Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 01:35:25 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13  (Đọc 46461 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #110 vào lúc: 22 Tháng Năm, 2016, 05:53:44 pm »

Tiếp đó, ngày 3-2-1988, Bộ Tổng tham mưu triệu tập Hội nghị huấn luyện chiến đấu toàn quân năm 1988 tại Hà Nội. Hội nghị quán triệt tinh thần đổi mới của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đánh giá những ưu điểm, khuyết điểm trong công tác huấn luyện năm 1987. Hội nghị cũng làm rõ nguyên nhân hạn chế chất lượng huấn luyện năm 1987 và đưa ra yêu cầu về huấn luyện trong năm 1988 là: “Bảo đảm cơ bản, hệ thống, toàn diện, chất lượng về kỹ thuật và chiến thuật cho từng người và từng phân đội nhỏ”(1).

Nhìn chung, những chỉ lệnh huấn luyện và những hội nghị về huấn luyện của Bộ Tổng tham mưu đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao khả năng huấn luyện sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng nước ta, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Cùng với các chỉ đạo đẩy mạnh công tác huấn luyện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, ngày 13-12-1988, Bộ Tổng tham mưu ra Chỉ thị số 116/CT-TM Về xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện theo năm yêu cầu và kết hợp thực hiện các chỉ thị xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, tập trung vào những nội dung: Một là, tất cả cán bộ, chiến sĩ trong trung đoàn luôn sẵn sàng nhận nhiệm vụ chiến đấu, công tác. Quân số, vũ khí, trang bị luôn đủ; hai là, động tác chiến đấu của từng người và phân đội từ tiểu đội đến tiểu đoàn phải thuần thục, phù hợp với yêu cầu chiến thuật và đúng với nghệ thuật quân sự Việt Nam; ba là, khi huấn luyện và diễn tập, trung đoàn phải thể hiện được khả năng tổ chức, chỉ huy chiến đấu đúng chiến thuật và công tác tham mưu; bốn là, các tổ chức Đảng, tổ chức quần chúng và công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật được củng cố, kiện toàn, hoạt động đúng chắc năng, nhiệm vụ, chế độ quy định; năm là, bộ đội được rèn luyện kỷ luật nghiêm, sinh hoạt theo nền nếp chính quy của điều lệnh, có đời sống tinh thần lành mạnh.

Có thể nói, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện là một trong những biện pháp quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng của lực lượng vũ trang. Bộ Quốc phòng chủ trương phải đi từng bước vững chắc, trước hết phải xây dựng các trung đoàn bộ binh trong các sư đoàn bộ binh và các tiểu đoàn trong các lữ đoàn binh chủng vững mạnh toàn diện; sau đó mới xây dựng các sư đoàn bộ binh và các lữ đoàn binh chủng. Để thực hiện chủ trương này, Bộ Tổng tham mưu quyết định chọn Trung đoàn 165 (Sư đoàn 312, Quân đoàn 1) và Trung đoàn 95 (Sư đoàn 325, Quân đoàn 2) làm điểm xây dựng thành hai trung đoàn vững mạnh toàn diện để rút kinh nghiệm chỉ đạo xây dựng các trung đoàn trong những năm tiếp theo. Các quân khu, quân đoàn, quân, binh chủng cũng chọn đơn vị cấp trung đoàn (gồm 30 đơn vị kể cả chủ lực và địa phương) từng bước xây dựng thành trung đoàn vững mạnh theo 5 yêu cầu do Bộ đề ra.

Kết thúc mùa huấn luyện, các đơn vị tổ chức diễn tập thực binh đánh giá trình độ cán bộ chỉ huy và khả năng sẵn sàng chiến đấu của bộ đội. Trong năm 1988, Quân đoàn 2 tổ chức 48 cuộc diễn tập trên bản đồ và ngoài thực địa, Sư đoàn 325 và các trung đoàn thuộc sư đoàn diễn tập chiến thuật tiến công và phòng ngự ba lần đạt kết quả cao. Các đơn vị chủ lực thuộc Quân đoàn 1, Quân đoàn 2 tổ chức diễn tập tham mưu cấp sư đoàn trong chiến dịch phòng ngự và chiến dịch tiến công trên địa bàn rừng núi. Từ ngày 22 đến ngày 27-11-1989, Quân đoàn 2 tổ chức tập huấn chiến dịch và diễn tập “Chiến dịch phản công quân địch ở địa hình rừng núi”. Đợt diễn tập bồi dưỡng người chỉ huy các cấp về nguyên tắc nghệ thuật chiến dịch phản công, thống nhất quy cách công tác tham mưu chiến dịch; đồng thời, rèn luyện nâng cao trình độ tổ chức, chuẩn bị chiến đấu và xử trí các tình huống.

Thời gian này, các Quân khu 1, 2, 3, 4, 5, 7 tổ chức cho bộ đội diễn tập thực nghiệm và diễn tập kiểm tra khả năng sẵn sàng chiến đấu theo các tình huống đề ra. Qua các cuộc diễn tập, trình độ và khả năng sử dụng binh khí chiến đấu hiện đại của cán bộ, chiến sĩ được nâng lên. Trong 2 năm 1989-1990, toàn quân tổ chức được 12.896 cuộc diễn tập, gồm diễn tập cơ quan tham mưu chiến lược, diễn tập cơ quan tham mưu hai cấp, diễn tập chỉ huy và tham mưu ba cấp. Kết quả các cuộc diễn tập khẳng định sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị trong toàn quân đã được nâng lên một bước, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Quán triệt phương châm huấn luyện sát với thực tế chiến đấu, tháng 8-1987, Bộ điều Sư đoàn 312 (Quân đoàn 1) lên Vị Xuyên (Hà Giang) thay phiên Sư đoàn 356 (Quân khu 2) tổ chức phòng ngự bảo vệ chủ quyền biên giới Tổ quốc. Sư đoàn 312 nhận nhiệm vụ phòng ngự ở tuyến giáp với quân địch. Mọi sinh hoạt của bộ đội đều ở dưới lòng đất, có trận địa chỉ cách biên giới 10 mét, thường bị chúng bắn phá, khiêu kích. Để giữ gìn lực lượng chiến đấu lâu dài, các đơn vị thực hiện phòng ngự ở phía trước; đồng thời, cứ 10 đến 15 ngày luân phiên về phía sau huấn luyện, bổ sung quân số, trang bị, lương thực… Tháng 4-1988, Bộ Quốc phòng điều Sư đoàn 325 (Quân đoàn 2) lên thay thế, Sư đoàn 312 trở về đội hình Quân đoàn 1.

Sư đoàn 325 cùng với các đơn vị phối thuộc khắc phục khó khăn, gian khổ, xây dựng trận địa phòng ngự vững chắc và hoàn thiện các phương án tác chiến. Hoàn thành nhiệm vụ phòng ngự chiến đấu, tháng 11-1988, Sư đoàn 325 bàn giao trận địa phòng ngự cho đơn vị bạn và tổ chức hành quân về đội hình Quân đoàn 2. Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm chiến đấu của các đơn vị làm nhiệm vụ chiến đấu ở Vị Xuyên, Bộ Tổng tham mưu bổ sung nội dung huấn luyện bộ đội sát với thực tế chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.


(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Bộ Quốc phòng 1945-2000 (Biên niên sự kiện), Sđd, tr.714.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #111 vào lúc: 22 Tháng Năm, 2016, 05:54:38 pm »

*
*   *

Trong khi quân và dân ta thực hiện nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc trên một số khu vực ở biên giới phía bắc, thì một bộ phận quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tiếp tục làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia.

Bước sang năm 1986, cùng với các đợt hoạt động truy quét địch ở biên giới và nội địa, xây dựng tuyến phòng thủ biên giới, ta chú trọng giúp bạn xây dựng một số binh chủng nhằm tăng cường khả năng chiến đấu của quân đội bạn. Ngày 9-1-1986, Bộ Quốc phòng Việt Nam trao đổi Nghị định thư với Bộ Quốc phòng Campuchia về việc giúp bạn xây dựng lực lượng phòng không, không quân và hàng không dân dụng. Ngày 31-3, Bộ Quốc phòng Việt Nam quyết định giúp Campuchia xây dựng trung đoàn bộ binh cơ giới và tiểu đoàn xe tăng. Đây là bước phát triển quan trọng đánh dấu sự trưởng thành của quân đội cách mạng Campuchia trong quá trình xây dựng và phát triển lực lượng với đầy đủ các binh chủng hợp thành.

Năm 1986, việc huấn luyện của ta và bạn trên chiến trường Campuchia được duy trì chặt chẽ. Các đơn vị phía trước và phía sau luân phiên huấn luyện, chiến đấu. Các nội dung huấn luyện và tác chiến hiệp đồng binh chủng được cả ta và bạn chú trọng. Yêu cầu huấn luyện cho bạn làm chủ vũ khí trang bị thu hút nhiều công sức của cán bộ chuyên gia Việt Nam. Mặc dù gặp nhiều khó khăn trong ngôn ngữ giao tiếp, đội ngũ chuyên môn kỹ thuật chuyên gia Việt Nam với tinh thần trách nhiệm cao, tận tụy với công việc đã cơ bản giúp bạn hiểu tính năng và sử dụng thành thạo các trang bị kỹ thuật trong biên chế.

Mùa mưa năm 1986, do lực lượng địch suy yếu và phân tán hoạt động lẻ tẻ, ta và bạn tiếp tục đi sâu vận động nhân dân bóc gỡ ngầm làm trong sạch địa bàn, củng cố xây dựng cơ sở theo phương hướng nâng cao chất lượng cán bộ và hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở. Ở biên giới, Bộ Tư lệnh quân tình nguyện chủ trương: xây dựng và bổ sung lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia để cuối năm 1986, bạn làm chủ được tuyến 1 và hoàn thành tuyến phòng thủ biên giới Campuchia - Thái Lan. Mặc dù địch chống phá điên cuống và do thời tiết rất khắc nghiệt, cán bộ, chiến sĩ ta cùng với bạn hoàn thành công trình phòng thủ biên giới, đào đắp công sự, trận địa trên tuyến biên giới dài gần 200km, góp phần ngăn chặn hoạt động của địch từ ngoài biên giới vào nội địa. Trong năm 1986, trên hai mặt trận 479 và 779, ta và bạn tổ chức hoạt động 1.043 lần, loại khỏi chiến đấu 6.358 tên địch, thu 3.366 súng các loại. Ở mặt trận 579 và 979, ta cơ bản hoàn thành các kế hoạch truy quét, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giúp các lực lượng vũ trang Campuchia củng cố phát triển lực lượng, bảo vệ thành quả cách mạng.

Năm 1987, so sánh lực lượng giữa ta và địch có những thay đổi cơ bản ngày càng có lợi cho các lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia. Chính quyền cách mạng được xây dựng ở phum, xã tương đối vững chắc. Ở nhiều nơi, chính quyền cơ sở của bạn tự đảm nhiệm điều hành được công việc xã hội. Tuyến phòng thủ biên giới Campuchia - Thái Lan cơ bản hoàn thành, góp phần ngăn chặn sự thâm nhập của địch từ biên giới vào nội địa. Lực lượng vũ trang ba thứ quân của bạn đã trưởng thành, thực hiện các nhiệm vụ tác chiến với nhiều trận đánh đạt hiệu suất chiến đấu cao. Đánh giá về sự hồi sinh và phát triển của Campuchia, đặc biệt là trong hai năm 1986-1987, Tổng Bí thư Hêng Xom Rin, nêu rõ: “Lực lượng vũ trang Campuchia ở biên giới ngày càng có kinh nghiệm và năng lực tiến lên làm chủ bảo vệ một phần biên giới trong thế hợp tác chặt chẽ với bộ đội Việt Nam giúp đỡ phối hợp chiến đấu khi tình hình cần thiết. Trong nội địa phong trào dân quân du kích đánh địch ở xã ấp tiếp tục phát triển, ở một số nơi lực lượng dân quân cùng với đại đội hai chức năng tiến lên đảm đương nhiệm vụ bảo vệ cơ sở, tạo điều kiện khi bộ đội tỉnh phối hợp với bộ đội Việt Nam cơ động đánh địch. Số đơn vị dám đánh địch tăng lên một mức, đến nay ta đã củng cố 62% đại đội hai chức năng, 30% dân quân xã và 20% dân quân ấp, đánh địch thu được kết quả tốt. Kết quả cụ thể trong chiến đấu đến cuối năm 1987 thì lực lượng vũ trang Campuchia và nhân dân đã loại quân địch ra khỏi vòng chiến đấu là 43%, tiêu diệt địch 30%, bắt sống địch 67 %, thu vũ khí 55% của kết quả chung của cả lực lượng Campuchia và Việt Nam”. Đồng chí Tổng Bí thư khẳng định: Trong quá khứ cũng như hiện tại và trong tương lại, liên minh chiến đấu Campuchia - Việt Nam, Campuchia - Việt Nam - Lào được chứng minh rõ ràng đây là nhân tố phát triển và là nhân tố sống còn của cách mạng Campuchia, cũng như cách mạng ba nước Đông Dương”(1).


(1) Phát biểu của Tổng Bí thư Hêng Xom Rin tại Hội nghị chuyên gia Việt Nam được tổ chức tại Thủ đô Phnôm Pênh ngày 15-1-1988, tài liệu lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông 34, Đơn vị bảo quản số 508, tr.2-3.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #112 vào lúc: 22 Tháng Năm, 2016, 05:55:59 pm »

Về phía cách mạng Việt Nam, thực hiện chủ trương “tiếp tụ rút Quân tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia, đồng thời sẵn sàng hợp tác với tất cả các bên để đi đến một giải pháp chính trị đúng đắn về Campuchia…”(1), sau đợt hoạt động mùa khô 1986-1987 thắng lợi, Bộ Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuhia xác định nhiệm vụ trong mùa mưa 1987: “Phấn đấu thực hiện yêu cầu của bốn vấn đề mấu chốt trong Nghị quyết số 125/BCS719, tổ chức thực hiện kiên quyết, khẩn trương chặt chẽ để đạt kết quả cao nhất. Tích cực tiêu diệt và làm tan rã những bộ phận quan trọng của địch. Làm địch suy yếu nhanh hơn, bạn trưởng thành nhanh, chất lượng vững. mạnh dạn phát huy vai trò làm chủ của bạn, tạo mọi điều kiện để bạn tự điều hành công việc tác chiến, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng xây dựng cơ sở qua đó để bạn trưởng thành nhanh hơn”(2).

Theo chủ trương đó, ta tạo mọi điều kiện để bạn chủ động tác chiến, đồng thời bàn giao một số địa bàn để bạn tự bảo vệ. Các đại đội hai chức năng do ta huấn luyện cho bạn ban đầu ta là chủ yếu (ta 2, bạn 1), dần dần bạn đảm nhiệm là chủ yếu (ta 1, bạn 2), có nơi ta 1, bạn 3 hoặc 4. Nhiều đo hai chức năng do bạn chỉ huy trưởng thành trong tác chiến bảo vệ địa bàn.

Ngày 11-10-1987, Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Campuchia ra Thông báo về việc rút một bộ phận quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia về nước. Theo đó, tháng 12-1987, ta tiếp tục rút đợt 6 quân tình nguyện Việt Nam về nước gồm Binh đoàn 94 (Sư đoàn 9, Quân đoàn 4), Lữ đoàn 4 (Lữ đoàn 550 công binh, Quân đoàn 4), Trung đoàn 259 (Bộ Tư lệnh Công binh), Tiểu đoàn 1 thiết giáp, Lữ đoàn 726 (Mặt trận 479) và 1 sư đoàn thuộc Mặt trận 979. Chấp hành mệnh lệnh cấp trên, các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam được chuẩn bị chu đáo đã tổ chức cuộc hành quân về nước an toàn.

Lợi dụng Việt Nam rút quân tình nguyện về nước, những tháng đầu năm 1988, địch ráo riết đưa chủ lực vào nội địa. Pôn Pốt dự định đưa 90% quân số vào nội địa tăng cường hoạt động nhằm tích cực giành dân, xây dựng chính quyền hai mặt. chúng đề ra chỉ tiêu “Lật đổ 2, xây dựng 4”, đến tháng 4-1988 phải giành được 60 đến 70% số phum, phát triển 20% đến 30% lực lượng du kích mật trong các xã. Thế nhưng, do lực lượng có hạn, mùa khô 1987-1988, địch chỉ tổ chức được các hoạt động nhỏ lẻ phần lớn là các vụ bắt cóc, khủng bố(3).

Trên cơ sở nhận định địch đã suy yếu, chúng không có khả năng đánh hiệp đồng binh chủng, khả năng huy động nguồn viện trợ từ bên ngoài vào có hạn, không có dự bị chiến lược, bạn đã đủ điều kiện để tự đảm đương nhiệm vụ bảo vệ địa bàn, nếu ta rút quân một cách thích hợp thì địch không có đủ khả năng làm thay đổi cục diện chiến trường, tháng 4-1986, Đảng ủy Quân sự Trung ương họp xác định trong hai năm 1988 và 1989, tiếp tục rút quân tình nguyện Việt Nam về nước, đồng thời thay đổi tổ chức, phương thức giúp bạn. Sau khi điều chỉnh lại lực lượng trên các mặt trận, ta bắt đầu giải thể các đoàn quân sự và thành lập các đoàn chuyên gia giúp bạn với lực lượng gọn nhẹ bao gồm đầy đủ các thành phần trên các lĩnh vực quân sự, kinh tế, giáo dục, y tế, nông nghiệp và công thương nghiệp.

Ngày 10-5-1988, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh thay mặt Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam gửi thư động viên quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia, khẳng định: “Quân tình nguyện Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ quốc tế của mình sẽ trở về nước”. Đồng chí Tổng Bí thư căn dặn: “Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia phải tập trung Việt Nam tại Campuchia phải tập trung những cố gắng cao nhất, tận tâm, tận lực giúp bạn và cùng bạn chiến đấu giành thắng lợi quyết định trong thực hiện ba mục tiêu chiến lược mà Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia đã đề ra”(4).

Ngày 21-5-1988, Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam ra Chỉ thị số 39-CT/TW hướng dẫn thực hiên Nghị quyết của Bộ Chính trị về vấn đề quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia. Trên cơ sở đánh giá tình hình chiến trường Campuchia, những nhân tố mới thể hiện sự vươn lên của cách mạng và nhân dân Campuchia. Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định đẩy nhanh tiến độ rút quân tình nguyện và chuyên gia quân sự về nước. Bộ Chính trị giao trách nhiệm cho Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng tổ chức thực hiện quyết định này.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Sđd, tr.108.
(2) Nghị quyết số 42A/BCS 719, ngày 21-4-1987, tài liệu lưu tại Văn phòng Quân khu 7.
(3) Từ tháng 1 đến tháng 5-1988, trên địa bàn Mặt trận 479 và 779, địch bắt 873 người, trong đó có 279 cán bộ phum, xã, tổ sản xuất, giết 29 người (có 7 cán bộ xã). Ở mặt trận 979, địch thực hiện 232 vụ bắt cóc, giảm 22 vụ so với cùng kỳ năm 1987.
(4) Thư của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam gửi quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia, tài liệu lưu tại Thư viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #113 vào lúc: 22 Tháng Năm, 2016, 05:56:40 pm »

Chấp hành Chỉ thị của Bộ Chính trị, ngày 26-5-1988, Bộ Quốc phòng Việt Nam ra Thông báo về việc rút hết quân tình nguyện Việt Nam ra khỏi Campuchia trong năm 1989, sớm hơn một năm (trước dự kiến đến năm 1990) so với thỏa thuận tháng 8-1985 giữa Cộng hòa nhân dân Campuchia và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Để thực hiện quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam thực hiện nhiệm vụ quyết tâm tại Campuchia, ngày 23-6-1988, Hội đồng Nhà nước quyết định tặng thưởng Huân chương Sao Vàng cho quân tình nguyện Việt Nam đã làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia về nước. Nhà nước Campuchia tặng Huân chương Ăngco cho Bộ Tư lệnh quân tình nguyện và Đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam.

Ngày 30-6-1988, Chính phủ Việt Nam ra tuyên bố rút quân tình nguyện và chuyên gia quân sự đợt thứ 7 về nước gồm: Bộ Tư lệnh quân tình nguyện, bộ tư lệnh các mặt trận, các đoàn chuyên gia quân sự với tổng số 50.000 quân, hơn 200 xe tăng, xe thiết giáp và 150 khẩu pháo các loại.

Quân tình nguyện và một bộ phận chuyên gia quân sự Việt Nam còn ở lại Campuchia tập trung mọi nỗ lực cao nhất, giúp bạn và cùng bạn chiến đấu, quyết tâm giành thắng lợi quyết định trong việc thực hiện ba mục tiêu chiến lược mà Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia đã đề ra.

Cùng với hoạt động truy quét địch, ta tiếp tục giúp bạn xây dựng lực lượng và củng cố chính quyền. Đến tháng 9-1989, ta đã giúp bạn xây dựng được 8 sư đoàn, 3 lữ đoàn, 13 trung đoàn, 66 tiểu đoàn, 219 đại đội với khoảng 90.000 quân chiến đấu tập trung (gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương tỉnh và huyện) và hơn 200.000 dân quân tự vệ. Trên cơ sở lực lượng vũ trang vững mạnh, cơ sở chính quyền cách mạng ở các địa phương được củng cố vững chắc ở 100% huyện, tỉnh, 90% phum, xã. Cuộc cống của nhân dân Campuchia từ thành thị đến nông thôn được cải thiện rõ rệt.

Từ ngày 21 đến ngày 26-9-1989, trong sự lưu luyến tiễn đưa của nhân dân Campuchia, toàn bộ quân tỉnh nguyện Việt Nam lần lượt rút quân về nước. Đây là đợt rút quân cuối cùng gồm những bộ phận thu dung của bốn Mặt trận (479, 579, 779, 979) và các đơn vị còn lại của hai Sư đoàn bộ binh 330 và 302, Đoàn 5 Hải quân, Trung đoàn căn cứ không quân 901, một số trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh và các đơn vị bảo đảm, kết thúc vẻ vang 10 năm thực hiện nhiệm vụ quốc tế của Quân đội nhân dân Việt Nam tại Campuchia.

Như vậy đáp lời kêu gọi của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia và nhân dân Campuchia, từ năm 1979, quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia mở cuộc phản công và tiến công thần tốc giải phóng hoàn toàn đất nước Campuchia, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. Ghi nhận sự giúp đỡ to lớn của Việt Nam, Quốc vương Xihanúc đã trịnh trọng tuyên bố: “Nếu họ (Việt Nam) không đánh đuổi bọn Pôn Pốt thì tất cả mọi người (Campuchia) có thể sẽ bị chết. Không chỉ riêng tôi mà là mọi người. Chúng (Khơme đỏ) đã có thể giết chết tất cả chúng ta. Ít nhất thì chúng ta đã được sống sót và chính vì điều này mà chúng ta có thể nói rằng Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia đã không mắc sai lầm khi đề nghị Việt Nam giúp đỡ chống lại Khơme đỏ. Bởi vì nếu chúng ta không được giải phóng khỏi bọn Pôn Pốt thì toàn dân tộc Campuchia có thể bị tiêu diệt”(1).

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam luôn kề vai sát cánh cùng các lực lượng vũ trang và nhân dân Campuchia chiến đấu bảo vệ chính quyền cách mạng, giúp đỡ nhân dân phục hồi sản xuất ổn định đời sống. Ở mọi công việc và trên bất kỳ lĩnh vực nào, cán bộ, chiến sĩ Việt Nam đều nêu cao tinh thần đoàn kết tôn trọng bạn, hết lòng giúp đỡ để bạn nhanh chóng trưởng thành. Đó là sự giúp đỡ tích cực, có hiệu quả, đáp ứng nguyện vọng và quyền lợi chính đáng của hai dân tộc.

Sau khi giúp nhân dân Campuchia củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng và phát triển đất nước, quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam rút về nước để nhân dân và lực lượng vũ trang Campuchia tự bảo vệ thành quả cách mạng và quyết định tương lai của đất nước mình. Một lần nữa, được Đảng, Nhà nước giao, một bộ phận Quân đội nhân dân Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, góp phần tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và xây dựng,bảo vệ thành quả cách mạng của nhân dân mỗi nước.


(1) Phát biểu của Quốc vương Xihahúc trên Đài Truyền hình Quốc gia Campuchia, báo Nhân dân, ngày 9-9-1995.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #114 vào lúc: 22 Tháng Năm, 2016, 05:57:38 pm »

Đồng thời với việc hoàn thành nhiệm vụ quốc tế đối với cách mạng Campuchia, quân và dân Việt Nam tiếp tục hoàn thành nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào.

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng ủy Quân sự Trung ương xác định phương hướng, nhiệm vụ quốc tế đối với cách mạng Lào cả trước mắt và lâu dài cho các quân khu và các địa phương qua hai giai đoạn cụ thể:

Giai đoạn 1, từ năm 1986 đến năm 1987, ta giúp bạn truy quét địch, giải phóng dân, thu phục phỉ, làm cho địch suy yếu, thất bại. Cùng bạn vận động quần chúng xây dựng cơ sở bản, xã vững mạnh theo phương châm 4 mặt và thực hiện 5 chương trình công tác của bạn(1). Từ đó, bạn mạnh lên từng mặt, tự đảm đương được nhiệm vụ. Quân đội nhân dân Việt Nam thực hiện điều chỉnh lớn về chiến lược quốc phòng, rút hết quân tình nguyện tại Lào về nước.

Giai đoạn 2, từ năm 1988 trở đi, thực hiện nhiệm vụ quốc tế với phương thức mới, tăng cường hợp tác giúp đỡ bạn toàn diện, xây dựng lực lượng và phương án sẵn sàng cơ động khi có tình huống xảy ra. Phối hợp tiêu diệt bọn phản động lưu vong xâm nhập. Kết hợp phát triển kinh tế, xã hội với quốc phòng, cùng các tỉnh bạn xây dựng tuyến biên giới hữu nghị, đồng thời, xây dựng hậu phương chiến lược, căn cứ địa cách mạng chung của hai nước thành bàn đạp tiến công trên hai hướng chiến lược Đông và Tây.

Theo phương hướng đó, các đơn vị tình nguyện Việt Nam tại Lào đẩy mạnh hoạt động, tìm phương thức đánh địch hiệu quả. Ta phối hợp với bạn chống xâm nhập, truy quét phỉ, phá nhiều căn cứ của chúng ở các vùng giáp ranh Xiêng Khoảng, Luông Pha Băng, Viêng Chăn, Bô Li Khăm Xay, đồng thời, xây dựng nhiều cơ sở ở các tỉnh đó. Thủ đô Viêng Chăn và khu vực Nam, Bắc đường số 9 ngày càng ổn định. Trong khi đó, các phân đội trinh sát biên phòng Thanh Hóa, Nghệ An giúp tỉnh kết nghĩa Hủa Phăn, Xiêng Khoảng đánh địch, xây dựng cơ sở và tuyến biên giới hữu nghị an toàn, làm chủ hiệu quả. Ở Viêng Chăn, ta và bạn phối hợp diễn tập chỉ huy tham mưu trên bản đồ “Chống địch tập kích bạo loạn vào thành phố Viêng Chăn” đạt kết quả tốt.

Cùng thời gian này, công trường hợp tác khai thác gỗ xuất khẩu của Quân khu 4 và Trung đoàn công binh 414 giúp bạn xây dựng, hoàn thành con đường từ Nậm Niên đến Nam Nậm Thiên dài 19km (tuyến Lạc Xao - Nhom Ma Lạt), đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của bạn. Trên cơ sở đó, bạn có điều kiện tham gia xây dựng cơ sở chính trị, xây dựng địa bàn và khu hậu phương chiến lược Lạc Xao.

Sau những thất bại nặng nề, các thế lực thù địch điều chỉnh sách lược và thay đổi phương thức hoạt động chống phá cách mạng Lào. Mỹ và Thái Lan cùng các lực lượng phản động tiếp tục gây áp lực thông qua đường viện trợ kinh tế đầu tư của nước ngoài, thực hiện “diễn biến hòa bình”, hòng gây chia rẽ các nước Đông Dương; đồng thời, tăng cường hoạt động của bọn phản động lưu vong, tìm cách khôi phục các ổ phỉ, căn cứ lõm, xây dựng cơ sở ngầm, dùng lực lượng luồn sâu phục kích, tập kích các hành lang, mục tiêu quan trọng, ra sức lợi dụng các mối quan hệ đồng dạng Thái - Lào, hòng lôi kéo Lào ngả sang phía “Tây”, xa dần phía “Đông”.

Trước tình hình đó, ngày 3-10-1986, thực hiện đường lối đối ngoại của Trung ương Đảng, sự chỉ đạo của Đảng ủy Quân sự Trung ương, Thường vụ Đảng ủy Quân khu 4 ra Chỉ thị số 184-CT/ĐU Về nhiệm vụ hoạt động mùa khô ở Lào 1986-1987, nêu rõ: Lực lượng quân tình nguyện và làm kinh tế, quốc phòng của Quân khu nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của địch, đẩy mạnh hoạt động trong cả mùa khô và mùa mưa, giúp bạn xây dựng cơ sở trên địa bàn rộng hơn.

Triển khai thực hiện nhiệm vụ giúp bạn, các đơn vị Quân khu 4 đẩy mạnh đánh địch ở nội địa, phá các cụm phỉ ở Mường Ca Xỉ, Phu Ma Thao; đồng thời, tích cực tham gia xây dựng các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, lực lượng du kích, an ninh và giúp bạn huấn luyện lực lượng vũ trang.

Hoạt động nổi bật trong thời gian này là quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với bạn ở Trung và Hạ Lào cùng lực lượng nội địa của ta (Quân khu 5 và Quân khu 4 giúp bạn trên hướng A Lưới, Hướng Hóa - Bình Trị Thiên) chặn đánh, vây bắt, tiêu diệt lực lượng lớn bọn phản động lưu vong do Hoàng Cơ Minh, trực tiếp chỉ huy từ Thái Lan qua Lào về chống phá Việt Nam. Kết thúc chiến dịch, ta và bạn tiêu diệt và bắt hơn 100 tên, trong đó Hoàng Cơ Minh và Bộ Tham mưu của chúng bị diệt ngay trên đất bạn. Chiến công này có sự giúp đỡ hết lòng của bạn, đã thường xuyên phối hợp với quân tình nguyện và các địa phương vùng biên giới, góp phần “triệt phá” âm mưu câu kết giữa bọn động Nam Đông Dương năm 1987 gồm Võ Đại Tôn, Nguyễn Văn Thanh, Hoàng Cơ Minh và bọn phản động ở Lào và Campuchia.

Sau nhiều năm phối hợp hoạt động với quân tình nguyện Việt Nam, lực lượng vũ trang nhân dân Lào phát triển, trưởng thành, từng bước đảm nhiệm được nhiệm vụ phòng thủ đất nước, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch. Theo sự thỏa thuận giữa Trung ương Đảng, Chính phủ hai nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đại bộ phận quân tình nguyện Việt Nam đang làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào lần lượt rút về nước từ cuối năm 1987.

Theo kế hoạch, Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Lào thống nhất điều chỉnh, bố trí lại lực lượng quân tình nguyện Việt Nam. Theo đó, phần lớn lực lượng quân tình nguyện Việt Nam rút về nước, chỉ để lại 3 trung đoàn hỗ trợ cho bạn thêm một thời gian., Quân khu 2 có 1 trung đoàn hoạt động ở Mường Sài (Bắc Lào); Quân khu 4 có Trung đoàn 1 (Sư đoàn 324) hoạt động ở lại Vàng Viêng (Viêng Chăn), Trung đoàn 830 (Trung đoàn 968) ở Pha Lan, Đồng Hến (Trung Lào).

Trước khi chuyển quân đến các địa bàn hoạt động, các đơn vị quân tình nguyện tổ chức nhiều hoạt động có ý nghĩa thiết thực như: quy tập, cất bốc hài cốt các liệt sĩ đưa về nước, số còn lại bàn giao cho các đội quy tập chuyển về sau. Cuối năm 1988, Trung đoàn 1 (Sư đoàn 324) và Trung đoàn 830 (Sư đoàn 968) hoàn thành nhiệm vụ quốc tế ở Lào rút quân về nước.

Có thể khẳng định, cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam sang giúp cách mạng Lào đã thể hiện ý chí chiến đấu và trách nhiệm chính trị cao, vượt mọi khó khăn gian khổ vì nghĩa vụ quốc tế cao cả, kiên quyết, mưu trí hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, vận động quần chúng xây dựng cơ sở, xây dựng lực lượng và kinh tế đời sống giúp bạn, chấp hành tốt kỷ luật chiến đấu, chính sách quốc tế của Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam. Đánh giá về vị trí, vai trò của quân tình nguyện Việt Nam đối với nhân dân các bộ tộc Lào, Bộ Quốc phòng Lào nhấn mạnh: “Quân tình nguyện Việt Nam đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, đóng góp tích cực vào việc đập tan âm mưu gây bạo loạn lật đổ ở Lào khi chính quyền mới ra đời năm 1976-1977, vào việc giữ gìn trật tự an ninh, chống phá các hoạt động phá hoại nhiều mặt của địch. Đồng thời, quân tình nguyện cũng đã có nhiều cố gắng tham gia xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa ở các địa bàn mình phụ trách trong những năm 1986-1990”(2).


(1) Phương châm 4 mặt: Quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. 5 chương trình công tác: Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, giao thông vận tải và xây dựng con người.
(2) Báo cáo tổng kết công tác giúp Lào từ năm 1986-1990, tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng, Phòng Quân ủy Trung ương, hồ sơ số 1012.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #115 vào lúc: 22 Tháng Năm, 2016, 05:58:08 pm »

*
*   *

Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn, sản xuất chưa phát triển; ngân sách nhà nước bội chi lớn nên chưa thể đáp ứng kịp thời nhu cầu xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; đồng thời, nguồn viện trợ ở nước ngoài không còn nữa. Trước tình hình đó. Bộ Chính trị và Đảng ủy Quân sự Trung ương xác định lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân phải thực hiện hiệu quả hai nhiệm vụ: Sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu; tăng gia sản xuất, xây dựng kinh tế là nhiệm vụ rất quan trọng.

Trên lĩnh vực tham gia phát triển kinh tế, ngày 11-11-1987, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra Chỉ thị số 1706/CT-QP về Nhiệm vụ lao động sản xuất và tham gia xây dựng kinh tế của quân đội trong tình hình mới. Chỉ thị nêu rõ: Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu của quân đội, do đó cần phải tập trung xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Mặt khác, quân đội có nhiệm vụ tham gia xây dựng kinh tế, làm ra của cải vật chất cho xã hội và tự giải quyết một phần nhu cầu của quân đội theo đúng chính sách, phát luật của Nhà nước.

Chấp hành Nghị quyết của Đảng ủy Quân sự Trung ương và Chỉ thị của Bộ Quốc phòng, toàn quân tổ chức lại việc xây dựng kinh tế, chấn chỉnh việc sản xuất, làm kinh tế của các đơn vị thường trực. Nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý, chỉ đạo các cơ sở quốc phòng và cơ sở kinh tế toàn quân, ngày 3-3-1989, Đảng ủy Quân sự Trung ương quyết định thành lập Tổng cục Công nghiệp và Kinh tế trực thuộc Bộ Quốc phòng trên cơ sở sáp nhập Cục Kế hoạch kinh tế và Cục Quản lý xí nghiệp thuộc Tổng cục Kỹ thuật, có nhiệm vụ: Quản lý các cơ sở sản xuất quốc phòng và cơ sở kinh tế toàn quân, giúp Bộ làm tham mưu cho Nhà nước về động viên công nghiệp phục vụ quốc phòng. Chủ nhiệm Tổng cục đầu tiên là đồng chí Thiếu tướng Phan Thu.

Cũng trong tháng 3-1989, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định cho phép thành lập các tổng công ty, công ty, liên hiệp xí nghiệp sản xuất kinh doanh thuộc Bộ Quốc phòng, gồm Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn (Binh đoàn 12), Tổng Công ty miền Trung (Binh đoàn 15), Tổng Công ty miền Đông (các đơn vị kinh tế thuộc Quân khu 7), Tổng Công ty miền Tây (các đơn vị kinh tế thuộc Quân khu 9), các Liên hiệp khoa học sản xuất 1, 2, 3, và Công ty Hải sản Biển Đông (các đơn vị kinh tế của Quân chủng Hải quân).

Việc tăng cường điều chỉnh, sắp xếp lại các doanh nghiệp theo hướng hạch toán, hiệu quả, thiết thực là một yêu cầu tất yếu của đất nước. Công tác xây dựng tổ chức lực lượng quân đội làm kinh tế đã góp phần tinh giản được biên chế, chọn được mô hình tổ chức ngày càng thích hợp, hoạt động có hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, giữ được đội ngũ cán bộ và công nhân có tay nghề cao. Từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với lực lượng tham gia xây dựng kinh tế, phù hợp với các chính sách kinh tế của Nhà nước và những đặc điểm riêng của nhiệm vụ các đơn vị xây dựng kinh tế của quân đội.

Đến năm 1990, toàn quân có 16 tổng công ty và công ty trực thuộc các tổng cục, quân khu và quân binh chủng; 32 xí nghiệp công nghiệp sản xuất quốc phòng và hàng dân dụng thuộc Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng và Kinh tế; 5 liên hiệp các xí nghiệp thuộc Tổng cục Hậu cần. Các tổ chức này là những đơn vị sản xuất kinh doanh, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế độc lập. Trên cơ sở lực lượng làm kinh tế được tổ chức lại, nhiệm vụ làm kinh tế của quân đội ngày càng đẩy mạnh và đạt hiệu quả cao.

Xuất phát từ quan điểm chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, từ năm 1986 đến năm 1990, Đảng, Nhà nước và quân đội thực hiện một cuộc điều chỉnh chiến lược lớn, bố trí lại lực lượng trên phạm vi cả nước, tạo thế phòng thủ hợp lý, nhất là tăng cường phòng thủ ở các khu vực trọng điểm, từng bước xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, hoàn thành nhiệm vụ quốc tế, rút quân tình nguyện ở Campuchia về nước; đồng thời, thực hiện chấn chỉnh một bước cơ bản tổ chức biên chế lực lượng vũ trang, giao hơn 60 vạn quân thường trực, nâng cao chất lượng tổng hợp của quân đội, trước hết là về mặt chính trị, bảo đảm cho quân đội vững vàng kiên định lý tưởng xã hội chủ nghĩa, quyết tâm bảo vệ Tổ quốc. Đó là cơ sở quan trọng tạo điều kiện thuận lợi để quân đội xây dựng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng, Nhà nước chủ trương chuyển một số đơn vị quân đội đang làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu sang làm kinh tế, đồng thời, chuyển giao một số cơ sở kinh tế của quân đội cho Nhà nước quản lý, điều hành. Việc tăng cường điều chỉnh sắp xếp các doanh nghiệp theo hướng hạch toán, hiệu quả, thiết thực là một yêu cầu tất yếu của quân đội và đất nước. Đồng thời, công tác xây dựng tổ chức lực lượng làm kinh tế đã góp phần tinh giản được biên chế, chọn được mô hình tổ chức ngày càng thích hợp, hoạt động có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, giữ được đội ngũ công nhân có tay nghề cao. Trong điều kiện đất nước đổi mới, việc từng bước hoàn thành về cơ chế, chính sách đối với lực lượng quân đội tham gia xây dựng kinh tế, phù hợp với các chính sách kinh tế của Nhà nước và những đặc điểm riêng của các đơn vị quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng.

Tóm lại, trong những năm đầu xây dựng theo đường lối đổi mới của Đảng, quân và dân ta đã thực hiện được một bước về điều chỉnh thế chiến lược bảo vệ Tổ quốc, tăng cường thế trận chiến tranh nhân dân, bước đầu xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, giảm quân số và chấn chỉnh quân đội thường trực, chuyển một bộ phận lực lượng sang làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế, giải quyết được một phần về đảm bảo vật chất cho quân đội, tạo điều kiện thuận lợi cho xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #116 vào lúc: 22 Tháng Năm, 2016, 05:59:22 pm »

2. Củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, sẵn sàng chiến đấu cao

Sau hơn bốn năm thực hiện công cuộc đổi mới (1986-1990), nhân dân ta đã tích cực phấn đấu và đạt được những thành tựu quan trọng. Nền kinh tế từng bước chuyển biến. Nền quốc phòng toàn dân được củng cố, tình hình an ninh, chính trị, xã hội ổn định. Đời sống của đại bộ phận nhân dân cũng như lực lượng vũ trang nhân dân từng bước được cải thiện. Uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Việt Nam đã từng bước phá được thế bao vây, cấm vận, kiên trì thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc vá Mỹ, tiến tới tham gia ASEAN. Đất nước đứng trước những vận hội mới, song còn nhiều khó khăn thách thức.

Bước vào kế hoạch 5 năm 1991-1995, bối cảnh quốc tế có những thay đổi lớn tác động sâu sắc đến Việt Nam. Sau cuộc khủng hoảng toàn diện và tan rã của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu là sự tan rã của Liên Xô. Từ năm 1991, nguồn vay bên ngoài giảm mạnh, sự ưu đãi về giá đã chấm dứt, nợ nước ngoài phải trả hằng năm tăng lên. Tình hình quốc tế đã gây cho chúng ta những đảo lộn lớn và đột ngột về thị trường xuất khẩu và nhập khẩu, nhiều chương trình hợp tác kinh tế và hợp đồng về lao động bị hủy bỏ. Trong một thời gian ngắn, chúng ta phải chuyển một phần đáng kể khối lượng buôn bán từ các thị trường truyền thống sang các thị trường mới; chịu những tác động lớn về biến động cung - cầu và giá cả của thị trường trường thế giới. Tình hình chính trị thế giới, bên cạnh những thuận lợi có những mặt phức tạp mới tác động vào nước ta. Các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện “âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ để chống phá cách mạng nước ta. Chúng tìm mọi cách kích động việc thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, tiến tới xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, truyền bá tư tưởng văn hóa đồi trụy, độc hại, đưa lực lượng gián điệp, biệt kích vào phá hoại nước ta; câu kết với bọn phản động và các phần tử xấu trong nước tăng cường hoạt động hòng lật đổ chế độ. Do đó, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đặt ra nhiều vấn đề hết sức nặng nề.

Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu càng xuất hiện nhiều vấn đề mới liên quan đến nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cùng với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân có nhiệm vụ đẩy mạnh công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phòng chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ trở thành nhiệm vụ cấp bách hàng đầu, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải luôn đề cao cảnh giác, chủ động đối phó với mọi tình huống, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Trong bối cảnh chung của quốc tế, khu vực và trong nước, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam là: Củng cố nền quốc phòng toàn dân, kiên quyết chủ động chống các âm mưu, thủ đoạn phá hoại của địch, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang. Đồng thời, sẵn sàng đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược trong điều kiện hiện đại là một chuẩn bị lâu dài, công phu, toàn dân, toàn diện. Đó không chỉ là vấn đề quân sự mà nó gắn liền với những vấn đề khác như: kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, vấn đề xây dựng tiềm lực của đất nước. Thấm nhuần quan điểm của Đảng, quân và dân ta ra sức xây dựng đất nước, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, tích cực tăng cường củng cố quốc phòng nhằm đáp ứng những yêu cầu mới trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Trước hết, củng cố quốc phòng vững mạnh, các lực lượng vũ trang ba thứ quân (gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ) phải được rà soát lại, bố trí hợp lý ở từng vùng, miền, từng địa phương trong cả nước, từ đó hình thành lực lượng mạnh tại chỗ cũng như cơ động, tạo nên thế chiến lược đồng bộ, liên hoàn, vững chắc của thế trận quốc phòng toàn dân nhằm giữ vững quyền chủ động đối phó với các cuộc tiến công kẻ thù trong mọi tình huống.

Nhằm đối phó với chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, Bộ Chính trị, Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng có nhiều chỉ thị, thông tư, nghị quyết chỉ đạo toàn quân phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, củng cố quốc phòng toàn dân vững mạnh, cảnh giác với các âm mưu và thủ đoạn phá hoại của địch; đồng thời, có kế hoạch xây dựng phương án tác chiến ở từng địa phương trong thế trận chung của cả nước. Đặc biệt là chú trọng các vùng chiến lược trọng yếu như: biên giới phía Bắc, biên giới Tây Nam, vùng cao Tây Nguyên. Toàn quân đã xây dựng phương án chuẩn bị lực lượng và thế trận phòng thủ chống chiến tranh xâm lược trong mọi tình huống, phù hợp với đặc điểm địa hình của từng địa phương. Ở các đảo, quần đảo, ta bố trí chủ lực trên các hướng chiến dịch, tăng cường phòng thủ biển đảo, trọng tâm là quần đảo Trường Sa. Các địa phương trong cả nước bố trí lại thành từng cụm, khu vực, trong đó ưu tiên xây dựng củng cố các huyện, xã giáp biên giới. Các tỉnh biên giới phía Bắc và biên giới Tây Nam từng bước xây dựng thành từng khu vực phòng thủ vững chắc để bảo vệ địa bàn, đủ sức đối phó các tình huống phá hoại của kẻ thù.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #117 vào lúc: 22 Tháng Năm, 2016, 06:00:51 pm »

Từ ngày 24 đến ngày 27-6-1991, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng họp tại Hà Nội, khẳng định: Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Về nhiệm vụ củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội trong giai đoạn mới, Đại hội xác định: “Đẩy mạnh xây dựng các khu vực phòng thủ… Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trong quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế của cả nước và trên từng địa phương… Xây dựng quân đội nhân dân cách mạng chính quy, từng bước hiện đại, tinh nhuệ, với cơ cấu tổ chức và quân số hợp lý; nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, được huấn luyện và quản lý tốt… Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và sự nghiệp quốc phòng, bảo đảm quân đội luôn luôn là lực lượng trung thành với Tổ quốc, với sự nghiệp cách mạng của cả nước và nhân dân, vững vàng trong mọi tình huống”(1).

Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng và Nhà nước tiến hành điều chỉnh sắp xếp cán bộ, kiện toàn tổ chức trong cả nước.

Về tổ chức chỉ huy ở Bộ Quốc phòng và cơ quan cấp chiến lược, ngày 10-8-1991, Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ 9 đã cử Đại tướng Đoàn Khuê, Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thay Đại tướng Lê Đức Anh chuyển sang công tác khác. Ngày 10-9-1991, Hội đồng Nhà nước quyết định bổ nhiệm Thượng tướng Đào Đình Luyện, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng giữ chức Tổng Tham mưu trưởng thay Đại tướng Đoàn Khuê; Trung tướng Lê Khả Phiêu, Ủy viên Trung ương Đảng; Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị thay Đại tướng Nguyễn Quyết.

Về tổ chức lãnh đạo cấp toàn quân, Ban Chấp hành Trung ương chỉ định Đảng ủy Quân sự Trung ương gồm 17 đồng chí. Ban Thường vụ gồm 7 đồng chí, do đồng chí Đỗ Mười, Tổng bí thư của Đảng kiêm Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương; đồng chí Đoàn Khuê, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng làm Phó Bí thư.

Sau khi được kiện toàn, trên cơ sở phân tích tình hình quốc tế và trong nước, đánh giá các hiện tượng có liên quan đến sự nghiệp quốc phòng, an ninh và âm mưu của các thế lực thù địch đối với nước ta, Đảng ủy Quân sự Trung ương ra Nghị quyết xác định nhiệm vụ quốc phòng 5 năm (1991-1995). Tiếp đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị ra Nghị quyết về nhiệm vụ quốc phòng và an ninh trong tình hình mới, xác định rõ quan điểm cơ bản của Đảng trong sự nghiệp củng cố quốc phòng toàn dân, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh. Đặc biệt, ngày 15-4-1992, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, gồm 12 chương và 147 điều. Đối với các lực lượng vũ trang, Hiến pháp 1992 quy định: Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc vá nhân dân, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Phải xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xây dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ hùng hậu”(2).

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, việc xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố tiếp tục thực hiện ở các địa phương trong cả nước. Ở biên giới Tây Nam, các quân khu và các tỉnh triển khai kế hoạch xây dựng khu vực phòng thủ trên đất liền và trên biển, tổ chức lực lượng tuần tra, chống xâm phạm biên giới, đánh bắt hải sản trên vùng biển, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống, giữ vững chủ quyền quốc gia.

Đầu năm 1992, Đảng ủy Quân sự Trung ương chỉ đạo về xây dựng khu vực phòng thủ, trong đó nhấn mạnh: Đẩy mạnh xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố trong thế trận quốc phòng toàn dân có khả năng ngăn chặn, đập tan các âm mưu và hành động phản cách mạng tại các địa phương, tích cực chiến đấu bảo vệ địa phương trong mọi tình huống, kết hợp xây dựng các công trình quốc phòng trọng điểm cần thiết. Tiếp đó, tháng 11-1992, Bộ Tổng tham mưu ra Chỉ thị số 245/CT-TM về việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc.

Thực hiện chủ trương đó, Bộ Tổng tham mưu xây dựng kế hoạch bảo vệ biên giới Tây Nam gửi tới các Quân khu 5, 7 và 9 nhằm đôn đốc kiểm tra các cửa khẩu, các khu vực trọng điểm ở biên giới các tỉnh Gia Lai, Sông Bé, Tây Ninh, An Giang, Kiên Giang; đồng thời, tổ chức phòng thủ các huyện biên giới, xây dựng làng xã - cụm xã, tăng cường lực lượng và cán bộ ở cơ sở, bảo đảm an ninh chính trị, chống buôn lậu, vượt biên trái phép, vi phạm quy chế biên giới, kết hợp chặt chẽ giữa các đồn biên phòng, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ và nhân dân để bảo đảm an ninh, chính trị, giữ vững chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.51, tr. 111-112.
(2) Bộ quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Bộ Quốc phòng 1945-2000 (Biên niên sự kiện), Sđd, tr.759-760.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #118 vào lúc: 22 Tháng Năm, 2016, 06:01:18 pm »

Cùng với việc tham gia đấu tranh bảo vệ chủ quyền của ta trên Biển Đông, các quần đảo, đảo, bãi đá ngầm, thềm lục địa, Bộ Tổng tham mưu tiếp tục hoàn thiện các kế hoạch bảo vệ khu vực Trường Sa và khu thăm dò dầu khí, tổ chức các lực lượng phòng thủ, các lực lượng tuần tra kết hợp với kinh tế và các dịch vụ biển khác. Cũng trong thời gian này, Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo các lực lượng phòng không, không quân, hải quân nghiên cứu chiến đấu bảo vệ các đảo xa; thường xuyên duy trì tàu trực chiến tại các khu vực Trường Sa, nơi thăm dò dầu khí, bãi cạn Cà Mau để kịp thời phát hiện các tàu thuyền lạ xâm nhập, bảo vệ chủ quyền trên biển của ta.

Giữa năm 1993, để đảm bảo chiến đấu trước tình hình mới, Bộ Tổng tham mưu ra Chỉ lệnh Sẵn sàng chiến đấu đối phó với cả 5 tình huống, trong đó có bạo loạn vũ trang. Theo đó, Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo diễn tập 8 quân khu, 4 quân đoàn tại thực địa về các loại hình chiến dịch, có một phần thực binh theo các tình huống chiến lược, trong đó có cả sư đoàn bộ binh trang bị bằng vũ khí mang vác. Các quân khu 1, 2, 5, Quân đoàn 1, Bộ Tư lệnh Hải quân, Bộ Tư lệnh Tăng - Thiết giáp, Bộ Tư lệnh Thông tin và các tỉnh tham gia. Trong quá trình diễn tập đã kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng với an ninh và kinh tế.

Ngày 28-7-1993, Bộ Tổng tham mưu ra Chỉ thị số 62/CT-TM về việc tổ chức diễn tập thực nghiệm kiểm tra phương án bảo vệ chủ quyền vùng biển, hải đảo và căn cứ Cam Ranh của lực lượng thuộc ba Quân chủng Hải quân, Phòng không, Không quân tại Sở chỉ huy dã ngoại khu Tây bán đảo Cam Ranh. Mục đích là đánh giá khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu theo phương án tác chiến của các đơn vị thuộc ba quân chủng, lực lượng vũ trang huyện Cam Ranh (Khánh Hòa) làm nhiệm vụ bảo vệ khu vực căn cứ quân sự quần đảo Trường Sa, đồng thời kiểm tra phương án bảo vệ khu vực dầu khí Vũng Tàu.

Cuối năm 1993, thực hiện Chỉ thị về: “Diễn tập thực nghiệm, kiểm tra phương án bảo vệ vùng biển, vùng biên giới phía Tây của Quân khu 5 và các đơn vị hoạt động trên địa bàn quân khu”, Quân khu 5 đã tổ chức diễn tập “Quân khu tổ chức hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng quân và dân các địa bàn tác chiến bảo vệ vững chắc quân khu”.

Cùng thời gian này, lực lượng vũ trang Quân khu 1 và Quân khu 9 tập trung mọi nỗ lực, phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng và an ninh ngày càng vững chắc. Trên các địa bàn trọng điểm, Quân khu đã chỉ đạo các đơn vị, địa phương xây dựng các khu vực phòng thủ trọng yếu, hoàn thiện kế hoạch tác chiến và tổ chức diễn tập ở các ấp. Thông qua các cuộc diễn tập có thể khẳng định lực lượng vũ trang các địa phương thuộc Quân khu có đủ khả năng chuyển mọi hoạt động từ thời bình sang thời chiến. Việc xây dựng lực lượng vũ trang ở khu vực phòng thủ được chú trọng và từng bước đi vào nền nếp.

Trên địa bàn biên giới phía Bắc, lực lượng vũ trang phối hợp với toàn quân xây dựng bảo đảm mỗi huyện có 3 trục đường dọc, 4 trục đường ngang, đường liên huyện, liên xã được mở rộng, cải tạo, nâng cấp, bảo đảm cho các loại xe cơ giới hoạt động khi cần thiết.

Thực hiện chủ trương của Đảng ủy Quân sự Trung ương, đến giữa năm 1994, cả nước có 44 tỉnh, thành phố; 316/642 huyện, quận (chiếm 49%), 1.647/10.572 xã, phường (chiếm 15%) hoàn thành diễn tập theo kế hoạch đối phó với nguy cơ xảy ra chiến tranh xâm lược quy mô lớn và xung đột cường độ thấp, với tình huống gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.

Sau một thời gian, việc xây dựng hệ thống các khu vực phòng thủ được tiếp tục triển khai rộng rãi ở tất các địa phương trong cả nước. hệ thống chỉ huy chiến đấu trên một số khu vực phòng thủ được củng cố. Đặc biệt, hệ thống các khu vực phòng thủ ở biên giới và hải đảo đã phát huy được sức mạnh tổng hợp toàn diện trong mọi tình huống, góp phần giữ vững an ninh, chính trị, bảo vệ vững chắc biên giới, lãnh thổ, vùng trời, hải phận của Tổ quốc. Ở mỗi quân khu đã hình thành một địa bàn chiến lược vững mạnh toàn diện; mỗi tỉnh, thành phố thuộc khu vực quân khu đứng chân trở thành một đơn vị chiến lược vững chắc của quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Trong 5 năm (1988-1992) xây dựng khu vực phòng thủ, Bộ Quốc phòng chỉ đạo, tổ chức diễn tập 46/53 tỉnh, thành phố (chiếm 85%), 525/548 huyện, thị (chiếm 77%), 3.519/9.967 xã, phường (chiếm 35%). Các quân khu đã xây dựng được các đại đội, tiểu đoàn bộ đội biên phòng ở các vùng trọng điểm. Dân quân tự vệ đạt tỷ lệ 2,2%-3,3% dân số, quân dự bị động viên đã đăng ký 60%; vận động nhân dân lập nghiệp ở các vùng trọng điểm như Quân khu 3 bố trí dân ra đảo Bạch Long Vĩ và một số địa bàn trọng yếu khác.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #119 vào lúc: 22 Tháng Năm, 2016, 06:02:23 pm »

Cùng với quá trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương củng cố và ổn định vùng biên giới phía Bắc. Các Quân khu 1, 2, 3 cùng với nhân dân địa phương gỡ được 1,5 triệu quả bom mìn, phá 17.000 quả, giải phóng 371 hécta đất canh tác, đưa dân về cư trú sản xuất, mở cửa khẩu biên giới (đường bộ, đường sắt, đường sông). Việc mở cửa biên giới đã tạo điều kiện mở rộng quan hệ giao lưu giữa hai nước chung sống hòa bình, song cũng bộc lộ nhiều tiêu cực, phức tạp đỏi hỏi quân và dân ta luôn phải nâng cao cảnh giác, bảo vệ vững chắc chủ quyền, bảo đảm an ninh quốc phòng ở địa phương.

Đối với vùng biển, đảo, nhất là quần đảo Trường Sa, Bộ Quốc phòng phối hợp với các ngành tổ chức nhiều đoàn kiểm tra, triển khai lực lượng xây dựng các công trình phòng thủ, huấn luyện quân sự và giáo dục chính trị tư tưởng, bảo đảm mọi mặt cho các đơn vị làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền vùng biển của Tổ quốc.

Xây dựng quân đội chính quy là một nội dung rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước, là nhân tố quan trọng góp phần tạo nên sức mạnh chiến đấu, khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội. Vì thế, cùng với việc xây dựng, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân, Trung ương Đảng luôn quan tâm đến vấn đề tổ chức, biên chế của quân đội, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, các nghị quyết của Bộ Chính trị và Đảng ủy Quân sự Trung ương, quân đội tiếp tục điều chỉnh lực lượng và thế bố trí chiến lược. Kế hoạch tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang trong những năm 1991-1995 được xác định: “Tiếp tục giảm quân số thường trực, tăng cường xây dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ, thực hiện một sự cân đối mới giữa ba thứ quân, kết hợp xây dựng quân đội về chính trị, quân sự, chính quy, sắp xếp lại hệ thống nhà trường theo hướng đại học hóa đội ngũ sĩ quan và nhân viên kỹ thuật, nâng cao một bước chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội”(1).

Ngày 15-1-1991, Bộ Tổng tham mưu ra Chỉ lệnh số 70CL-TM nêu rõ: Chấn chỉnh, kiện toàn lực lượng 5 năm (1991-1995), xác định: Từ năm 1991 đến 1995 chủ yếu điều chỉnh lực lượng từ hướng Bắc vào phía Nam phù hợp với thế bố trí của kế hoạch tác chiến chiến lược, đáp ứng yêu cầu và ứng phó được các tỉnh huống xảy ra”(2).

Trên cơ sở chấn chỉnh lực lượng, giảm quân số trong những năm 1986-1990, từ năm 1991, quân đội tiếp tục giảm quân số, chấn chỉnh tổ chức biên chế các cơ quan, đơn vị, bảo đảm cân đối, gọn nhẹ, chất lượng cao, đủ khả năng hoàn thành mọi nhiệm vụ trong tình hình mới. Cuối tháng 12-1990, Bộ Tổng tham mưu ra Chỉ lệnh Về tổ chức lực lượng, nêu rõ: “Trên cơ sở kế hoạch tổ chức lực lượng năm 1991-1995, giữ nguyên các tổ chức sẵn có, rút bớt quân của một số đơn vị bổ sung cho các quân khu, quân đoàn, các đơn vị quân binh chủng làm nhiệm vụ dọc biên giới và vùng biển. Rút bớt quân số của một số sư đoàn chỉ để lại cán bộ chủ chốt, chuyên môn kỹ thuật làm nhiệm vụ động viên theo nhiệm vụ được giao”(3).

Thực hiện chỉ lệnh về tổ chức lực lượng và nhiệm vụ quốc phòng 5 năm (1991-1995), quân đội tiếp tục điều chỉnh quân số cho phù hợp với thế bố trí chiến lược ở các khu vực, mục tiêu quan trọng trên phạm vi cả nước, giảm bớt lực lượng trên một số hướng, tăng cường lực lượng chủ lực (Bộ, quân khu), bộ đội địa phương ở phía Nam và Quân khu Thủ đô. Năm 1992, Bộ Tổng tham mưu tổ chức một số đơn vị mới trực thuộc Bộ Tư lệnh Công binh, Vùng 4 Hải quân và các Quân khu 5, 7, 9. Ngày 10-3-1993, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 104/QĐ-QP thành lập Học viện Phòng không, trên cơ sở sáp nhập Trường Trung cao cấp Phòng không và Trường Sĩ quan chỉ huy - kỹ thuật Phòng không (Quân chủng Phòng không).

Sau 3 năm thực hiện kế hoạch chấn chỉnh và tổ chức biên chế, tinh giảm quân số, ta đã dần hình thành rõ nét về quy mô lực lượng, cơ cấu tổ chức biên chế, trang bị kỹ thuật giữa các khối (chiến đấu, bảo đảm, phục vụ, cơ quan và nhà trường), giữa lực lượng chủ lực và địa phương, giữa bộ đội thường trực và dự bị động viên, đáp ứng 5 tình huống chiến lược và kế hoạch phòng thủ đất nước. Năm 1994, Bộ Quốc phòng tiếp tục chấn chỉnh tổ chức các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ Tổng tham mưu, tiến hành củng cố 88 đầu mối, nâng cấp, đổi tên 10 đơn vị, giải thể 7 đơn vị khác. Bộ đội chủ lực tiếp tục được củng cố, nâng cao chất lượng toàn diện.


(1) Hồ sơ B6, tài liệu lưu tại Văn phòng Bộ Quốc phòng.
(2) Hồ sơ B8, tài liệu lưu tại Văn phòng Bộ Tổng tham mưu.
(3) Hồ sơ 7/2, tài liệu lưu tại Văn phòng Bộ Tổng tham mưu.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM