Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 18 Tháng Tư, 2024, 10:03:34 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Việt Nam thế kỷ XX - Những sự kiện quân sự  (Đọc 57483 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #140 vào lúc: 11 Tháng Năm, 2016, 09:08:37 am »


Năm 1973

        7 tháng 1

        Quân ủy Trung ương họp đánh giá tình hình, dự kiến khả năng đánh phá của Mỹ - ngụy trước và sau khi Hiệp định Pa-ri về Việt Nam có hiệu lực. Quân ủy Trung ương nêu rõ: "Địch tìm mọi cách phá hoại hiệp định, phá hoại hòa bình... Cuộc đấu tranh về chính trị, kinh tế sẽ diễn ra gay go và quyết liệt giữa hai vùng, hai lực lượng, có thể xen lẫn xung đột vũ trang ở từng địa phương... Địch sẽ mờ các cuộc hành quân an ninh, cảnh sát, tiếp tục đẩy mạnh bình định, tiêu diệt hạ tầng cơ sở cách mạng, mở các cuộc hành quân nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng ở vùng xen kẽ hoặc đánh chiếm một số địa phương nhất định...".

        Quân ủy Trung ương xác định: "Chúng ta chủ trương ra sức củng cố hoà bình, đòi triệt đề thi hành hiệp định, tích cực phát triển lực lượng cách mạng về mọi mặt, luôn luôn sẵn sàng đập tan mọi hành động của địch phá hoại hiệp định, gây lại chiến tranh. Nhiệm vụ của lực lượng vũ trang ỉà ra sức củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng chiến đấu nhầm đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng, đồng thời xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; tham gia đấu tranh chính trị của quần chúng, xây dựng căn cứ địa và vùng giai phóng vững mạnh ở miền Nam, luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu, đập tan mọi âm mưu gây lại chiến tranh của địch".

        13-28 tháng 1

        * Sư đoàn 10 bẻ gãy cuộc hành quân của sư đoàn 23 ngụy vào vùng Võ Định (Bắc Kon Tum), diệt 2 tiểu đoàn, bắt 200 tên, bắn rơi 8 máy bay, phá huỷ 11 xe. Sư đoàn 320 đánh bại cuộc hành quân lấn chiếm của 1 sư đoàn nguy (thiếu) ra vùng Đức Cơ, Thanh Giáo, gây cho địch một số thiệt hại.

        * Sư đoàn 7 (thiếu) phối hợp với Trung đoàn 205 (Miền) đánh bại cuộc hành quân lấn chiếm của sư đoàn 5 nguy và 2   chi đoàn thiết giáp vào vùng Dầu Tiếng, diệt 1.800 tên, bắt 60 tên.

        * Bộ đội chủ lực Quân khu 9 và lực lượng địa phương đánh bại cuộc hành quân của sư đoàn 21 ngụy và 1 thiết đoàn xe tăng vào vùng giải phóng Long Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu 1.800 tên.
   
        Đến 8 giờ ngày 28 tháng 1 năm 1973, trên toàn miền Nam ta đã giành thêm và làm chủ 586 ấp, 24 xã, 280 nghìn dân, diệt và bức rút 106 đồn địch.

        15 tháng 1

        Chính phủ Mỹ ra tuyên bố cam kết "Chấm dứt mọi hoạt động quân sự tiến công bao gồm ném bom, bắn trọng pháo và thả mìn" trên lãnh thổ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

        27 tháng 1

        Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký kết tại Pa-ri, Thủ đô nước Cộng hoà Pháp. Hiệp định gồm 9 chương, 23 điều, gồm những nội dung chủ yếu:

        - Mỹ và các nước khác tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

        - Rút hết quân Mỹ và quân chư hầu, phá các căn cứ quân sự cúa Mỹ, không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.

        - Công nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa  miền Nam Việt Nam là một bên của "hai bên miền Nam Việt Nam" công nhận trên thực tế ở miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiếm soát.

        Kèm theo Hiệp định có 4 nghị định thư:

        1- Về ngừng bắn tại miền Nam Việt Nam và các ban liên hợp quân sự.

        2- Về Ủy ban Quốc tế kiểm sát và giám sát.

        3- Về trao trả các nhân viên quân sự bị bắt và giam giữ

        4- Về việc Hoa Kỳ tháo gỡ, làm mất hiệu lực vĩnh viễn phá hủy mìn ở vùng biển, các hải cảng và sông ngòi miền Bắc Việt Nam.

        Hiệp định có hiệu lực từ 7 giờ ngày 28 tháng 1 năm 1973.

        30 tháng 1

        Đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà do Thiếu tướng Lê Quang Hoà làm Trưởng đoàn từ Hà Nội vào Sài Gòn tham gia Ban liên hợp Quân sự bốn bên.

        31 tháng 1

        Sư đoàn 320B, Trung đoàn 101 (Sư đoàn 325), Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 271, Trung đoản 24 (Sư đoản 304), Tiểu đoàn 38 bộ đội địa phương, K5 hải quân hiệp đồng với một số phân đội xe tăng, được, pháo binh chi viện thực hành trận phản đột kích đánh bại cuộc hành quân Tăng-gô-xi-ty lấn chiếm khu vực cảng cửa Việt (Quảng Trị) của địch.

        Từ 26 đến 31 tháng 1, ta đã tiêu diệt 2.232 tên địch, bắt 170 tù binh, phá huỷ 113 xe tăng, thiết giáp, thu 13 xe, bắn rơi 5 máy bay, bắn cháy 1 tàu chiến, phá hủy 10 khẩu pháo, thu hơn 300 súng các loại.
Trận phản đột kích Cửa Việt là một trận then chốt đánh bại cuộc hành quân Tăng-gô-xi-ty lấn chiếm Cửa Việt của địch Tháng lợi của trận đánh trong thời điểm Hiệp định I Pa-ri vừa thực hiện có ý nghĩa to lớn cả về chính trị, quân sự góp phần tích cực đấu tranh buộc địch thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định Pa-ri về Việt Nam.

        5 tháng 2

        * Bộ đội công binh, hải quân và quân dân Hải Phòng hoàn thành việc rà phá mìn, thuỷ lôi ở khu vực cửa Nam Triệu cho tàu trọng tải lớn vào cảng Hải Phòng, làm thất bại âm mưu phong toả quy mô lớn của đế quốc Mỹ.

        * Đội đặc nhiệm 78 vớt mìn của hải quân Mỹ do chuẩn đô đốc Mắc Cao-ly dẫn đầu đến Hải Phòng để chuẩn bị rà phá mìn trên biển và luồng lạch các cửa sông miền Bắc Việt Nam.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #141 vào lúc: 11 Tháng Năm, 2016, 10:31:38 am »

       
        16 tháng 2

        Ban liên hiệp Quân sự bốn bên ra lời kêu gọi khẩn thiết yêu cầu các bên chấm dứt hoàn toàn chiến sự trên khắp miền Nam Việt Nam, triệt để thi hành những điều khoản của Hiệp định Pa-ri.

        Cuối tháng 2

        Bộ Tổng tham mưu và các quân khu, quân đoàn nguy soạn thảo và hoàn chỉnh kế hoạch quân sự: "Lý Thường Kiệt - 1973". Đây là kế hoạch quân sự toàn diện nhằm mục đích chiếm đất, giành dân, bình định, chiêu hồi, xây dựng lực lượng tình báo, xây dựng quân nguy, phong toả kinh tế của ta và bảo vệ kinh tế của chúng. Bộ Quốc phòng ngụy tính trong năm 1973 vẫn duy trì 1,1 triệu quân chủ lực, địa phương và hiện đại hoá lực lượng này.

        10 tháng 3

        Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 56/QĐ-QP) thành lập Trường sĩ quan Thiết giáp thuộc Bộ Tư lệnh Thiết giáp. Nhiệm vụ: Đào tạo sĩ quan chỉ huy xe tăng, sĩ quan kỹ thuật xe tăng, xe bọc thép và xe chiến đấu bộ binh, sĩ quan chính trị đại đội xe tăng, nghiên cứu khoa học kỹ thuật tăng thiết giáp, bổ túc cán bộ chỉ huy tăng thiết giáp cho Binh chủng và toàn quân.

        16 tháng 3

        Thành lập Đoàn 27 đặc công trực thuộc Bộ tư lệnh Miền gồm 6 đoàn (113, 115, 116, 117, 119, 10) và Trung đoàn 429. Đoàn trưởng: Đặng Ngọc Sĩ. Chính ủy: Lê Thanh.

        29 tháng 3

        * Thành lập Sư đoàn phòng không 673 tại Trị - Thiên. Biên chế 6 trung đoàn (287, 250, 243, 263, 245, 233) trang bị mạnh, có tên lửa đất đối không. Tư lệnh: thượng tá Bùi Đăng Tự. Chính ủy: thượng tá Lê Văn Hối.

        * Bộ chỉ huy quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam làm lễ cuốn cờ. Tổng tư lệnh quấn đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam (tướng Uây-en) cùng 2.501 tên lính viễn chinh Mỹ cuối cùng rút khỏi miền Nam Việt Nam dưới sự kiểm soát của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam trong Ban liên hiệp Quân sự bốn bên.

        3-4 tháng 4

        Tổng thống Mỹ Ních-Xơn gặp Nguyễn Văn Thiệu (Tổng thống Việt Nam cộng hoà) tại San-clê-man-tê. Nich-xơn tuyên bố tiếp tục ủng hộ quân sự cho chính quyền Sài Gòn. Hành động đầu tiên sau cuộc gặp này là nối lại các chuyến bay do thám trên miền Bắc Việt Nam, đình chỉ các hội nghị về việc giúp xây dựng lại miền Bắc của ủy ban kinh tế hỗn hợp kéo dài việc rà phá mìn trên các vùng biển miền Bắc.

        21 tháng 5

        Tổng cục Hậu cân tổ chức lại lực lượng vận tải thuỷ trên cơ sở Đoàn vận tải Hồng Hà. Thành lập đoàn vận tải đường sông gồm 3 tiểu đoàn (1, 2, 3), đại đội huấn luyện và trạm sửa chửa; căn cứ là cảng sông Hồng (Hà Nội). Thành lập đoàn vận tải ven biển gồm 4 đại đội tàu (107, 102, 103 và 25), căn cứ và xưởng sửa chữa đặt tại Hải Phòng. Đoàn trưởng: Trung tá Dương Quang Đàm. Chính ủy: Trung tá Nguyễn Văn Sửu.

        24 tháng 5

        Hội nghị Bộ Chính trị (mở rộng) khẳng định: Dù khả năng nào, con đường của cách mạng miền Nam cũng chỉ có thể giành được thắng lợi bằng bạo lực cách mạng. Bất kỳ trong tình huống nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiền lên. Vấn đề giành dân, giành quyền làm chủ, phát triển thực lực của cách mạng là yêu cầu vừa bức thiết, vừa cơ bản của cách mạng miền Nam.

        31 tháng 5

        Tiểu đoàn 19 (Đoàn 113 đặc công Miền) tập kích tổng kho Long Bình, phá 25 nhà kho chứa đạn của địch.

        4 tháng 6

        Thượng viện Mỹ ra dự luật không cấp ngân sách cho bất kỳ hoạt động quân sự nào của Mỹ ở Đông Dương.

        8 tháng 6

        Tổ chức lại tuyến vận tải Quân khu 4 (thành 4 . binh trạm), thành lập 2 trung đoàn xe (510, 525); Đoàn 74 phụ trách toàn bộ tuyến giao liên, chuyến thương trên miền Bắc (quyết định số 454 của Tổng cục Hậu cần).

        28 tháng 6

        Quân ủy Trung ương đề ra nhiệm vụ trước mắt cho lực lượng vũ trang miền Nam: "Cần nắm vững chiến lược tiến công, đánh bại mọi hành động lấn chiếm của địch, giành dân và giữ dân, giữ vững vùng giải phóng và chính quyền cách mạng. Đồng thời phải chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt, nếu địch mở rộng chiến tranh quy mô lớn thì kiên quyết tiêu diệt chúng".
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #142 vào lúc: 11 Tháng Năm, 2016, 10:33:14 am »

        
        Tháng 7

        Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 21, ra nghị quyết về "Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới”. Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm 18 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, phân tích tình hình địch và khả năng của ta, nghị quyết đề ra nhiệm vụ cơ ban, phương châm, phương thức hoạt động của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới. về nhiệm vụ của lực lượng vũ trang, nghị quyết nêu rõ: "Phải luôn luôn chuẩn bị đầy đủ, sẵn sàng trong tư thế đánh địch, chủ động đập tan các cuộc hành quân lấn chiếm của chúng, kiên quyết thực hành phản công và tiến công đánh những trận tiêu diệt thật đau, thật mạnh đề bảo vệ và giữ vững vùng giải phóng... Phải có kế hoạch toàn diện và xây dựng cung cố, nâng cao chất lượng và hiệu suất chiến đấu, làm cho bộ đội chủ lực thành lực lượng rất tinh nhuệ, chính quy, hiện đại, cơ động và linh hoạt phù hợp với điều kiện chiến đấu trên từng chiến trường...

        Coi trọng việc xây dựng, phát triển và tăng cường bộ đội địa phương từ khu đến huyện, ra sức khắc phục tình trạng mất cân đối hiện nay giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Xây dựng bộ đội địa phương thành những đơn vị gọn, sắc, tinh nhuệ, vừa trang bị tương đối hiện đại vừa tận dụng vũ khí thô sơ, đủ sức phản công và tiến công, bẻ gãy và đập tan các cuộc hành quân gom dân lấn chiếm của quân ngụy trong phạm vi địa phương. Ra sức phát triển dân quân du kích thành một lực lượng vũ trang mạnh của quần chúng...".

        21 tháng 8

        Thành lập Viện Thiết kế Quân giới và Viện Công nghệ Quân giới thuộc Cục Quân giới (quyết định số 578 và 579 của Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần).

        Nhiệm vụ của Viện Thiết kê Quân giới: Thiết kế sản xuất vũ khí, khí tài quân giới, đạn dược, quân cụ theo yêu cầu trang bị toàn quân. Nghiên cứu xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật, chế độ về công tác thiết kế Ngành Quân giới. Quản lý các tài liệu thiết kế và quản lý sản xuất theo thiết kế.

        Viện Công nghệ Quân giới có nhiệm vụ: Nghiên cứu, vận dụng công nghệ mới, cải tiến thiết bị cũ, sử dụng vật liệu thay thế trong sản xuất vũ khí, sắp xếp cơ cấu sản xuất khoa học, trang bị công nghệ, dây chuyền sản xuất sản phấm ở các nhà máy quân giới, xây dựng những quy trình Công nghệ điển hình, trung tâm đo lường và thử nghiệm của Tổng cục Hậu cần.

        15 tháng 10

        Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam ra mệnh lệnh: "Chừng nào chính quyền Sài Gòn còn tiếp tục những hành động chiến tranh thì các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng phải kiên quyết đánh trả họ bất cứ ở đâu, bằng các hình thức và lực lượng thích đáng buộc đối phương phải nghiêm chỉnh và triệt để thi hành Hiệp định Pa-ri".

        24 tháng 10

        Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 124/QĐ-QP) thành lập Quân đoàn 1 - Binh đoàn Quyết Thắng. Biên chế: 3 sư đoàn bộ binh (308, 312, 320B), Sư đoàn phòng không 367, Lữ đoàn xe tăng 202, Lữ đoàn pháo binh 45, Lữ đoàn công binh 299, Trung đoàn thông tin 140, các đơn vị binh chủng, phục vụ và các cơ quan.

        Tư lệnh: Thiếu tướng Lê Trọng Tấn (Phó Tổng tham mưu trưởng kiêm chức) Chính ủy: Thiếu tướng Lê Quang Hoà (Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị kiêm chức).

        17 tháng 11

        Hội đồng Chính phủ ra quyết định (số 243/TTg) về việc xây dựng, củng cố mở rộng đường chiến lược Trường Sơn: Xây dựng cơ bản 1.920km đường mới gồm tuyến đông Trường Sơn dài 120km từ Khe Gát (Quảng Bình) tới Bù Gia Mập (Đông Nam Bộ); tuyến tây Trường Sơn có hai trục nay mới xây dựng cơ bản một trục dài 720km từ Phong Nha (đầu đường số 20, Quảng Bình) đi Plây Khốc (Tây Nguyên), nối với tuyến đường phía đông, kể cả nhánh đường số 16 tư Thạch Bàn đi Bản Đông nối với trục thứ nhất ở Sê Ca Mán-

        Đây là công trình lớn có ý nghĩa chiến lược về kinh tế và quốc phòng Nhà nước giao cho quân đội xây dựng toàn bộ.

        Lực lượng thi công trên tuyến (cuối năm 1973) gồm 1 sư đoàn 17 trung đoàn, 40 tiểu đoàn công binh trực thuộc Bộ tư lệnh Trường Sơn (36.341 người), 2.741 thanh niên xung phong và dân công, 660 xe máy các loại (123 máy húc, 340 xe ben, 51 xe lu, 99 máy ép hơi, 37 máy nghiền đá...). Ngày 11 tháng 11 thông xe trục đường phía tây từ Thạch Bàn đến Bù Gia Mập dài 847km (các đơn vị công binh đã khôi phục rộng tuyến này từ đầu năm 1973). Ngày 1 tháng 2 năm 1974 thông xe trục đường phía đông từ Thạch Bàn (Quảng Bình) đến Giàng (Quảng Nam) dài 336km. Các tuyến đường ngang Phong Nha - Lùm Bùm - Na Bo dài I76km, Hướng Hoá - Bản Đông - Mường Phin dài 104km, Sa Ra Van - A Tô Pơ dài 320km cũng được hoàn thành.

        Vào đầu năm 1975, hệ thống đường chiến lược Trường Sơn dài tới 20.000km, gồm 4 hệ thống đường trục dọc dài 6.810km, 13 trục ngang dài 4.980km, 5 hệ thống đường vượt khẩu dài 700km, hệ thống đường vòng tránh các trọng điểm tổng cộng dài 4.700km và hệ thống đường ống dẫn dầu dài 1.300km.

        3 tháng 12

        Tám chiến sĩ Đội 5 (Đoàn 10 đặc công Rừng Sác) do Hà Quang Vóc chỉ huy tập kích kho xăng Nhà Bè (Sài Gòn) - kho dự trữ xăng dầu lớn nhất của quân đội Sài Gòn, thiêu huỷ 14 triệu lít xăng dầu, phá huỷ 1 tàu chở dầu 12.000 tấn và hệ thống lọc dầu. Đội 5 và hai đồng chí Hà Quang Vóc, Nguyễn Hồng Thế được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

        Cuối năm 1973

        Phòng Quân giới Miền phối hợp với Xưởng 0X1 lắp súng đại liên K57 lên xe bọc thép K63 và ĐKZ75 lên Xe M113, đưa vào sử dụng trong các trận chiến đấu ở Bù Bông Tuy Đức (cuối năm 1973 đầu năm 1974) đạt hiệu quả chiến đấu cao.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #143 vào lúc: 11 Tháng Năm, 2016, 10:40:20 am »


Năm 1974

        Tháng 1

        * Bộ đội chủ lực miền Đông Nam Bộ đánh bại các cuộc hành quân lấn chiếm của địch vào các khu vực ven chiến khu Đ, Đường 16, Đông Trảng Bàng, Gò Dầu, Bù Bông, Tuy Đức, diệt 1 tiểu đoàn, 5 đại đội, đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn. 4 đại đội, loại khỏi vòng chiến đấu 2.100 tên địch.

        * Tổng cục Hậu cần tổ chức hội nghị hậu cần các chiến trường, bàn việc đẩy mạnh xây dựng lực lượng, tích luỹ vật chất, phương tiện kỹ thuật, tăng cường bảo đảm hậu cần tại chỗ.

        * Cục Quân giới giao nhiệm vụ cho Viện Thiết kế Quân giới thiết kế chế tạo súng và đạn cối 160mm.

        17-20 tháng 1

        Trung Quốc cho quân chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa do quân đội chính quyền Sài Gòn đồn trú. Ngày 19 tháng 1, lực lượng hải quân Trung Quốc nổ súng tiến công tàu chiến của quân đội chính quyền Sài Gòn vừa được tăng cường ra bảo vệ đảo và ngày 20 đổ bộ lên chiếm các đảo Hoàng Sa, Hưu Nhật và Quang Anh thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam1.

        12-24 tháng 2

        Lực lượng vũ trang Khu 8 đánh bại cuộc hành quân lấn chiếm của 3 trung đoàn (thuộc sư đoàn 7 và sư đoàn 9 quân ngụy Sài Gòn) vào vùng 4 Kiến Tường, diệt 1 đại đội, đánh thiệt bại nặng 1 tiểu đoàn, giữ vững ngã tư Bằng Lăng và căn cứ Đồng Tháp Mười.

        8 tháng 3

        Sư đoàn 320 chủ lực Tây Nguyên tiến công tiêu diệt căn cứ Lệ Ngọc (Chư Nghé) nằm trên tuyến bảo vệ vòng ngoài thị xã Plây Ku của địch. Tiếp đó, ngày 14 tháng 4, Trung đoàn 48 (Sư đoàn 320) tiến công căn cứ 711 và điểm cao 601, diệt tiểu đoàn 82 biệt động, 1 chi đoàn xe bọc thép, bắn rơi 5 máy bay, bắn cháy 3 chiếc khác, thu một số súng và nhiều quân trang, quân dụng.

        15 tháng 3

        Hội nghị Quân ủy Trung ương tổng kết tình hình công tác quân sự năm 1973, đề ra nhiệm vụ trước mắt của các lực lượng vũ trang ở miền Nam là: "Đánh bại một bước quan trọng kế hoạch bình định lấn chiếm phấn tuyến của địch, giành dân, giành quyền làm chủ ở vùng đồng bằng và vùng ven đô thị đông dân, nhiều của. Từng bước đưa phong trào đấu tranh chính trị ở thành thị tiến lên, đồng thời chuẩn bị lực lượng, cơ sở, tạo điều kiện và thời cơ đẩy tới cao trào cách mạng. Chủ lực vừa đánh vừa xây dựng, từng bước nâng dần quy mô đánh tiêu diệt, củng cố, xây dựng, giữ vững hoàn chỉnh vùng giải phóng căn cứ địa miền Nam. Ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, xây dựng miền Bắc mạnh cả về kinh tế, quốc phòng và sẵn sàng đánh bại mọi âm của địch".

        16-17 tháng 3

        Trung đoàn 28 (Sư đoàn 10) đánh bại cuộc hành quân lấn chiếm của địch vào khu vực Com Rẫy, diệt tiểu đoàn 95 biệt động quân và 2 đại đội của tiểu đoàn 62, bắt 250 tên, trong đó có 2 thiếu tá tiểu đoàn trưởng và tiểu đoàn phó, mở thông đường số 22.

        20 tháng 3

        Thành lập Lữ đoàn 316 đặc công - biệt động tại miền Đông Nam Bộ. Biên chế: 4 tiểu đoàn đặc công và 12Z biệt động, 1 tiểu đoàn trinh sát.

        5 tháng 4

        Thành lập Tổng cục Kỹ thuật thuộc Bộ Quốc phòng (Quyết định số 39/QUTƯ của Quân ủy Trung ương). Nhiệm vụ: Giúp Bộ trưởng Quốc phòng chỉ đạo công tác bảo đảm và quản lý trang bị, bảo đảm kỹ thuật trong toàn quân, nghiên cứu kỹ thuật quân sự và trực tiếp quản lý các xí nghiệp quốc phòng.

        Tổng cục Kỹ thuật có các cơ quan và đơn vị: Bộ Tham mưu; các cục: Hậu cần, Chính trị, Quản lý xe máy, Quản lý kỹ thuật - sản xuất, Quản lý xí nghiệp, Quản lý vũ khí khí tài - đạn dược; các phòng Quản lý trang bị khí tài đặc chủng (máy bay, tên lửa, tàu hải quan), Vật tư, Tài vụ và Văn phòng; các viện: Kỹ thuật quân sự, Thiết kế, các trường đào tạo cán bộ trung cấp và công nhân ký thuật, các xí nghiệp sản xuất quốc phòng.

        Chủ nhiệm: Trung tướng Đinh Đức Thiện (Chủ nhiệm Tổng cục hậu cần kiêm chức); các Phó chủ nhiệm: Trần Sâm, Trần Đại Nghĩa, Vũ Văn Đôn, Nguyễn Văn Tiên. Ngày 10 tháng 9, Hội đồng Chính phủ ra nghị định (số 221/CP) thành lập Tổng cục Kỹ thuật thuộc Bộ Quốc phòng.

        Tháng 4

        * Bộ Tổng tham mưu và các chiến trường tích cực chuẩn bị kế hoạch tác chiến chiến lược 2 năm 1974 - 1975.

        * Lực lượng vũ trang Quân khu 9 đánh bại cuộc hành quân giải toả của địch ở khu vực sông Cái Lớn, diệt 1 giang đoàn, 1 chi đoàn xe bọc thép M113 (11 chiếc) ở gần Xẻo Rô, đánh thiệt hại một số đơn vị bộ binh, buộc địch phải bỏ dở cuộc hành quân.

        15 tháng 5

        Trung đoản 66 (Sư đoàn 10) và Trung đoàn 3 (Sư đoàn 324) tiến công căn cứ Đắc Pét (cách thị xã Kon Tum 80km về phía tây bắc), loại khỏi vòng chiến đấu một tiểu đoàn quân biệt động và lực lượng bảo an, dân vệ, xoá bỏ điểm chốt cuối cùng của địch trên đường số 14.

----------------
1. Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, trước năm 1938 thuộc hai tỉnh Quang Nam và Quang Ngãi, nám 1938 thuộc tinh Thừa Thiên, năm 1961 thuộc tinh Quảng Nam. Tháng 12 năm 1982 là huyện đảo thuộc tỉnh QuảngNam-Đà Nẵng, tháng 12 năm 1996 thuộc thành phố Đà Nẳng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #144 vào lúc: 11 Tháng Năm, 2016, 10:42:30 am »

        
        16-5 đến 30-9

        Sư đoàn 9 mở chiến dịch tiến công tuyến phòng thủ vùng trung tuyến (khu vực đường số 7 ngang tây Bến Cát, cách Sài Gòn 30km) của địch, thu hút một bộ phận lực lượng của quân đoàn 3 ngụy, đẩy lùi kế hoạch bình định lấn chiếm của chúng, tạo thế trận tiến công mới trên hướng tây bắc Sài Gòn. Qua 135 ngày đêm chiến đấu, Sư đoàn đã đánh lui nhiều đợt phản kích của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 3.500 tên, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh.

        17 tháng 5

        Bộ Quốc phòng quyết định (số 67/QP-QĐ) thành lập Quân đoàn 2 - Binh đoàn Hương Giang. Biên chế: 3 sư đoàn bộ binh (304, 324, 325), Sư đoàn phòng không 673, Lữ đoàn pháo binh 164, Lữ đoàn xe tăng 203, Lữ đoàn công binh 219 Trung đoàn thông tin 463 và các cơ quan, đơn vị bảo đảm phục vụ.

        Tư lệnh: Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, Chính ủy: Thiếu tướng Lê Linh; căn cứ của Quân đoàn đặt tại chiến khu Ba Lòng (Bình - Trị - Thiên).

        17 đến 25-8

        Chiến dịch Nông Sơn - Thượng Đức. Nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực và phương tiện chiến tranh của quân đội Sài Gòn ở khu vực Nông Sơn - Thượng Đức (tỉnh Quảng Đà), tạo bản đạp và thế chiến lược mới cho tác chiến năm 1975, Bộ Quốc phòng chỉ đạo Bộ Tư lệnh Quân khu 5 và Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 mở chiến dịch tiến công ở khu vực Nông Sơn - Thượng Đức, tỉnh Quảng Đà. Lực lượng địch có 13 tiểu đoàn bộ binh thuộc 2 sư đoàn (2, 3), 5 tiểu đoàn biệt động quân, 37 đại đội bảo an, 4 chi đội thiết giáp và 7 liên đoàn pháo binh.

        Lực lượng ta tham gia chiến dịch có Sư đoàn bộ binh 2 (Quân khu 5), Sư đoàn bộ binh 304 (Quân đoàn 2), 9 tiểu đoàn bộ binh tỉnh Quảng Đà. Bộ Tư lệnh Quân khu 5 trực tiếp chi huy chiến dịch.

        Chiến dịch chia làm 3 đợt. Đợt 1 (17 đến 19-7), ta tiến công tiêu diệt Nông Sơn, Tiên Phước. Đợt 2 (19-7 đến 8-8), ta đánh viện binh ở nam An Hoà, tây Núi Lở, giải phóng Thượng Đức. Đợt 3 (9 đến 25-8) ta phát triển tiến công ra các vùng kế cận Thượng Đức, nam An Hoà và Quảng Nam. Kết thúc chiến dịch, ta tiêu diệt 2 cứ điểm chi khu quân sự, quận ly, bức hàng 151 cứ điểm khác, phá 78 ấp và khu dồn dân của địch, giải phóng Tiên Phước, Thượng Đức, loại khỏi vòng chiến đấu 10.000 tên địch (bắt 2.338), tiêu diệt 4 tiểu đoàn, đánh thiệt hại nặng 9 tiểu đoàn, thu 2.106 súng, 24 xe quân sự... Chiến thắng Nông Sơn - Thượng Đức tạo thế uy hiếp Đà Nẵng từ phía tây, chứng minh thực tế trên chiến trường sức mạnh chiến đấu của bộ đội chủ lực cơ động ta đã hơn hẳn quân chủ lực cơ động địch.

        20 tháng 7

        Thành lập Quân đoàn 4 - Binh đoàn cửu Long tại căn cứ miền Đông Nam Bộ. Đồng chí Phạm Hùng - Uy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương cục miền Nam công bố quyết định thành lập.

        Biên chế: 2 sư đoàn bộ binh (7 và 9), Trung đoàn pháo binh 24, Trung đoàn phòng không 71, Trung đoàn đặc công 429, Trung đoàn thông tin 69 và các cơ quan đơn vị phục vụ, bảo đảm.

        Tư lệnh kiêm Chính ủy: Thiếu tướng Hoàng Cầm. Tháng 3 năm 1975, Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện được cử làm Chính ủy.

        23 tháng 7

        Thành lập Học viện Hậu cần trực thuộc Bộ Quốc phòng (quyết định số 188/QP-QĐ) trên cơ sở Trường sĩ quan Hậu cần. Nhiệm vụ: Đào tạo, bổ túc về công tác hậu cần cho cán bộ sơ cấp, trung cấp và cao cấp của toàn quân, tham gia tổng kết kinh nghiệm công tác hậu cần, nghiên cứu lý luận và biên soạn hệ thống tài liệu giáo khoa về hậu cần. Viện trưởng: Đại tá Hoàng Kiện, Chính ủy: đại tá Trần Huy.

        Tháng 7

        * Hội nghị đặc công toàn quân lần thứ 2, tổng kết các hoạt động xây dựng lực lượng và tác chiến đặc công, nghiên cứu cách đánh của bộ đội đặc công trong các chiến dịch tác chiến hiệp đồng quân chủng, binh chủng quy mô lớn. Thượng tướng Hoàng Văn Thái - Phó Tổng tham mưu trưởng đánh giá: "Hội nghị tổng kết lần này của Binh chủng Đặc công đã đóng góp tích cực vào việc xây dựng nền khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam".

        * Quốc hội Mỹ thông qua việc chuẩn chi mức viện trợ kinh tế tài khoá 1974 - 1975 cho chính quyền Sài Gòn là 700 triệu đô-la về kinh tế, 400 triệu đô-la về quân sự. Số viện trợ này chỉ đạt hơn 50% yêu câu mà chính quyền Sài Gòn xin Mỹ viện trợ (1,5 tỷ đô-la về phát triển kinh tế và 700 triệu đô-la về quân sự).

        9 tháng 8

        Tổng thống Mỹ, Ních-Xơn buộc phải từ chức do vụ bê bối Oa-tơ-ghết. Phó tổng thống Mỹ, Giê-rơ Pho thay Ních-Xơn làm Tổng thống, cam kết tiếp tục ủng hộ chính quyền Sài Gòn, nhưng thực tế khả năng viện trợ Mỹ đã giảm gần 50% trong khi nền kinh tế của chính quyền nguy phụ thuộc 90% vào viện trự Mỹ.
« Sửa lần cuối: 12 Tháng Năm, 2016, 10:34:09 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #145 vào lúc: 11 Tháng Năm, 2016, 10:45:19 am »

        19 tháng 8

        * Thành lập Sư đoàn bộ binh 303 thuộc Bộ Tư lệnh Miền (trên cơ sở Sư đoàn bộ binh 3). Biên chế: 3 trung đoàn bộ binh (201, 271, 205), Trung đoàn pháo binh 262. Sư đoàn trưởng: Đỗ Quang Hưng. Chĩnh ủy: Nguyễn Ngọc Doãn.

        * Thành lập Trung đoàn 198 đặc công tại Tây Nguyên trên cơ sở một số đơn vị đặc công của Mặt trận Tây Nguyên. Biên chế: 4 tiểu đoàn xung lực, 1 tiểu đoàn hoả lực (ĐKB, ĐKZ) và 4 đại đội (trinh sát, thông tin, quân y, vận tải). Trung đoàn trưởng: Đỗ Văn Kính.

        28-8 đến 28-9

        Chiến dịch tiến công La Sơn - Mỏ Tàu. Nhằm chia cát đường giao thông chiến lược của địch, tạo bàn đạp phối hợp với chiến dịch Nông Sơn - Thượng Đức, Bộ tư lệnh Quân khu Trị - Thiên và Quân đoàn 2 mở chiến dịch tiến công ở La Sơn - Mỏ Tàu (tây nam Huế). Lực lượng địch có sư đoàn bộ binh 1 (quân đoàn 1) và một số đơn vị bảo an.

        Lực lượng ta tham gia chiến dịch có Sư đoàn bộ binh 324 (thiếu một trung đoàn) được tăng cường Tiểu đoàn công binh 2, đại đội tên lửa A-72 và bộ đội địa phương Quân khu Trị - Thiên.

        Sau hơn một tháng chiến đấu, ta loại khỏi vòng chiến đấu 2.500 tên địch (bắt 587 tên), bân rơi 5 máy bay, thu và phá huỷ 2.734 súng các loại và nhiều phương tiện chiến tranh, phá vỡ tuyến phòng thủ của địch ở tây nam Huế, giảĩ phóng một khu vực rộng gần 300km2, uy hiếp địch trên đường số 1 nối Huế với Đà Nẵng.

        30-9 đến 8-10

        Bộ Chính trị họp nhận định: "Mỹ chẳng những phải giảm bớt chi viện cho ngụy mà còn khó có khả năng nhảy vào lại miền Nam và dù chúng có can thiệp thế nào đi nữa cũng không cứu vãn được ngụy quyền Sài Gòn sụp đổ...". 'Chúng ta đã thúc đẩy thời cơ chiến lược chín muồi, đã tạo nên những yếu tố chiến lược quan trọng để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn". Bộ Chính trị cơ bản nhất trí với kế hoạch chiến lược 2 năm do Bộ Tổng tham mưu vạch ra, nôi dung gồm 2 bước:

        Bước 1: (thực hiện trong năm 1975), tranh thủ thời cơ tập trung lực lượng và phương tiện tiến công lớn và rộng khắp để tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng thêm nhiều vùng đất đai. Cụ thể chia làm 3 đợt:

        - Từ tháng 12 năm 1974 đến tháng 2 năm 1975, thực hiện những đòn tiến công có mức độ, chủ yếu là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ.

        - Từ tháng 3 đến 6 năm 1975, thực hiện đợt hoạt động chủ yếu, tập trung lực lượng mở chiến dịch tiến công quy mô lớn trên chiến trường Tây Nguyên và một số chiến dịch phối hợp tại chiến trường miền Đông Nam Bộ, Khu 5 và Trị - Thiên. Riêng với đồng bằng sông Cửu Long, tiếp tục tiến công và nổi dậy chống địch bình định, mở rộng vùng giải phóng.

        - Từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1975, mở đợt hoạt động nhằm phát huy thắng lợi đã giành được và sẵn sàng thực hiện phương án thời cơ.

        Bước 2: (thực hiện trong năm 1976) thực hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam.

        Bộ Chính trị xác định chiến trường Tây Nguyên là hướng chủ yếu trong cuộc Tổng tiến công năm 1975 và chỉ thị cho Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tham mưu theo dõi và có kết luận về phản ứng của Mỹ qua hoạt động tiến công của ta trong mùa khô 1974 - 1975; đồng thời khẩn trương chuẩn bị cơ sở vật chất đầy đủ nhất để đánh mạnh, đánh nhanh, thắng triệt để trong thời gian 2 năm 1975 - 1976. Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối nám 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975.

        3 tháng 10

        Lực lượng vú trang Tây Nguyên tiêu diệt các chi khu quân sự, quận ly Măng Đen, Măng Bút, mở rộng vùng giải phóng, tạo thế trận mới ở bắc đông bắc Kon Tum.

        28 tháng 10

        Quân ủy Trung ương thông qua kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975,- 1976, trình lên Bộ Chính trị.
        
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #146 vào lúc: 11 Tháng Năm, 2016, 10:47:07 am »


        5-12-1974 đến 15-1-1975

        Chiến dịch Hưng Long. Bộ Tư lệnh Quân khu 9 mở chiến dịch Hưng Long. Nhằm giải phóng chi khu Hưng Long, phân chi khu Ba Hồ, Vĩnh Tuy, Vĩnh Chèo (Hậu Giang), khôi phục và mờ rộng địa bàn kháng chiến ở U Minh, Chương Thiện (tây bắc Cần Thơ), tạo điều kiện cho vùng nông thôn đồng bằng nổi dậy giành quyền làm chủ. Lực lượng địch có 3 trung đoàn bộ binh, 2 liên đoàn biệt động quân, một số tiểu đoàn bảo an, 2 chi đoàn xe bọc thép. Lực lượng ta tham gia chiến dịch có Sư đoàn 4, Đoàn 6 (tương đương 1 trung đoàn bộ binh) và lực lượng vũ trang địa phương.

        Chiến dịch chia làm 2 đợt: Đợt 1 (5-7.12) ta bao vây diệt chi khu Hưng Long, phân chi khu Ba Hồ, đánh lui các đợt phản kích của địch theo kênh Cái Đìa, đánh thiệt hại nặng trung đoàn 31. Đợt 2 (19.12.1974 - 15.1.1975), ta bao vây phân chi khu Vĩnh Chèo, đánh địch giải toả tuyên Bà Lớn, lộ Lục Phi..., đẩy địch về chi khu Long Mỹ, uy hiếp thị xã Vị Thanh, đập tan mưu đồ chiếm lại Hưng Long. Ba Hồ, nối thông địa bàn U Minh - Chương Thiện. Sau 40 ngày đêm chiến đấu. ta đánh 160 trận, tiêu diệt 15 vị tri (có 1 chị khu, 5 phân chi khu), bức hàng bức rút 5 vị trí khác, tiêu diệt 1 ban chi huy quận, 5 tiểu đoàn, 6 đại đội, đánh thiệt hại nặng 1 trung đoàn; bắn chìm, bắn cháy 6 tàu xuồng, phá hủy và thu nhiều phương tiện chiến tranh, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.800 tên địch; giai phóng 6 xã, hơn 1 vạn dân. Thắng lợi của chiến dịch mơ ra một hành lang rộng lớn thông suốt từ U Minh đến Ô Môn, tạo thuận lợi cho ta giải phóng Cần Thơ và miền Tây Nam Bộ xuân 1975.
        
        13-12-1974 đến 6-1-1975

        Chiến dịch Phước Long. Nhằm tiêu diệt sinh lực địch, nối thông hành lang chiến lược từ Tây Nguyên vào Đông Nam Bộ, Bộ tư lệnh Miền mở chiến dịch tiến công ở khu vực Đồng Xoài, Bù Đăng, Phước Bình, Phước Long. Lực lượng địch có 5 tiểu đoàn bộ binh, 1 chi đội xe M113, 10 trung đội pháo binh. 2 đại đội trinh sát, 2 đại đội cảnh sát, 60 trung đội dân vệ và lực lượng viện binh quân đoàn 3 nguy ở Đồng Xoài, Bù Đăng, Phước Bình, Phước Long. Lực lượng ta tham gia chiến dịch có Quân đoàn 4 (2 sư' đoàn), Sư đoàn bộ binh 3 (2 trung đoàn). Trung đoàn đặc công 429, 1 trung đoàn pháo binh (36 khẩu), 3 tiểu đoàn pháo phòng không, 20 xe tăng, thiết giáp, 1 trung đoàn công binh và lực lượng vũ trang địa phương tinh Bình Long.

        Bộ Tư lệnh chiên dịch: Tư lệnh - Hoàng Cầm, Chính ủy - Hoàng Thế Thiện.

        Chiến dịch chia làm 3 đợt: Đợt 1 (13-17.12.1974), ta đánh chiếm căn cứ Vĩnh Thiện, các chốt trên đường 14 (đoạn Bù Na - Bù Đăng). Đợt 2 (23 - 28.12.1974). ta đánh chiếm Đồng Xoài, Bù Đốp, cô lập Phước Long. Đợt 3 (31.12.1974 - 6.1.1975) được tăng cường Trung đoàn bộ binh 16 1 tiểu đoàn xe tăng, 2 tiểu đoàn pháo 130mm, ta đánh chiếm Phước Bình, điểm cao Bà Rá, thị xã Phước Long.

        Kết thúc chiến dịch: Ta giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long (hơn 500.000 dân), diệt 1.160 địch, bắt 2.146 tên. phá huỷ 15 máy bay, 3 xe bọc thép; thu 3.125 súng các loại, 10.000 viên đạn pháo. Chiến thắng Phước Long có tác dụng trinh sát chiến lược cho thấy khả năng đối phó hạn chế của Mỹ, củng cố vững chắc quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị mở các cuộc tiến công quy mô lớn mùa xuân 1975.

        18-12-1974 đến 8-1-1975

        Hội nghị Bộ Chính trị (mở rộng) bổ sung và hoàn chỉnh quyết tâm chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam. Bộ Chĩnh trị nhận định: "Khả năng đế quốc Mỹ trực tiếp can thiệp hiện nay đang gặp nhiều khó khăn. Nếu ngụy có nguy cơ sụp đổ lớn ta cần đề phòng Mỹ có thể can thiệp bằng không quân, hải quân, nhưng không phải đế mở rộng chiến tranh mà để cứu vãn chính quyền Sài Gòn. Dù chúng có can thiệp như thế nào ta củng có đầy đủ quyết tâm và điều kiện để đánh thắng và chúng củng không thế cứu vãn được nguy cơ sụp đổ của chính quyền Sài Gòn...". "... Chúng ta đang đứng trước thời cơ chiến lược lớn, chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự và chính trị như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc”.

        Bộ Chính trị hạ quyết tâm: "Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền trong thời gian 1975 - 1976, đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, kết hợp đấu tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng và toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta, tiến hành khẩn trương và hoàn thành công tác chuẩn bị mọi mặt, tạo điều kiện chín muồi, tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền từ trung ương đến địa .phương, giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam Việt Nam".

        Ngoài kế hoạch chiến lược 2 năm 1975 - 1976, Bộ Chính trị còn dự kiến: "Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975".
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #147 vào lúc: 11 Tháng Năm, 2016, 10:51:18 am »


Năm 1975

        9 tháng 1

        Thường trực Quân ủy Trung ương bàn nhiệm vụ quân sự mùa xuân 1975, thực hiện bước một kế hoạch tác chiến chiến lược. Quân ủy Trung ương xác định trong mùa khô 1974 - 1975 hướng tiến công chủ yếu của ta là Tây Nguyên và bố sung nhiệm vụ cụ thế của chiến dịch Tây Nguyên là: Phải tiêu diệt từ 4 đến 5 trung đoàn bộ binh, từ 1 đến 2 trung đoàn thiết giáp, nhiều tiểu đoàn bảo an, trung đội dân vệ, cố gắng đánh quỵ hoặc tiêu diệt 1 sư đoàn, đánh thiệt hại nặng quân đoàn 2 ngụy. Giải phóng phần lớn hoặc hoàn toàn các tỉnh Đắc Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức gồm 3 thị xã Cheo Reo, Gia Nghĩa, Buôn Ma Thuột. Trọng điểm là tỉnh Đắc Lắc, mục tiêu then chốt quyết định là Buôn Ma Thuột, mục tiêu quan trọng là 3 quận lỵ: Đức Lập, Thuần Mân, Kiến Đức. Hướng Cheo Reo, Gia Nghĩa là hướng phát triển chủ yếu.

        5 tháng 2

        * Đại tướng Văn Tiến Dũng - ủy viên Bộ Chính trị, Tổng tham mưu trưởng được Bộ Chĩnh trị cử vào chiến trường Tây Nguyên làm đại diện của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh bên cạnh Bộ chỉ huy chiến dịch để trực tiếp chỉ đạo chiến dịch.

        * Thành lập Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên. Trung tướng Hoàng Minh Thảo: Tư lệnh; Đại tá Đặng Vũ Hiệp: Chính ủy; Thiếu tướng Vũ Lăng, Đại tá Phan Hàm, Đại tá Nguyễn Năng, Đại tá Nguyễn Lang: Phó tư lệnh. Đại tá Phí Triệu Hàm: Phó chính ủy. Thường vụ khu ủy Khu 5 cử đồng chí Bùi San - Ủy viên Thường vụ khu ủy cùng một số cán bộ đại diện các ngành bên cạnh Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch để trực tiếp chi đạo 3 tỉnh: Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lấc huy động mọi khả năng hiện có của địa phương phục vụ mặt trận.

        Tháng 2

        Thành lập Đoàn 232 (tương đương quân đoàn) tại Nam Bộ. Biên chế 2 sư đoàn bộ binh (3 và 5), Lữ đoàn 232 pháo binh, Trung đoàn 23 công binh và một số đơn vị trực thuộc khác. Khi tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh (26-30.4.1975) được tăng cường Sư đoàn 9 (Quân đoàn 4) tiến công hướng tây, tây nam Sài Gòn. Tư lệnh: Nguyễn Minh Châu, Chính ủy: Trần Văn Phác.

         4-3 đến 3-4

         Chiến dịch Tây Nguyên. Nhẳm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch (khoảng 4 đến 5 trung đoàn bộ binh, 1 đến 2 thiết đoàn thiết giáp) giải phóng các tinh nam Tây Nguyên tạo thế chia cắt chiến lược thực hiện chiến lược giải phóng miền Nam (1975 - 1976), Bộ Quốc phòng mở chiên dịch tiến công khu vực Nam Tây Nguyên gồm các tinh Phú Bổn, Đắc Lắc, Quảng Đức.

        Lực lượng địch có sư đoàn bộ binh 23, lử đoàn dù 3 và trung đoàn bộ binh 40 (giai đoạn phát triển), 8 liên đoàn biệt động quân, lữ đoàn tăng thiết giáp 2 (4 thiết đoàn), 30 tiểu đoàn bảo an và các đơn vị binh chủng chuyên môn kỹ thuật bố trí thành thế phòng ngự hoàn chinh.

        Lực lượng ta tham gia chiến dịch gồm 5 sư đoàn (10, 320A, 316. 968, 3) và 4 trung đoàn bộ binh (25, 271, 95A 95B), Trung đoàn đặc công 198, Trung đoàn xe tăng - thiết giáp 273 và một số đơn vị binh chủng chuyên môn kỹ thuật.

        Bộ Tư lệnh chiến dịch gồm: Tư lệnh Hoàng Minh Thảo, Chính ủy Đặng Vũ Hiệp. Sau một số trận đánh tạo thế và nghi binh thu hút địch lên hướng Plây Ku, từ ngày 4 tháng 3 ta bước vào tạo thế cắt đường 19, 21 (chia cắt chiến lược Tây Nguyên với đồng bằng); cắt đường 14 (chia cát chiến dịch bắc với nam Tây Nguyên), tập kích bằng đặc công và hoả lực pháo binh vào Kon Tum. Ngày 8 tháng 3, ta đánh quận lỵ Thuần Mẫn; ngày 10 tháng 3 diệt vị trí Đức Lập, cô lập triệt để Buôn Ma Thuột; ngày 10 và 11 tháng 3. Sư đoàn 316. Trung đoàn 95B, Trung đoàn đặc công 198 tiêu diệt Buôn Ma Thuột (mục tiêu then chốt chủ yếu). Địch phải đổ bộ đường không xuống Phước An đế phản kích; bị Sư đoàn 10, Trung đoàn 25 đánh từ ngày 4 đến 18 tháng 3, Sư đoàn 23 (thiếu) và liên đoàn biệt động quân 21 bị diệt. Để bao toàn lực lượng còn lại của quân đoàn 2, địch phải bỏ Bắc Tây Nguyên rút chạy về đồng bằng theo đường số 7 liên tỉnh. Sư đoàn 320 truy kích từ ngày 17 đến 23 tháng 3 đánh thiệt hại nặng 1 trung đoàn bộ binh. 6 liên đoàn biệt động, 4 thiết đoàn... giải phóng Cheo Reo, Củng Sơn. Đồng thời từ ngày 18 đến 24 tháng 3 Sư đoàn 968, Trung đoàn 95A và Trung đoàn 271 giải phóng thị xã Kon Tum. Plây Ku, Gia Nghĩa. Từ ngày 2 tháng 3 đến 3 tháng 4 các đơn vị của ta tiếp tục phát triển xuống duyên hải Trung Bộ diệt lữ đoàn dù 3, trung đoàn bộ binh 40, liên đoàn biệt động quân 24; cùng lực lượng tại chỗ giải phóng Bình Khê, Phú Yên, Nha Trang, Cam Ranh. Kết thúc chiến dịch, ta tiêu diệt và làm tan rã quân đoàn 2 - quân khu 2 và một bộ phận lực lượng cơ động chiến lược của địch, giải phóng Tây Nguyên và các tinh miền Nam Trung Bộ. Chiến dịch Tây Nguyên thể hiện nghệ thuật cao về chọn hướng (mục tiêu), nghi binh, tạo thế (cắt, vây), tập trung lực lượng giành và giữ quyền chủ động, phát triển tiến công; mờ ra một bước ngoặt đưa cuộc chiến tranh từ tiến công có ý nghĩa chiến lược đến tổng tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #148 vào lúc: 11 Tháng Năm, 2016, 10:54:37 am »


        15 tháng 3

        Bộ Tổng tham mưu nguy quyết định đưa liên đoàn 14 biệt động quân từ Quảng Ngãi ra Quảng Trị thay lữ đoàn 369 và đưa lữ đoàn 258 lính thuỷ đảnh bộ vào bao vệ Quảng Nam - Đà Nằng đế rút sư đoàn dù về bảo vệ Sài Gòn. Cuộc điều quân bố trí lại lực lượng này càng làm cho địch lâm vào thế bị động tan vỡ.

        18 tháng 3

        Bộ Chính trị họp nhận định: Thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược cua ta đánh dấu một bước rất mới trong cục diện chung, một bước suy sụp mới của Mỹ - nguy. Địch đang thực hiện co cụm chiến lược, có thể co cụm ở Đà Nẵng và Cam Ranh... Bộ Chính trị hạ quyết tâm hoàn thành giai phóng miền Nam trong năm 1975; nhiệm vụ trước mắt là nhanh chóng tiêu diệt quân đoàn 1 của địch, không cho chúng rút về Sài Gòn, giải phóng Huế, Đà Nẵng và các tinh Trung Bộ

        21-29 tháng 3

        Chiến dịch Huế - Đà Nẵng. Nhằm tiêu diệt tập đoàn phòng ngự mạnh của quân ngụy ở Trị - Thiên, Huế, Đà Nẵng, giải phóng các tinh miền Trung, Bộ Quốc phòng mở chiến dịch tiến công ở các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Lực lượng địch trên địa bàn chiến dịch có quân đoàn 1 - quân khu 1, có 5 sư đoàn (2 sư đoàn thuộc lực lượng tổng dự bị), 4 liên đoàn biệt động quân, 24 tiểu đoàn và 10 đại đội bảo an, 21 tiểu đoàn pháo binh (418 khẩu), 4 thiết đoàn và 10 chi đoàn tăng - thiết giáp (trên 400 xe), 165 tàu hải quân, 1 sư đoàn không quân (96 máy bay chiến đấu); được bố trí thành hai khu vực phòng ngự vững chắc: bắc đèo Hải Vân (Trị - Thiên) và nam đèo Hai Vân (Đà Nắng - Quảng Ngãi).

        Chiến dịch do Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ huy. Tư lệnh: Trung tướng Lê Trọng Tấn, Chinh ủy: Thượng tướng Chu Huy Mân. Chiến dịch chia làm 2 đợt: Đợt 1 (21-25.3) tiến công bao vây, chia cắt chiến lược, giải phóng Huế và toàn tỉnh Thừa Thiên, tỉnh Quảng Ngãi. Đợt 2 (26-29.3) tổng công kích vào Đà Nẵng.

        Kết thúc chiến dịch, ta loại khỏi vòng chiến đấu 120.000 tên địch, làm tan rã 130.000 phòng vệ dân sự, tiêu diệt và làm tan rã 3 sư đoàn bộ binh (quân đoàn 1), sư đoàn thủy quân lục chiến (tổng dự bị), 4 liên đoàn biệt động quân, 4 thiết đoàn, 1 sư đoàn không quân; thu phần lớn trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh; giải phóng 5 tỉnh (Quang Trị, Thừa Thiên, Quang Nam, Quang Đà, Quảng Ngãi)- Tháng lợi của chiến dịch có ý nghĩa chiến lược quan trọng làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng về mặt chiến lược hoàn toàn có lợi cho ta, trực tiếp đập tan ý đồ co cụm chiến lược của địch, tạo điều kiện cho quân ta đẩy nhanh tốc độ tiến công giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam.

        25 tháng 3

        * Bộ Chính trị họp nhận định: "Thời cơ chiến lược lớn đã tới. Trong suốt 20 năm chống Mỹ cứu nước chưa bao giờ thuận lợi bằng lúc này"; do đó cần "Nắm vững thời cơ chiến lược mới, tranh thủ thời gian cao độ, nhanh chóng tập trung lực lượng vào hướng chủ yếu, hành động táo bạo bất ngờ, làm cho địch không dự kiến kịp và không kịp trở tay". Bộ Chính trị quyết định "Quyết tâm hoàn thành giải phóng Sài Gòn và miền Nam trước mùa mưa (tháng 5 năm 1975)".

        * Bộ Chính trị ra nghị quyết (số 241/NQTW) thành lập Hội đồng chi viện miền Nam ở Trung ương. Chủ tịch: Phạm Văn Đồng - Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ; Phó chủ tịch: Lê Thanh Nghị - ủy viên Bộ Chính trị, Phó thủ tướng Chính phủ, Phan Trọng Tuệ - Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải.   

        * Bộ Tổng tham mưu quyết định điều động một bộ phận lớn Quân đoàn 1 vào tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn. Sư đoàn 308 làm nhiệm vụ dự bị chiến lược của Bộ và bảo vệ miền Bắc.

        26 tháng 3

        * Bộ Quốc phòng quyết định (số 54/QĐ-QP) thành lập Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên) tại căn cứ Tây Nguyên. Biên chế ba sư đoàn bộ binh (10, 316, 320A), 2 trung đoàn pháo binh (40 và 675), 3 trung đoàn phòng không (232, 234, 593), Trung đoàn đặc công 198, Trung đoàn xe tăng 273, 2 trung đoàn công binh (7 và 575), Trung đoàn thông tin 29 và các cơ quan, đơn vị bao đảm, phục vụ Tư lệnh: Thiếu tướng Vũ Lăng; Chính ủy: Đại tá Đặng Vũ Hiệp.

        * Hơn 2.000 binh sĩ ngụy thuộc trung tâm huấn luyện Hoà Cầm làm binh biến, nhiều đơn vị địch rời bỏ trận địa tiền tiêu rút về phía sau. Tiếp đó cả 3 lữ đoàn của sư đoàn thuỷ quân lục chiến đều bỏ vị trí chiến đấu (lữ đoàn 148 rút về Phú Lộc, lữ đoàn 258 bỏ về sân bay Nước Mặn. lữ đoản 369 chạy về Hiếu Đức, trung đoàn 57 (sư đoàn 3) chạy về Hoà Cầm. Trung tướng Ngô Quang Trường - Tư lệnh Quân khu 1 vội vàng chạy ra bán đảo Sơn Trà lên tàu chiến Mỹ, chạy trốn vào Sài Gòn.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #149 vào lúc: 11 Tháng Năm, 2016, 10:57:07 am »


        31 tháng 3

        Bộ Chinh trị nhận định: Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt mà thời cơ chiến lược để tiến hành tổng tiến công vào sào huyệt của địch đã chín muồi. Trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam và thực hiện hoà bình thống nhất Tổ quốc. Bộ Chính trị quyết định mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Sài Gòn trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4, không thể đế chậm. Phải gấp rút tăng lực lượng vào hướng tây Sài Gòn, thực hiện chia cắt và bao vây chiến lược, triệt hẳn đường số 4, áp sát Sài Gòn; đồng thời nhanh chóng tập trung lực lượng ở hướng đông và đông nam, đánh chiếm những mục tiêu quan trọng, thực hiện bao vây. cô lập Sài Gòn từ phía Long Khánh, Bà Rịa. Vũng Tàu. Tổ chức sẵn sàng những đơn vị binh chủng hợp thành mạnh để khi thời cơ xuất hiện thì tức khắc đánh chiếm các mục tiêu quan trọng nhất ở trung tâm thành phố.

        Tư tưởng chỉ đạo: Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng.

        8 tháng 4

        Thành lập Bộ chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Tư lệnh: Đại tướng Văn Tiến Dũng, Chính ủy: Phạm Hùng; Phó tư lệnh: Thượng tướng Trần Văn Trà, Trung tướng Lê Đức Anh, Trung tướng Đinh Đức Thiện (ngày 22 tháng 4 bổ sung Trung tướng Lê Trọng Tấn: Phó tư lệnh, Trung tướng Lê Quang Hoà: Phó chính ủy).

        9-20 tháng 4

        Chiến dịch Xuân Lộc. Nhằm tiêu diệt lực lượng địch phòng ngự ở phía đông Sài Gòn, tạo thuận lợi cho chiến dịch Hồ Chí Minh, Bộ tư lệnh Miền mở chiến dịch tiến công thị xã Xuân Lộc, khu vực phòng thủ trọng yếu trong tuyến phòng thủ cơ bản (Biên Hoà - Xuân Lộc - Bà Rịa - Vũng Tàu). Lực lượng địch có sư đoàn bộ binh 18 (Quân đoàn 3), 1 liên đoàn biệt động quân, 1 trung đoàn thiết giáp, 9 tiếu đoàn bảo an; được máy bay, pháo binh chi viện hỏa lực. Trong quá trình chiến đấu được tăng viện lữ đoàn dù 1, trung đoàn bộ binh 8 (sư đoàn 5), 1 liên đoàn biệt động quân, 1 trưng đoàn thiết giáp. Lực lượng ta gồm Quân đoàn 4 (thiếu Sư đoàn 9), Sư đoàn bộ binh 6 (Quân khu 7), 1 trung đoàn tăng, thiết giáp, 1 trung đoàn pháo binh; cuối chiên dịch được tăng cường Trung đoàn 95 (Sư đoàn bộ binh 325) và 1 đại đội xe tăng. Chiến dịch do Bộ tư lệnh Quân đoàn 4, Khu uy Khu 7 trực tiếp chi đạo, chỉ huy.

        Mở màn chiến dịch (9-4), ta đồng loạt đột phá Xuân Lộc và tiểu khu Long Khánh nhưng không thành công, ở ngã ba Dầu Giây, Sư đoàn 6 tập kích chiếm 5 chốt của địch và làm chủ một đoạn đường 1A (Hưng Nghĩa - đèo Mẹ Bồng Con). Sáng 10 tháng 4, ta tiếp tục đột phá Xuân Lộc, chiếm sân bay, đánh thiệt hại nặng trung đoàn 43 (sư đoàn 18) đánh lữ đoàn dù 1 vừa đổ xuống Tấn Phong. Địch phải điều thêm 1 liên đoàn biệt động quân (trung đoàn 8, sư đoàn bộ binh 5) tăng viện cho Xuân Lộc. Ta thay đổi cách đánh: bao vây Xuân Lộc, đánh viện. Sáng 15 tháng 4, Sư đoàn 6 và Trung đoàn 95 tập kích diệt trung đoàn 52 (sư đoàn 18) ở ngã ba Dầu Giây. Ngày 16 và ngày 17 ta phản kích đầy lùi trung đoàn thiết giáp 3 và trung đoàn 8 từ phía Biên Hoà đến. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, ngày 18 tháng 4 sư đoàn 18 ngụy rút chạy, ngày 20 tháng 4 ta giải phóng thị xã Xuân Lộc. Kết thúc chiến dịch, ta đánh thiệt hại nặng sư đoàn 18, lử đoàn dù 1, loại khỏi chiến đấu trung đoàn 52 (sư đoàn 18), uy hiếp tuyến phòng thủ của địch ở Biên Hoà - Hố Nai.

        14 tháng 4

        Bộ Chính trị gửi điện (số 37/TK) cho Bộ chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn: "Đồng ý chiến dịch Sài Gòn lấy tên là chiến dịch Hồ Chí Minh... Chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn có kết hợp với nổi dậy của quần chúng, kết thúc chiến tranh. Đó là chiến dịch quyết chiến chiến lược lịch sử".

        14-29 tháng 4

        Giải phóng các đảo do quân ngụy Sài Gòn chiêm đóng thuộc quần đảo Trường Sa. Ngày 4 tháng 4, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ thị cho Khu ủy, Quân khu ủy, Bộ tư lệnh Quân khu 5 và Bộ tư lệnh Hải quân: "Nghiên cứu và chì đạo thực hiện gấp rút, nhằm thời cơ thuận lợi nhất đánh chiếm các đảo do quân ngụy miền Nam chiếm đóng thuộc quần đảo Trường Sa. Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng. Ngày 11 tháng 4, lực lượng chiến đấu gồm đội 4 (Trung đoàn 126 đặc công nước), một số đội đặc công của Quân khu 5 và tỉnh Khánh Hoà do trung tá Mai Năng chi huy tiến ra Trường Sa. Ngày 14 tháng 4? bộ đội ta giải phóng đảo Song Tử Tây. Từ ngày 25 đến 29 tháng 4, ta giải phóng các đảo Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa...

        15 tháng 4

        Quân đoàn 2 (thiếu Sư đoàn 324), Sư đoàn 3 Quân khu 5, Trung đoàn 25 bộ binh cùng các lực lượng xe tăng, pháo binh tăng cường tiến công tiêu diệt quân đoàn 3 nguy, đập tan tuyến phòng thủ Phan Rang, bắt 2 tướng ngụy là Nguyễn Vĩnh Nghi và Phạm Ngọc Sang, giải phóng thị xã và toàn tỉnh Ninh Thuận.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM