Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 07:52:28 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Máy bay Mỹ trên vùng trời Điện Biên Phủ  (Đọc 27811 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #70 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 08:48:34 pm »


Chắc hắn do tình hình đang xáo trộn tại Điện Biên Phủ trong lúc thời tiết xấu và những trận bắn phá tập trung ở sát bãi thả dù cho nên đến 0 giờ 30 phút có lệnh hoãn các chuyến bay. Tôi không bực mình khi nghe tin này và lập tức về phòng, lên giường ngủ vào lúc 2 giờ.

Đến 10 giờ tôi lại tới bệnh xá đúng như đã hẹn với bác sĩ. Tôi được chiếu phổi và được biết đang bị viêm phổi. Sau khi bác sĩ ghi trên giấy phương thức điều trị, tôi lập tức đến ngay phòng bệnh. Không khí ở đây càng yên tĩnh hơn hôm trước rất nhiều. Một y tá chữa trị cho tôi bằng phương thức như bác sĩ đã ghi.

Trở lại đội bay, tôi được biết đại tá Nicot vừa gửi tới các chỉ huy đơn vị một công văn đề nghị cho biết danh sách những phi công đã làm việc liên tục suốt từ ngày 13 tháng 3 tới nay, nhằm lọc ra những người xuất sắc trong công tác phục vụ chiến trường Điện Biên Phủ để khen thưởng. Soulat không muốn tách bạch những người trong các đội bay mà ông đã biết rõ tất cả đều đáng khen như nhau.

Ông báo cáo trả lời cấp trên, tất cả những ai đã bay trước họng súng trong suốt ba mươi ngày qua đều có thể được khen, hoặc là không khen thưởng một ai cả.

Ngày thứ năm 15 tháng 4, sau khi hoàn thành nhiệm vụ trở về, những đội phi hành của đại úy Rols và các trung úy Magnat, Sécrétant, Clairé, Flachard, Courrèges được thông báo phải trở về ngay đơn vị cũ để lái máy bay C47.

Chúng tôi chỉ còn lại có bốn đội bay do phi công Pháp lái ở lại đơn vị C119. Đó là các đội bay của Soulat, Dompnier, Coudon và tôi, coi như một cái đảo nhỏ trong biển Mỹ.

Sáng 17 tháng 4, Soulat nom có vẻ tươi tỉnh (vì được ngủ yên suốt đêm qua) cùng bay với tôi trên chiếc C119 số 564 để thử thả dù mở chậm. Mỹ đang thúc ép chúng tôi sử dụng loại dù này. Kết quả thử nghiệm hoàn toàn thất vọng. Hệ thống tự động mở dù bị trục trặc không đều khắp vì vậy có chiếc dù rơi chậm, lại có những chiếc rơi nhanh làm cho các kiện hàng tản mát rất rộng khi thả từ độ cao tám nghìn feet xuống đất,

Không có máy bay ngắm theo dõi và đường rơi của các kiện hàng tùy thuộc vào nhiều yếu tố rất khó chế ngự, như độ cao lúc thả, sức gió, thời gian rơi.

Buổi chiều, tôi lại bay lên Điện Biên Phủ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #71 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 08:49:31 pm »


Sáng chủ nhật 18 tháng 4, Soulat và Coudon cất cánh từ lúc trước rạng đông. Họ thả dù đúng vào lúc đã đêm kết thúc nhưng mặt trời chưa mọc. Khu vực thả dù yên tĩnh.

Vào cuối buổi sáng, Coudon lại cất cánh trên chiếc máy bay 147, tôi lái chiếc máy bay số 564. Những người Mỹ cùng bay với chúng tôi. Những chiếc máy bay thả dù của chúng tôi được máy bay ném bom B.26 hộ tống nhưng sương mù khô đã làm cho những đợt ném bơm không chính xác, kém hiệu quả, vì chúng tôi thấy pháo Việt Minh vẫn bắn trả mãnh liệt, cao xạ Việt Minh không chịu cúi đầu. Một lần nữa, máy bay của Coudon lại bị trúng đạn nhưng không bị rơi, như vẫn thường xảy ra đối với anh.

Trước khi thả hàng, hiệu thính viên của chúng tôi vào khoang chứa giúp các nhân viên thả dù một tay.

Qua cửa mở phía đuôi máy bay họ như những khán giả ngồi ở trên cao nhìn ngắm cảnh tượng phía dưới. Có lẽ anh ta rất xúc động vì tôi thấy anh ta lại nhảy bổ vào khoang lái, cho tôi biết hỏa lực phòng không của địch đang tập trung vào chiếc máy bay của chúng tôi. Thợ máy và đồng phi công cũng thấy rõ như vậy. Làm thế nào bâv giờ?

Tôi lái máy bay lượn ra ngoài lòng chảo. Chợt thợ máy nhìn lên bảng đo thấy dầu nhớt vơi đi rất nhanh. Chúng tôi phải bay về gấp. Vừa bay, người thợ máy vừa tìm cách hãm bớt rò rỉ để các động cơ khỏi lâm vào tình trạng hoạt động khô.

Sau khi hạ cánh xuống bãi đỗ, chúng tôi mới phát hiện thấy một loạt đạn trọng liên 12,7 mm đã bắn trúng cánh trái và hai viên đạn đã lọt vào thùng chứa chất đốt. Rất may mắn là cả hai viên đạn này không viên nào gây nổ gây cháy và cũng không phá hủy thùng chứa xăng. Đội ơn Chúa đã phù hộ!

Qua điện đài, tôi nhận ra giọng nói của thiếu tá Martinet, chỉ huy đội bay của chúng tôi. Ông gọi "Torri đỏ", tức đài kiểm soát hoạt động chiến đấu đường không trên vùng trời Điện Biên Phủ, hỏi thăm tình hình thiếu tá Blanchet bị rơi xuống lòng chảo từ ngày 28 tháng 3. Có tiếng trả lời từ chính miệng Blanchet là ông đã nhảy dù xuống từ độ cao bình thường. Vậy mà trước đó cứ tưởng ông bị rơi từ số không.

Ở Pháp đã là lễ Phục sinh. Dĩ nhiên ở đây cũng tổ chức lễ hội đó nhưng trong khung cảnh khác hẳn. Nghĩa là vẫn bình thường, không có gì đặc biệt. Tôi phải moi óc mới nhớ ra hôm nay là ngày lễ Phục sinh, ngày bắt đầu cuộc sống mới.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #72 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2016, 05:10:17 pm »


Các phi công của hải quân lái máy bay khu trục Privateer không chịu để cho chiến tranh làm giảm sút cuộc sống của mình. Họ mở một tiệc rượu sâm-banh tràn trề, mời bốn sĩ quan thuộc đội máy bay C119 cùng dự. Chúng tôi rất xúc động trước sự quan tâm đó, coi đây là một chầu rượu thân tình, đánh giá cao sự tín nhiệm của họ đối với chúng tôi, những người lái máy bay vận tải.

Từ ngày 13 tháng 3 những phi công hải quân và chúng tôi ngày càng gần gũi nhau, mặc dù chúng tôi không gặp nhau tại căn cứ vì không đỗ cùng bãi, và cũng không quen nhau. Chúng tôi chỉ biết nhau trong lửa đạn khi cùng bay trên vùng trời lòng chảo. Từ đó dần dần nảy nở mối thiện cảm với nhau, ngày càng được củng cố vì cùng phải đương đầu với những hiểm họa. Vô hình trung, hai bên chỉ nảy sinh một tình bạn chiến đấu thể hiện cụ thể trong ngày lễ Phục sinh năm nay.

Ngày 19, Soulat bay kèm những người Mỹ trên chiếc máy bay số 578. Lúc họ tới vùng trời Điện Biên Phủ là 11 giờ 30 phút. Cao xạ địch bắn đuổi theo họ. Soulat cố tìm cách thoát khỏi lưới lửa để thả dù ở khu vực phía Nam tập đoàn cứ điểm. Ông đã bay trên cụm cứ điểm Isabelle nhưng cao xạ địch vẫn không buông tha. Máy bay của Soulat đã bị trúng đạn tới lần thứ tư, mảnh đạn lọt cả vào khoang chứa hàng, buộc phải thả dù sớm. Thế là các kiện hàng đều rơi xuống khu vực phía Nam cứ điểm Junon, vào trận địa hiện do Việt Minh chiếm giữ. Soulat nổi cáu.

Ngày 20 tháng 3, chiếc 561 do tôi lái cùng gây ra nhiều phiền toái khiến tôi không hoàn thành được nhiệm vụ.

Tôi không nhớ, các động cơ đã gặp trục trặc bao nhiêu lần, nhưng nhất định là nhiều hơn số sự cố thường gặp ở loại máy bay C47. Nhưng người Mỹ cũng đã nhiều lần cảnh báo với chúng tôi, loại máy bay C119 của họ "đỏng đảnh" lắm!

Ngày 22 tháng 3, Coudon không đứng vững được nữa. Anh phải nằm bệnh viện vì suy nhược toàn thân.

Hơn nữa, tôi còn nhận thấy, anh là người rất quan tâm đến vợ con. Vợ anh là một phụ nữ cũng như mọi phụ nữ khác có chồng ra trận, thường lo lắng khắc khoải. Anh từng nói với tôi, vợ anh đứng vững được là nhờ phải tiêm thuốc. Anh cũng lo lắng cho những đứa con. Chính do đó, anh càng thêm mệt mỏi. Và thế là đồng phi công của tôi gục ngã, phải nằm viện.

Qua thư vợ, tôi cũng biết cả nhà đang lo lắng cho tôi. Dù vợ tôi không bộc lộ tất cả những khó khăn đang gặp phải, tôi vẫn cảm nhận thấy, cảnh ngộ của cô ấy không hơn gì tôi, có khi còn vất vả khó nhọc hơn tôi.

Về phần tôi, nhờ những mũi tiêm bắp thịt hàng ngày, tôi đã vượt được lên trên sự mệt mỏi.

Bây giờ, đơn vị chúng tôi chỉ còn ba đội bay do người Pháp lái, như bơ vơ lạc lõng giữa mười hai đội bay của Mỹ. Chúng tôi làm nhiệm vụ "lấp lỗ hổng" khi cần.

Ngày 21 tháng 3, Dompnier lại cất cánh trên chiếc máy bay số 578 sau khi đã hàn gắn tạm bợ các lỗ thủng do đạn pháo cao xạ Việt Minh bắn trúng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #73 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2016, 05:10:57 pm »


Tôi bay trên chiếc 536 và tới vùng trời Điện Biên Phủ một cách thuận lợi. Sương mù khô phủ kín lòng chảo, tôi chỉ nhìn thấy cảnh vật dưới đất theo chiều thẳng đứng. Tôi cảm thấy khó khăn khi lái máy bay vào đường trục thả dù với tầm nhìn như thế này, nhưng may mắn đã được hướng dẫn từ mặt đất. Cần nói thêm, lúc này không còn một khu vực nào gọi là "bãi thả dù". Phải thả các kiện hàng xuống giữa các cụm cứ điểm, phía đầu đường băng, tức là gần hầm chỉ huy của tướng De Castries, đã được thăng cấp thiếu tướng từ ngày 15 tháng 4.

Đài hướng dẫn mặt đất đã hướng dẫn cho tôi tìm được điểm thả dù. Khi tôi thả hàng xong, người hướng dẫn có vẻ hài lòng đã nói với tôi qua điện đàm:

- Thả hàng tốt. Rất cám ơn. Cám ơn nhiều lắm. Hẹn đến mai.

Tôi trả lời:

- Có lẽ ngay đêm nay.

Thật xúc động khi nhận được lời cám ơn từ những chàng trai đang gặp số phận khó khăn dưới đất.

Trong đêm tiếp theo, cứ điểm Eliane 1 nằm ở điểm cao chế ngự mặt phía Tây đường băng, hoàn toàn bị Việt Minh bao vây, đã sụp đổ sau đợt tiến công cuối cùng với hỏa lực mạnh. Từ đó, Việt Minh có được, một vị trí thuận lợi để khống chế Huguette 1 là cứ điểm nằm ngay phía dưới đoạn đường thả dù của chúng tôi. Máy bay của chúng tôi phơi mình trước luồng đạn, được coi như một mục tiêu lý tưởng không cần nhằm kỹ cũng bắn trúng. Để tránh đạn địch chúng tôi chỉ còn một cách rất khó thực hiện là nhào lộn, lượn vòng để thoát lưới lửa nguy hiểm.

Trong cuộc hội ý tại căn cứ, một lần nữa đội trưởng Soulat lại nổi cáu. Ông lớn tiếng nói, không thể thả dù ở độ cao năm trăm mét giữa lửa đạn các cỡ.

Ông đòi hỏi các máy ném bom B.26 phải cùng bay với máy bay vận tải C119 vào trong "cái lỗ" này và phải vô hiệu hóa các khẩu đội pháo cao xạ của Việt Minh trong khi thả dù.

Mặc dù B.26 đã can thiệp, nhưng cao xạ địch vẫn hoạt động mạnh. Ngày thứ năm 22 tháng 4, một nửa số máy bay đi làm nhiệm vụ khi quay trở về căn cứ đều đã bị lỗ chỗ vết đạn. Trong tổng số hai mươi chín chiếc máy bay của đơn vị, chỉ có một chiếc cho tới ngày hôm đó chưa bị thử lửa.

16 giờ 20 phút tôi cất cánh đi làm nhiệm vụ lần thứ hai trong ngày. Chuyến bay đó tôi chỉ bị bắn rời rạc vài lần. Có lẽ địch đang mệt mỏi.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #74 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2016, 05:12:00 pm »


Ngày 23 tháng 4, thời tiết xấu đã kìm hãm chúng tôi suốt buổi sáng tại căn cứ, đến buổi chiều mới cất cánh được. Ngay trong chuyến bay đó, chiếc 138 do phi công Mỹ lái đã bị bắn bằng nhiều loạt đạn pháo 37 mm và trọng liên 12,7 mm. Nhân viên thả dù bị trúng đạn 12,7 phải cưa cụt chân khi đưa về bệnh viện.

Một lần nữa, tôi lại đọc trên tờ Match một bài viết về những xích mích giữa các phi công Pháp và hai phi công Mỹ trong đội bay vận tải C119. Trước kia báo chí đã đề cập vấn đề này và trong phần trên tôi đã giải thích rõ quan điểm của mình. Ở đây, tôi chỉ nhắc lại, tôi sẽ hài lòng hơn nếu tờ báo viết rằng phi công Mỹ không phải là những người duy nhất bay thấp để thả dù. Chúng tôi cũng bay thấp. Những máy bay khu trục Hellcat của hải quân cũng bay thấp và chiều hôm nay lại có một máy bay Hellcat nữa của hải quân bị bắn rơi khi bay thấp yểm trợ cho chúng tôi.

Ngày 24 tháng 4, ba đội bay Pháp và mười hai đội bay Mỹ bay lên Điện Biên Phủ. Phía trước là sáu chiếc máy bay ném bom B.26 đã tiến công các vị trí phòng không của địch trước khi tôi tới nơi. Các phi công ném bom đã hoàn thành nhiệm vụ giữa lưới lửa phòng không mạnh mẽ, dày đặc, phối hợp chặt chẽ của Việt Minh. Ba chiếc B.26 đã bị trúng đạn.

Khi đội máy bay vận tải C119 tới lòng chảo, chúng tôi vẫn còn bị bắn rất dữ. Tôi nhìn thấy những luồng đạn bay sát phía phải, phía trái, phía trước, phía sau, những quả đạn 37 nổ ở phía trên, phía dưới. Có vẻ như cao xạ địch tập trung ngay tại khu vực thả dù. Tôi rất sợ chiếc máy bay của tôi bị vỡ tung.

Dù sao, nhiệm vụ thả dù cũng đã được thực hiện. Khi quay trở về căn cứ, chúng tôi kiểm tra lại các máy bay. Trong số thiệt hại có một chiếc của Mỹ. Giữa lúc đang thả dù, khi các nhân viên đều tập trung tại khoang chứa hàng, trong buồng lái chỉ có hai đồng phi công thì một quả đạn 37 mm từ mặt đất vọt thắng lên đã nổ ở ngay chiếc ghế của hoa tiêu phía sau người lái. Lúc này, hoa tiêu đang ở trong khoang chứa hàng. Một đồng phi công bị tiện đứt một cánh tay, may mà trên người có mặc áo nịt chống mảnh đạn và chiếc dù che chắn. Liền sau đó, lại một quả đạn 37 mm nữa xuyên thủng khoang lái nhưng không nổ. Thật là kỳ diệu khi người phi công còn lại vẫn lái được máy bay trở về. Tôi đã quan sát kỹ khoang lái của chiếc máy bay bị trúng đạn còn bê bết máu.

Những phi công Mỹ tuyên bố thẳng thừng, họ không bay nữa. Đó là hôm thứ bảy, cũng là ngày nghỉ cuối tuần của họ.

Bầu không khí bắt đầu trở thành nặng nề trong ba đội bay còn lại của Pháp. Tính năng nổ của đội trưởng Soulat và nụ cười thoải mái của Dompnier vẫn không giảm bớt cảnh nặng nề ám ảnh.

Soulat báo cáo với Bộ tư lệnh lực lượng không quân vận tải về tình hình đội bay của Pháp. Không còn cách nào khác, ba đội bay của Pháp vẫn nằm trong tình trạng báo động căng thẳng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #75 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2016, 05:13:05 pm »


Sau phi vụ buổi sáng, đến 23 giờ 30 phút tôi lại bay trên chiếc 139, theo sau Soulat và Dompnier đi làm nhiệm vụ lần thứ hai. Tôi tự hỏi, không biết tôi còn đủ sức lái đến bao giờ. Tôi bay trong đêm đen, ám ảnh bởi cơn ác mộng nặng trĩu trong đầu.

May mắn làm sao, chuyến bay này khá yên lành, vẫn nhìn thấy những luồng lửa đạn, một vài quả đạn nổ tung trên trời, nhưng ít hơn cái lò lửa buổi sáng rất nhiều. Tôi trở về căn cứ lúc 2 giờ 15 phút.

Đội máy bay tiếp tục nghiên cứu thả dù nổ chậm một cách tích cực. Một loạt chương trình thực nghiệm đã sẵn sàng.

Một chiếc C119 số 155 do Mỹ điều khiển và chiếc số 578 do tôi lái được lệnh bay đi Viêng Chăn để cùng với các chuyên viên thả dù tiến hành thí nghiệm. Tôi cất cánh lúc 14 giờ 40 phút. Cả chiếc máy bay của Mỹ lẫn chiếc máy bay của tôi đều không đạt được kết quả như ý. Chúng tôi lại phải quay về Cát Bi ngay trong đêm.

Các chuyên viên vẫn muốn tiếp tục thí nghiệm để có kết luận dứt khoát. Sáng hôm sau, kíp máy bay của Mỹ và kíp bay của tôi lại xuất phát đi Viêng Chăn. Mặc dù chúng tôi đã thả dù trong những điều kiện lý tưởng nhưng vẫn gặp nhiều khó khăn. Hệ thống nhảy dù gần đạt được mức hoàn chỉnh, nhưng thiết bị ngắm vẫn chưa thật sự bảo đảm. Chúng tôi đã dùng những phương tiện gì để theo dõi dù sau khi thả để ước tính đường rơi và độ tản mát? Chúng tôi chỉ có những thiết bị đo đạc với mức độ tin cậy có giới hạn, Kiểu thả dù như thế này chỉ có thể chấp nhận với điều kiện thả xuống những bãi rộng.

Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ cứ co hẹp dần như tấm da lừa trong câu chuyện cổ của Pháp. Bán kính vùng đóng quân ở Điện Biên Phủ chỉ còn dưới bảy trăm mét. Với một khu vực như thế này, làm thế nào bảo đảm thả các kiện hàng rơi chính xác từ độ cao tám nghìn feet. Hơn nữa, những cuộc thả dù thí nghiệm đều tiến hành trong hoàn cảnh yên bình. Trong khung cảnh chiến sự thì tình hình sẽ ra sao?

Nếu máy bay ném bom, máy bay khu trục và pháo mặt đất không có khả năng khóa họng cao xạ địch thì không thể tin là có thể thả dù trót lọt. Lưới lửa phòng không Việt Minh đã sát gần các vị trí của Pháp, chỉ để một đường mở cho máy bay vận tải là thả dù ở độ cao với nhiều rủi ro bất ngờ.

Lập luận thả dù ở độ cao được các đội máy bay C47 của Pháp và các phi công Mỹ lái máy bay C119 tán thành, những Soulat không đồng ý. Cho tới ngày cuối cùng, ông vẫn đòi hỏi các phi công dưới quyền mình phải thả dù ở tầm bay thấp.

Khi quay trở về Hải Phòng lúc 19 giờ, tôi gặp lại nhiều bạn quen tới đây lái thay các đội "Cọp bay" của Mỹ đang đình công. Tôi chào Coudon đã từ bệnh viện trở về, chào Dompnier đã trở lại đội ngũ, chào Clément, Clairé, Vanier, Aumont, Mallia, Flachard vừa mới tới.

Như vậy là chúng tôi lại có mười đội bay do phi công Pháp điều khiển. Soulat trìu mến nói với tôi:

- Đêm nay, mình bố trí cho cậu bay ở vị trí thứ tư.

Ông không nói gì thêm nữa. Tôi ăn một ổ bánh mì kẹp thịt, uống một cốc bia. Đúng giờ xuất phát, tôi cất cánh trên chiếc máy bay số 563. Thời tiết tốt. Tôi lao mình trong bóng đêm. Trên máy bay mọi người đều im lặng, chuông điện thoại cũng không reo.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #76 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2016, 05:13:41 pm »


Khi còn cách vùng trời thung lũng lòng chảo mười phút bay, tôi mở đài liên lạc theo tần số 119,7 VHF. Từ Điện Biên Phủ vang lên tiếng nói của Mettray, nghe có vẻ bối rổì. Tôi đoán là tình hình trong lòng chảo đang rối ren. Tôi hạ thấp độ cao, bay trong lớp sương mù nhẹ, Lập tức máy bay của tôi bị đạn trọng liên 12,7 mm bao vây, có cả đạn pháo cao xạ 37 mm nổ gần. Tôi đã nhìn thấy dấu hiệu chữ T tỏa sáng trong lúc tôi đang bay theo hướng đó. Vừa tiến lại gần, tôi vừa đảo cánh máy bay để tránh đạn. Những đốm lửa đỏ không ngừng từ mặt đất vọt lên. Những vệt đạn xé rách màn đêm. Đột nhiên, tôi cảm thấy chiếc máy bay rất khó điều khiển, cảm giác này mỗi lúc một thoáng qua rất nhanh. Máy bay của tôi chỉ bị trúng đạn chăng, nhưng đạn bắn vào chỗ nào? Tôi rất khó chịu trong khoang lái tối đen, chỉ còn vài đốm sáng yếu ốt trên bảng lái. Không thể nào giải thích được hiện tượng này. Tới độ cao tám ngàn feet, tôi ổn định được thế cân bằng. Mọi việc diễn ra bình thường. Hay là chính tôi đã gây ra chuyện trục trặc vừa qua? Do tôi quá sợ hãi nên run tay chăng? Tôi đang trong cơn trầm cảm? Và bây giờ tôi đã tự kiềm chế được mình. Không phải chiếc bay này trục trặc, mà chính là người lái.

Tôi gọi điện cho đài kiểm soát:

- Lại tiến hành thả đù đây. Chuẩn bị!

Từ mặt đất vang lên một câu mắng chửi thật khó nghe. Tôi thực hiện nhiệm vụ trong cơn ác mộng, trong thế giới hư ảo. Người tôi trống rỗng, hoàn toàn suy sụp, mặc cho số phận muốn ra sao cũng được. Tôi không hiểu cả chiếc máy bay của tôi nữa.

Khi đã hạ cánh, chúng tôi im lặng bước ra khỏi máy bay, không ai nói một lời. Người thợ máy bấm đèn pin kiểm tra máy bay rồi gọi tôi, chỉ cho tôi xem có sự hỏng hóc kỹ thuật ở thiết bị định hướng và ở phía đuôi, nhưng trong cơn bối rối khi đang bay, tôi đã không kịp phát hiện.

Trong ngày hôm đó, thêm hai chiếc máy bay ném bom B.26 và một chiếc máy bay khu trục bị bắn rơi.

Ngày thứ ba 27 tháng 4, Soulat lái chiếc 167 nhận lệnh thả một chiếc xe ủi đất xuống một nơi nào đó ở Điện Biên Phủ, tôi không được biết vì tôi cùng bay với Flachard. Trên mặt đất, Việt Minh bắn pháo rất mạnh vào các vị trí đóng quân tới mức "Torri đỏ" phải từ chối chấp nhận số hàng thả dù. Chúng tôi đành quay trở lại Cát Bi.

Ngày 28 tháng 4 thời tiết xấu, không một chiếc máy bay nào có thể cất cánh. Riêng Soulat cố bay lên nhưng lại phải quay trở về.

Ngày 30 tháng 4 là lễ hội truyền thống Camerone của binh chủng lê dương. Hôm đó máy bay của chúng tôi lại chọn mật danh Bird (tiếng Anh, có nghĩa là con chim) thay cho Pigeon (tiếng Pháp, nghĩa là chim bồ câu).
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #77 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2016, 05:14:26 pm »


Sau khi thời tiết đã tốt trở lại, các phi công Mỹ lại nhận bay. Nhưng họ chỉ chịu bay ban ngày, tầm cao trung bình, thả loại hàng buộc dù nổ chậm. Hơn nữa họ chỉ chấp nhận thả dù ở khu vực Isabelle là nơi Việt Minh ít bố trí pháo cao xạ.

Những phương thức thả dù ở độ bay cao không phải dễ đạt kết quả. Chỉ riêng những đợt thả dù ở tầm bay thấp, do máy bay C119 tiến hành vào ban đêm mới ít thất vọng đôi chút.

Trong đêm 30 tháng 4 rạng ngày 1 tháng 5, những con chim "bồ câu" Pháp lại cất cánh bay lên Điện Biên Phủ, từng đợt cách nhau ba mươi phút. Thời tiết tốt nhưng có một lớp sương mù ở sát mặt đất làm phi công rất khó quan sát dấu hiệu thả dù và pháo cao xạ địch cũng khó bắn. Tôi thả dù theo cách đã tiến hành có kết quả cách đây mấy hôm. Tức là tôi bay theo sự hướng dẫn của mặt đất và thả hàng theo lệnh từ mặt đất.

Các kiện hàng rơi đúng các vị trí và đều thu nhặt được hết. Dấu hiệu chữ T không nhìn rõ nhưng vẫn tỏa ra một quầng sáng có thể đoán biết. Vài phi công đã tận dụng được quầng sáng đó.

Trên đường về, khi còn cách Gia Lâm một quãng bay, chiếc máy bay số 183 của Aumont đã bị trúng đạn trọng liên 12,7 mm. Có súng phòng không Việt Minh bố trí ở đoạn này là một sự rất ngạc nhiên bất ngờ đối với chúng tôi. Có nghĩa là địch đã bố trí lưới lửa ở ngay gần vòng lượn để hạ cánh.

Ngày thứ bảy 1 tháng 5, Việt Minh bắn pháo dữ dội trên phạm vi toàn bộ tập đoàn cứ điểm. Các cứ điểm Huguette 5 ở phía Tây, Dominique 4 và Eliane 1 ở phía Đông bị pháo bắn mạnh nhất. Trong tình huống như vậy không thể nhặt được các kiện hàng, vì vậy những chuyến bay thả dù đều phải hủy bỏ.

Đêm hôm sau, chúng tôi lại được lệnh đi thả dù. Uhrig lái chiếc máy bay đầu đàn, đã thả hết hàng xuống mặt đất, nhưng do giao tranh đang diễn ra ác liệt, đài kiểm soát hoạt động đường không "Torri đỏ" đề nghị ngừng thả dù. Clément, Mallia, Magnat, Flachard, Vanier, Clairé đành quay máy bay trở về. Những chiếc chưa bay được lệnh không cất cánh.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #78 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2016, 05:15:19 pm »


Sáng chủ nhật 2 tháng 5 có tin Huguette 5, Dominique 3, Eliane 1 đã bị chiếm. Trong các cứ điểm này không còn một người lính nào chiến đấu nữa. Khi pháo mặt đất dịu bớt, những chiếc C119 lại bay lên Điện Biên Phủ.

Tôi dẫn đầu đội máy bay, vừa tới thung lũng lòng chảo đã bị bắn đón, tuy không ác liệt bằng hai hôm trước nhưng cũng rất mạnh. Tôi đã thả hết hàng, đang lấy độ cao thì chợt nghe thấy Uhrig trên chiếc máy bay số 108 báo cáo, máy bay bị trúng đạn. Một quả đạn pháo 37mm đã bắn trúng động cơ bên phải. May mà vẫn còn lại một động cơ không suy suyển. Không thể hạ cánh xuống Điện Biên Phủ được, Uhrig phải cố bay về phía đồng bằng.

Tôi bay lại gần anh, giảm bớt tốc độ để cùng bay song song bên nhau. Tôi không muốn bỏ rơi Uhrig. Động cơ bên trái phải làm việc cật lực đang nóng dần khiến Uhrig rất lo ngại. Anh không sao bay tới được Hải Phòng nhưng đã hạ cánh được xuống Gia Lâm.

Toàn bộ đội phi hành được cứu sống.

Ngày thứ hai 3 tháng 5, thời tiết xấu trên toàn bộ Bắc Kỳ. Tại Điện Biên Phủ, Việt Minh tiếp tục tiến công dồn dập Huguette 4, Dominique 2, Huguette 2. Nửa đêm ngày 3 chúng tôi bay lên Điện Biên Phủ, có nghĩa là đã sang ngày 4 tháng 5. Aumont lái chiếc 561, cất cánh lúc 2 giờ. Anh chọn mật danh là Hibou 1, nghĩa là Con cú đầu đàn.

Những chiếc Packet C119 bay đi lúc đã rạng sáng, tại sao vẫn cứ lấy tên những con chim ăn đêm? Tôi không hiểu. Có lẽ để động viên tinh thần chăng?

Tôi bay ở vị trí thứ ba trên chiếc máy bay số 155, sau Coudon. Đến khu vực đặt tên là Yankee ở phía Nam lòng chảo, tôi bắt liên lạc với đài kiểm soát. "Torri đỏ" bảo tôi chưa thả dù vội và giải thích:

- Ở dưới này, bọn mình đang rất gay!

Sương mù xuống thấp nhưng vẫn có thể nhìn thấy địa hình. Tôi có cảm giác ở phía dưới đang đánh nhau kịch liệt và môi trường chung quanh không thuận lợi cho việc thả dù. Mặt đất vang lên những tiếng nổ nối tiếp nhau và vòm trời bị xé rách vì những luồng lửa đạn. Pháo cao xạ hoạt động cực kỳ mạnh.

Coudon bay trên một chiếc Dakota, chiếc này trước hàng ngàn khó khăn về thả dù, đã hoảng hốt sợ hãi trút luôn toàn bộ các kiện hàng xuống đất.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #79 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2016, 05:16:03 pm »


Tôi không nhìn rõ từng chiếc máy bay, nhưng qua ánh lửa đạn vẫn quan sát được sự di chuyến của máy bay bạn.

Không sao nhìn thấy được dấu hiệu chữ T. Coudon sốt ruột thét to:

- Nếu cứ thế này thì tôi vứt luôn hàng xuống bất cứ đâu đấy!

Một lát sau, tôi lại nghe thấy tiếng Coudon gọi "Torri đỏ", báo tin đã trút hết hàng xuống rồi. Sau đó, anh gọi tôi:

- Bây giờ, đến lượt cậu!

Tôi cũng đang hoang mang. Nghe tiếng Coudon gọi, tôi rời bỏ vị trí lượn vòng chờ đợi và bay về phía tập đoàn cứ điểm. Tôi định hướng dựa vào việc theo dõi ánh lửa của đạn pháo mặt đất. Các nhân viên thả dù đã nới lỏng dây buộc các kiện hàng. Kim chỉ độ cao vẫn hoạt động. Tôi muốn bay tới mục tiêu một cách nhẹ nhàng, không gây nhiều tiếng ồn, tạo thế bí mật. Tôi giảm tốc, giảm độ quay của cánh quạt để động cơ không kêu ầm ỹ, giảm hơi đốt để không kéo dài những luồng lửa phụt ra từ ống xả khí, giảm độ cao.

Hỡi ôi! Trước khi tới bãi thả, tôi đã nhìn thấy những bông hoa lửa đỏ rực nở rộ trước mũi máy bay kéo theo những vệt lửa. Máy bay đang ở tư thế bay ổn định, rất khó tránh đạn. Cả hoa tiêu và tôi đều không quan sát được vật chuẩn dưới đất. Đài kiểm soát đang bận hướng dẫn cho một chiếc máy bay Dakota mà tôi không thể xen vào làm vướng đường bay của bạn. Tôi chợt gặp một ánh đèn chiếu thẳng vào mặt. Mới đầu, tôi nghĩ đó là một quả pháo sáng. Nhưng liền sau đó tôi nhận ra đó là một đèn chiếu từ dưới đất. Hoa tiêu xác định, đèn chiếu này đặt ở cứ điểm Anne Marie cũ, rõ ràng đó là đèn chiếu của Việt Minh. Tôi vội cho máy bay bổ nhào, rẽ ngoặt về bên phải, suýt nữa thì lao vào núi. Đã ba lần chúng tôi tìm dấu hiệu chữ T, dù chỉ là một quầng sáng le lói dưới màn sương. Chúng tôi chỉ gặp những luồng đạn 12,7 mm từ dưới đất bắn lên. Việc thả dù không thể nào thực hiện được. Tôi đành tăng tốc để thoát khỏi hoả ngục.

Claire, Clément. Flachard, Soulat cũng không may mắn hơn tôi và đành phải vòng trở về.

Lúc toàn thể đội máy bay dàn hàng trên bãi đỗ thì trời đã sáng.

Tôi đến nhà ăn, ăn một chút điểm tâm rồi về phòng ngủ. Khi tôi lên giường đã 8 giờ 40 phút. Có lệnh đến chiều lại bay. Chiếc máy bay đầu sẽ cất cánh lúc 13 giờ 30 phút, tôi sẽ bay đi lúc 14 giờ, ở vị trí thứ năm. Tôi mới chỉ nằm trên giường được khoảng từ hai đến ba tiếng đồng hồ nhưng không được ngủ trọn giấc. Sự căng thẳng trong đêm, nỗi lo âu về phi vụ sắp tới làm cho tôi thao thức, không sao tránh khỏi căng thẳng thần kinh. Tôi đứng dậy, viết thư cho vợ, báo tin tôi vẫn đang còn sống.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM