối và nhiệm vụ quân sự, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân và lực lượng vũ trang còn chưa sâu sắc, chưa theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của tình hình cách mạng. Sự chuyển hướng nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân của các cấp, các bộ, ban, ngành có mặt còn chậm. Sự kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trên quy mô cả nước và trên mỗi vùng miền, địa phương theo kế hoạch thống nhất còn gặp nhiều khó khăn, chưa tạo được sự phát triển đồng đều trong toàn quốc. Nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân từ trạng thái thời chiến chuyển sang thời bình còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu, giải quyết mới đáp ứng kịp thời yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Phát huy những thành tựu bước đầu đạt được, quân và dân cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh xây dựng đất nước về mọi mặt, trong đó tiếp tục củng cố nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân theo hướng chính quy, hiện đại; đồng thời tạo ra thế và lực mới cho quân và dân ta tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #25 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 08:51:16 am »

3. Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc

Nằm ở phía tây nam Việt Nam (đông nam Campuchia), biên giới Việt Nam - Campuchia có chiều dài hơn 1.214 km, tiếp giáp giữa 8 tỉnh của Việt Nam(1) (Gia Lai - Kon Tum, Đắk Lắk, Sông Bé, Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang) với 9 tỉnh của Campuchia (Ratamakiri, Mônđônkiri, Krachiê, Kôngpông Chàm, Svâyriêng, Prâyveng, Kanđan, Takeo, Kam Pốt). Từ lâu, nhân dân Việt Nam - Campuchia ở hai bên biên giới Tây Nam đã xây dựng tình hữu nghị, đoàn kết cùng chống kẻ thù chung, đặc biệt đã kề vai sát cánh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược để giành độc lập, tự do cho mỗi dân tộc.

Tuy nhiên, do bị các thế lực phản động, thủ địch nước ngoài kích động, lợi dụng những vấn đề còn tồn tại trong lịch sử, từ những năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ (1970-1975), lực lượng Khơme Đỏ, do Pôn Pốt - Iêng Xari cầm đầu đã tiến hành một số vụ tiến công, bắt cóc giết hại cán bộ, bộ đội Việt Nam hoạt động ở chiến trường Campuchia(2), gây chia rẽ trong nội bộ những người cộng sản Campuchia, làm tổn hại đến tình đoàn kết hữu nghị giữa hai dân tộc. Tiếp tục theo đuổi chính sách đối ngoại hiếu chiến, tháng 4-1975, sau khi nắm quyền lãnh đạo đất nước Campuchia, chính quyền Pôn Pốt - Iêng Xari được các thế lực phản động nước ngoài hậu thuẫn, khẩn trương xây dựng lực lượng quân sự, chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lược vùng biên giới phía Tây Nam của Việt Nam, hòng hoạch định lại biên giới có lợi cho phía Campuchia và làm cho Việt Nam mất ổn định, không thể tập trung phát triển kinh tế, xây dựng đất nước sau chiến tranh.

Với dã tâm đó, ngay sau khi miền Nam Việt Nam vừa được giải phóng, ngày 3-5-1975, Pôn Pốt đã cho quân đánh chiếm đảo Phú Quốc. Tiếp đó, ngày 10-5, chúng đánh chiếm đảo Thổ Chu, bắt và giết hơn 500 đồng bào ta. Trên đất liền, quân Pôn Pốt khiêu khích bộ đội biên phòng ta, cho dân di dời cột mốc biên giới ở một số điểm thuộc tỉnh Tây Ninh, Kom Tum, Đắc Lắc.

Sau 30 năm liên tục chiến đấu giành được độc lập, tự do của Tổ quốc, khát vọng của nhân dân Việt Nam là hòa bình để hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng lại đất nước. Kiên trì chủ trương xây dựng đường biên giới hòa bình hữu nghị, sau khi đánh đuổi quân lấn chiếm, thu hồi các đảo bị quân Pôn Pốt chiếm đóng trái phép, ta đã trao trả hơn 600 quân Pôn Pốt bị bắt trong các cuộc tiến công xâm lấn trái phép lãnh thổ Việt Nam. Đảng, Nhà nước ta cử đồng chí Nguyễn Văn Linh, đại diện Đảng Cộng sản Việt Nam sang gặp đại diện Đảng Cộng sản Campuchia để giải quyết vấn đề xung đột biên giới do phía Pôn Pốt - Iêng Xari gây ra. Trước thiện chí đó của ta, phía Campuchia thỏa thuận sẽ có cuộc gặp giữa lãnh đạo cấp cao của hai Đảng để bàn bạc giải quyết vấn đề biên giới, tạo tiền đề kỳ hiệp ước về biên giới giữa hai Nhà nước vào tháng 6-1976.

Tuy đã thỏa thuận nhưng phía Campuchia vẫn tiếp tục cho quân gây ra nhiều vụ lấn chiếm trái phép biên giới, di dời các cột mốc vào sâu trong đất Việt Nam từ Cần Đường, gò Dâu Bầu, Kon Tum, đột nhập cướp kho vũ khí của ta ở Đồi Thơ (Tây Ninh).Tháng 10-1975, quân Pôn Pốt xâm nhập khu vực Pa Chàm (Lồ Cồ), xâm canh các khu vực Mộc Bài, Khuốc, Vạt Sa, Tà Nốt, Tà Bạt. Cuối năm 1975 đầu năm 1976, quân Pôn Pốt bất ngờ tiến hành một số vụ xâm nhập vào sâu lãnh thổ Việt Nam trên 10 km ở vùng sông Sa Thầy (Gia Lai - Kon Tum), gây ra tội ác đối với nhân dân ta.

Tháng 1-1976, Đại hội lần thứ IV của Đảng Cộng sản Campuchia (do Pôn Pốt làm Bí thư) xác định:”Tai họa nhất cần phải chú ý là Việt Nam...”(3). Cùng thời gian này, dưới danh nghĩa giúp Campuchia xây dựng lại đất nước, nhiều cố vấn quân sự nước ngoài cùng vũ khí, phương tiện quân sự hiện đại được đưa vào Campuchia. Dựa vào sự giúp đỡ từ bên ngoài, Pôn Pốt càng đẩy mạnh các hoạt động quân sự phá hoại ta ở vùng biên giới Tây Nam. Cuối tháng 2, đầu tháng 3-1976, quân Pôn Pốt khiêu khích hai đồn biên phòng số 7 và số 8 ở Bu Prăng (Đắk Lắk). Tiếp đó, chúng liên tục cho quân xâm nhập gài mìn, lựu đạn, phục kích bộ đội biên phòng ta ở các khu vực Phum Tua, đông Bồ Lô Sâm, Cây Me, Khuốc, Vạt Sa (Tây Ninh), Hà Tiên (Kiên Giang), Châu Phú (An Giang), Mộc Hóa, Đức Huệ (Long An).


(1) Số tỉnh ở vào thời điểm xảy ra chiến tranh.
(2) Sáu tháng đầu năm 1972, riêng Quân khu 203 (Quân khu Đông Nam của Campuchia) đã xảy ra 26 vụ giết bộ đội Việt Nam, 17 vụ vào kho cướp vũ khí, 385 vụ bắt cóc, 413 vụ tịch thu hàng hóa. Sáu tháng đầu năm 1973, quân Pôn Pốt gây ra 102 vụ, giết và làm bị thương 103 bộ đội Việt Nam, cướp hàng chục tấn lương thực, vũ khí.
(3) Tài liệu thu được của địch, hồ sơ số KC 559, tài liệu lưu tại Thư viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #26 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 08:53:17 am »

Nhằm kịp thời ngăn chặn những hành động quân sự do phía Pôn Pốt gây ra ở lãnh thổ vùng biên giới Tây Nam và chuẩn bị cho cuộc gặp cấp cao của lãnh đạo hai nước, tháng 4-1976, đại diện Việt Nam và Campuchia đã có cuộc gặp tại Phnôm Pênh. Cuộc họp đã bàn bạc, thống nhất ba biện pháp cụ thể nhằm ngăn chặn các hành động gây xung đột quân sự ở vùng biên giới Việt Nam - Campuchia.

1- Hai bên ra sức giáo dục cán bộ, chiến sĩ và nhân dân mình ở vùng biên giới tăng cường đoàn kết, tránh va chạm.

2- Mọi va chạm phải được giải quyết trên tinh thần đoàn kết hữu nghị, tôn trọng lẫn nhau.

3- Ban liên lạc hai bên tiến hành điều tra các vụ va chạm và gặp nhau để giải quyết.

Chấp hành chủ trương xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị với Campuchia, các đơn vị công an vũ trang (nay là bộ đội biên phòng) làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới Tây Nam thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, Nhà nước ta để giải quyết tranh chấp, tránh khiêu khích, không nổ súng trước, ở những nơi quân Pôn Pốt xâm canh, xâm cư di dời cột mốc vào trong đất ta, khi bắt được ta đã giáo dục giải thích rồi trao trả ngay cho chính quyền địa phương của Campuchia. Các đơn vị chủ lực và địa phương ta ở phía sau tiếp tục giảm biên chế, đẩy mạnh sản xuất, khắc phục hậu quả chiến tranh.

Trong khi ta thực hiện nghiêm chỉnh các thỏa thuận thì chính quyền Campuchia dân chủ được các thế lực nước ngoài viện trợ về quân sự và cử chuyên gia, cố vấn đến giúp đỡ, tiếp tục phát triển quân đội, chuẩn bị chiến tranh chống Việt Nam. Trong hai năm (1976-1977), Pôn Pốt phát triển quân chủ lực từ 7 sư đoàn khi mới giải phóng lên 12 sư đoàn. Quân địa phương mỗi tỉnh, huyện thành lập thêm 2 đến 3 trung đoàn. Các đơn vị xe tăng, thiết giáp, pháo binh, không quân, hải quân (tương đương trung đoàn, sư đoàn) được trang bị tương đối hiện đại cũng lần lượt được thành lập.

Ở các địa phương, chính quyền Pôn Pốt - Iêng Xari thực hiện chính sách huấn luyện quân sự bắt buộc. Đặc biệt, trên tuyến biên giới tiếp giáp với Việt Nam, Pôn Pốt cho xây dựng nhiều hầm hào, công sự dã chiến, hình thành các cụm chiến đấu, làm căn cứ xuất phát cho các cuộc xâm lấn sang lãnh thổ nước ta quy mô ngày càng lớn. Các đơn vị hành chính huyện, tỉnh, khu, vùng được xếp lại theo kiểu quân sự hóa.

Cùng với các hoạt động chuẩn bị cho chiến tranh, chính quyền Pôn Pốt ra sức tuyên truyền, kích động tâm lý chống Việt Nam, coi Việt Nam là “kẻ thù truyền kiếp”, “kẻ thù số 1”. Lấy cớ làm trong sạch nội bộ, chúng tiến hành phân loại dân, thực hiện nhiều cuộc thanh trừng đẫm máu, trong đó, tập trung vào bộ phận cán bộ trước đây được đào tạo ở Việt Nam, những người kháng chiến cũ mà chúng cho là có tư tưởng chống đối(1).

Năm 1976, chính quyền Pôn Pốt tăng cường các hoạt động khiêu khích, lấn chiếm ở vùng biên giới Tây Nam nước ta. Trên địa bàn Quân khu 7, quân Pôn Pốt gây ra 280 vụ khiêu khích, lấn chiếm 20 điểm trên biên giới (tăng 2,7 lần so với các vụ năm 1975). ở địa bàn các Quân khu 5 và 9, các vụ xâm phạm đều tăng với tính chất ngày càng nghiêm trọng hơn.

Kiên trì chủ trương xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị với Campuchia, Quân ủy Trung ương và Đảng ta chỉ thị cho các quân khu, tỉnh có đường biên giới với Campuchia tăng cường đoàn kết với nhân dân bạn, tránh mọi sự khiêu khích. Tháng 12-1976, Đại hội lần thứ IV Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định lập trường của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Ra sức bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia, tăng cường tình đoàn kết chiến đấu, lòng tin cậy, sự hợp tác lâu dài và sự giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt giữa nước ta với hai nước anh em trên nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, làm cho ba nước vốn đã gắn bó với nhau trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sẽ mãi mãi gắn bó với nhau trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, vì độc lập và phồn vinh của mỗi nước”(2).


(1) Ở Sư đoàn 3 chủ lực, cán bộ từ cấp đại đội đến sư đoàn đều bị gọi lên thẩm vấn, trong đó có 60% cán bộ chủ chốt trong sư đoàn bị đưa đi cải tạo, hoặc thủ tiêu. Tại Vùng 24 Quân khu 23 có tới 90% cán bộ cấp xã bị thanh trừng. Sư đoàn 4 trong 1 đợt thẩm vấn đã có 10 cán bộ tiểu đoàn, trung đoàn và sư đoàn bị bắt. Dẫn theo lời kể của Hun Xen, Trung đoàn phó Vùng 1 Quân khu 203. Tư liệu số KC/604 lưu trữ tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1977, tr.81.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #27 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 08:55:17 am »

Trước yêu cầu của công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh, ta tiếp tục thực hiện chủ trương giảm quân thường trực kể cả các quân khu ở phía Nam. Năm 1976, Quân khu 9 cho ra quân 3 vạn cán bộ, chiến sĩ. Các Sư đoàn 4 và 8 chuyển sang làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế. Quân khu 7 chuyển 26.303 người sang xây dựng các nông, lâm trường quốc doanh. Quân khu 5 cho ra quân 28.000 cán bộ, chiến sĩ, chuyển một số lớn đơn vị sang làm kinh tế(1). Một số đơn vị thường trực của Bộ và các Quân khu 5, 1, 9 đều đóng xa biên giới làm nhiệm vụ huấn luyện, xây dựng theo hướng chính quy, hiện đại. Trên tuyến biên giới Tây Nam tiếp giáp với Campuchia, chỉ có lực lượng bộ đội biên phòng làm nhiệm vụ tuần tra vùng biên cương của Tổ quốc. Lực lượng dân quân du kích mỗi xã biên giới có 1 đến 2 tiểu đội trang bị súng trường làm nhiệm vụ bảo vệ sản xuất, giữ gìn an ninh trật tự địa phương.

Trong khi ta giảm quân thường trực và tập trung xây dựng, phát triển kinh tế đất nước thì trong 2 năm (30-4-1975 đến 30-4-1977) với mục đích gây chiến tranh chống Việt Nam, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đã ráo riết chuẩn bị chiến tranh. Chúng phân chia lại các đơn vị hành chính, tổ chức bộ máy chính quyền thôn, xã, huyện, tỉnh theo kiểu quân sự, thanh trừng những người chống đối, kích động tâm lý chống Việt Nam, đặc biệt là xây dựng một lực lượng quân sự lớn gồm 12 sư đoàn chính quy với đầy đủ thành phần binh chủng, hàng vạn quân địa phương, trong đó điều động 41% quân số và trang bị áp sát biên giới Việt Nam.

Trong hai tháng 3 và 4-1977, quân Pôn Pốt liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân diễn tập dọc biên giới. Dưới danh nghĩa “phòng thủ khu vực”, “bảo đảm an ninh nội địa”, nhưng thực chất đó là các cuộc điều quân ra biên giới. Pôn Pốt tuyên bố: “Mâu thuẫn Việt Nam - Campuchia là mâu thuẫn chiến lược sống còn, không thể điều hòa được, cũng không thể giải quyết bằng thương lượng mà phải dùng biện pháp quân sự”(2). Cuối tháng 4-1977, Pôn Pốt điều động 5 sư đoàn (2, 3, 203, 801, 920) và hàng trăm khẩu pháo, xe tăng áp sát biên giới Việt Nam.

Như vậy, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đã khước từ mọi nỗ lực ngoại giao hòa bình của Việt Nam, tích cực xây dựng lực lượng quân sự chuẩn bị chiến tranh, từ chủ động gây ra các vụ xung đột, lấn chiếm rồi điều động một lực lượng lớn quân đội cùng vũ khí, trang bị kỹ thuật, áp sát vùng biên giới Tây Nam Việt Nam, gây tình hình ngày càng căng thẳng dẫn tới bùng nổ chiến tranh. Đây là một cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn vào toàn bộ lãnh thổ vùng biên giới Tây Nam của Việt Nam, có chuẩn bị với nhiều tham vọng của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari được các thế lực phản động nước ngoài giúp sức gây ra.

Đêm 30-4-1977, lợi dụng lúc quân và dân ta kỷ niệm hai năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari sử dụng Sư đoàn bộ binh 2 và lực lượng vũ trang địa phương hai tỉnh Takeo, Canđan bất ngờ mở cuộc tiến công trên toàn tuyến biên giới tỉnh An Giang, từ Vĩnh Gia đến Vĩnh Xương (bao gồm 13 đồn biên phòng, 14 xã dọc biên giới), tàn phá các bản làng, trường học, cơ sở sản xuất của ta.

Đi đôi với hành động xâm lược, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari tuyên truyền, xuyên tạc, bôi nhọ hình ảnh Việt Nam, kích động tư tưởng hằn thù dân tộc và đòi sửa lại đường biên giới giữa hai nước do lịch sử để lại theo ý chúng. Để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc và cuộc sống yên lành của nhân dân, quân và dân ta buộc phải đứng lên giành quyền chiến đấu tự vệ chính đáng. Nhưng do ta chưa nhận thức đầy đủ về âm mưu, thủ đoạn phát động chiến tranh của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari, việc bố trí lực lượng phòng thủ biên giới của các địa phương còn sơ sài, nên những ngày đầu chiến tranh ta bị thiệt hại nhiều về người và của(3).

Trước hành động xâm lược trắng trợn của quân Pôn Pốt, các lực lượng biên phòng và dân quân, du kích các xã Vĩnh Xương, Vĩnh Gia, Nhân Hưng đã chiến đấu anh dũng ngăn chặn địch. Bộ Tư lệnh Quân khu lệnh báo động chiến đấu các đơn vị thường trực và lệnh cho Tỉnh đội An Giang điều động 2 tiểu đoàn đang làm nhiệm vụ sản xuất ở Tri Tôn lên phối hợp với bộ đội biên phòng và dân quân, du kích đánh địch ở hướng Vĩnh Ngươn, Châu Đốc. Trung đoàn 962 dùng 4 tàu PCF đưa lực lượng lên đánh địch ở tuyến Phú Châu.

Sáng ngày 1-5-1977, Bộ Tư lệnh Quân khu họp khẩn cấp với chỉ huy các đơn vị và các tỉnh có biên giới tiếp giáp Campuchia (An Giang, Kiên Giang, Long An, Đồng Tháp). Sau khi phân tích âm mưu, thủ đoạn của địch, Bộ Tư lệnh nhận định: Có thể đây là màn mở đầu cho một cuộc chiến tranh lớn đã được tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari chuẩn bị. Bộ Tư lệnh quyết định thành lập Sở chỉ huy tiền phương quân khu tại Châu Đốc do Đại tá Trần Văn Nghiêm, Phó Tư lệnh quân khu làm Tư lệnh để chỉ huy các lực lượng quân khu chiến đấu ở phía trước và chỉ thị cho các đơn vị phải kiên quyết giáng trả đẩy lùi bọn xâm lấn, gây cho chúng nhiều tổn thất, bảo vệ đất đai, tài sản của nhân dân ta ở vùng biên giới Tây Nam.


(1) Năm 1977, toàn quân có kế hoạch chuyển tiếp 10 sư đoàn, 89 trung đoàn (khoảng 20-30 vạn người) sang các ngành nghề xây dựng, phát triển phục vụ kinh tế quốc dân.
(2) Tài liệu thu được tại Sở chỉ huy Sư đoàn 4 quân Pôn Pốt (căn cứ Krếch) ngày 22-12-1977, số 990, tài liệu lưu tại Phòng Khoa học Công nghệ và Môi trường Quân khu 7.
(3) Trên địa bàn 14 xã biên giới, địch giết hại 578 đồng bào ta, đốt 10 nóc nhà, 6.000 giạ lúa, tàn phá hàng nghìn hécta hoa màu, cướp hàng trăm trâu, bò.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #28 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 08:58:43 am »

Cũng trong ngày 1-5-1977, sau khi tàn phá 14 xã thuộc các huyện Bảy Nùi, Phú Châu, quân Pôn Pốt rút về bên kia biên giới, chúng chỉ để lại một bộ phận lực lượng chốt ở khu vực vàm Chai Kri, Tịnh Biên và bắc sông Bình Di. Kiên quyết trừng trị quân Pôn Pốt lấn chiếm trái phép, đêm 1-5, Tiểu đoàn 1 bộ đội tỉnh An Giang phối hợp với du kích xã Vĩnh Ngươn tập kích cụm quân địch tại vàm Chai Kri, diệt 18 tên, thu 16 súng, buộc bọn còn lại tháo chạy về bên kia biên giới.

Ở hướng Phú Châu, trong hai ngày 1 và 2-5, lực lượng biên phòng cùng 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh An Giang và du kích tiến công tiêu diệt một số tên, buộc chúng phải cụm lại ở phía bắc sông Bình Di. Trên hướng Tịnh Biên, Tiểu đoàn 309 Trung đoàn 1 Sư đoàn 303 và 2 tiểu đoàn sản xuất của Tỉnh đội An Giang do đường hành quân xa, ngày 2-5 đến được địa bàn tác chiến thì địch đã rút hết.

Kịp thời nắm tình hình địch và triển khai lực lượng chiến đấu của ta trên các hướng, đêm 2-5, Sở chỉ huy Tiền phương Quân khu 9 họp quyết định sử dụng Trung đoàn 1 (thiếu 1 tiểu đoàn) và 4 tàu CPF của Trung đoàn 962 phản công khôi phục lại tuyến Phú Châu. Tỉnh đội An Giang sử dụng 2 tiểu đoàn tập kích các chốt quân địch ở bắc sông Bình Di.

Ở phía sau, Sư đoàn 330 điều động một bộ phận lực lượng lên biên giới sẵn sàng chi viện các đơn vị phía trước và bảo vệ hậu phương chiến dịch; đồng thời giúp các địa phương khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân. Từ ngày 7 đến ngày 9-5-1977, Trung đoàn 1 (thiếu 1 tiểu đoàn) và lực lượng bộ đội địa phương tỉnh An Giang được không quân và pháo binh chi viện, mở đợt phản công khôi phục lại toàn bộ vùng biên giới từ Bắc Dai đến Long Bình dài 11 km. Ta diệt hơn 300 tên địch, thu nhiều vũ khí trang bị, sau đó Trung đoàn 1 cơ động về đứng chân ở vùng Bảy Núi.

Ngay sau khi quân Pôn Pốt đồng loạt đánh phá nhiều thôn xã, đồn biên phòng của ta ở biên giới tỉnh An Giang, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta đã họp sơ bộ nhận định, đánh giá tình hình. Bộ Chính trị chủ trương tiếp tục kiên trì xây dựng đường biên giới hòa bình hữu nghị với Campuchia và giải quyết các tranh chấp thông qua thương lượng. Theo tinh thần đó, ngày 7-5-1977, đồng chí Nguyễn Duy Trinh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao đã điện chỉ thị cho các tỉnh phía Nam nhấn mạnh: “Lập trường căn bản lâu dài của ta là ra sức bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt giữa nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào và nhân dân Campuchia trên nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau”(1).

Kiên trì thực hiện chủ trương giải quyết vấn đề biên giới bằng đàm phán hòa bình, ta chưa đưa tin về nhưng vụ tàn sát của quân Pôn Pốt - Iêng Xari ở biên giới tỉnh An Giang. Các lực lượng vũ trang Quân khu 9 sau khi đánh đuổi quân địch về bên kia biên giới, thu hồi phần đất bị địch lấn chiếm được lệnh rút về phía sau tiếp tục làm nhiệm vụ lao động sản xuất, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu. Tuy nhiên, ta càng kiềm chế, nhân nhượng, tập đoàn cầm quyền Pôn Pốt - Iêng Xari càng lấn tới. Họ cho rằng: “Duôn (Việt Nam) đang gặp trở ngại mọi mặt… Duôn mãi mãi không đánh nổi Campuchia”(2) và Chỉ thị: “Toàn quân và dân Campuchia nhất quyết phải chiến đấu cho đến khi giành được thắng lợi”(3). Thực hiện âm mưu đó, ngày 17-5, quân Pôn Pốt dùng pháo binh bắn phá thị xã Châu Đốc, làm chết và bị thương hơn 100 đồng bào ta, tiếp đó chúng bắn phá thị xã Hà Tiên và sử dụng lực lượng lấn chiếm nhiều điểm ở biên giới tỉnh An Giang.

Trước hành động gây chiến tranh xâm lược mới của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari, ngày 23-5-1977, Quân ủy Trung ương ra chỉ thị cho các lực lượng vũ trang ở phía Nam: “Kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của ta, không dung thứ bất cứ sự xâm lấn nào của lực lượng khiêu khích phản động Campuchia vào lãnh thổ ta; đồng thời tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của Campuchia. Tìm mọi cách làm nhụt tinh thần của bọn khiêu khích. Tuyên truyền vận động nhân dân bạn và tranh thủ sự đồng tình của dư luận, tạo điều kiện ổn định một bước biên giới với Campuchia. Đập tan âm mưu chia rẽ các nước anh em trên bán đảo Đông Dương”(4).

Thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Quân khu 7 tổ chức lại 3 trung đoàn biên phòng (201, 205, 5), đồng thời chuyển 3 trung đoàn pháo 105 ly (11, 19, 22) từ nhiệm vụ xây dựng kinh tế sang huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ biên giới. Chấp hành mệnh lệnh của Bộ, Quân đoàn 4 điều 2 tiểu đoàn bộ binh và một tiểu đoàn pháo (Sư đoàn 9) tăng cường cho Quân khu 7, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ biên giới. Trên hướng biên giới Quân khu 5, các lực lượng biên phòng và lực lượng cơ động triển khai sẵn sàng chiến đấu.


(1) Tư liệu của Ban Đối ngoại Trung ương Đảng, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
(2), (3) Tài liệu thu được tại Sở chỉ huy Sư đoàn 4 địch (căn cứ Đăngrếch) ngày 22-12-1977 - số 990, lưu tại Phòng Khoa học Công nghệ và Môi trường Quân khu 7.
(4) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Việt Nam thế kỷ XX - Những sự kiện quân sự, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001, tr.532.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #29 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 09:01:27 am »

Sáng ngày 22-5-1977, Bộ Tổng tham mưu ra chỉ thị (số 122) tăng cường 4.000 quân cho Quân khu 5 làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới. Trung đoàn 66 Sư đoàn 10 (Quân đoàn 3) được lệnh hỗ trợ lực lượng vũ trang địa phương đánh đuổi quân lấn chiếm đồn biên phòng Bu Pờ Răng (Đắk Lắk). Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 kiện toàn Sư đoàn 10 làm lực lượng cơ động chiến đấu chủ yếu của Bộ trên địa bàn Tây Nguyên. Tổng cục Hậu cần triển khai một số kho, bảo đảm yêu cầu chiến đấu. Các binh chủng Công binh, Pháo binh triển khai một số đơn vị sẵn sàng đánh địch ở các hướng. Mạng thông tin liên lạc từ quân khu tới các đồn, chốt biên phòng được tăng cường thêm lực lượng và phương tiện.

Mặc dù triển khai một bộ phận lực lượng bảo vệ biên giới trên địa bàn các Quân khu 5, 7, 9, nhưng do nhận thức về âm mưu, thủ đoạn của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari chưa đầy đủ, có biểu hiện chủ quan nên ở nhiều nơi, ta chưa kịp thời tổ chức lực lượng. Chất lượng huấn luyện, sức cơ động và khả năng chiến đấu các đơn vị làm nhiệm vụ thường trực sẵn sàng chiến đấu thấp, việc canh gác, bố phỏng trên tuyến biên giới còn bộc lộ nhiều sơ hở.

Cuối tháng 5, đầu tháng 6-1977, phía Campuchia dùng pháo bắn vào thị xã Hà Tiên. Ngày 4-6, chúng sử dụng 2 tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 2 biên phòng và trung đoàn quân địa phương tỉnh Cam Pốt đánh vào khu vực bắc Hà Tiên và tuyến Giang Thành - Vĩnh Điều. Quân khu 9 sử dụng Tiểu đoàn 207 bộ đội địa phương tỉnh Kiên Giang và tiểu đoàn trinh sát quân khu đánh chặn quyết liệt, diệt hơn 100 tên, đập tan âm mưu lấn chiếm các điểm cao bắc Hà Tiên của địch.

Ngày 7-6-1977, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gửi thư cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Campuchia dân chủ, tố cáo hành động xâm chiếm lãnh thổ, tàn sát đồng bào ta ở biên giới hai tỉnh An Giang, Kiên Giang. Trung ương Đảng và Chính phủ ta khẳng định: “Việc sử dụng một lực lượng vũ trang rất lớn để đồng thời tiến hành hoạt động trên một khu vực rất rộng và trong một thời gian dài như vậy không thể là việc làm riêng biệt của các địa phương Campuchia”(1) đồng thời nêu rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc giải quyết vấn đề biên giới là tôn trọng độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Ta đề nghị có cuộc gặp càng sớm càng tốt giữa lãnh đạo cấp cao của hai Đảng và hai Chính phủ để giải quyết vấn đề biên giới Việt Nam - Campuchia.

Trước thiện chí của ta, phía Campuchia gửi thư trả lời: “Campuchia không hề có mục đích bành trướng, xâm lấn đất đai của bất cứ nước nào dù chỉ gang tấc...”(2). Họ đưa ra đề nghị: “Đề nghị thời gian cho tình hình trở lại bình thường, không có những vụ va chạm về biên giới trên đất liền cũng như trên biển rồi hai bên sẽ gặp nhau để cho việc gặp gỡ đạt kết quả tốt”(3).

Thế nhưng, trong thời gian chờ đợi bàn bạc, phía Campuchia liên tiếp cho quân xâm phạm khu vực Vĩnh Điều - Đầm Chích và một số nơi khác. Quân khu 9 sử dụng Trung đoàn 20, Sư đoàn 4 đánh địch khôi phục địa bàn. Do địa hình phức tạp, bộ đội ta chưa có kinh nghiệm đối phó với lối đánh luồn lách, phân tán tập kích nhanh, rút lui nhanh của địch, nên các trận đánh kéo dài, hiệu quả diệt địch thấp mà tiêu tốn đạn dược và thương vong của ta lại cao. Đến cuối tháng 6-1977, địch vẫn chiếm giữ một khu vực dài hơn 5 km trên tuyến Vĩnh Điều - Đầm Chích và thường xuyên dùng pháo cối bắn phá gây nhiều thiệt hại cho nhân dân ta.

Trước tình hình đó, ngày 13-7-1977, Quân khu 9 sử dụng Sư đoàn 330, một số phân đội xe bọc thép M.113, được không quân và pháo binh chi viện mở đợt tiến công quân địch ở khu vực Vĩnh Điều - Đầm Chích, tiêu diệt hơn 200 tên, thu nhiều súng đạn, khôi phục toàn bộ vùng lãnh thổ bị lấn chiếm trái phép.

Ngày 15-7-1977, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam gửi điện khen Sư đoàn 330 và các lực lượng phối thuộc đã đánh thắng giòn giã trong trận Vĩnh Điều - Đầm Chích. Đại tướng nhắc các đơn vị:

1- Cần tiếp tục nâng cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu cao tiêu diệt các lực lượng phản động xâm lược.

2- Không được chủ quan thỏa mãn, phải nghiêm túc kiểm điểm rút kinh nghiệm để nâng cao trình độ tổ chức chỉ huy, trình độ tác chiến của cán bộ, chiến sĩ. Cần rút kinh nghiệm về mặt sử dụng vũ khí, phương tiện trang bị sao cho tiết kiệm nhất mà vẫn đạt hiệu suất cao.

3- Tập trung giải quyết thật tốt mọi chính sách, nhất là chính sách đối với thương binh, liệt sĩ.

4- Quán triệt chủ trương của ta là kiên trì bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; đồng thời tôn trọng độc lập chủ quyền của nước bạn. Trong lúc kiên quyết trừng trị bọn phản động xâm lược vẫn chủ trương thực hiện đoàn kết tốt giữa hai nước. Cần nói rõ chủ trương đó cho cán bộ, chiến sĩ, nhân dân ta và tìm cách tuyên truyền cho nhân dân nước bạn(4).


(1) Thư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Campuchia và Chính phủ Campuchia dân chủ, báo Quân đội nhân dân, ngày 7-1-1978.
(2), (3) Thư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Campuchia và Chính phủ Campuchia dân chủ, báo Quân đội nhân dân, ngày 7-1-1978.
(4) Điện số 158-QU/TW ngày 15-7-1977, hồ sơ 964, tài liệu lưu tại Cục Lưu trữ Bộ Quốc phòng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM