Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 09:27:15 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13  (Đọc 46446 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #30 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 09:03:42 am »

Sau khi bị trừng trị ở Vĩnh Điều - Đầm Chích, địch sử dụng pháo tầm xa ở Cả Hàng bắn phá ác liệt thị xã Châu Đốc, làm chết 12 người, bị thương 110 người dân của ta. Ngày 18-7, Quân khu 9 sử dụng phân đội không quân (Bộ phối thuộc), tiêu diệt hoàn toàn trận địa pháo địch đã gây nhiều tội ác đối với đồng bào ta ở vùng biên giới.

Để rút kinh nghiệm chỉ đạo các đơn vị, địa phương làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới, trong hai ngày 27 và 28-7-1977, Thường trực Quân ủy Trung ương triệu tập hội nghị bàn về xây dựng và bảo vệ biên giới. Hội nghị đánh giá: “Thời gian qua, công tác biên giới đã được triển khai khẩn trương. Bộ Tổng tham mưu, các tổng cục, các quân chủng, quân khu, quân đoàn đã cố gắng triển khai các kế hoạch phòng thủ biên giới và hải đảo; đồng thời chuyển một bộ phận lực lượng xây dựng kinh tế sang làm nhiệm vụ chiến đấu, điều động một bộ phận chủ lực lên tuyến biên giới, đáp ứng yêu cầu chiến đấu trước mắt. Nhờ đó mà tuyến biên giới vẫn được giữ vững. Nhưng do không lường hết những thủ đoạn dã man tàn bạo của đối phương, nên đã có trường hợp mất cảnh giác, để xảy ra những thiệt hại rất lớn về tính mạng và tài sản của nhân dân mà không đối phó được kịp thời có hiệu quả”(1).

Trên cơ sở đó, hội nghị nhấn mạnh: “Cần phải đặt vấn đề biên giới trong vấn đề chiến lược chung của cả nước, chủ trương chiến lược đối với biên giới nằm trong chủ trương chiến lược chung để từ đó đề ra phương hướng và biện pháp cụ thể. Bộ Tổng tham mưu, các tổng cục, quân khu, quân đoàn, quân binh chủng cần nghiên cứu kỹ đề ra một kế hoạch xây dựng tuyến phòng thủ biên giới theo hướng cơ bản lâu dài”(2).

Hội nghị xác định các biện pháp xây dựng tuyến phòng thủ biên giới và cách bố trí sử dụng lực lượng khi cần thiết, về nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế, Hội nghị chủ trương: “Sản xuất là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hiện nay, vì vậy phải kết hợp giữa hai nhiệm vụ cho hợp lý... Công tác sản xuất ở vùng sát địch phải đi vào tổ chức bằng hình thức thích hợp”(3).

Sau khi các đợt tiến công trên tuyến biên giới giữa hai tỉnh An Giang và Kiên Giang bị ta đánh bại, tháng 8-1977, địch chuyển hướng tiến công sang khu vực biên giới hai tỉnh Long An, Đồng Tháp. Đồng thời, chúng sử dụng lực lượng cấp đại đội, tiểu đoàn phối hợp cả quân chủ lực và quân địa phương đánh vào khu vực Mỹ Quý Tây, Sông Trăng. Bộ đội địa phương hai tỉnh Long An và Đồng Tháp tổ chức đánh bại các cuộc tiến công của địch, khôi phục địa bàn bị lấn chiếm. Do các trận đánh thường kéo dài, nên hiệu quả chiến đấu thấp, thương vong cao. Địch chủ động mở các cuộc luồn sâu tập kích đánh phá ta dọc biên giới. Mặc dù đã tăng cường phòng thủ, nhưng ta chưa thể ngăn chặn được kịp thời các cuộc tiến công của địch khi chúng vừa vượt qua biên giới.

Để nâng cao khả năng chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang ba thứ quân trên tuyến biên giới, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 quyết định ba biện pháp cấp bách: Một là, nhanh chóng kiện toàn bộ máy lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị. Hai là, hoàn thiện các phương án chiến đấu bảo vệ các khu vực trọng điểm và kế hoạch hiệp đồng tác chiến, sử dụng lực lượng giữa các đơn vị. Ba là, đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang tại chỗ và lực lượng chủ lực cơ động, trước mắt củng cố tuyến phòng ngự, đánh trả kịp thời lực lượng địch lấn chiếm trái phép.

Theo sự chỉ đạo chung của Bộ, tháng 8-1977, Quân khu 9 xây dựng thêm 5 trung đoàn biên phòng gồm Trung đoàn 162 (Kiên Giang), hai Trung đoàn 152 và 24 (An Giang), Trung đoàn 502 và Trung đoàn Vàm Cỏ (Đồng Tháp), 1 tiểu đoàn pháo 105 và 1 tiểu đoàn pháo cao xạ trực thuộc quân khu. Sư đoàn 4 và Sư đoàn 8 chủ lực của quân khu được lệnh chuyển một bộ phận (trước mắt mỗi sư đoàn có 1 trung đoàn bộ binh và các đơn vị bảo đảm) sang làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam.

Quân đoàn 3 đứng chân trên địa bàn Tây Nguyên, ngoài việc sử dụng các đơn vị luân phiên truy quét Fulro, theo nhiệm vụ mới của Bộ giao, tập trung xây dựng Sư đoàn 10 thành sư đoàn chủ lực mạnh, sẵn sàng cơ động chiến đấu trên các chiến trường; đồng thời chuyển 50% lực lượng Sư đoàn 320 đang làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế sang làm nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu.

Quân đoàn 4 theo kế hoạch trước đây đã chuyển Trung đoàn 3 (Sư đoàn 9), Trung đoàn 165 (Sư đoàn 7) thành khung huấn luyện chiến sĩ mới và chuẩn bị bàn giao Sư đoàn 341 sang Tổng cục Xây dựng kinh tế, nay theo mệnh lệnh mới của Bộ, Quân đoàn 4 kiện toàn hai Sư đoàn 7 và 9 đủ quân số, sẵn sàng chiến đấu. Quân đoàn 4 đẩy mạnh huấn luyện, nâng cao sức chiến đấu, đặc biệt là chú trọng rèn luyện khả năng cơ động nhanh bằng cơ giới. Cuối tháng 8, đầu tháng 9-1977, chấp hành mệnh lệnh của bộ Tổng tham mưu, Quân đoàn 4 lần lượt điều động các Trung đoàn 141 và 209 (Sư đoàn 7), Trung đoàn 270 (Sư đoàn 341), 1 đại đội thiết giáp của Lữ đoàn 22 phối hợp với lực lượng vũ trang Quân khu 9 chiến đấu, bảo vệ chủ quyền biên giới Tây Nam.


(1), (2) Kết luận của đồng chí Võ Nguyên Giáp tại Hội nghị bàn về xây dựng và bảo vệ biên giới, hồ sơ 973, tài liệu lưu tại Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng.
(3) Kết luận của đồng chí Võ Nguyên Giáp tại Hội nghị bàn về xây dựng và bảo vệ biên giới, hồ sơ 973, tài liệu lưu tại Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #31 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 09:06:03 am »

Tháng 9-1977, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari tổ chức lại chiến trường, hình thành 7 quân khu và 3 vùng đặc biệt, về lực lượng. chúng xây dựng thêm 2 sư đoàn chủ lực đưa tổng số lên 14 sư đoàn và 12 trung đoàn vùng. Đối diện với Quân khu 7 của Việt Nam là Quân khu 203 (Quân khu Đông), địch tổ chức thành năm vùng(1). Tháng 7-1977, tại Quân khu 203, địch mới bố trí 2 sư đoàn (3 và 4), 1 trung đoàn pháo, 1 tiểu đoàn xe tăng, 1 tiểu đoàn trinh sát, 1 tiểu đoàn thông tin và lực lượng bảo đảm do Xô Đăn làm Tư lệnh. Tháng 8-1977, lực lượng Quân khu 203 tăng lên 5 sư đoàn. Sang tháng 9, chúng tăng thêm 2 sư đoàn, đưa tổng số lên 7 sư đoàn (3, 4, 5, 117, 203, 290, 310), chiếm 48% quân chủ lực.

Về phía ta, chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Quân khu 7 tăng cường lực lượng chuẩn bị chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu theo 2 phương án: Một là, dùng lực lượng địa phương phòng thủ chiến đấu tại chỗ, bảo vệ nhân dân, bảo vệ biên giới. Hai là, huy động chủ lực quân khu kết hợp lực lượng địa phương và Quân đoàn 4 đánh vừa, đánh lớn tiêu diệt địch.

Trên địa bàn Quân khu 7, các biện pháp phòng thủ đã được triển khai, nhưng do nhận thức của một số địa phương, đơn vị chưa đúng mức, nên việc tổ chức thực hiện bị xem nhẹ. Kế hoạch xây dựng lực lượng, xây dựng một số đồn dọc biên giới, củng cố chính quyền cơ sở, phòng tránh sơ tán nhân dân ở các xã biên giới khi có chiến tranh xúc tiến chậm, chất lượng thấp. Đến tháng 9-1977, ngoài 3 trung đoàn biên phòng và một số đơn vị bảo đảm sẵn sàng chiến đấu, lực lượng cơ động sẵn sàng chiến đấu của quân khu có một sư đoàn loại 3 (Sư đoàn 5). Các đơn vị còn lại tuy đã chuyển một phần lực lượng sang nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, nhưng quân số, trang bị, phương tiện cơ động của các đơn vị này còn thiếu. Các đơn vị binh chủng kỹ thuật thiếu đồng bộ, đặc biệt là thiếu cán bộ kỹ thuật. Đó là những khó khăn của hầu hết các đơn vị khi chuyển từ sản xuất xây dựng kinh tế sang làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu.

Thực hiện kế hoạch tiến công qua biên giới Quân khu 9 bị thất bại, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari tiếp tục chuẩn bị lực lượng quy mô lớn để mở cuộc tiến công mới vào toàn tuyến biên giới tỉnh Tây Ninh (Quân khu 7). Vùng tây nam tỉnh Tây Ninh tiếp giáp với tỉnh Xoàiriêng của Campuchia là địa bàn có vị trí quan trọng về quân sự, chính trị và kinh tế. Nơi đây có đường giao thông chiến lược số 1 và các đường liên tỉnh số 13, 22, 7, 24 nối liền giao thông giữa hai nước Việt Nam - Campuchia. Lợi dụng dải đất mỏ vẹt nhô về phía Việt Nam, quân Pôn Pốt đã xây dựng nhiều căn cứ, tập kết lực lượng cùng vũ khí trang bị kỹ thuật, làm bàn đạp xuất phát tiến công nhằm uy hiếp thị xã Tây Ninh, thị xã Gò Dầu, một trong những địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng của ta ở gần biên giới Tây Nam.

Sau khi tiến công hai vị trí Tầm Beo, Châu Ó thăm dò phản ứng của ta, đêm 24 rạng ngày 25-9-1977, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari sử dụng 2 sư đoàn bộ binh 3 và 4, 2 trung đoàn (306, 304) và 7 tiểu đoàn địa phương các vùng 20, 21, 23 tiến công đồng loạt vào tuyến biên giới thuộc hai huyện Tân Biên, Châu Thành, Bến Cầu (Tây Ninh).

Trên hướng bắc (Tân Biên), địch dùng Sư đoàn bộ binh 4 và quân địa phương vùng 20, 21 đánh vào Khuốc, Bãi Bầu, Xa Mát, Đập Đá, Tà Đạt trên một đoạn biên giới dài 35 km; đồng thời chúng cho một bộ phận luồn sâu vào chốt chặn trên đường 22. Tiểu đoàn 1 và Đại đội 6 Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 201 (Tây Ninh) phối hợp với bộ đội biên phòng Tà Nốt, Chàng Riệc, Xa Mát và dân quân địa phương đánh chặn nhiều đợt tiến công của địch. Riêng ở Tân Thành, Tân Khánh, Tân Khai, ta chưa chặn được địch để cho chúng vào đốt phá nhà cửa và tàn sát 280 đồng bào ta.

Ở hướng tây (Bến Cầu, Châu Thành), địch dùng Trung đoàn 182 (Sư đoàn 3) và lực lượng địa phương đánh vào các chốt của ta ở Long Khánh, Cây Me, Thúc Múc, Long Phước, sâu vào trong đất ta từ 5 đến 6 km, gây nhiều thiệt hại về người và tài sản(2). Tiểu đoàn 14 Tây Ninh và phân đội xe thiết giáp đẩy lùi cuộc tiến công của địch ở Long Phi (Chợ Cầu), ở các nơi khác, lực lượng của ta mỏng không đủ sức càn phá các cuộc tiến công của địch. Chiều 25-9, địch chiếm được các khu vực đồn Cây Me, Thúc Múc, Long Khánh.

Trước tình hình lực lượng vũ trang tại chỗ không đủ sức đẩy lùi địch, việc điều động các đơn vị dự bị của Quân khu 7 gặp khó khăn, chiều 25-9-1977, tiền phương Bộ Tổng tham mưu lệnh cho Quân đoàn 4: “gấp rút điều động lực lượng cơ động của quân đoàn hành quân lên biên giới Tây Ninh thực hiện nhiệm vụ nhanh chóng giải vây cho các đồn công an biên phòng và khu vực đông dân đang bị địch bao vây, tiêu diệt các cụm quân địch trên đất ta, khôi phục lại biên giới”(3). Đồng thời ra lệnh cho lực lượng không quân sẵn sàng hoạt động ngăn chặn địch.


(1) Năm vùng đó là: Vùng 20 (Crak), Vùng 21 (Minốt), Vùng 22 (Đông sông mê Công), Vùng 23 (Xoàiriêng) và Vùng 24 (Prâyveng).
(2) Trận này, địch tàn sát 380 dân, đốt 271 ngôi nhà, bắt và giết hơn 300 trâu, bò của ta.
(3) Lịch sử Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.II,, tr.14.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #32 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 09:08:40 am »

Chấp hành mệnh lệnh của Bộ và quân đoàn, với tinh thần “đi nhanh nhất, đến đủ nhất, đến nơi chiến đấu được ngay”, suốt đêm 25-9, cán bộ và chiến sĩ các Trung đoàn 1, 2 (Sư đoàn 9), Trung đoàn 209 (Sư đoàn 7) hành quân ra mặt trận. Trưa ngày 26-9, Quân đoàn 4 triển khai Sở chỉ huy tiền phương ở Bến Cầu trực tiếp chỉ huy các đơn vị đánh địch. Trung đoàn 2 và Trung đoàn 209 triển khai chiến đấu ở Bến Cầu, Trung đoàn 1 tăng cường cho Quân khu 7, giải vây khu vực Xa Mát (Tân Biên).

Trong thời gian này, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 điều động Sư đoàn bộ binh 5 và một số đơn vị pháo cao xạ hành quân lên biên giới tỉnh Tây Ninh, đồng thời triển khai Sở chỉ huy tiền phương ở Thiện Ngôn (Tân Biên, Tây Ninh), do Thiếu tướng Nguyễn Minh Châu làm Tư lệnh để chỉ huy các đơn vị chiến đấu. Trước yêu cầu cấp bác phải giải vây đồn Xa Mát, ngày 27-9-1977, Trung đoàn 4, Sư đoàn 5 sử dụng một tiểu đoàn phối hợp với Trung đoàn 201 tỉnh Tây Ninh tiến công cụm quân địch ở nam Xa Mát. Mặc dù được hỏa lực pháo binh, không quân chi viện mạnh, nhưng do nắm địch chưa chắc, hiệp đồng giữa các đơn vị thiếu chặt chẽ, nên trận đánh không thành công.

Tại huyện Bến Cầu, khi hai trung đoàn của Quân đoàn 4 đến địa bàn tác chiến thì Trung đoàn 182 (Sư đoàn 3), 1 tiểu đoàn và 4 đại đội địa phương địch đã chiếm các ấp Cây Me, Bến Trại, khu vực rừng Long Khánh, cầu Thúc Múc. Dựa vào địa hình, chúng xây dựng các trận địa phòng ngự lâm thời, hình thành khu chiếm đóng liên hoàn với sự yểm trợ mạnh của hỏa lực và lực lượng địch đóng ở bên kia biên giới.

Trước cơ sở phân tích tình hình địch, ngày 29-9, Sở chỉ huy tiền phương Bộ Tổng tham mưu điều tiếp Sư đoàn 341 (thiếu một trung đoàn) tăng cường lực lượng chiến đấu cho Quân đoàn 4. Ta sử dụng trung đoàn 201 (thiếu một tiểu đoàn), Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 4 (Sư đoàn 5), Trung đoàn 1 (Sư đoàn 9) thực hành phản kích giải vây đồn Xa Mát. Sau hai giờ chiến đấu, ta đánh thiệt hại nặng 2 đại đội địch, diệt gần 200 tên, đẩy địch ra khỏi đồn biên phòng Xa Mát, Khu ủy ban quốc tế và Đập Đá.

Theo yêu cầu mới về chính trị và ngoại giao, 16 giờ ngày 29-9-1977, Sở chỉ huy Tiền phương Bộ Tổng tham mưu điện cho Quân đoàn 4 tạm hoãn kế hoạch tiến công theo dự kiến ban đầu và chỉ thị: “Trước mắt dùng lực lượng 2 sư đoàn thiếu tiến công địch ở Long Khánh - Cây Me, giải phóng khu vực bị lấn chiếm, giúp nhân dân khắc phục hậu quả do địch gây ra”(1). Thực hiện mệnh lệnh của Bộ, Quân đoàn 4 sử dụng Trung đoàn 2 (Sư đoàn 9), Trung đoàn 209 (Sư đoàn 7) và Tiểu đoàn 14 Tây Ninh, đại đội xe M.113 (8 chiếc) tiến công địch ở ấp Cây me và Long Thuận. Sư đoàn 341 sử dụng một trung đoàn tiêu diệt địch ở Xóm Trại, khu vực kinh tế mới, cầu Thúc Múc, rừng Long Khánh. Lực lượng còn lại đứng chân ở Mộc Bài, sẵn sàng đánh địch từ hướng Bà Vét 2 nống ra Mộc Bài, An Thuận.

Để chuẩn bị cho bộ binh tiến công, chiều ngày 1-10 năm 1977, ta sử dụng 8 máy bay A.37 đánh 2 đợt bom vào các khu tập kết lực lượng địch ở khu vực Cây Me - Bến Trại. 5 giờ sáng ngày 2-10, pháo binh ta dồn dập nã đạn vào các vị trí địch, sau đó bộ binh trên các hướng nổ súng tiến công. Hướng chủ yếu, Trung đoàn 2 chiếm được khu vực Mả Đá rồi phối hợp cùng các mũi tiến công của Trung đoàn 209 đánh chiếm ấp Cây Me. Tiếp đó, Trung đoàn sử dụng Tiểu đoàn 8 truy kích địch ở phía nam cầu Thúc Múc. Trên hướng Sư đoàn 341, sau khi tiêu diệt quân địch ở ấp Bến Trại, quân ta phát triển đánh chiếm sở chỉ huy địch ở cầu Thúc Múc và truy kích địch ở đông nam rừng Long Khánh. Trong trận này, các đơn vị của Quân đoàn 4 khôi phục được vùng biên giới bị lấn chiếm nhưng chưa thực hiện được yêu cầu tiêu diệt lớn sinh lực địch.

 Ngày 26-10-1977, Thường vụ Quân ủy Trung ương ra Chỉ thị số 238-QU/TW về Nâng cao chất lượng chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang bảo vệ vững chắc vùng biên giới, bờ biển và hải đảo thuộc các quân khu phía Nam. Thường vụ Quân ủy Trung ương biểu dương: “Các lực lượng vũ trang ta đã có nhiều cố gắng phối hợp với cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương kiên quyết đánh trả và đẩy lùi bọn xâm lấn, gây cho chúng nhiều tổn thất, về căn bản bảo vệ được đất đai vùng biên giới”(1). Đồng thời chỉ rõ thiếu sót: Việc nâng cao sức chiến đấu đơn vị cơ sở còn chậm, bố trí lực lượng phân tán, tổ chức chỉ huy nhiều nơi lỏng lẻo. Chưa nắm chắc tình hình địch, chưa có những cách đánh thích hợp.

Thường vụ Quân ủy Trung ương chỉ rõ: “Khuyết điểm lớn cần được lập tức khắc phục là tinh thần trách nhiệm của các cấp đối với nhiệm vụ bảo vệ từng tấc đất của nước nhà, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân còn chưa đầy đủ. Chất lượng bộ đội cũng như trình độ sẵn sàng chiến đấu chưa đáp ứng yêu cầu. Tổ chức chỉ huy thống nhất, tập trung, do đó việc bảo vệ biên giới chưa được tiến hành một cách chủ động và có hiệu quả theo một kế hoạch thống nhất chặt chẽ. Sức mạnh tổng hợp của các lực lượng vũ trang và của nhân dân địa phương chưa được phát huy mạnh mẽ”(3).

Về nhiệm vụ trong thời gian tới, Thường vụ Quân ủy Trung ương nhấn mạnh: “Nhiệm vụ hàng đầu của các lực lượng vũ trang là bảo vệ vững chắc chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và hải đảo, từng tấc đất của Tổ quốc, tính mạng và tài sản của đồng bào. Đó là nhiệm vụ thiêng liêng phải làm tròn với một tinh thần trách nhiệm thật cao và một quyết tâm thật lớn”(4). Đề cập đến các biện pháp bảo vệ biên giới, Chỉ thị xác định những nhiệm vụ cụ thể về tác chiến, xây dựng và củng cố tuyến biên giới, xây dựng lực lượng đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu trước mắt và lâu dài.


(1) Lịch sử Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long), Sđd, t.II,, tr.14.
(2), (3), (4) Chỉ thị số 238-QU-TW ngày 6-10-1977, hồ sơ 970, tài liệu lưu tại Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, tr. 2, 3.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #33 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 09:11:41 am »

Từ ngày 5 đến ngày 10-10-1977, trên địa bàn biên giới Quân khu 7, địch tiếp tục lấn chiếm một số địa bàn quan trọng của ta. Chúng tích cực xây dựng công sự trận địa phòng thủ ở các vị trí đã chiếm được; đồng thời điều động một số sư đoàn ở phía sau ra sát biên giới. Trên hướng đường số 1, ngoài Sư đoàn 3 và các đơn vị địa phương bố trí ở khu vực Bà Vét - rừng Long Khánh, địch đưa thêm Sư đoàn 290 lên chiếm các bàn đạp hòng phát triển tiến công theo trục đường số 1, đánh chiếm các xã biên giới huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh.

Thực hiện quyết tâm đánh bại bước phiêu lưu quân sự mới của địch, hỗ trợ phong trào nổi dậy của nhân dân Campuchia, từ ngày 10 đến 20-10-1977, thực hiện mệnh lệnh của Bộ Tổng tham mưu, Quân đoàn 3 điều động các Trung đoàn 28, 66 (Sư đoàn 10), Trung đoàn 64 (Sư đoàn 320), do đồng chí Nguyễn Quốc Thước - Phó Tham mưu trưởng quân đoàn chỉ huy lên hướng Tân Biên (Tây Ninh), mở đợt hoạt động đánh địch từ nam Krek đến Xa Mát, Tà Nốt. Cùng thời gian này, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 điều Trung đoàn 1 (Gia Định), Trung đoàn 16 (La Ngà) tăng cường cho Sư đoàn 5. Đến ngày 22-10, mọi công tác chuẩn bị chiến đấu của các quân khu, quân đoàn cơ bản đã hoàn thành.

Ngày 23-10, Sở chỉ huy tiền phương Bộ Tổng tham mưu quyết định mở chiến dịch trừng trị quân Pôn Pốt lấn chiếm vùng biên giới Tây Nam. Trên hướng Quân đoàn 3, sau khi pháo binh bắn chuẩn bị, bộ binh trên các tuyến đồng loạt nổ súng tiến công địch. Xe tăng ta đột kích mãnh liệt vào cụm quân địch ở cầu O Rung, mở đường cho bộ binh tiến công vào Sở chỉ huy Trung đoàn 55 địch. Chỉ trong một ngày, Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 đã làm chủ các mục tiêu quy định, đẩy Sư đoàn 4 quân Pôn Pốt sang biên giới.

Ở hướng Quân đoàn 4, Sư đoàn 9 dùng pháo yểm trợ cho Trung đoàn 209 vượt đường số 1 vào chiếm lĩnh trận địa ở tây và tây nam Bà Vét 1. Do thời gian kéo dài, địch cơ động lực lượng đối phó, gây cho ta nhiều thương vong. Trong khi đó, trên hướng chủ yếu, Sư đoàn 341 vào chiếm lĩnh gặp khó khăn. Hiệp đồng giữa pháo binh, xe tăng và bộ binh chưa nhịp nhàng nên nhịp đổ tiến công chậm. Địch có điều kiện tổ chức lực lượng chống trả. 8 giờ 30 ngày 23-10, các đơn vị của Quân đoàn 4 đánh tan các đơn vị chủ lực và địa phương của địch, diệt 110 tên, bắt 25 tên, thu 11 súng, giải thoát cho 310 dân Campuchia bị quân Pôn Pốt giam giữ. Trong trận này, lúc đầu các đơn vị của Quân đoàn 4 hình thành được thế bao vây chiến dịch, nhưng trong quá trình chuyển sang tiến công các đơn vị đột phá chính diện chưa mạnh, thiếu thọc sâu chia cắt, các đơn vị vu hồi chưa thực hiện được ý đình luồn sâu đánh hiểm. Hiệp đồng giữa các mũi, các hướng, giữa bộ binh, pháo binh và xe tăng còn thiếu sót nên hiệu quả chiến đấu thấp. Quân đoàn 4 làm chủ được các mục tiêu, nhưng chưa thực hiện được yêu cầu tiêu diệt lớn sinh lực địch.

Trong các ngày từ 24 đến 26-10-1977, các đơn vị tiếp tục đánh địch ở khu vực Bà Vét 1 và 2, chùa Píc Pột, chùa Prey Pok, cầu Phum Đa. Trong đợt hoạt động này, các Quân đoàn 3, 4 và Quân khu 7 đã đánh chiếm lại các vị trí chiếm đóng của địch, khôi phục chủ quyền của trên toàn tuyến biên giới từ bắc Phum Soa đến Tà Mốc. Thắng lợi này có ý nghĩa cả về quân sự và chính trị; đồng thời khẳng định quân và dân ta quyết tâm chiên đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Hoàn thành nhiệm vụ đánh địch lấn chiếm, Quân đoàn 3, Quân đoàn 4 và Quân khu 7 tiếp tục đứng chân trên các địa bàn được phân công, củng cố lực lượng, sẵn sàng chiến đấu, đồng thời giúp nhân dân vùng biên giới khôi phục sản xuất, ổn định đời sống.

Song song với nhiệm vụ đánh địch bảo vệ biên giới phía Tây Nam, các lực lượng vũ trang ta làm nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, các hải đảo hoặc làm nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế, hướng vào thực hiện các nhiệm vụ công tác lớn đã được Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng xác định.

Để đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, kế hoạch huấn luyện giai đoạn 2 năm (1976-1977) của các đơn vị trong toàn quân có bước điều chỉnh bổ sung lớn. Phương châm huấn luyện sát thực tế chiến trường. Các nội dung huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật cá nhân, phân đội nhỏ được chú trọng. Việc đào tạo cán bộ phân đội (tiểu đội, khẩu đội, trung đội, cán bộ chuyên môn kỹ thuật được giao cho các nhà trường, các quân khu, quân đoàn (Quân đoàn 1 trong hai tháng 10 và 11-1977 được giao huấn luyện 1.000 quân, trong đó có hơn 500 tiểu đội trưởng, nhân viên kỹ thuật để giao cho Quân đoàn 3 và Quân đoàn 4). Nội dung huấn luyện thay đổi, cơ sở vật chất phục vụ huấn luyện ở một số đơn vị chưa được chuẩn bị chu đáo, thời gian chuẩn bị ngắn nên chất lượng giai đoạn huấn luyện 2 bị hạn chế. Ở các đơn vị làm nhiệm vụ sản xuất nhanh chóng chuyển sang nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu có đơn vị chỉ bảo đảm được 50 đến 60% nội dung huấn luyện đề ra.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #34 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 09:16:22 am »

Cùng với việc tăng cường lực lượng cho các đơn vị bảo vệ biên giới Tây Nam, ta đã tăng cường lực lượng và triển khai một số công trình phòng thủ ở biên giới phía Bắc và các hải đảo. Nhiệm vụ bảo vệ vùng trời, vùng biển với các nội dung sẵn sàng chiến đấu cao được quán triệt sâu sắc trong các đơn vị Quân chủng Phòng không, Không quân(1) và Hải quân.

Sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích bảo vệ biên giới có bước phát triển mới, nhất là ở 8 tỉnh biên giới Tây Nam. Tuy vậy, do việc giáo dục nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, xác định đối tượng tác chiến chưa kịp thời, nên ở một số đơn vị có biểu hiện tư tưởng chủ quan, lơ là thiếu cảnh giác, chất lượng huấn luyện sẵn sàng chiến đấu thấp.

Đối với nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế, các đơn vị phía Bắc và đơn vị sản xuất tập trung của Bộ ở xa biên giới hoàn thành các chỉ tiêu đề ra. Các Quân khu 5, 7, 9, Quân đoàn 3, Quân đoàn 4 chuyển sang chiến đấu và huấn luyện sẵn sàng chiến đấu. Các nông trường, lâm trường xây dựng dọc biên giới Tây Nam bị địch tàn phá, một số phải thu hẹp phạm vi, kế hoạch sản xuất nên chỉ tiêu chỉ đạt từ 30 đến 40%. Khả năng cung cấp, bảo đảm hậu cần tại chỗ phục vụ chiến đấu gặp nhiều khó khăn.

Cùng với các quân khu, quân đoàn; các quân chủng, binh chủng thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và lao động xây dựng kinh tế. Đối với công tác hậu cần đã hoàn thành hệ thống bảo đảm phục vụ chiến đấu cho các đơn vị ở biên giới Tây Nam. Sáu tháng cuối năm 1977, Tổng cục Hậu cần tổ chức thêm một tiểu đoàn vận tải thủy, một phân đội ô tô tiếp phẩm đường dài, điều một bộ phận ô tô vận tải Sư đoàn 572, 4 đội điều trị, một số tổ vệ sinh phòng dịch từ phía Bắc vào phía Nam. Đồng thời triển khai Binh trạm 18 ở Quy Nhơn để tiếp nhận và vận chuyển giao hàng cho hậu cần Quân khu 5 tại Plâyku và Đức Cơ.

Cụ thể, về công tác bảo đảm hậu cần, Quân khu 5 tổ chức thêm một tiểu đoàn vận tải ô tô, một bệnh viện và hai đội điều trị. Hậu cần Quân khu 7 tổ chức thêm một tiểu đoàn vận tải ô tô, 3 bệnh viện, 3 đội điều trị và 2 bệnh viện trung chuyển. Hậu cần Quân khu 9 tổ chức thêm hai tiểu đoàn vận tải ô tô, một bệnh viện và 2 đội điều trị. Ở Quân đoàn 3 và Quân đoàn 4, ta đều tổ chức thêm các trạm hậu cần, bệnh viện dã chiến phục vụ yêu cầu chiến đấu. Tháng 9-1977, hậu cần các đơn vị phải bảo đảm nhu cầu cho 50.000 quân, đến tháng 12-1977, quân số này tăng lên đến 80.000 người chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên toàn tuyến biên giới Tây Nam.

Bị thất bại liên tiếp trong các cuộc xâm lấn biên giới Tây Nam nước ta, phải co lực lượng phòng ngự, nhưng với bản chất phản động, ngoan cố, quân Pôn Pốt vẫn chưa chịu từ bỏ âm mưu lấn chiếm. Chúng tiếp tục bắt lính, tăng quân, ráo riết xây dựng công sự trận địa và điều động một lực lượng lớn bổ sung cho các đơn vị phía trước, áp sát biên giới Việt Nam, chuẩn bị bước phiêu lưu quân sự mới.

Về phía ta, theo chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, các đơn vị nhanh chóng tổ chức rút kinh nghiệm chiến đấu. Từ ngày 3 đến ngày 5-11-1977, Sở chỉ huy tiền phương Bộ Tổng tham mưu tổ chức Hội nghị sơ kết tác chiến trên toàn tuyến biên giới Tây Nam do đồng chí Tổng Tham mưu trưởng chủ trì. Sau khi đánh giá hoạt động tác chiến của các đơn vị trên toàn tuyến biên giới Tây Nam thời gian qua, phân tích âm mưu và dự kiến hoạt động của địch trong thời gian tới, Hội nghị đã đề ra phương châm tác chiến là: “Đánh có chuẩn bị tốt, nắm chắc địch, đánh chắc thắng, bất ngờ, chủ động linh hoạt”(2).

Hội nghị nhấn mạnh: “Đối với các hình thức tác chiến có sử dụng binh chủng hợp thành thì nên sử dụng trong phạm vi chiến dịch hoặc sử dụng chiến thuật trong điều kiện đánh với quy mô sư đoàn thiếu đến sư đoàn tăng cường. Cần chú ý vận dụng linh hoạt không rập khuôn như đánh với Mỹ - ngụy trước đây. Nếu vì sử dụng nhiều binh chủng kỹ thuật mà ảnh hưởng đến hành động của bộ binh thì kiên quyết không dùng. Với đối tượng quân Campuchia hiện nay thì dù vận dụng hình thức chiến thật nào cũng phải quán triệt tinh thần nhanh chóng hình thành thế bao vây nhiều tầng, kết hợp đón lõng nhiều hướng. Trên cơ sở đã vây chặt mới tổ chức thực hành đột phá một cách mãnh liệt, phát triển tiến công liên tục, truy quét triệt để”(3). Những kinh nghiệm được rút ra qua các trận chiến đấu vừa qua tuy chưa được hoàn chỉnh, nhưng đã góp phần giúp lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị xác định cách đánh phù hợp; đồng thời gợi mở những ý tưởng mới, giúp cấp trên có phương hướng lãnh đạo, chỉ đạo cuộc chiến đấu giành thắng lợi to lớn hơn nữa.


(1) Từ tháng 5-1977, Quân chủng Phòng không - Không quân được tách thành 2 quân chủng.
(2), (3) Hồ sơ tổng kết TK-2984, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, tr.5, 7.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #35 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 09:17:22 am »

Sau một số trận tiến công thăm dò lực lượng ta, đêm 16 ngày 17-11-1977, địch dùng Sư đoàn 3, Sư đoàn 290 và lực lượng vùng 23 mở cuộc tiến công mới vào nam bắc đường liên tỉnh số 13 từ Lồ Cồ đến bắc Sà Ney dài 25 km. Hướng chủ yếu tập trung vào khu vực đền Phúc Tân, Phum Soài, có nơi lực lượng của Sư đoàn 290 thọc sâu vào đất ta từ 5 đến 7 km. Chúng đốt hàng trăm nóc nhà, phá hoại hàng ngàn hécta màu của dân.

Sáng 17-1, Quân đoàn 4 điều Trung đoàn 2 (Sư đoàn 9) lên chi viện cho bộ đội địa phương tỉnh Tây Ninh đang chiến đấu cầm chân địch trên đường số 12. Tiếp đó, hai trung đoàn còn lại của Sư đoàn 9 cũng được điều động lên ngăn chặn địch. Bằng các trận phản kích quyết liệt, Sư đoàn 9 đã chặn được các mũi tiến công của địch cách Bến Sủi 3 km. Trong các ngày từ 18 đến 27-11-1977, hai Trung đoàn 1 và 6, bộ đội biên phòng và Sư đoàn 9, Quân đoàn 4 liên tục đánh địch ở khu vực Phước Tân, Côngpông Trạch (tây Lò Gò), Tà Nông, khu vực Bầu On. Do chiến đấu liên tục, lực lượng bị tiêu hao, Sư đoàn 9 và các lực lượng vũ trang địa phương phải tạm thời chuyển sang phòng ngự ngăn chặn địch.

Trước tình hình địch liên tục tiến công lấn chiếm và bắn pháo sang đất ta, Bộ chủ trương mở đợt phản công trừng trị quân lấn chiếm, khôi phục địa bàn bị chiếm đóng trái phép trên đất ta, đồng thời luồn qua biên giới đánh sâu vào các bàn đạp xuất phát tiến công của địch. Sau khi chỉ thị cho Quân đoàn 4 chủ động tổ chức lực lượng tiến công địch ở hướng đường số 1, lập các chốt dụ địch và đánh vào phía sau các sư đoàn địch đang lấn chiếm khu vực đường số 13, đầu tháng 12-1977, Bộ ra lệnh cho Quân đoàn 3 điều tiếp Sư đoàn 320 và các lữ đoàn binh chủng còn lại lên Tân Biên. Ngày 8-12-1977, Quân đoàn 3 thiết lập sở chỉ huy cơ bản tại khu vực đường 20 cách sân bay Thiện Ngôn 5 km về nam để chỉ huy các lực lượng của quân đoàn tham gia chiến dịch.

Vừa chiến đấu, Quân đoàn 4 vừa xây dựng bổ sung thêm lực lượng Sư đoàn 7 nhận lại Trung đoàn 14 từ Châu Đốc về và Trung đoàn 12 vừa được khôi phục. Các Trung đoàn 1, 3 (Sư đoàn 9), 2 đại đội pháo binh của Sư đoàn 341 được bổ sung thêm quân số và vũ khí trang bị. Lực lượng vũ trang hai Quân khu 7 và 9 cũng được bổ sung lực lượng, tích cực chuẩn bị cho những trận chiến đấu mới.

Đầu tháng 12-1977, trên tuyến biên giới Quân khu 7, địch tăng cường lực lượng lên 7 sư đoàn chủ lực, 4 trung đoàn và 8 tiểu đoàn địa phương. Chúng bố trí ba hướng: Đường số 1 và đường liên tỉnh 13 gồm 4 sư đoàn chủ lực (3, 170, 290, 703), 1 trung đoàn và 5 tiểu đoàn địa phương. Đường số 7 và đường số 22: bố trí 3 sư đoàn chủ lực (4, 5 và Sư đoàn 117 thiếu 1 trung đoàn), 1 trung đoàn địa phương vùng 21 và 3 tiểu đoàn quân địa phương. Đường số 13 và Sông Bé: bố trí 2 trung đoàn bộ binh.

Thực hiện mệnh lệnh của Bộ là phá tan âm mưu tập trung lực lượng chuẩn bị đánh lớn của địch, Quân đoàn 4 sử dụng Sư đoàn 9 đánh địch ở khu vực từ đường tỉnh số 13 đến ngã tư nhà thương. Sư đoàn 341 đánh địch ở Tuyên, Kêkixom, Sangkum, Miêngchay. Trung đoàn 14 (Sư đoàn 7) đánh địch ở đường Mộc Bài, Chiphu và Prasốt. Ngày 6-12-1977, Quân đoàn 4 nổ súng mở màn chiến dịch. Trong 8 ngày (từ 6 đến 14 tháng 12), Quân đoàn 4 đã đánh thiệt hại nặng Sư đoàn 290 địch, loại sư đoàn 3 khỏi vòng chiến đấu, làm tan rã các đơn vị quân địa phương, đẩy địch sang bên kia biên giới.

Trên hướng Minốt - Snun, Quân khu 7 sử dụng Sư đoàn 5, Sư đoàn 2, Trung đoàn 2 biên phòng và Trung đoàn 75 pháo binh đánh địch lấn chiếm ở Phum Đa, cao điểm 52, khu vực từ đông cầu 15 đến bắc Roudou 1, Khumkhuốc, Vạtsa, Chiraây, đẩy địch ra khỏi biên giới.

Phối hợp hoạt động với các đơn vị bạn, từ ngày 14 đến ngày 18-12, các lực lượng vũ trang Quân khu 9 đánh địch ở khu vực Giồng Bà Ca, núi Tham Dung, ngã ba Tà Lập, ngã ba Konpon Chey, điểm cao Lục Sơn, Núi Đất, truy quét địch ở khu vực Rê Minh. Trên hướng Đồng Tháp - Long An, các lực lượng vũ trang địa phương được chủ lực quân khu hỗ trợ đánh chiếm Sầmrông, Bathu, Sócchêk, Tàđiều, ngã ba Sócmới, Tàmốc, Lộ Quẹo, Bungchung, Sócri, đánh thiệt hại nặng 1 sư đoàn, 2 lữ đoàn, 3 tiểu đoàn của quân Pôn Pốt.

Những thắng lợi to lớn của quân và dân ta trên biên giới Tây Nam đã giáng một đòn mạnh vào âm mưu tập trung lực lượng, chuẩn bị cho bước phiêu lưu quân sự mới của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari, góp phần phục vụ đấu tranh chính trị, ngoại giao nhằm giải quyết bằng thương lượng hòa bình vấn đề xung đột biên giới giữa hai nước Việt Nam - Campuchia, do phía Campuchia dân chủ gây ra.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #36 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 09:26:04 am »

*
*   *

Bị tổn thất nặng nề, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari không thể che giấu mãi cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam nước ta. Ngày 31-12-1977, chúng công khai đưa vấn đề biên giới giữa hai nước ra trước dư luận thế giới.

Trước hành động vu cáo hòng cô lập Việt Nam trên tường quốc tế của tập đoàn Pôn Pốt Iêng Xari, ngày 31-12-1977, Chính phủ ta ra tuyên bố về vấn đề biên giới Việt Nam - Campuchia nêu rõ lập trường và nguyên tắc của ta là: “Kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mình, đồng thời luôn tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia, làm hết sức mình để bảo vệ tình đoàn kết chiến đấu và hữu nghị vĩ đại Việt Nam - Campuchia”(1); đồng thời vạch trần âm mưu thủ đoạn và những tội ác man rợ của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đối với đồng bào ta ở các tỉnh vùng biên giới Tây Nam.

Tinh thần xây dựng, lập trường chính nghĩa của Đảng và Nhà nước ta mong muốn giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước Việt Nam - Campuchia thông qua đàm phán hòa bình, tôn trọng lẫn nhau được dư luận thế giới đồng tình ủng hộ(2). Cùng với hoạt động ngoại giao, đòn tiến công quân sự của các lực lượng vũ trang ta cũng thu được thắng lợi quan trọng. Ngày 5-1-1978, các đơn vị tham gia đánh địch lấn chiếm cơ bản hoàn thành nhiệm vụ trở về đứng chân trên các địa bàn trọng yếu ở biên giới Tây Nam, vừa sẵn sàng chiến đấu, vừa tích cực giúp đỡ nhân dân đẩy mạnh sản xuất, nhanh chóng ổn định đời sống.

Trước tình hình mới, Thường vụ Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết về phương hướng nhiệm vụ công tác năm 1978, xác định: “Đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cao và chiến đấu thắng lợi, xây dựng lực lượng, nâng cao chất lượng chiến đấu và sức mạnh chiến đấu. Xây dựng tuyến phòng thủ vững chắc ở các hướng biên giới của nước ta, trước hết là biên giới Tây Nam, bảo vệ có hiệu quả vùng biển và vùng trời là nhiệm vụ trung tâm trước mắt của các lực lượng vũ trang. Phấn đấu đến cuối năm 1978, các lực lượng vũ trang địa phương và lực lượng cơ động của các quân khu phía Nam đảm đương được phần chủ yếu trong nhiệm vụ đánh địch bảo vệ dân, bảo vệ biên giới”(3).

Quán triệt Nghị quyết Thường vụ Quân ủy Trung ương, ngày 12-1-1978, Bộ Tổng tham mưu ra Mệnh lệnh số 04/ML Về chủ trương của ta đối với vấn đề biên giới Campuchia. Trên cơ sở xác định mục tiêu và nhiệm vụ tác chiến trên chiến trường biên giới Tây Nam, Bộ Tổng tham mưu quy định các đơn vị tham gia chiến đấu phải luân phiên tác chiến; đồng thời tập trung củng cố xây dựng lực lượng, huấn luyện, nâng cao sức mạnh chiến đấu, bảo đảm yêu cầu trước mắt và lâu dài.

Những ngày đầu tháng 1-1978, các hoạt động lấn chiếm của địch sang đất ta giảm dần. Địch không tổ chức những đợt lấn chiếm quy mô trung đoàn, sư đoàn nhưng chúng tăng cường các hoạt động tập kích, phục kích, quấy rối tiêu hao sinh lực ta. Ở phía sau, địch đẩy mạnh chiến tranh tâm lý, tiếp tục đôn quân bắt lính xây dựng thêm các sư đoàn mới đưa ra phía trước.

Ngày 13-1-1978, Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Campuchia ra Chỉ thị về đường lối tiến hành chiến tranh toàn diện chống Việt Nam. Tiếp đó, ngày 15-1, Chính phủ Campuchia dân chủ tuyên bố mở rộng hải phận tiếp giáp rộng 24 hải lý, vùng kinh tế đặc quyền rộng 200 hải lý và ra lệnh cho hải quân hoạt động đánh phá ta trên biển.

Theo dõi nắm bắt tình hình địch, Quân ủy Trung ương ta chỉ rõ: “Âm mưu cơ bản của chúng là dùng hành động quân sự để phá hoại, tiêu hao lực lượng ta lâu dài, tạo nên tình hình chính trị không ổn định, buộc ta phải bị động đối phó không thể tập trung sức lực xây dựng đất nước, do đó làm chậm công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta. Hạn chế ảnh hưởng của Việt Nam đối với khu vực Đông Nam Á và thế giới”(4).

Sau khi củng cố, đưa thêm 2 sư đoàn ra biên giới, nâng tổng số các đơn vị phía trước lên 11 sư đoàn, ngày 19-1-1978, địch dùng pháo 130 và Đ74 bắn sang thị xã Châu Đốc và khu vực núi Sam làm chết 27 người, bị thương 46 người, sập 32 ngôi nhà dân của ta. Tiếp đó, chúng bắn phá ngoại vi thị xã Tây Ninh, gây nhiều tội ác với đồng bào ta. Trên hướng Quân khu 7, địch tăng cường lực lượng áp sát đường số 1, đường liên tỉnh số 13 và đường 22, gây căng thẳng ở vùng biên giới thuộc các tỉnh Hà Tiên, An Giang và Đồng Tháp.


(1) Báo Quân đội nhân dân, ngày 7-1-1978.
(2) Ngay sau khi Chính phủ ta ra tuyên bố về vấn  đề biên giới Việt Nam - Campuchia; Chính phủ các nước Cuba, Tiệp Khắc, Ba Lan, Cộng hòa dân chủ Đức, Đảng Cộng sản Pháp, Liên Xô, Bungari, Mêhicô, Ấn Độ, Mianma đã lên tiếng ủng hộ cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
(3) Lịch sử Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, t.2 (1975-2004), tr.87.
(4) Báo cáo của Thường vụ Quân ủy Trung ương tại cuộc họp Bộ Chính trị số 38-QU/TW ngày 27-1-1978 - Phần nhận định âm mưu địch chủ trương của ta, tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #37 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 09:33:05 am »

Trước tình hình đó, ngày 19-1-1978, Bộ Tổng tham mưu điều động Sư đoàn 341 (Quân đoàn 4) tăng cường cho Quân khu 9, sẵn sàng chiến đấu; đồng thời ra lệnh cho các đơn vị ta trên toàn tuyến biên giới Tây Nam nâng cao cảnh giác, thực hiện phòng ngự tích cực để hỗ trợ cho Đảng và Nhà nước ta thực hiện đấu tranh chính trị và ngoại giao.

Ngày 5-2-1978, Bộ Ngoại giao ta ra tuyên bố lập trước 3 điểm để giải quyết vấn đề biên giới Việt Nam - Campuchia(1). Nhưng Pôn Pốt chẳng những không đáp lại thiện chí của ta mà còn huy động lực lượng áp sát biên giới. Ngày 7-2, chúng cho quân xâm nhập khu vực Bắc Kà Tum, ta đánh trả kịp thời, diệt và bắt 50 tên, thu 38 súng. Những ngày tiếp theo, địch tiến công Bắc Đai, Khánh Bình, Khánh An, Thường Phước (Hồng Ngự - Đồng Tháp), Lạc Quới, Võ Đá Biu (huyện Bảy Núi). Lực lượng tại chỗ của ta kiên quyết đánh trả địch, diệt nhiều tên. Ngày 25-2, địch huy động lực lượng lớn đánh vào rạch Nàng Đinh, nam Bến Sỏi và bắc Tà Nông thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Do lực lượng tại chỗ không đủ sức ngăn chặn các cuộc tiến công của địch, Bộ giao nhiệm vụ cho Quân đoàn 4 phối hợp với lực lượng địa phương đánh chặn cuộc tiến công của địch, chiếm lại khu vực bị lấn chiếm.

Từ ngày 27-2 đến 1-3-1978, Bộ Tổng tham mưu tổ chức Hội nghị sơ kết nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam lần thứ hai. Tham dự Hội nghị có chỉ huy các quân khu, quân đoàn, sư đoàn, ban chỉ huy quân sự các tỉnh phía Tây Nam, đại diện các binh chủng, một số quân khu, quân đoàn phía Bắc. Đồng chí Lê Đức Thọ và đồng chí Văn Tiến Dũng thay mặt Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương dự, chỉ đạo Hội nghị. Hội nghị đánh giá: “Các đơn vị đã có tiến bộ và trưởng thành trên nhiều mặt, trong xây dựng và chiến đấu, cả bộ đội chủ lực của Bộ, quân khu và dân quân du kích địa phương”(2). Nhưng trong xây dựng và tác chiến, ta còn bộc lộ một số hạn chế: “Chưa đánh tiêu diệt gọn địch, bộ đội chủ lực yếu trong đánh nhỏ, thương vong cao, tiêu thụ đạn nhiều. Dân quân, du kích xã ấp còn ít chưa hình thành được thế chiến tranh nhân dân ở địa phương”(3). Phân tích âm mưu, thủ đoạn của địch, khả năng tác chiến của ta, Bộ chủ trương: “Các đơn vị, địa phương phải chủ động đánh địch ngay khi địch mới bước chân sang đất ta và chủ động tích cực đánh địch ngay trên đất địch”(4).

Sau Hội nghị, để kịp thời chỉ đạo nghiên cứu đối tượng tác chiến mới, ngày 7-3-1978, Quân ủy Trung ương ra Quyết định số 191-QU/TW thành lập tổ nghiên cứu đường lối quân sự, nhiệm vụ quân sự của Đảng trong giai đoạn mới. Biên chế của tổ gồm 5 đồng chí: Hoàng Minh Thảo, Lê Hai, Nguyễn Xuân Hoàng, Võ Quang Hồ, Đỗ Trình (Tổ trưởng).

Theo chỉ đạo của Bộ, Quân đoàn 4 tích cực chuẩn bị mọi mặt cho cuộc phản công khôi phục khu vực Nàng Đinh, các Quân khu 5, 7 và 9 tích cực củng cố lực lượng sẵn sàng các hoạt động phối hợp toàn mặt trận. Sau khi hoàn thành công tác chuẩn bị, ngày 11-3, Sư đoàn 9 được tăng cường Trung đoàn 201 (Quân khu 7), Trung đoàn 209 (Sư đoàn 7), một số đơn vị thiết giáp được không quân chi viện mở cuộc tiến công địch ở khu vực Nàng Đinh. Sau khi vượt sông Vàm Cỏ, Trung đoàn 201 và Tiểu đoàn 8 (Trung đoàn 209) nhanh chóng tiến công khu vực bắc Tà Nông chiếm xóm Cây Xoài, ấp Bến Cầu, Xóm Mới, hình thành thế bao vây tây bắc rạch Nàng Đinh.

Cùng thời gian này, trên hướng chủ yếu, Trung đoàn 209 được tăng cường 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 1 và đại đội xe thiết giáp đánh chiếm Bến Chàu, Phra Ha Miệt. Trong 3 ngày (từ 12 đến 15-3), Sư đoàn 9 đánh chiếm Tà Lọt, Phước Thới, Bến Chùa, Tà Hét, Phra Ha Miệt và ấp Bến Cầu, khôi phục khu vực rạch Nàng Đinh, đẩy địch ra khỏi biên giới. Bị đánh mạnh ở khu vực rạch Nàng Đinh, địch điều chỉnh lực lượng tập trung chủ yếu vào hướng bắc Tây Ninh (bao gồm tuyến sông Vàm Cỏ Đông, đường số 22 và đường số 7).

Cuối tháng 3-1978, tình hình biên giới Việt Nam - Campuchia tiếp tục căng thẳng. Ở địa bàn Quân khu 7, địch tập trung 5 sư đoàn chủ lực và 5 trung đoàn địa phương ở Lò Gò (tây đường số 22 và đường số 7) được pháo binh chi viện lấn chiếm nam bắc đường số 22, tuyến đường Ủi (Romdoud - Xayta - Bắc Cà Tum, Bắc Lộc Ninh). Ở Quân khu 9, địch đánh phá khu vực Khánh Bình, Khánh An, nhiều đoạn thuộc huyện Bảy Núi và Hồng Ngự.


(1) Lập trường ba điểm: Một là, chấm dứt ngay mọi hành động thù địch ở vùng biên giới. Lực lượng vũ trang mỗi bên đóng sâu trong lãnh thổ của mình cách đường biên giới 5 km. Hai là, hai bên gặp nhau ngay tại Hà Nội, Phnôm Pênh, hoặc một địa điểm nào trên biên giới giữa hai nước để bàn bạc và ký một hiệp ước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không dùng vũ lực, hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ với nhau. Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Không tiến hành hoạt động lật đổ chống đối nhau, đối xử bình đẳng, sống hòa bình hữu nghị trong quan hệ láng giềng tốt. Hai bên sẽ ký một hiệp ước về biên giới giữa hai nước trên cơ sở tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của nhau trong đường biên giới hiện tại. Ba là, sẽ thỏa thuận một hình thức thích hợp bảo đảm quốc tế và giám sát quốc tế.
(2) Kết luận Hội nghị sơ kết biên giới Tây Nam lần thứ hai, từ ngày 27-2 đến 1-3-1978, hồ sơ tổng kết TK 2984, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, tr. 12.
(3), (4) Kết luận Hội nghị sơ kết biên giới Tây Nam lần thứ hai, từ ngày 27-2 đến 1-3-1978, hồ sơ tổng kết TK 2984, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, tr. 15, 17.
« Sửa lần cuối: 13 Tháng Tư, 2016, 10:25:32 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #38 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 09:33:59 am »

Để hạn chế sự xâm nhập qua biên giới của địch, buộc chúng phải xâm nhập theo một số tuyến nhất định, tạo điều kiện để ta tiêu diệt, theo chỉ thị của bộ, các Quân khu 5, 7, 9 xây dựng tuyến phòng thủ biên giới trên địa bàn thuộc phạm vi mình quản lý. Sau một thời gian tổ chức phòng ngự (từ tháng 1 đến tháng 3-1978), các đơn vị ta được lệnh rút bớt lực lượng từ các đơn vị phòng thủ để tổ chức các đơn vị tác chiến cơ động chuyển sang tiến công khôi phục lại các địa bàn bị địch lấn chiếm trái phép.

Từ ngày 5 đến 25-4-1978, Quân khu 9 mở chiến dịch phản công khôi phục các địa bàn bị địch lấn chiếm. Sư đoàn 330 cơ động diệt một bộ phận địch đang lấn chiếm khu vực rừng tràm Hà Tiên (đoạn Phú Mỹ). Sư đoàn 341 tiến công vào Lục Sơn, Cúp Pô. Trong khi ta đang tiến hành chiến dịch thì ngày 20-4, địch dùng 3 trung đoàn: Trung đoàn 12, 14 - Sư đoàn 2 và Trung đoàn 13 (Takeo) mở đợt tiến công lớn vào Tịnh Biên, Phú Cường, Ba Chúc, Núi Rồ, Thuyết Nạp, Lệ Trì, Yên Cư. Chúng dồn một số dân của ta về giam ở Núi Tượng. Trước tình hình đó, sau khi khôi phục đoạn Phú Mỹ, Quân khu 9 sử dụng Sư đoàn 330 đánh địch bảo vệ vùng Bảy Núi, giải tỏa số dân bị địch dồn về giam ở Núi Tượng. Do thời gian gấp, chuẩn bị chưa đầy đủ, phải đánh theo yêu cầu giải phóng dân, nên Sư đoàn 330 đánh Núi Tượng chỉ diệt và bắt được 700 tên địch, giải phóng được gần 600 dân.

Ngày 24-4, địch tập trung lực lượng cấp trung đoàn đánh Sa kỳ, Thị Vạn. Trung đoàn 3 (sư đoàn 341), bộ đội địa phương Kiên Giang và một số phân đội của Quân khu 9 phối hợp chiến đấu đẩy lùi các đợt tiến công của địch. Ngày 25-4, các đơn vị của Quân khu 9 hoàn thành nhiệm vụ đánh đuổi địch ra khỏi biên giới, khôi phục các khu vực bị địch lấn chiếm trái phép.

Trên hướng Quân khu 7, từ ngày 6 đến ngày 9-4, ta đẩy địch ra khỏi khu vực Lộc Hòa và đường 13B, sau đó phát triển chiến đấu đánh chiếm các điểm cao 102, 82, 100, 94, 95, 107, 117. Theo yêu cầu của lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia, Quân khu 7 thành lập Đoàn 977 làm nhiệm vụ giúp những người dân Campuchia chạy trốn tập đoàn Pôn Pốt sang Việt Nam lánh nạn.

Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 26-4-1978, Quân đoàn 4 mở chiến dịch tiến công đánh chiếm dải địa hình ven biên giới tỉnh Soàiriêng. Trong khi đó, Quân đoàn 3 bảo vệ địa phương bàn huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được tăng cường hai trung đoàn (113, 126) và Sư đoàn 31 tổ chức nhiều trận đánh địch lấn chiếm. Tuy đã được Bộ tăng cùng lực lượng, nhưng tác chiến trên địa bàn rộng, địch thường xuyên có 5 sư đoàn chủ lực, có pháo binh, xe tăng yểm trợ đánh phá, nên các đơn vị của Quân đoàn 3 phải liên tục bám đánh địch. Chiến đấu dài ngày, bộ đội mỏi mệt, nhiều cán bộ, chiến sĩ ngại giữ chốt, có nơi chiến sĩ cáo ốm bỏ nhiệm vụ. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 tổ chức học tập, nâng cao nhận thức chính trị cho bộ đội. Do tiến hành tốt công tác đảng, công tác chính trị, nên các đơn vị đã khắc phục được nhưng biểu hiện tiêu cực, sức chiến đấu được nâng cao.

Kịp thời rút kinh nghiệm công tác đảng, công tác chính trị ở Quân đoàn 3, đầu tháng 4-1978, Tổng cục Chính trị chỉ đạo các đơn vị chiến đấu trên biên giới Tây Nam tiến hành đợt sinh hoạt chính trị, làm cho bộ đội xác định rõ nhiệm vụ, kiên trì giữ chốt, tích cực chuẩn bị mọi mặt cho cuộc chiến đấu sắp tới.

Đến ngày 30-4-1978, cuộc chiến đấu của quân dân ta trên biên giới Tây Nam đã diễn ra được một năm. Quá trình tác chiến của quân Khơme đỏ trên chiến trường và những tin tức thu được của địch giúp ta hiểu được nguyên nhân sâu xa của cuộc chiến tranh, âm mưu thủ đoạn và tiềm lực chiến tranh của kẻ thù. Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đề ra yêu cầu tích cực lãnh đạo, chuẩn bị mọi mặt quân sự, chính trị, ngoại giao, tạo thế và lực cho cách mạng Campuchia, sẵn sàng các điều kiện để giải quyết cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam càng sớm càng tốt.

Thực hiện chủ trương đó, Bộ chỉ đạo các đơn vị đẩy mạnh hoạt động chuẩn bị chiến trường. Để mở rộng địa bàn, cải tạo thế đứng chân của các binh đoàn chủ lực, sau khi Quân đoàn 4 mở chiến dịch tiến công đánh chiếm dải địa hình có lợi ven biên giới tỉnh Xoàiriêng, đầu tháng 5-1978, Bộ tiếp tục sử dụng Quân đoàn 3 mở đợt hoạt động mới trên hướng đường số 7. Ngày 1-5, Sư đoàn 10 (Quân đoàn 3) sử dụng 4 tiểu đoàn luồn sâu vào đường số 7, đánh chiếm Khđar, sau đó phát triển tiến công Phsaâm và điểm cao 62 Quân khu 203 vội vã điều Sư đoàn 450 từ Minốt ra chặn ở Khđar, nhưng bị quân ta đánh tan.

Trên hướng phối hợp, Sư đoàn 31 chốt giữ Đập Đá - Sa Mát tiến đánh Phum Soa và Bầu Cây Sai, thu hồi địa bàn bị địch lấn chiếm, đẩy chúng ra xa biên giới ta. Sư đoàn 320 tổ chức vây lấn, mở rộng tuyến biên giới Lògò - Đàha, bẻ gãy các đợt phản kích của địch, giữ vững trận địa. Thắng lợi của Quân đoàn 3 tạo đà thuận lợi cho cuộc chiến đấu tiếp theo của toàn mặt trận.

Ở hướng Quân đoàn 4, từ ngày 7-5-1978, các đơn vị ta chuyển sang đánh địch bảo vệ địa bàn. Trước những đoàn tiến công mạnh mẽ của quân ta, nội bộ địch có nhiều biến động, phân hóa sâu sắc. Lực lượng quân sự kết hợp với phong trào yêu nước của quần chúng cách mạng Campuchia nổi dậy chống chính quyền Pôn Pốt nổ ra ở nhiều nơi. Địch phải rút bớt lực lượng từ biên giới về đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân ở các địa phương.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #39 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 09:35:16 am »

Trước yêu cầu giải phóng dân tộc Campuchia khỏi họa diệt chủng của Pôn Pốt, ngày 12-5-1978, lực lượng vũ trang đoàn kết Campuchia được thành lập do đồng chí Hun Xen làm Chỉ huy trưởng, cùng sát cánh chiến đấu bên cạnh bộ đội Việt Nam. Đây là đơn vị tiền thân của Quân đội nhân dân cách mạng Campuchia, đánh dấu bước phát triển mới của các lực lượng cách mạng Campuchia. Đến đây, phong trào cách mạng Campuchia đã xuất hiện những nhân tố mới.

Để hỗ trợ lực lượng yêu nước Campuchia, các lực lượng vũ trang ta trên biên giới Tây Nam tích cực đẩy mạnh các hoạt động, buộc địch phải đối phó ở phía trước; đồng thời điều động các đội trinh sát luồn sâu vào trong lòng địch, hỗ trợ phong trào nổi dậy của quần chúng, giúp lực lượng kháng chiến bạn mở rộng vùng giải phóng làm chuyển biến tình hình, chuẩn bị những điều kiện thuận lợi cho những hoạt động hiệu quả tiếp theo.

Xác định Quân khu 7 là một địa bàn trọng điểm trong công tác xây dựng lực lượng giúp bạn, sau khi kiện toàn Bộ Tư lệnh Quân khu, ngày 22-5-1978, Quân ủy Trung ương cử đồng chí Trần Văn Quang vào trực tiếp truyền đạt chủ trương giúp bạn: Theo yêu cầu của Bộ, đến tháng 10-1978, Quân khu 7 phải giúp bạn xây dựng từ 1.000 đến 2.000 quân bao gồm các đội vũ trang tuyên truyền, các đội tinh nhuệ, các phân đội phục vụ và trợ chiến từ 1 đến 2 tiểu đoàn bộ binh để tham gia tác chiến(1). Cuối tháng 5-1978, Bộ chỉ đạo Quân khu 9 tổ chức Hội nghị rút kinh nghiệm chiến đấu của du kích và bộ đội địa phương các tỉnh biên giới. Từ kinh nghiệm của Quân khu 9, các Quân khu 5, 7 cũng tổ chức rút kinh nghiệm, đẩy mạnh phong trào xây dựng lực lượng dân quân, du kích của địa phương lên một bước mới.

Bị thất bại trên các chiến trường, bị quần chúng cách mạng khắp nơi trong nước nổi dậy phản đối, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari càng điên cuồng đàn áp dã man phong trào cách mạng trong nước. Để hỗ trợ phong trào cách mạng của nhân dân Campuchia, mặc dù mùa mưa ta gặp nhiều khó khăn nhưng Bộ vẫn quyết định mở đợt tiến công mới trên các hướng đường số 1, đường số 7, vùng giáp biên giới Tây Ninh và đường số 19.

Đầu tháng 9-1978, Sở chỉ huy tiền phương Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ cho Quân đoàn 3: Tích cực phản công và tiến công địch, đưa chiến tranh sang đất địch, tạo thời cơ làm thất bại âm mưu chiến lược của địch trong cuộc tiến công của chúng. Phối hợp toàn bộ chiến trường, làm chủ và tích cực mở rộng địa bàn khu vực đường số 7.

Chấp hành mệnh lệnh của bộ, Quân đoàn 3 sử dụng 3 sư đoàn bộ binh và các đơn vị binh chủng của quân đoàn tiến công địch. Phối hợp với Quân đoàn 3, Quân khu 7 sử dụng 2 sư đoàn (5 và 302) đánh chiếm đường số 7, đoạn từ sông Chiêm đến Phumđa, sau đó phát triển lên hướng Snoul, Đầm Be. Ngày 10-6, các đơn vị của Quân khu 7 đánh chiếm các mục tiêu được giao.

Trên hướng Quân đoàn 4, ngày 15-6-1978, các đơn vị đánh chiếm các mục tiêu quan trọng là Chấk, Săngke, tiếp đó phát triển mở rộng phạm vi đánh chiếm khu vực Prêytoey, Prêytaoăng, Svey, Chêk, ngã ba Kâk. Cùng thời gian này, Quân khu 5 sử dụng 2 sư đoàn đánh địch ở nam bắc đường số 19. Bị đánh bất ngờ từ nhiều hướng, địch đối phó lúng túng bị động. Ngày 30-6, tiền phương Bộ Quốc phòng thông báo tình hình chiến sự trên chiến trường và nêu rõ các đơn vị phải cố gắng thực hiện tiêu diệt gọn từng đơn vị địch để làm chuyển hóa so sánh lực lượng có lợi cho ta, tạo thời cơ để lực lượng nổi dậy của cách mạng Campuchia phát triển nhanh. Tháng 7-1978, Quân đoàn 3 được Bộ giao nhiệm vụ đã đưa lực lượng thọc sâu vào hướng Krêk và hướng tây đường số 7, làm chủ các điểm cao 200, 202, 135, 153, 141, 119, 94, 50, Samakôm, Mênây, Chfeang.

Để đối phó với cuộc tiến công của ta, địch thành lập Bộ chỉ huy mặt trận đường số 7, sử dụng 3 sư đoàn (310, 174, 450) mở các đợt phản kích dữ dội vào các vị trí đứng chân của quân ta. Trong các ngày từ 6 đến 10 tháng 7-1978, địch liên tục tổ chức các cuộc phản kích, có xe tăng và pháo binh yểm trợ vào khu vực Châk. Để bảo vệ lực lượng, tạo thế đánh vận động tiêu diệt địch, ta chủ động rút lui khỏi Châk.

Sau khi tăng cường lực lượng cơ động cho Sư đoàn 7 và Sư đoàn 341, từ ngày 12 đến ngày 18-7, Quân đoàn 4 mở đợt tiến công tiêu diệt địch ở khu vực Châk và Săng ke. Trong 12 ngày chiến đấu (từ ngày 6 đến 18-7), Quân đoàn 4 đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn của 3 sư đoàn chủ lực địch, diệt và bắt hơn 1.000 tên, thu nhiều súng đạn và đồ dùng quân sự. Do mưa kéo dài, dải đồng bằng duyên hải tiếp giáp với Campuchia bị ngập úng nhiều vùng, cuối tháng 7-1978, các lực lượng vũ trang Quân khu 9 chuyển sang phòng ngự giữ đất đánh địch bảo vệ địa bàn.

Trước những diễn biến mới ở biên giới Tây Nam và trên các hướng khác, tháng 6-1978, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp đánh giá toàn bộ tình hình địch, ta; dự đoán khả năng phát triển của tình hình và xác định những chủ trương, biện pháp chiến lược của ta. Bộ Chính trị nêu quyết tâm: “Kiên quyết phấn đấu giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam càng sớm càng tốt, phối hợp tác chiến quân sự, chính trị, ngoại giao, ra sức giúp đỡ lực lượng cách mạng Campuchia chân chính đánh đổ tập đoàn phản động Campuchia”(2).


(1) Sau này, Bộ chính thức giao cho Quân khu 7 giúp bạn xây dựng 12 tiểu đoàn bộ binh, 20 đội vũ trang tuyên truyền.
(2) Báo cáo chuyên đề về chiến tranh biên giới Tây Nam, tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng, phòng Quân ủy Trung ương, hồ sơ 75, tr.30-31.
« Sửa lần cuối: 11 Tháng Tư, 2016, 09:28:40 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM