Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 07:32:08 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13  (Đọc 46617 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #10 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 07:55:20 am »

Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước là yêu cầu tất yếu, khách quan của sự phát triển đất nước ta, thể hiện lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, ý chí thống nhất Tổ quốc, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất của nhân dân cả nước, đồng thời tạo điều kiện chính trị cơ bản để phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, góp phần vào sự ổn định, phát triển của khu vực và trên thế giới.

Việc Quốc hội tuyên bố thống nhất nước nhà và quyết định đặt tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đánh dấu bước phát triển mới của dân tộc Việt Nam. Nước Việt Nam đã thống nhất nằm trên bán đảo Đông Dương, thuộc vùng Đông Nam châu Á, phía đông và phía nam giáp biển Đông, phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây giáp Lào, phía tây nam giáp Campuchia. Lãnh thổ nước Việt Nam thống nhất bao gồm vùng đất liền rộng lớn và vùng biển rộng bao la. Diện tích đất liền rộng hơn 331 nghìn kilômét vuông, trải dài hơn 15 vĩ tuyến từ Lũng Cũ (Hà Giang) đến mũi Cà Mau (Hà Tiên), với các vùng đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long màu mỡ, hơn 16 triệu hécta rừng và đất rừng, gần 3.000 hòn đảo, trong đó có các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; các đảo Bạch Long Vĩ, Thổ Chu, Côn Sơn, Nam Du, Cù Lao Thu, Phú Quốc… tạo thành bức tường lũy thiên nhiên thuận lợi bảo vệ chủ quyền vùng biển, hải đảo của Tổ quốc. Đất nước ta có nguồn tài nguyên thiên nhiên rất phong phú, đa dạng phân bố ở các miền Bắc, Trung, Nam có thể hỗ trợ cho nhau phát triển các ngành kinh tế quốc dân. Đáng quý hơn cả là nguồn nhân lực, đến giữa năm 1976, dân số Việt Nam là 52 triệu người, từng dũng cảm chiến đấu đánh bại quân xâm lược, tiếp tục phát huy truyền thống cần cù, sáng tạo, hăng say lao động, sản xuất, xây dựng đất nước thống nhất trong hòa bình.

Về mặt hành chính, đất nước thống nhất, cả nước chia thành 35 tỉnh gồm: Hà Tuyên (Hà Giang, Tuyên Quang), Cao Lạng (Cao Bằng, Lạng Sơn), Hoàng Liên Sơn (Lào Cai, Yên Bái), Lai Châu (Điện Biên, Lai Châu), Bắc Thái (Bắc Kạn, Thái Nguyên), Sơn La, Quảng Ninh, Vĩnh Phú (Vĩnh Phúc, Phú Thọ), Hà Bắc (Bắc Giang, Bắc Ninh), Hà Sơn Bình (Hà Tây, Hòa Bình), Hải Hưng (Hải Dương, Hưng Yên), Thái Bình, Hà Nam Ninh (Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định), Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh (Nghệ An, Hà Tĩnh), Bình Trị Thiên (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế), Quảng Nam - Đà Nẵng (Quảng Nam, thành phố Đà Nẵng), Phú Khánh (Phú Yên, Khánh Hòa), Nghĩa Bình (Quảng Ngãi, Bình Định), Gia Lai - Kon Tum (Gia Lai, Kon Tum), Đắk Lắk (Đắk Lắk, Đắk Nông), Thuận Hải (Ninh Thuận, Bình Thuận), Lâm Đồng, Đồng Nai, Sông Bé (Bình Dương, Bình Phước), Long An, Tiền Giang, Cửu Long (Vĩnh Long, Trà Vinh), Hậu Giang (Sóc Trăng, thành phố Cần Thơ), Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Minh Hải (Cà Mau, Bạc Liêu), Tây Ninh, Bến Tre và ba thành phố trực thuộc trung ương là Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh. Việc thống nhất địa giới hành chính các tỉnh, thành phố trong cả nước (gồm 35 tỉnh, 3 thành phố trực thuộc trung ương), đặc biệt là thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã tạo điều kiện để tiếp tục hoàn thành thống nhất cả nước về mọi mặt.

Nước Việt Nam độc lập, thống nhất là điều kiện tiên quyết để đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước sẽ đảm bảo cho độc lập và thống nhất của nước Việt Nam ngày càng bền vững. Ngay sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã nêu rõ: toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải thực hiện “một nhiệm vụ chiến lược là làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội”(1).

Trong những năm đầu thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi Đảng ta phải xác định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa khoa học, phù hợp với tình hình đất nước để lãnh đạo quân và dân cả nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Theo sự chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong những tháng cuối năm 1976, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tập trung đẩy mạnh hoạt động có ý nghĩa chính trị to lớn, sâu rộng. Đó là đại hội Đảng các cấp, tạo nên khí thế mới, quyết tâm mới góp phần vào thành công của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV.

Từ ngày 14 đến ngày 20-2-1976, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội. Đây là đại hội đánh dấu bước ngoặt lịch sử của Đảng và sự nghiệp cách mạng Việt Nam: Đại hội toàn thắng của công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc; Đại hội đưa cả nước tiến vào kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nhiều vấn đề trọng đại của cách mạng Việt Nam đặt ra cần được giải quyết, trong đó có những nội dung hết sức mới mẻ, đòi hỏi Đảng ta phải nghiên cứu, tiếp tục hoàn chỉnh về mặt lý luận để vận dụng phù hợp với điều kiện đất nước độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội khẳng định con đường phát triển của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới là thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd. t.36, tr.394.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #11 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 07:58:59 am »

Đại hội nêu rõ tính tất yếu và tầm quan trọng của việc đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. “Ngày nay, Tổ quốc ta đã hoàn toàn độc lập thì dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một”, bởi vì “chỉ có chủ nghĩa xã hội mới ước mơ lâu đời của nhân dân lao động là vĩnh viễn thoát khỏi cảnh bị áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu, để sống một cuộc đời no cơm, ấm áo, ngày mai được bảo đảm, một cuộc đời văn minh, hạnh phúc… Có chủ nghĩa xã hội, Tổ quốc ta mới có kinh tế hiện đại, văn hóa, khoa học tiên tiến, quốc phòng vững mạnh; do đó bảo đảm cho đất nước ta vĩnh viễn độc lập, tự do và ngày càng phát triển phồn vinh”(1).

Trên cơ sở kinh nghiệm của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trong 21 năm (1954-1975), nhất là xuất phát từ đặc điểm tình hình đất nước và trên thế giới trong giai đoạn cách mạng mới, Đại hội phân tích, nêu rõ trong những năm đầu của thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam thống nhất có ba đặc điểm: Một là, đất nước ta vẫn trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Hai là, nhân dân ta có nhiều thuận lợi nhưng cũng gặp không ít khó khăn. Ba là, cuộc đấu tranh trên thế giới giữa một bên là chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình với một bên là chủ nghĩa đế quốc vá các thế lực phản động, hiếu chiến diễn ra quyết liệt và phức tạp.

Căn cứ vào ba đặc điểm trên đây, Đại hội đề ra đường lối chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là: ”Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động; tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt, đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu, không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội”(2).

Đối với nhiệm vụ quốc phòng, Đại hội xác định: “Để bảo vệ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, biên giới và hải đảo của Tổ quốc trong giai đoạn mới của cách mạng, chúng ta phải tích cực xây dựng và củng cố quốc phòng là nhiệm vụ của toàn dân, toàn quân, của hệ thống chính trị vô sản, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chúng ta phải xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, có lực lượng thường trực mạnh, lực lượng dự bị rộng rãi và được huấn luyện tốt, có quân đội nhân dân chính quy, hiện đại gồm các quân chủng, binh chủng cần thiết; có bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương; có lực lượng dân quân hùng hậu”3.

Đại hội quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư. Về tổ chức và cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam do Đại hội lần thứ IV của Đảng thông qua, quy định. Quân đội nhân dân Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Tổ chức Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam được tổ chức theo hệ thống dọc từ cơ sở trở lên, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, hoạt động theo Điều lệ Đảng và các chỉ thị, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV của Đảng là cột mốc quan trọng trên con đường tiến lên của cách mạng Việt Nam, là Đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước vào kỷ nguyên độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội. Từ đây, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Những thành tựu đạt được trong 2 năm 1975-1976, trong đó nổi bật là thống nhất đất nước về mặt nhà nước, cả nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, tạo cơ sở tiếp tục thống nhất về chính trị, tư tưởng, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội của cả nước. Phát huy những thành tựu đạt được, khắc phục những khó khăn khách quan và chủ quan, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ra sức đẩy mạnh xây dựng về mọi mặt, góp phần xây dựng đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd. t.37, tr.501.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd. t.36, tr.523-524.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #12 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 08:00:58 am »

2. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân những năm đầu đất nước thống nhất

Đất nước thống nhất tạo ra sức mạnh mới, những thuận lợi mới để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bước vào khôi phục, xây dựng về mọi mặt, trong đó có điều kiện tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, đáp ứng tình hình mới. Song, công cuộc xây dựng đất nước nói chung, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân nói riêng diễn ra trong bối cảnh quốc tế và khu vực có những diễn biến phức tạp.

Sau thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ thực hiện điều chỉnh một bước về chiến lược quân sự toàn cầu “Ngăn đe thực tế”. Với “Kế hoạch tiến công hạt nhân” (ký hiệp SIOP-5) và “Phương án chuẩn bị lực lượng một cuộc chiến tranh mới” (1-1976), Mỹ chủ trương chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh hạt nhân, chủ yếu chống Liên Xô, cùng đồng minh chuẩn bị tiến hành một cuộc chiến tranh thông thường lớn (phi hạt nhân) trên một trong hai chiến trường lớn (Trung Âu hoặc Đông Bắc Á); đồng thời sẵn sàng lực lượng tiến hành chiến tranh quy mô nhỏ ở những điểm nóng đột xuất; tiếp tục duy trì 49 vạn quân (trong tổng số hơn 2 triệu quân thường trực của nước Mỹ) đóng tại các căn cứ nước ngoài, đổi mới vũ khí tiến công chiến lược, củng cố các khối liên minh quân sự trên toàn cầu.

Ở Đông Nam Á, lực lượng quân sự Mỹ đã buộc phải rút khỏi nhiều vị trí quan trọng, vai trò và ảnh hưởng của Mỹ suy giảm. Không đặt Đông Nam Á quan trọng trong chiến lược toàn cầu, nhưng Mỹ toan tính khôi phục lại vị trí vai trò và uy tín ở khu vực này. Các liên minh “tay đôi”, “tay ba” do Mỹ dựng lên, lôi kéo các thế lực phản động, các nước đồng minh thân Mỹ vào cuộc tranh giành quyền lợi và ảnh hưởng ở Đông Nam Á. Mỹ lợi dụng sự bất đồng giữa một số nước xã hội chủ nghĩa và mâu thuẫn giữa hai nước Liên Xô - Trung Quốc để ngăn chặn và đẩy lùi ảnh hưởng của “làn sóng cộng sản” trong khu vực. Mặt khác, Mỹ thực hiện ý đồ áp đặt cho Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN)(1) đóng vai trò đồng minh chính trị, quân sự thay thế khối SEATO chống lại các nước Đông Dương.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước năm 1975 của nhân dân các nước Việt Nam, Lào và Campuchia đã tạo nên một cục diện mới trên bán đảo Đông Dương, cả ba nước hoàn toàn độc lập, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, đưa sự nghiệp cách mạng của nhân dân mỗi nước tiếp tục tiến lên. Riêng với Campuchia, thành quả cách mạng vừa giành được (4-1975) bị tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xary nắm giữ. Chúng đã biến mình thành công cụ của các thế lực phản động quốc tế đưa dân tộc Campuchia vào thảm họa diệt chủng và thi hành chính sách đối ngoại thù địch với nước láng giềng Việt Nam.

Nhân dân Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh quốc tế và khu vực có những diễn biến phức tạp. Chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ, vẫn câu kết chặt chẽ với các thế lực phản động quốc tế thực hiện chính sách thù địch, cấm vận, bao vây kinh tế, hòng kìm hãm sự phát triển mọi mặt, làm suy yếu và giảm uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Trước tình hình đó, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương xác định đối tượng của cách mạng Việt Nam và chỉ rõ muốn xây dựng đất nước có tiềm lực quân sự - quốc phòng mạnh, trước hết phải có nền kinh tế mạnh; cần phải kiên quyết khắc phục sự chậm trễ do 30 năm chiến tranh tàn phá, kìm hãm nhịp độ phát triển kinh tế của đất nước; tập trung lãnh đạo, huy động sức người, sức của của toàn dân xây dựng kinh tế; giảm quân số lực lượng vũ trang, giảm ngân sách quốc phòng, điều động một bộ phận quân đội tham gia xây dựng kinh tế đất nước; đồng thời huy động quân và dân cả nước chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng chiến đấu, đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng lãnh đạo, chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu cùng với Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần và Tổng cục Kỹ thuật tập trung nghiên cứu quán triệt những quan điểm tư tưởng và định hướng lớn về cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng, đề xuất những vấn đề về quân sự - quốc phòng, trước mắt tập trung xây dựng kế hoạch phòng thủ đất nước, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân và huy động quân đội tham gia xây dựng kinh tế đất nước, góp phần khắc phục hậu quả chiến tranh.

Ngày 21-7-1975, Quân ủy Trung ương xác định: “Đi đôi với nhiệm vụ cách mạng mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta còn có nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(2)]


(1) Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) thành lập ngày 8-8-1967 tại Thái Lan, gồm 5 nước (Inđônêxia, Malaixia, Philíppin, Xingapo và Thái Lan). Đến nay, Hiệp hội gồm 10 nước ở vùng Đông Nam Á (thêm các nước Brunây, Việt Nam, Lào, Mianma, Campuchia). Trụ sở tại Giacácta (Inđônêxia).
(2) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Bộ Quốc phòng 1945-2000 (Biên niên sự kiện), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003, tr.485.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #13 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 08:03:39 am »

Để đáp ứng với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và bảo vệ an ninh đất nước trong giai đoạn mới, Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa III (9-19750, nêu rõ: “Ra sức bảo vệ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, biên giới và hải đảo của nước Việt Nam thống nhất, luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, kiên quyết đập tan mọi âm mưu xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và bè lũ tay sai, sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm phạm lãnh thổ của nước ta”(1).

Về nhiệm vụ xây dựng nề quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Hội nghị khẳng định: “Trên cơ sở đẩy mạnh công cuộc xây dựng đất nước về mọi mặt, ra sức xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng các khu vực chiến lược quan trọng, xây dựng công nghiệp quốc phòng, bảo đảm cho đất nước có lực lượng ngày càng mạnh, sẵn sàng đánh bại mọi cuộc tiến công của bọn xâm lược. Ra sức xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng hùng hậu, có lực lượng thường trực mạnh, lực lượng hậu bị to lớn được huấn luyện tốt; có quân đội nhân dân chính quy, hiện đại, có lực lượng dân quân tự vệ rộng khắp và vững chắc. Xây dựng lực lượng công an nhân dân vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, có trình độ khoa học, kỹ thuật khá, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ, có lực lượng chuyên trách chính quy và cơ sở quần chúng vững mạnh”(2).

Quán triệt Nghị quyết lần thứ 24 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III, ngày 3-10-1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết “Về tình hình và nhiệm vụ quân sự trong giai đoạn mới”, nêu rõ: Vấn đề xây dựng nền quốc phòng toàn dân hiện đại, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không chỉ là vấn đề đơn thuần quân sự mà còn là vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật. Nó đòi hỏi sự cố gắng to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.

Trước yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trực tiếp là Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, tổ chức nghiên cứu phương hướng xây dựng nền quốc phòng toàn dân, củng cố thế chiến lược phòng thủ đất nước; đồng thời khẩn trương kiện toàn tổ chức biên chế lực lượng vũ trang, điều chỉnh quân số phù hợp với chức năng nhiệm vụ thời bình, đẩy mạnh xây dựng chính quy, hiện đại trên phạm vi cả nước.

Trải qua 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975), Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân ta đã xây dựng được một nền quốc phòng toàn dân và một lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh đủ sức đánh bại hai đội quân viễn chinh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cùng đội quân tay sai của chúng.

Sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân được xây dựng trong cuộc chiến tranh lâu dài biểu hiện tập trung ở tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội rất cao trong nhân dân lao động cả nước. Mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi đường phố là một trận địa, mỗi thôn xóm là một pháo đài. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, toàn bộ nền quốc phòng miền Bắc chuyển vào trạng thái chiến tranh với khẩu hiệu: ”Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, đồng thời hoàn thành nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân Lào và Campuchia.

Tuy nhiên, nền quốc phòng của đất nước ta có những nhược điểm rất lớn, chủ yếu do tình trạng chậm phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân ta tiến hành chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc với tinh thần tự lực rất cao, nhưng chủ yếu là về sức người, còn hơn 95% vật chất, vũ khí, trang bị kỹ thuật phải dựa vào sự chi viện to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa. Chiến tranh kết thúc, Tổ quốc độc lập và thống nhất, nền quốc phòng toàn dân bắt đầu bộc lộ sự mất cân đối giữa hai miền đất nước.

Ở miền Bắc, các hệ thống đường giao thông, sân bay, hải cảng, kho, xưởng, thông tin đã có bước phát triển rất quan trọng trong chiến tranh, nhưng về lâu dài vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ tác chiến hiện đại, vũ khí công nghệ cao. ở miền Nam, hệ thống công trình quân sự, cơ sở vật chất kỹ thuật quân sự thu được của Mỹ - ngụy tuy khá hiện đại, nhưng tập trung phần lớn dọc ven biển, thiếu chiều sâu, chưa đáp ứng được yêu cầu phòng thủ đất nước trong tình hình mới.

Lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là quân đội nhân dân, đóng vai trò trụ cột của nền quốc phòng toàn dân trong hoàn cảnh vừa chiến đấu, vừa xây dựng, đã tiến bộ nhanh chóng về mọi mặt. Quân đội nhân dân phát triển nhanh với tổng quân số khá lớn, tập trung thành nhiều quân đoàn, sư đoàn, trung đoàn, có đủ các quân chủng, binh chủng được trang bị hiện đại và tương đối hiện đại. Lực lượng dự bị và lực lượng vũ trang quần chúng (du kích, dân quân, tự vệ) rất hùng hậu (2 triệu ở miền Bắc và hơn 10 vạn ở miền Nam). Đội ngũ cán bộ được tôi luyện, có nhiều kinh nghiệm, trình độ tác chiến hiệp đồng quân binh chủng quy mô lớn. Khối lượng binh khí kỹ thuật thu được của địch tạo điều kiện để phát triển các thành phần binh chủng của lực lượng vũ trang lớn một bước. Mặt khác, do điều kiện chiến tranh kéo dài, một số chế độ quy định chưa được thực hiện thống nhất trong toàn quân, thể hiện trình độ chính quy của quân đội nhân dân còn có điểm hạn chế.


(1), (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd. t.36, tr.400, 400-401.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #14 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 08:04:46 am »

Mục tiêu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa có những điểm khác biệt so với thời kỳ cách mạng và chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc trước đây. Tiến hành sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân lúc này là bảo vệ độc lập, chủ quyền của dân tộc đã giành được, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc, bảo vệ công cuộc lao động hòa bình của nhân dân, bảo vệ mọi thành quả cách mạng, phòng ngừa, ngăn chặn mọi hành động xâm lược từ bên ngoài.

Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng xác định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa là thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, là nhân tố hàng đầu trong suốt tiến trình của cách mạng, nhằm phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, chủ nghĩa anh hùng cách mạng của toàn dân xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân. Làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa vừa là mục đích, vừa là động lực của chuyên chính vô sản, của toàn bộ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa sẽ phát huy cao độ nhiệt tình cách mạng, tính tổ chức và sáng tạo của toàn dân, tạo nên sức mạnh to lớn trong sự nghiệp xây dựng đất nước, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Trong giai đoạn cách mạng mới, làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa trở thành yêu cầu tất yếu của nhiệm vụ xây dựng đất nước, đồng thời nó cũng dặt ra một cách khách quan nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đôi với xây dựng đất nước. Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động trên lĩnh vực quân sự - quốc phòng, trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang, quân đội nhân dân, chính là sự kế thừa, phát triển lên một trình độ mới truyền thống giữ nước độc đáo của dân tộc, toàn dân đánh giặc, “tận dân vi binh”(1), xây dựng thế trận làng nước để thực hiện cả nước đánh giặc,đồng thời đó cũng chính là sự phát triển những quan điểm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn dân, động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, vận dụng vào hoàn cảnh và điều kiện cả nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thống nhất xã hội chủ nghĩa.

Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nội dung cơ bản về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nhiệm vụ trước mắt là tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các chỉ tiêu của nhiệm vụ quân sự - quốc phòng cần kíp đã đề ra, trong đó trọng tâm là triển khai đồng bộ các mặt điều chỉnh, xây dựng thế bố trí chiến lược phòng thủ đất nước, kiện toàn cơ cấu tổ chức lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội nhân dân theo hướng tiến lên chính quy, hiện đại, nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu, đóng vai trò nòng cốt trong nền quốc phòng toàn dân; đồng thời triển khai một bộ phận lực lượng quân đội tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, góp phần xây dựng đất nước.

Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương phân tích, đánh giá và chỉ rõ một trong những đặc điểm của nền quốc phòng toàn dân sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Tổ quốc độc lập và thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội là sự mất cân đối giữa hai miền đất nước. Vì thế, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã sớm đề ra những chủ trương khắc phục tình trạng này của nền quốc phòng toàn dân từ những tháng cuối năm 1975.

Để thống nhất quản lý, điều hành đất nước và thực hiện hiệu quả kế hoạch nhà nước trong 5 năm đầu đất nước thống nhất, đồng thời để tiến hành triển khai thế chiến lược phòng thủ đất nước, tháng 10-1975, Bộ Chính trị quyết định bỏ cấp khu và điều chỉnh quy hoạch lại địa giới hành chính các tỉnh, thành phố trên phạm vi toàn quốc gồm 35 tỉnh, 3 thành phố. Trên cơ sở đó, tháng 11-1975, Bộ Chính trị quyết định điều chỉnh tổ chức các quân khu trong cả nước, bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, chỉ huy thống nhất nhiệm vụ phòng thủ đất nước trên các hướng chiến lược.

Thực hiện quyết định của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương chỉ đạo Bộ Quốc phòng tổ chức các cơ quan chức năng do Bộ Tổng tham mưu chủ trì hiệp đồng nghiên cứu và triển khai điều chỉnh, sắp xếp, tổ chức lại các quân khu trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước theo địa giới hành chính mới của các tỉnh, thành phố, bảo đảm yêu cầu phòng thủ cả đất nước, nhất là các hướng chiến lược trọng điểm (biên giới, biển đảo); đồng thời bảo đảm cho lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân kết hợp triển khai thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và tham gia xây dựng kinh tế, góp phần xây dựng đất nước trên quy mô toàn quốc cũng như trên mỗi khu vực, hay vùng lãnh thổ, địa phương của cả nước.


(1) Mọi người dân đều là lính.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #15 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 08:07:27 am »

Cho đến cuối năm 1975 và đầu năm 1976, trên cơ sở các quân khu (cũ) cả nước được tổ chức lại thành 6 quân khu (1, 3, 4, 5, 7, 9) và Bộ Tư lệnh Thủ đô theo vùng lãnh thổ, có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, quân sự, quốc phòng, an ninh, kinh tế, xã hội, từ Bắc vào Nam. Mỗi quân khu là một tổ chức quân sự theo vùng lãnh thổ (thường gồm một số tỉnh, thành phố giáp nhau, có liên quan với nhau về quân sự - quốc phòng) trực thuộc Bộ Quốc phòng, đảm nhiệm phòng thủ trên một hướng chiến lược của đất nước. Bộ tư lệnh quân khu là cơ quan chỉ huy có chức năng cơ bản là chỉ đạo công tác quốc phòng và xây dựng tiềm lực quân sự thời bình; chỉ đạo, chỉ huy lực lượng vũ trang quân khu chiến đấu bảo vệ lãnh thổ của quân khu thời chiến.

Quân khu 1 năm ở phía Bắc miền Bắc Việt Nam (trên cơ sở hợp nhất Quân khu Việt Bắc và Quân khu Tây Bắc cũ) gồm các tỉnh: Cao Lạng (Lạng Sơn, Cao Bằng), Bắc Thái (Bắc Cạn, Thái Nguyên), Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hoàng Liên Sơn (Lào Cai, Yên Bái), Vĩnh Phú (Vĩnh Phúc, Phú Thọ), Hà Tuyên (Hà Giang, Tuyên Quang), Sơn La, Lai Châu (Điện Biên, Lai Châu).

Quân khu 3 nằm ở đồng bằng Bắc Bộ (trên cơ sở hợp nhất Quân khu Tả Ngạn và Quân khu Hữu Ngạn cũ) gồm các tỉnh: Hà Nam Ninh (Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình), Hà Sơn Bình (Hà Tây, Hòa Bình)(1), Hải Hưng (Hải Dương, Hưng Yên), Thái Bình và thành phố Hải Phòng.

Quân khu 4 ở Bắc Trung Bộ (trên cơ sở hợp nhất Quân khu 4, Quân khu Trị Thiên cũ và tỉnh Thanh Hóa thuộc Quân khu 3) gồm các tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh (Nghệ An, Hà Tĩnh), Bình Trị Thiên (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế).

Quân khu 5 ở miền Nam Trung Bộ (trên cơ sở hợp nhất Quân khu 5, Quân khu 6 và Mặt trận Tây Nguyện) gồm các tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (Quảng Nam, thành phố Đà Nẵng), Nghĩa Bình (Quảng Ngãi, Bình Định), Phú Khánh (Phú Yên, Khánh Hòa), Gia Lai - Kon Tum (Gia Lai, Kon Tum), Đắk Lắk (Đắk Lắk, Đắk Nông), Thuận Hải (Ninh Thuận, Bình Thuận), Lâm Đồng(2).

Quân khu 7 ở miền Đông Nam Bộ (trên cơ sở Quân khu 7 và một số tỉnh Quân khu 8 cũ) gồm các tỉnh: Đồng Nai, Sông Bé (Bình Dương, Bình Phước), Long An, Tây Ninh, Bến Tre và thành phố Sài Gòn - Gia Định (Thành phố Hồ Chí Minh).

Quân khu 9 ở miền Tây Nam Bộ (trên cơ sở Quân khu 9 và một số tỉnh Quân khu 8 giải thể) gồm các tỉnh: Tiền Giang, Cửu Long (Vĩnh Long, Trà Vinh), Hậu Giang (Sóc Trăng, thành phố Cần Thơ), Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Minh Hải (Bạc Liêu, Cà Mau).

Bộ Tư lệnh Thủ đô (thành phố Hà Nội) giữ nguyên không thay đổi. Toàn bộ vùng lãnh thổ đất liền cả nước ta được phân chia lại thành 6 quân khu và Bộ Tư lệnh Thủ đô theo địa giới hành chính mới của các tỉnh, thành phố đã khắc phục được một bước tình trạng mất cân đối của nền quốc phòng toàn dân; đồng thời cũng hình thành một thế chiến lược phòng thủ chung trong thế trận đất nước thống nhất, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới.

Đi đôi với việc điều chỉnh tổ chức các quân khu trong cả nước, nhiệm vụ củng cố nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân được triển khai thực hiện, đáp ứng tình hình mới. Cùng với toàn Đảng, toàn dân, các lực lượng vũ trang nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương đảng, trực tiếp là Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã thực hiện điều chỉnh về tổ chức biên chế, giảm tổng quân số, bố trí sắp xếp lại lực lượng, giải quyết nhiều vấn đề sau chiến tranh.

Ngay sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Thường vụ Quân ủy Trung ương quyết định trước mắt: Tập trung chỉ đạo các đơn vị quân đội tham gia quản lý, ổn định các vùng mới giải phóng; kiện toàn một bước các đơn vị chiến đấu và xác định phương hướng xây dựng và nhiệm vụ của lực lượng vũ trang thời gian tới. Tiếp đó, Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III (9-1975) nhấn mạnh: “Ra sức xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng hùng hậu, có lực lượng thường trực mạnh, lực lượng hậu bị to lớn được huấn luyện tốt; có quân đội nhân dân chính quy, hiện đại, có lực lượng dân quân tự vệ rộng khắp và vững chắc”(3).

Quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng, các lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân trên hai miền Nam - Bắc khẩn trương chuyển từ thời chiến sang thời bình, thực hiện chức năng đội quân công tác trên cả nước, trong đó tập trung vào nhiệm vụ tiếp quản, quản lý ổn định các vùng mới giải phóng ở miền Nam, tiến hành chấn chỉnh kiện toàn tổ chức biên chế lực lượng, tiếp tục xây dựng chính quy, hiện đại, sắp xếp và cơ động lực lượng về các địa bàn chiến lược, đóng quân theo kế hoạch phòng thủ đất nước, đồng thời triển khai kế hoạch sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc.

Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng triệt để. Bước ngoặt của cách mạng sau đại thắng mùa Xuân 1975 với những biến đổi nhanh chóng sâu sắc trên mọi lĩnh vực hoạt động và đời sống xã hội, cùng những thuận lợi và khó khăn đã tác động đến tâm lý, nhận thức, hành động của mỗi cán bộ, chiến sĩ, đơn vị lực lượng vũ trang và nhân dân. Những tác động đó cộng với âm mưu chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước ảnh hưởng đến một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng trong và ngoài lực lượng vũ trang làm nảy sinh tư tưởng lệch lạc, tiêu cực, vi phạm kỷ luật của quân đội, vi phạm pháp luật nhà nước làm giảm sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang.

Đánh giá thực trạng tình hình đó, Quân ủy Trung ương nhận định: “Một bộ phận cán bộ và chiến sĩ, nhất là các đơn vị làm nhiệm vụ bảo vệ thành quả cách mạng ở miền Nam, có sự diễn biến tâm lý, tư tưởng và biểu hiện hành động ngày càng phức tạp, do chịu tác động khách quan của lối sống thực dụng, coi đồng tiền vật chất là trên hết. Nhưng chủ yếu là do sự chủ quan trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác chính trị, tư tưởng và tổ chức của cấp ủy, chỉ huy và cơ quan chính trị các đơn vị toàn quân từ cấp cơ sở đến cấp cao, đã say sưa với thắng lợi quá nhanh, quá lớn và cũng “xả hơi”; không còn tích cực chủ động tiến công sắc bén kịp thời như trong chiến tranh nữa. Do chủ quan lỏng lẻo trong lãnh đạo, chỉ đạo giáo dục, quản lý bộ đội, nên tuy đã có nghị quyết, chỉ thị đúng nhưng quan liêu hời hợt thiếu đôn đốc khẩn trương nên không nắm được tình hình đầy đủ chính xác, không kịp thời uốn nắn chấn chỉnh”(4).

Những trì trệ trong công tác đảng, công tác chính trị ở các đơn vị dẫn tới nhiều tâm tư nguyện vọng đúng đắn của bộ đội chậm được giải quyết, những biểu hiện sai trái không được đấu tranh ngăn chặn kịp thời. Vì thế, ở các đơn vị ngày càng tăng số quân nhân băn khoăn, kém phấn khởi, không yên tâm làm nhiệm vụ… Số quân nhân sa sút phẩm chất cách mạng, tha hóa về đạo đức lối sống, vụ lợi thu vén cá nhân, buôn bán đổi chác, chiếm tài sản chung làm của riêng, giao du vô nguyên rắc, vi phạm kỷ luật và pháp luật, ngày càng nhiều trong đó có cả cán bộ và đảng viên ở các cấp. Những biểu hiện tiêu cực, thoái hóa đó đã làm phai nhạt tình đồng chí, đồng đội; làm hoen ố bản chất cách mạng và truyền thống tốt đẹp của quân đội, gây ảnh hưởng xấu về chính trị trong quần chúng”(5).


(1) Năm 1999, tỉnh Hà Tây chuyển thuộc Quân khu Thủ đô (năm 2008 đổi thành Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội).
(2) Năm 1999, hai tỉnh Bình Thuận và Lâm Đồng chuyển về thuộc Quân khu 7.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.36, tr.401.
(4) Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam (1944-2000), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2002, tr.628-629.
(5) Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam (1944-2000), Sđd, tr.629.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #16 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 08:39:12 am »

Trước tình hình đó, Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng chủ động đề ra nhiều biện pháp thực hiện công tác tư tưởng trong giai đoạn cách mạng mới, nâng cao quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội, ý thức xây dựng nền quốc phòng toàn dân, tăng cường sức mạnh lực lượng vũ trang bảo vệ Tổ quốc.

Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiến hành các đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn, quán triệt các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về các lĩnh vực của đời sống xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, quốc phòng, an ninh được đề ra trong các chỉ thị, nghị quyết, trọng tâm là Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III (9-1975).

Trong quân đội, ngay sau khi đất nước thống nhất, Tổng cục Chính trị đã điện gửi bí thư đảng ủy, chính ủy và chủ nhiệm chính trị các đơn vị trực thuộc Quân ủy Trung ương, nêu rõ: Cần tiến hành giáo dục chính trị, làm chuyển biến một bước nhận thức cơ bản của bộ đội trước tình hình mới. Nhanh chóng điều chỉnh sắp xếp cán bộ, kiện toàn tổ chức, cải tiến phương pháp và hình thức hoạt động cho phù hợp với tình hình mới, bảo đảm làm tròn nhiệm vụ được giao.

Tháng 10-1975, Quân ủy Trung ương tổ chức Hội nghị cán bộ cao cấp của toàn quân quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng “Về tình hình và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới” đồng thời thống nhất những vấn đề lớn của kế hoạch quân sự 5 năm (1976-1980). Tiếp đó, ngày 24-10-1975, Quân ủy Trung ương chỉ thị tiến hành sinh hoạt chính trị ở tất cả các cấp trong quân đội, học tập quán triệt tình hình nhiệm vụ của các mạng cả nước, nhiệm vụ quân sự trong thời kỳ mới.

Tháng 12-1975, Thường vụ Quân ủy Trung ương ra Chỉ thị Về nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật, khắc phục những hiện tượng tiêu cực trong quân đội, trong đó nhấn mạnh: Cần tăng cường giáo dục và quản lý chặt chẽ hơn nữa việc chấp hành kỷ luật của bộ đội, có biện pháp hiệu quả, phù hợp với từng địa phương, từng đơn vị, từng đối tượng, tránh chủ quan đơn giản trong tổ chức biên chế và giảm quân số.

Đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn quán triệt Nghị quyết lần thứ 24 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và các nghị quyết của Bộ Chính trị đã góp phần quan trọng tạo sự chuyển biến về nhận thức tư tưởng, ý thức trách nhiệm và hành động trong mọi cấp, mọi ngành, mọi lực lượng trên các lĩnh vực, đặc biệt đã làm chuyển biến, thống nhất và đề cao ý thức xây dựng nền quốc phòng toàn dân, quân đội nhân dân trước yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thống nhất.

Đến cuối năm 1975, nhận thức rõ yêu cầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, trong đó có nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực phấn đấu, điều chỉnh một bước về thế chiến lược phòng thủ đất nước, tạo cơ sở quan trọng để tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ trong những năm tiếp theo.

Sang năm 1976, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đẩy mạnh hoạt động về mọi mặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với khẩu hiệu: “Tất cả cho sản xuất, tất cả để xây dựng chủ nghĩa xã hội, tất cả vì Tổ quốc giàu mạnh, vì hạnh phúc của nhân dân”. Đối với nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân tiếp tục được đẩy mạnh với khí thế mới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân một di sản tư tưởng cách mạng to lớn. học tập, vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quân sự của Đảng, kế thừa và phát triển tư tưởng quân sự dân tộc, cùng những tác phẩm lý luận của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội; toàn Đảng, toàn dân, toàn quân dồn sức nghiên cứu, phấn đấu trong bước ngoặt cách mạng chuyển sang giai đoạn mới.

Đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư đã viết tác phẩm chọn lọc Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam(1) phẩm này là cơ sở lý luận quan trọng làm căn cứ cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, chính sách cách mạng, để cán bộ, đảng viên, toàn dân và toàn quân học tập, nâng cao nhận thức và quán triệt sâu sắc hơn nữa đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, quốc phòng, an ninh.


(1) Tác phẩm Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, gồm 4 tập, tập hợp những bài viết trong các giai đoạn của đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn. Năm 1976, Nhà xuất bản Sự thật xuất bản tập I và tập II, năm 1980 xuất bản tập III và năm 1984 xuất bản tập IV.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #17 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 08:40:50 am »

Ngày 15-1-1976, Quốc hội, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa công bố Lệnh tuyên dương danh hiệu lực lượng vũ trang nhân dân cho 54 đơn vị và 42 cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam lập nhiều thành tích chiến đấu và phục vụ chiến đấu chống Mỹ, cứu nước. Tháng 4-1976, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng viết bài: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa(1). Đại tướng tập trung luận giải, làm sáng tỏ những quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng nền quốc phòng toan dân trong giai đoạn mới ở nước ta, nhằm góp phân giải quyết những nhiệm vụ thực tiễn của sự nghiệp củng cố quốc phòng, đồng thời góp phần chuẩn bị bước đầu cho việc giải quyết những nhiệm vụ lâu dài của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đại tướng nêu rõ: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh là một nhiệm vụ rất quan trọng trong giai đoạn tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Đó là một vấn đề cơ bản thuộc về đường lối và nhiệm vụ quân sự của Đảng trong thời kỳ hòa bình xây dựng đất nước.

Sau khi phân tích sâu sắc các vấn đề về mục đích, bản chất, sức mạnh, ý nghĩa của nền quốc phòng, Đại tướng nhấn mạnh: “Trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, cần giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng lực lượng thường trực với xây dựng lực lượng hậu bị, giữa xây dựng lực lượng vũ trang làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời bình với xây dựng lực lượng tiềm tàng về mọi mặt của đất nước, sẵn sàng được động viên trong thời chiến; phải kết hợp chặt chẽ yêu cầu thời bình và yêu cầu thời chiến”. “Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là phải xây dựng cả tiềm lực chính trị và tinh thần, tiểm lực kinh tế và khoa học, tiềm lực quân sự, phát triển khoa học và nghệ thuật quân sự… Những tiềm lực đó đều có vai trò hết sức quan trọng, có mối quan hệ mật thiết với nhau và tác động qua lại lẫn nhau”(2).

Tiếp đó, bài nói chuyện của đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào tháng 7-1976 tại Hội nghị cán bộ, học tập Nghị quyết bộ Chính trị về những công tác trước mắt ở miền Nam, nêu rõ tầm quan trọng của nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn cách mạng mới, chỉ rõ: “Tuy đất nước đã hòa bình, nhưng chúng ta phải luôn luôn coi trọng sự nghiệp củng cố quốc phòng, phải duy trì đội quân thường trực mạnh để sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc. Nhiệm vụ củng cố quốc phòng phải kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ trung tâm của cả nước là ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, quân đội ta phải làm hai nhiệm vụ. Một là, xây dựng quân đội chính quy, hiện đại và tiến hành phòng thủ đất nước vững chắc. Hai là, xây dựng kinh tế để góp phần nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng đất nước phồn vinh”(3).

Tác phẩm Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cùng nhiều tác phẩm khác của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã góp phần làm phong phú kho tàng lý luận cách mạng Việt Nam, trong đó có vấn đề xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ngày càng vững mạnh, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Trên cơ sở những kết quả đã đạt được cuối năm 1975, trong những tháng đầu năm 1976, các lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân giữ vai trò lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, tiếp tục đẩy mạnh chấn chỉnh lực lượng, kiện toàn tổ chức biên chế, xây dựng chính quy, hiện đại, tăng cường phòng thủ trên các địa bàn trọng yếu của đất nước.

Để thống nhất sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và chỉ huy của Bộ Tổng tư lệnh đối với lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân toàn quốc, tháng 7-1976, Trung ương Đảng và Chính phủ quyết định giải thể Trung ương Cục miền Nam và Bộ Tư lệnh Miền. Cùng thời gian này, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc trở lại với tên gọi Quân đội nhân dân Việt Nam. Lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân thực hiện các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước ban hành thống nhất trên toàn quốc.

Quán triệt chủ trương của Đảng và Nhà nước, từ năm 1976, Quân ủy Trung ương báo cáo Bộ Chính trị “Về tình hình nhiệm vụ quân sự và một số công tác quân sự cần kíp trong giai đoạn mới”, trong đó nêu rõ: “Hiện nay hòa bình đã lập lại trên toàn bộ đất nước, giảm tổng quân số bộ đội thường trực là vấn đề cần thiết nhằm giảm kinh phí quốc phòng, tăng lực lượng sản xuất và kinh tế, cần đưa tổng số quân từ 123 vạn xuống 80 vạn (50 vạn chiến đấu, 10 vạn sản xuất quốc phòng, 20 vạn xây dựng kinh tế)”(4).


(1) “Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” in trong sách Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên mới, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1979, tr.78.
(2) “Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” in trong sách Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên mới, Sđd, tr.78.
(3) Lê Duẩn: Về chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.523.
(4) Lịch sử Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 204, t.II (1975-2004), tr.18.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #18 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 08:41:37 am »

Theo phương hướng đó, Bộ Quốc phòng chỉ đạo thực hiện giảm tổng quân số, kiện toàn quy mô cơ cấu tổ chức quân đội theo nghị quyết của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cho phù hợp với yêu cầu xây dựng trong thời bình, với yêu cầu giảm ngân sách quốc phòng, đáp ứng thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng bảo vệ Tổ quốc và các nhiệm vụ khác của lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân.

Cơ cấu tổ chức quân đội nhân dân gồm 3 quân chủng: Quân chủng Lục quân, Quân chủng Phòng không - Không quân và Quân chủng Hải quân. Lục quân gồm các binh chủng hợp thành: Bộ binh, Pháo binh, Công binh, Tăng - Thiết giáp, Đặc công, Hóa học, Thông tin liên lạc.

Binh chủng Bộ binh được tổ chức thành 4 binh đoàn chủ lực cơ động (Quân đoàn 1, Quân đoàn 2, Quân đoàn 3, Quân đoàn 4) và các sư đoàn, trung đoàn trực thuộc Bộ và quân khu; các trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội bộ đội địa phương tỉnh, thành phố, huyện, quận. Mỗi quân đoàn biên chế thống nhất 3 sư đoàn bộ binh, các lữ đoàn, trung đoàn binh chủng, các đơn vị bảo đảm, phục vụ và cơ quan trực thuộc.

Binh chủng Pháo binh được kiện toàn gồm 4 lữ đoàn pháo binh trực thuộc Bộ Tư lệnh Pháo binh và các đơn vị pháo binh trực thuộc các quân khu, quân đoàn, sư đoàn.

Binh chủng Công binh kiện toàn thống nhất lực lượng thành các lữ đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội trực thuộc Bộ Tư lệnh Binh chủng và các quân khu, quân đoàn, quân chủng.

Binh chủng Tăng - Thiết giáp tổ chức lực lượng thành các lữ đoàn trực thuộc Bộ Tư lệnh Binh chủng và lực lượng trực thuộc các quân đoàn, quân khu.

Binh chủng Đặc công kiện toàn tổ chức thành các trung đoàn và tiểu đoàn trực thuộc Bộ Tư lệnh Binh chủng và các quân khu, quân đoàn.

Binh chủng Hóa học tổ chức lực lượng theo quyết định của Bộ Quốc phòng chuyển Cục Hóa học trực thuộc Bộ Tổng tham mưu thành Bộ Tư lệnh Hóa học (6-1976), gồm Viện Hóa học quân sự, Xưởng khí tài hóa học, Kho khí tài hóa học, Trường đào tạo bổ túc sĩ quan, 3 tiểu đoàn hóa học và các phân đội thông tin, vận tải, xây dựng.

Binh chủng Thông tin liên lạc kiện toàn lực lượng thành 3 trung đoàn trực thuộc Bộ Tư lệnh Binh chủng và các trung đoàn, tiểu đoàn thông tin trực thuộc các quân khu, quân đoàn, quân chủng.

Nhìn chung, khối các binh chủng hợp thành lục quân được tăng cường vũ khí, phương tiện, trang bị kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu nâng cao sức cơ động, khả năng chiến đấu, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Quân chủng Phòng không - Không quân, lực lượng nòng cốt trong chiến tranh nhân dân đất đối không, không đối không, bảo vệ chủ quyền vùng trời Tổ quốc, được chấn chỉnh về tổ chức biên chế, bố trí lực lượng hợp lý trên các địa bàn chiến lược, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Quân chủng Hải quân, lực lượng nòng cốt của chiến tranh nhân dân trên chiến trường sông biển, bảo vệ chủ quyền vùng biển và hải đảo của Tổ quốc được tổ chức lực lượng thành 5 bộ tư lệnh vùng hải quân duyên hải, sau đó được điều chỉnh lại thành 4 vùng (mỗi vùng tương đương sư đoàn) và 1 khu duyên hải, 2 hạm đội (tương đương trung đoàn và lữ đoàn), 1 lữ đoàn thủy quân lục chiến (sau đổi thành hải quân đánh bộ), các trung đoàn và tiểu đoàn hỗn hợp phòng thủ đảo, 1 tiểu đoàn máy bay trinh sát và trực thăng, 1 trung đoàn công binh, 1 tiểu đoàn vận tải thủy bộ, các kho, xưởng, bệnh viện.

Vũ khí, trang bị kỹ thuật của Quân chủng Phòng không - Không quân, Quân chủng Hải quân được tăng cường một bước so với thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, nhờ có thêm một phần nguồn tiếp quản của địch ở miền Nam.

Khối các cơ quan, đơn vị đầu mỗi trực thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Kỹ thuật à các ngành, hệ thống học viện, viện, nhà trường quân đội; hệ thống nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất và sửa chữa quốc phòng được điều chỉnh về tổ chức biên chế cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ mỗi cơ quan, đơn vị trong tình hình mới.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #19 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 08:42:12 am »

Chất lượng chính trị là một trong những yếu tố bảo đảm cho các lực lượng vũ trang xây dựng chính quy, hiện đại, sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu và tham gia xây dựng kinh tế của đất nước theo yêu cầu mới. Đến năm 1976, toàn Đảng bộ quân đội có hơn 3.650 đảng ủy các cấp, trong đó có đảng ủy cơ quan chiếm 15,3%; tổ chức cơ sở đảng có hơn 24.240 chi bộ, riêng số chi bộ ở đơn vị chiến đấu chiếm 46,3%, đảng viên chiếm tỷ lệ 33% tổng quân số. Toàn quân có 2.400 liên chi đoàn và 23.500 chi đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh (sau đổi là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh), tỷ lệ đoàn viên và thanh niên chiếm 75% quân số, là nguồn bổ sung dồi dào vào đội ngũ đảng viên, đội ngũ cán bộ của Đảng từ cơ sở.

Đội ngũ cán bộ quân đội phát triển lên 194.259 người (chiếm 16,3% tổng quân số), trong đó số còn điều kiện để bồi dưỡng sắp xếp công tác là 52.700 đồng chí. Đây là đội ngũ cán bộ luôn tuyệt đối trung thành với Đảng và nhân dân, có kinh nghiệm trên các lĩnh vực công tác, nhất là kinh nghiệm chiến đấu, là nhân tố quan trọng để xây dựng quân đội về mọi mặt, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Những tháng cuối năm 1976, đội ngũ cán bộ toàn quân, trong đó các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng và cơ quan quân sự địa phương (tỉnh, huyện) được kiện toàn xong. Số cán bộ còn đủ điều kiện phục vụ quân đội được điều chỉnh lại, thay phiên nhau về các học viện, nhà trường trong nước và đi học tập ở nước ngoài. Các học viện, nhà trường quân đội mới thành lập năm 1976 được bố trí khung cán bộ quản lý, giáo viên đáp ứng nhu cầu bồi dưỡng, đào tạo cán bộ trong thời bình. Đội ngũ cán bộ quân đội được điều chỉnh đã đáp ứng việc xây dựng quân đội từ thời chiến chuyển sang thời bình, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, kết hợp kinh tế với quốc phòng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Hệ thống cơ quan chính trị các cấp trong toàn quân được kiện toàn tổ chức biên chế đáp ứng với chức năng, nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Tiếp đó, Tổng cục Chính trị kiện toàn tổ chức biên chế Cục Văn hóa, Phòng Quản lý giáo dục, Tòa soạn Tạp chí Quân đội nhân dân (nay là Tạp chí Quốc phòng toàn dân), Ban Tổng kết công tác đảng, công tác chính trị, Ban biên soạn giáo khoa chính trị. Đến thời điểm này, toàn quân có 18 cục chính trị, 116 phòng chính trị, 556 ban chính trị, biên chế 12.942 sĩ quan, hạ sĩ quan chiến sĩ, công nhân viên. Được Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương phê chuẩn, Tổng cục Chính trị ban hành Quy định nhiệm vụ, chức trách của thủ trưởng chính trị và cơ quan chính trị các cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam (gồm 4 tập) thực hiện thống nhất trong toàn quân.

Hưởng ứng phong trào thi đua quyết thắng với khẩu hiệu: “Toàn quân hăng hái thi đua quyết thắng, ra sức xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, xây dựng đất nước, vì Tổ quốc giàu mạnh, vì hạnh phúc của nhân dân”, do Quân ủy Trung ương phát động, toàn quân tiến hành huấn luyện theo phương châm: Cơ bản, hệ thống, thống nhất, toàn diện nhằm rèn luyện cho bộ đội bản lĩnh chiến đấu vững vàng, sử dụng thành thạo các loại vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại và tương đối hiện đại của ta cũng như mới thu được của địch, đồng thời huấn luyện bảo đảm sẵn sàng chiến đấu thường xuyên đối với các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng, nhất là đơn vị ở khu vực trọng điểm. Công tác chuẩn bị huấn luyện được triển khai trong toàn quân.

Cùng thời gian này, Bộ Quốc phòng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh công tác tổng kết kinh nghiệm huấn luyện, chiến đấu trong 30 năm chiến tranh giải phóng chống Pháp và chống Mỹ, sơ kết khóa huấn luyện đầu tiên trong thời bình những tháng cuối năm 1975, đồng thời tập trung biên soạn, chỉnh lý hệ thống tài liệu huấn luyện quân sự thống nhất toàn quân.

Các tổng cục, quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng, các học viện, nhà trường tiến hành tổng kết ở từng cấp. Tổng cục Chính trị hoàn thành tổng kết công tác đảng, công tác chính trị trong kháng chiến chống thực dân Pháp và chuẩn bị tổng kết công tác quan trọng này trong kháng chiến chống Mỹ. Ban Nghiên cứu Lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị sau khi hoàn thành tập I, triển khai nghiên cứu biên soạn Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam tập II trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). Bộ Tổng tham mưu triển khai nhiều đề tài khoa học về các ngành tham mưu tác chiến, huấn luyện, tổ chức lực lượng, cơ yếu, bản đồ quân sự. Tổng cục Hậu cần tổ chức hội nghị hậu cần toàn quân (2-1976), quán triệt chỉ thị của Quân ủy Trung ương về quản lý vật tư, tài sản, chiến lợi phẩm; đánh giá thành tích của ngành trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và bàn phương hướng công tác hậu cần 5 năm (1976-1980).

Bộ Quốc phòng chỉ đạo Cục Tài chính tổ chức hội nghị tài chính toàn quân (3-1976) tổng kết kinh nghiệm trong kháng chiến chống Mỹ và bàn công tác tài chính trong tình hình mới với phương hướng nhiệm vụ của ngành phải bảo đảm tốt nhất cho quân đội thực hiện các nhiệm vụ củng cố tổ chức, xây dựng lực lượng, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, giải quyết hậu quả chiến tranh, tham gia xây dựng kinh tế. Tổng cục Kỹ thuật lập đề án Khai thác sử dụng trang bị kỹ thuật của quân đội đáp ứng cho những nhu cầu trước mắt và lâu dài của quân đội. Các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng, các học viện, viện, nhà trường quân đội tiến hành thực hiện nhiều đề tài khoa học các cấp phục vụ công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng kinh tế.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM