Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 06:51:18 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Danh tướng yêu nước Tôn Thất Thuyết 1839-1913  (Đọc 61862 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #50 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2016, 08:56:02 am »


Trong những năm cuối đời, ông Thuyết thường có những cơn điên dại, và thường múa gươm chém vào những tảng đá trong vườn. Có lẽ hoài bão cứu nước và lòng khát khao đánh Pháp, giành lại nền độc lập dân tộc vẫn còn cháy hừng hực trong huyết quản của ông cho đến phút lực tàn sức kiệt. Nhân dân vùng Long Châu (Quảng Đông, Trung Quốc) vô cùng trân trọng vị thân vương nước Nam, và gọi Tôn Thất Thuyết là “Đả thạch lão” (Ông già chém đá).

Điểm qua các hoạt đông của Tôn Thất Thuyết trên đất Trung Quốc, ta thấy rằng con người một lòng vì nước đó không hề biết chuyện nghỉ ngơi, vẫn tiếp tục công cuộc chống Pháp mà ông đã theo đuổi. Những hoạt động của ông vẫn đóng góp tích cực và trực tiếp vào phong trào kháng Pháp của dân tộc nói chung, vì thế không bao giờ lịch sử có thể gọi ông là “tên đào ngũ”. Và nếu như cho rằng cầu viện nhà Mãn Thanh là một sai lầm đáng tiếc của Tôn Thất Thuyết thì cũng phải thấy được đó là hạn chế khách quan của lịch sử, và Tôn Thất Thuyết dẫu sao cũng đã tận dụng được tất cả những điều kiện ngoại viện có được để đóng góp thêm phần sức mạnh cho cuộc chiến đấu chống lại quân thù. Biết bao mất mát, đau thương dồn dập đổ lên đầu vị lãnh tụ khởi xướng phong trào kháng chiến, những đóng góp máu xương của gia đình ông đối với Tổ quốc cũng thật vô cùng vĩ đại: gia sản bị tịch biên, gia đình chịu ly tán, bản thân Tôn Thất Thuyết trở thành một phần thưởng mà nếu ai bắt sống thì được 1000 lượng bạc, còn nếu chém chết thì cũng được 800 lượng. Người cha già 70 tuổi là Tôn Thất Đính bị bắt tại Quảng Bình, khi đang tìm đường theo vua Hàm Nghi, bị đày đi Côn Đảo và sau đó an trí tại Huế cho đến chết (5.7.1893). Bà mẹ ông là Văn Thị Thu theo hộ giá vua Hàm Nghi đến cùng, không chịu nổi lam khí đã chết tại Mường Bò (Hà Tĩnh) vào 19.9.1887. Bà vợ là Lê Thị Thành cũng một dạ theo chồng phò vua, bất chấp khó khăn gian khổ và chịu chết tại núi rừng Hà Tĩnh vào 26 9 1885. Em ruột là Tham biện Sơn phòng Tôn Thất Lệ đã cầm đầu cánh quân tấn công toà Khâm đêm 5.7.1885, sau đó hộ giá vua Hàm Nghi xuất bôn và hy sinh anh dũng trong trận đánh ở Mai Lãnh - Quảng Trị để bảo vệ nhà vua chạy thoát vào cuối tháng 7 năm 1885. Một người em khác là Tri huyện Nông Cống Tôn Thất Hàm tích cực tham gia phong trào Cần Vương ở Thanh Hoá, khi bị bắt đưa vào Đà Nẵng đã tuyệt thực mà chết (11.1892). Người con trẻ Tôn Thất Thiệp, cùng tuổi với vua Hàm Nghi, đã bao lần vào sinh ra tử để bảo vệ ngọn cờ của cuộc kháng chiến, cuối cùng đã hy sinh thân mình trước mặt nhà vua đêm 1.11.1888 tại núi rừng Tuyên Hoá - Quảng Bình. Con trai trưởng là Tôn Thất Đàm, Khâm sai Tán lý quân vụ đại thần, trụ cột của “triều đình Hàm Nghi” kháng chiến, đã chiến đấu anh dũng, và khi hay tin nhà vua bị bắt đã tự thắt cổ mà chết giữa ngàn Hà Tĩnh vào 15.11.1888. Cha vợ của Tôn Thất Thuyết là Tán tương Nguyễn Thiện Thuật, thủ lĩnh của nghĩa quân Bãi Sậy, chiến đấu chống giặc đến cùng, và khi thất thế chạy sang Tàu, vẫn tiếp tục cùng ông hoạt động. Con rể là Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền cũng tham gia cách mạng, là đồng chí của các cụ Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, là người duy nhất trong gia tộc tiễn đưa Tôn Thất Thuyết về nơi an nghỉ cuối cùng... Ngoài ra, còn có những người con khác của Tôn Thất Thuyết, như là Tôn Thất Hoàng bị bắt cùng Khoá Bảo ở Cam Lộ (Quảng Trị) và bị đày lên Lao Bảo cho đến chết; Tôn Thất Trọng thì về sau hưởng ứng phong trào Đông Du rồi thất tích ở nước ngoài. Tất cả những người thân của Tôn Thất Thuyết đều đi theo con đường vì nước mà ông đã chọn, điều đó khiến gia đình của ông trở thành mẫu mực mà mọi người cần noi theo trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Gia đình Tôn Thất Thuyết thật sự xứng đáng với bốn chữ mà người đời xưng tặng là “TOÀN GIA YÊU NƯỚC”.

Cả một đời dấn thân vì việc nước, không hề mưu lợi riêng tư, dám tự mình đứng ra gánh lấy nghĩa lớn trong thiên hạ, khi chết vẫn canh cánh bên lòng mối hận vong quốc..., con người đó nếu không phải là bậc anh hùng thì vẫn xứng đáng là một trang hào kiệt. Huống gì trong thực tế lịch sử, Tôn Thất Thuyết có những đóng góp vô cùng to lớn cho việc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, và sau đó ông lại là người đầu tiên phát động cao trào đánh Pháp trên quy mô toàn quốc để giải phóng dân tộc (hẳn nhiên là dưới ý thức hệ phong kiến). Cuộc đấu tranh của những người cần vương cứu nước không thành, bản thân Tôn Thất Thuyết cũng gánh chịu sự thất bại trong ý đồ cầu ngoại viện, song điều đó không hề làm giảm bớt ý nghĩa lịch sử mà ông đã tạo dựng trong quá khứ. Tôn Thất Thuyết đáng được xếp vào một vị trí trang trọng trong lịch sử dân tộc, và mỗi chúng ta ngày nay cần phải hiểu đúng con người của ông.

Trên 80 năm đã trôi qua, kể từ ngày “Ông già chém đá” ấy ôm theo mối hờn vong quốc vùi thây nơi xứ lạ quê người. Tâm huyết của ông cũng đã được cả dân tộc thực hiện cách đây đúng nửa thế kỷ. Nhưng dưới chốn tuyền đài, hẳn linh hồn ông vẫn còn trăn trở không nguôi vì những tiếng thị phi mà cả người đời xưa lẫn kẻ đời nay đã gán cho ông. Hậu thế thật khó lòng gột sạch cho Tôn Thất Thuyết những nỗi niềm chua xót đó!1.
__________________________________
1. Tôn Thất Thuyết đã được xác nhận là một "danh tướng yêu nước".
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #51 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2016, 09:30:23 pm »


CHÍ LỚN NGHĨA TRỌNG CỦA TÔN THẤT ĐÀM

NGUYỀN QUANG TRUNG TIẾN1


Từ trước đến nay, nếu như cuộc đời và hành trạng của Tôn Thất Thuyết không thể dễ dàng được tất cả mọi người khâm phục, thì trái lại chẳng có mấy ai phủ nhận tính cách anh hùng của hai người con là Tôn Thất Đàm2 và Tốn Thất Tiệp3 trong việc phò vua Hàm Nghi phất cờ Cần Vương cứu nước. Tuy nhiên, công tích của hai vị anh hùng trẻ tuổi này vẫn chưa được nhận diện một cách đúng đắn, và họ chỉ như những cành cây non trước các đại thụ của một giai đoạn lịch sử đầy bi thương song anh dũng của dân tộc. Đó là một khiếm khuyết mà chúng ta cần phải khắc phục.

Tôn Thất Thuyết có 5 bà vợ, nên mặc dầu mới ở tuổi 46 vào lúc nổ ra cuộc tấn công quân Pháp tại kinh thành Huế năm 1885, Ông đã có được 15 người con, gồm 9 nam, 6 nữ. Trong số 9 người con trai của ông lúc ấy, mới chỉ có một mình Tôn Thất Đàm ở tuổi trưởng thành, còn lại đều đang nhỏ, ngay cả Tôn Thất Tiệp là con trai thứ hai cũng chỉ mới 15 tuổi.

Tôn Thất Đàm lớn lên trong hoàn cảnh đất nước gặp nhiều nguy biến, cha của ông lại là người binh nghiệp, ấp ủ mưu đồ chống Pháp, nên ông đã rèn luyện kiếm cung từ thuở nhỏ, và từng tham gia việc nước với tư cách là người phò tá của Tôn Thất Thuyết. Chính vào ngày 18-8-1883, khi quân Pháp do Thuỷ sư đô đốc Courbet chỉ huy gởi tối hậu thư buộc quân đội triều đình phải giao nộp cửa Thuận An, rồi dàn hạm đội triển khai cuộc tấn công, Tôn Thất Đàm đã cùng cha đốc thúc đại quân từ Huế vận chuyển thêm súng khoa sơn xuống các đồn trấn thủ cửa Thuận để chiến đấu.

Biết con có lòng quả cảm, vì nước sẵn sàng quên thân, nên sau sự biến Kinh thành Huế, khi bà Thái hoàng Thái hậu Từ Dũ triệu tập cuộc họp Hành cung Quảng Trị vào chiều 8-7-1885 để sau đó trở lại Huế, Tôn Thất Thuyết chọn ngay Tôn Thất Đàm vào đoàn hộ tống vua Hàm Nghi lên Tân Sở để chống Pháp. Từ đó cho tới lúc ra đến Sơn phòng Hà Tĩnh, Tôn Thất Đàm là một trong những võ tướng trụ cột của đội quân bảo vệ vua Hàm Nghi, và ông đã góp phần không nhỏ trong hai trận chiến thắng quân Pháp ở núi Lập Cập (còn gọi là Eo-Len thuộc tỉnh Quảng Bình vào tháng 12-1885, và trận cửa Khe (ở vùng sông Ve, cũng thuộc tỉnh Quảng Bình) vào tháng 1-1886.
________________________________
1. Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Huế.
2. Nhiều sách chép là Đạm, có khi là Đãm, tên đúng theo gia phả dòng họ là Đàm.
3. Nhiều sách chép là Thiệp, có khi là Thiếp. ĐNTL tập 38, H., KHXH, 1978, tr. 141-148, ghi là Hợp, tên đúng theo gia phả là Tiệp.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #52 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2016, 09:32:39 pm »


Vai trò của Tôn Thất Đàm thực sự trở nên quan trọng từ sau trận đánh ở cửa Khe lần thứ hai vào cuối tháng 1-1886, bởi vì Tôn Thất Thuyết lên đường sang Trung Hoa cầu viện (2-1886), Tôn Thất Đàm được giữ chức Khâm sai Chưởng lý quân vụ đại thần, trực tiếp ban phát mệnh lệnh của vua Hàm Nghi cho các tướng sĩ khắp nước, đồng thời phụ trách việc điều động binh đội các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình trở vào Nam. Việc điều động các toán quân từ Nghệ An trở ra Bắc được Tôn Thất Thuyết giao cho Trần Xuân Soạn1.

Với chức vụ Khâm sai, đồng thời phải gánh lấy trách nhiệm thay cha chủ trì đại cuộc từ sau khi Tôn Thất Thuyết lên đường sang Trung Quốc, Tôn Thất Đàm thấy cần phải xây dựng một cơ sở cố định để nắm bắt tình hình và điều hành cuộc kháng chiến, nên vào tháng 4-1886 ông kéo quân từ vùng Thanh Lạng thuộc Quảng Bình sang đất Hà Tĩnh. Tôn Thất Đàm đem một viên tá sự, một viên tham biện cùng 30 nghĩa quân đến xóm “Cộc” cạnh chùa Vàng Liêu ở Thác Đài thuộc làng Cổ Liễm, huyện Hương Khê, Hà Tĩnh, cách chỗ vua Hàm Nghi ở trên đất Quảng Bình chừng sáu, bảy mươi dặm để thiết lập một văn phòng thu nhận tin tức, tấu sớ của các thủ lĩnh Cần Vương từ khắp nơi gởi đến. Văn phòng này có nhiệm vụ tập trung toàn bộ giấy tờ rồi chuyển cho vua Hàm Nghi phê duyệt và nhận chỉ thị trực tiếp từ nhà vua để truyền đạt lại2. Tôn Thất Đàm trở thành người thay mặt vua Hàm Nghi điều khiển mọi hoạt động của nghĩa quân Cần Vương cả nước, các thủ lĩnh đều răm rắp nghe lệnh vị tướng quân trẻ tuổi3.

Chỗ dựa của Tôn Thất Đàm ở miền thượng Quảng Bình là lực lượng kháng chiến của nguyên Tri phủ Nguyễn Phạm Tuân, ông này được vua Hàm Nghi phong làm Hồng Lô Tự Khanh sung Tán lý quân vụ, về sau thăng hàm Thượng thư. Căn cứ kháng chiến của Nguyễn Phạm Tuân ở vùng Yên Lương-Cổ Liễm thuộc thượng nguồn sông Gianh, sát vị trí ẩn náu của vua Hàm Nghi tại vùng sông Ve, huyện Tuyên Hoá, nghĩa quân có đến ngàn người. Nguyễn Phạm Tuân đã cùng Tôn Thất Đàm chiến đấu bảo vệ vua Hàm Nghi rất tích cực. Vùng thượng Rào Nậy và sông Gianh bao quanh khu vực vua Hàm Nghi ở đều có nghĩa quân đóng giữ.

Tại vùng trung lưu sông Gianh, Đề đốc Lê Trực xây dựng căn cứ kháng chiến ở Thanh Thuỷ, tạo thế liên hoàn cho việc duy trì “triều đình Hàm Nghi” chống Pháp, và lực lượng của ông cũng dưới quyền điều động của Tôn Thất Đàm, với khoảng 2000 nghĩa quân. Ngoài ra còn có nguyên Lãnh binh Phạm Văn Mỹ. Lãnh binh Dương Môn, Lãnh binh Khiêm cầm đầu các toán quân chia nhau chống giữ để bảo vệ Hàm Nghi. Nhiều lần nghĩa quân của Lê Trực phối hợp với lực lượng của Nguyễn Phạm Tuân và Tôn Thất Đàm chiến đấu chống các cuộc hành binh của Pháp ở thượng nguồn, bảo đảm sự an toàn cho nhà vua. Mạng lưới quân sự do Tôn Thất Đàm điều khiển đã giành được quyền kiểm soát một khu vực hành lang dọc theo thượng nguồn sông Gianh, chia cắt lực lượng quân Pháp ở Hà Tĩnh và Quảng Bình. Tài liệu của Pháp cho biết: “Từ mùa xuân, vùng thượng lưu giữa Rào Nậy và sông Gianh không liên lạc được với nhau, các làng đặt dưới quyền kiểm soát của quân phiến loạn“ (tức nghĩa quân)4.
_____________________________________
1. Nguyễn Thế Anh - Monarchie et fait colonial au Vietnam (1875-1925), Paris, Nxb. L'Harmattan, 1992, tr. 128-129.
2. Bourotte (B) - L’aventure du Roi Ham Nghi, B.A.V.H số 3-1929, tr. 139.
3. Phan Trần Chúc – Vua Hàm Nghi, Hà Nội, Chính Ký 1952.tr. 147.
4. Gosselin (Ch) - L'Empire d'Annam, Perrin et Cie, Paris, 1904, tr. 271.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #53 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2016, 09:36:10 pm »


Trong suốt năm 1886, quân Pháp trực tiếp tổ chức nhiều cuộc hành binh tiêu diệt nghĩa quân Cần Vương, nhưng không sao dẹp được đành quay sang sử dụng lá bài chiêu dụ dưới danh nghĩa triều đình Huế. Vào tháng 12-1886, Hoàng Kế Viêm được vua Đồng Khánh khôi phục nguyên hàm, phong làm Hữu trực kỳ An phủ Kinh lược đại sứ, rồi phái ra Quảng Bình chiêu an và kêu gọi vua Hàm Nghi cùng bá quan văn võ Cần Vương giải giáp, hạ khí giới. Việc làm của vua Đồng Khánh không đạt được kết quả gì lớn, ngược lại thừa lúc quân Pháp án binh bất động chờ tin của Hoàng Kế Viêm, Tôn Thất Đàm đã triệu tập Nguyễn Phạm Tuân và Lê Trực lên tổ chức một đội nghĩa quân ở vùng thượng lưu sông Nam và tiếp nhận các toán quân từ phía Bắc do Trần Xuân Soạn cử vào. Lực lượng nghĩa quân ngày càng mạnh thêm.

Biết không thể dụ hàng được, quân Pháp một mặt tăng cường triển khai bao vây căn cứ vua Hàm Nghi bằng cách chặn các con đường tiếp tế của nghĩa quân, xây dựng nhiều đồn bốt dọc theo sông Gianh, đẩy lực lượng của Tôn Thất Đàm cách ly khỏi chỗ trú của vua Hàm Nghi, cắt đứt liên lạc giữa dân chúng với quân kháng chiến, đồng thời đẩy mạnh việc tàn phá, khủng bố dã man để uy hiếp tinh thần của những người chống đối. Để thoát khỏi thế bị bao vây, tiến lên tiêu diệt quân Pháp, nối lại đường dây liên hệ với vua Hàm Nghi, Tôn Thất Đàm quyết định tập trung lực lượng đánh đồn Minh Cầm của Pháp ở Quảng Bình.

Đồn Minh Cầm mới được viên đại uý Mouteaux đem lính thiết lập vào đầu tháng 2-1887, nằm ở mé trên làng Thanh Thuỷ, chia cắt vùng thượng lưu và trung lưu sông Gianh, cản trở lớn đến sự phối hợp lực lượng của Tôn Thất Đàm, Nguyễn Phạm Tuân và Lê Trực. Để thực hiện cuộc công đồn được ước định vào tối 20-2-1887, Tôn Thất Đàm vạch ra kế hoạch khá chu đáo, huy động nhiều toán quân tham gia, kể cả cánh quân của Lê Trực ở vùng Thanh Thuỷ. Ông còn cho quân lính ăn mặc giả làm quân Tàu để uy hiếp về tinh thần quân Pháp. Một điều không may là kế hoạch đánh đồn của Tôn Thất Đàm bị cố đạo Tortuyaux ở nhà thờ Hương Phương hay biết, và ngày 15-2-1887 ông ta đã viết một bức thư mật gửi cho Mouteaux trong đó nói: “Xin báo để cho ngài biết tôi vừa được tin nay mai sẽ có 800 quân vừa Tàu vừa Nam ăn mặc kiểu Tàu đến đánh đồn. Đội quân ấy do con trai cả của Tôn Thất Thuyết chỉ huy. Thủ lĩnh các nơi bất cứ là đã hay chưa ra hàng đều ùa theo đạo quân này và do đường núi xuống Quảng Bình, hiện họ còn đóng ở thượng lưu sông Nam, ngang làng Đông Lao và cách làng này chừng một ngày đường. Dân miền hạ lưu sông này đã dự bị giao chiến và chôn tất cả các vật quý xuống đất. Vừa đây tôi lại tiếp tục nhận được thư của cụ cố trụ trì nhà thờ Troóc, trong thư cũng nói như thế, Lê Trực hiện không còn ở Thanh Thuỷ, mai mốt đồn ngài sẽ bị đánh...”1.

Bức thư của Tortuyaux đến tay viên trưởng đồn Minh Cầm trước thời điểm nổ súng của Tôn Thất Đàm 3 ngày, nên quân Pháp có đủ thời gian phòng bị. Đêm 20-2-1887, sau khi bắn đại bác vào đồn nhưng quân Pháp vẫn không động tĩnh, Tôn Thất Đàm biết có phục binh liền cho nghĩa quân rút lui để bảo toàn lực lượng.

Từ sau lần đó, Tôn Thất Đàm còn phái Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân tấn công tiêu diệt đồn Minh Cầm thêm nhiều đợt nữa, nhằm giảm sức ép từ phía quân Pháp đối với khu vực hoạt động của vua Hàm Nghi và nghĩa quân. Nhưng không được, ông liền quay sang dùng kế cài nội gián để kiếm cớ đầu độc quân Pháp. Nguyễn Trọng Duật2 người làng Thanh Thuỷ nơi Đề đốc Lê Trực đóng căn cứ, được Tôn Thất Đàm giao nhiệm vụ trá hàng.
____________________________________
1. Dẫn theo Phan Trần Chúc - Sđd, tr. 151.
2. Theo Phạm Văn Sơn – Việt Nam cách mạng cận sử, Sài Gòn, Khai Trí phát hành, 1963, tr. 86 thì người này tên là Dưa.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #54 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2016, 09:45:37 pm »


Tôn Thất Đàm liên lạc với nhân dân Mường ở tổng Cơ Xá chuẩn bị thuốc độc sẵn sàng trước, rồi đưa vàng bạc cho Nguyễn Trọng Duật đem về đút lót viên Bang tá đã đầu thú Pháp là Nguyễn Phiên, nhờ Nguyễn Phiên tiến dẫn Nguyễn Trọng Duật với viên quản đồn Minh Cầm (theo kế hoạch, nếu Nguyễn Trọng Duật được người Pháp tin dùng thì y sẽ xin cung cấp các loại thực phẩm như thịt lợn, chè để tạo lòng tin trước, sau đó đưa người Mường đến bỏ thuốc độc vào thức ăn của quân đội Pháp). Khi Nguyễn Trọng Duật đến giả đầu thú, viên đại uý Mouteaux lập tức thu dùng, nhưng vẫn đề phòng theo dõi cẩn mật.

Trong nửa tháng đầu, Nguyễn Trọng Duật liên tục dẫn đường cho quân Pháp đến đúng những nơi vốn là các căn cứ nhỏ của nghĩa quân, song không có cuộc chạm súng nào, do nghĩa quân đã được báo trước. Lúc này Mouteaux bắt đầu giảm bớt sự đề phòng và có ý tin dùng Nguyễn Trọng Duật, chuẩn bị giao cho hắn nhiệm vụ đi mua voi của người Mường. Nhân cơ hội này, Tôn Thất Đàm vạch kế hoạch đưa người Mường giả làm người mang voi đến nộp cho đồn, rồi thừa cơ đầu độc hoặc tấn công quân Pháp, và lệnh cho Nguyễn Phạm Tuân chuẩn bị lực lượng nghĩa quân sẵn sàng ở vòng ngoài để hỗ trợ.

Công việc đang được xếp đặt gần xong thì tình cờ khi quân Pháp đánh một căn cứ nhỏ của nghĩa quân đã bắt được một số công văn quan trọng, trong đó có thư của Nguyễn Phạm Tuân lệnh cho người chỉ huy toán quân ở đó chuẩn bị sẵn sàng giúp Nguyễn Trọng Duật tiến hành đầu độc lính Pháp; và một số tờ “sức” cũng của Nguyễn Phạm Tuân cho biết kế hoạch cài nội gián vào đồn Pháp để đầu độc của quan Khâm sai Hà Tĩnh (tức Tôn Thất Đàm). Trước những chứng cớ khó có thể chối cãi lại và bị Mouteaux đe doạ chém đầu, Nguyễn Trọng Duật đã phản bội, trở mặt dẫn đường cho quân Pháp tấn công nghĩa quân.

Vào ngày 8-4-1887, Nguyễn Trọng Duật làm hướng đạo cho Mouteaux kéo quân lên đánh căn cứ của Nguyễn Phạm Tuân ở vùng Yên Lương trên sông Rào Nậy. Nguyễn Phạm Tuân bị bắn trọng thương, bị bắt và ngày hôm sau thì chết, các tướng lãnh dưới quyền ông đều bị xử bắn ở chợ Minh Cầm. Trong trận này em trai Tôn Thất Đàm là Tôn Thất Trọng (con trai thứ 9 của Tôn Thất Thuyết được đích thân ông gởi gắm cho Nguyễn Phạm Tuân trước khi sang Trung Quốc), lúc đó chừng 8 tuổi cũng bị Pháp bắt đưa về Huế.

Trừ được Nguyễn Phạm Tuân xong, ngày 19-6-1887 Mouteaux bất ngờ kéo quân đánh xuống căn cứ Thanh Thuỷ của Lê Trực, bắt sống hầu hết các chỉ huy và vợ con của ông. Lê Trực cùng một ít nghĩa quân chạy thoát được ra ngả Hà Tĩnh, dựa hẳn vào lực lượng của Tôn Thất Đàm. Ngày 20-6-1887 toàn bộ số tù binh, kể cả đàn bà và trẻ con đều bị Pháp xử tử ở đồn Minh Cầm.

Sau khi căn cứ của Lê Trực bị đánh tan, các vùng trên sông Gianh lần lượt lọt vào tay Pháp, vòng vây của giặc quanh chỗ vua Hàm Nghi được xiết chặt dần, bản doanh của Tôn Thất Đàm và lực lượng Lê Trực bị cô lập giữa núi rừng Hà Tĩnh.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #55 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2016, 09:46:28 pm »


Từ đầu năm 1888, quân Pháp đóng đồn ở thượng lưu Rào Nậy và Tôn Thất Đàm không còn liên lạc được với vua Hàm Nghi nữa, song ông vẫn cùng Lê Trực tiếp tục duy trì cuộc chiến đấu một cách cương quyết, không hề nản chí. Quyết tâm vì vua giúp nước của Tôn Thất Đàm và em ông là Tôn Thất Tiệp làm cho giặc Pháp vô cùng căm hận. Song họ cũng không che dấu nổi sự thán phục tính cách của hai viên tướng trẻ tuổi, nhiều người Pháp trong số đó có đại uý Gosselin đã ngợi khen hai người con trai của Thuyết - Đàm và Tiệp - là “hai thiếu niên anh hùng”1. Đại uý Gosselin, người trực tiếp tham gia càn quét lùng bắt Tôn Thất Đàm và Lê Trực thú nhận rằng: “Mặc dầu chúng tôi hết sức mệt mỏi, chúng tôi không sao bắt được hai địch thủ này, chúng tôi phải ngợi khen họ, tuy phương tiện eo hẹp, binh sĩ đơn sơ mà họ vẫn chiến đấu hăng hái, họ đã có những cử chỉ cao quý, có lòng trung kiên đối với quốc gia ở vào một tình trạng tuyệt vọng, khiến chúng tôi phải kính phục hết sức"2.

Đầu tháng 11-1888, khi hay tin vua Hàm Nghi đã bị bắt, em ruột là Tôn Thất Tiệp bị giết, Tôn Thất Đàm cảm thấy mình là người phải gánh chịu hoàn toàn trách nhiệm trong việc để vua sa vào tay giặc. Ông vô cùng đau đớn vì đã không làm tròn sứ mạng người cha đã giao phó, đành quyết định cho số binh lính còn lại ra đầu thú, còn mình thì chọn lấy cái chết để đền nợ nước và đáp nghĩa quân thần.

Ngày 8-11-1888, trước khi tự kết liễu đời mình, Tôn Thất Đàm viết một bức thư gửi quân Pháp ở đồn Thuận Bài, yêu cầu chúng đừng giết hại những tướng sĩ của ông sẽ ra đầu thú. Lời lẽ trong thư ông rõ ràng, minh bạch, đáng mặt anh hào:

Khâm sai đại thần Tôn Thất Đàm

Thư kính gửi sĩ quan Pháp, quân Pháp đồn Thuận Bài.

Những việc khốn nạn vừa xảy ra ở nước tôi bắt buộc tôi phải viết thư cho ngài. Cha tôi, vì việc nước phải xuất dương hiện chưa về, tôi phải kế cái nghiệp lớn lao mà Vua tôi chẳng quản tôi tuổi trẻ tài hèn, đã phó thác trách hhiệm cho tôi. Tôi không hiểu sao trời lại xui khiến Vua thác cho tôi cái trách nhiệm quan trọng ấy, và tôi rất tiếc rằng không được ở cạnh Vua để cứu giá và giết chết bọn phản thần, hoặc cùng chết với em tôi khi quân phản nghịch bắt Vua mà nộp cho quân địch. Nếu bọn giáo dân không xen vào giữa người Pháp và người Nam, thì không bao giờ có chiến tranh. Về phía chúng tôi thì tự nhiên chúng tôi không bao giờ khiêu chiến với người Pháp. Nếu chúng tôi cố chống đối người Pháp, chẳng qua là vì phận sự phải che chở bờ cõi, và hết lòng trung thành theo Vua, khi ngài rời bỏ Kinh thành.

Nay chúng tôi bị thua, cái thẹn của chiến bại đã đến bước đường cùng. Vậy xin ngài cho các tướng sỹ được về quê hương an chí làm ăn và không phải ra thờ triều đình mới
3
___________________________________
1. Đào Trinh Nhất – Phan Đình Phùng, Sài Gòn, Tân Việt, 1957, tr. 93.
2. Bản dịch của Phạm Văn Sơn, Sđd, tr. 87.
3. Dẫn theo Phan Trần Chúc, Sđd, tr. 173-174.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #56 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2016, 09:48:05 pm »


Kèm theo bức thư trên, Tôn Thất Đàm cũng gởi cho vua Hàm Nghi một lá thư, trong đó xem mình là kẻ có tội, nhưng vẫn khẳng định lòng sắt son vì vua, vì nước của mình:

Thần Tôn Thất Đàm, Khâm sai Chưởng lý quân vụ cúi đầu dâng Ngự lãm.

Không được ở bên cạnh Hoàng thượng để hộ giá khi có kẻ phản thần làm việc ám muội, thần mang tội rất nhiều. Song đấy là mệnh trời xui, nên nước ta gặp bước gian nguy và các công thần không được gần vua để cứu giá. Các quan văn võ sẽ mang hận suốt đời, vậy xin hoàng thượng tha thứ cho và thề sẽ hết lòng trung cho đến thác
"1.

Biết Tôn Thất Đàm là dũng tướng có chí khí, người Pháp rất mến mộ và tìm cách dụ dỗ ông về nhận một chức quan lớn trong triều đình mới. Trong bức thư trả lời Tôn Thất Đàm, viên Thiếu tá Dabat, trưởng đồn Thuận Bài viết: “Thay mặt các binh sĩ Pháp, tôi xin nói để ngài biết rằng các tướng Pháp rất kính phục ngài. Xin mời ngài ra đồn Thuận Bài. Tôi xin cam đoan rằng người Pháp sẽ đãi ngài một cách trân trọng, xứng đáng với tài đức và địa vị của ngài trong hoạn giới”2.

Chí đã quyết, lòng đã định, Tôn Thất Đàm không dễ gì thuận theo lời đề nghị của người Pháp. Ông triệu tập toàn bộ binh tướng còn lại để truyền mệnh lệnh “cho” phép ra đầu thú, nhưng khuyên mọi người nên về quê làm ăn sinh sống, chớ đừng ra hợp tác với giặc, và nói một cách khẳng khái rằng: “Còn ta, nếu người Pháp có hỏi, các người cứ bảo họ vào trong rừng này tự khắc tìm thấy ta”3. Sau đó Tôn Thất Đàm thắt cổ tự tử vào ngày 15-1-1888, lúc ấy mới 22 tuổi đời4.

Quan quân dưới trướng vô cùng thương tiếc vị anh hùng trẻ tuổi, hết sức đau buồn và tiến hành chôn cất ông tử tế. Ngày 17-11-1888, 24 tướng sĩ Cần Vương ra đầu thú theo lời khuyên của chủ tướng, bốn ngày sau đó Đề đốc Lê Trực và số nghĩa quân còn lại của ông cũng ra hàng, chấm dứt sự đối đầu của lực lượng Cần Vương do Tôn Thất Đàm trực tiếp chỉ huy tại Quảng Bình và Hà Tĩnh.

Được tin người cầm đầu cuộc kháng Pháp giúp vua Hàm Nghi đã tự sát, người Pháp thở phào nhẹ nhõm như trút được gánh nặng. Song họ chỉ thực sự an tâm khi tận mắt nhìn thấy ngôi mộ và lưỡi gươm lúc sinh tiền của ông cắm trước mộ5.

Trong những năm cầm đầu cuộc kháng chiến, bảo vệ vua Hàm Nghi, Tôn Thất Đàm thường cùng tướng sỹ chọn địa điểm cạnh chùa Vàng Liêu giữa đại ngàn Hà Tĩnh làm nơi bái vọng xã tắc và truy niệm tổ tiên mỗi lần khánh tiết. Giờ đây, ông tìm đến đó để gởi thân vào chốn vĩnh hằng, với mong muốn được ở cạnh các bậc tiền nhân anh hùng mà ông từng ngưỡng vọng.

Cái chết của Tôn Thất Đàm tỏ rõ sự bất lực và tuyệt vọng của những người Cần Vương trong sự nghiệp đấu tranh chống Pháp cuối thế kỷ XIX. Song hành động tự kết liễu đời mình của Tôn Thất Đàm để khỏi phải sống trong vòng kiềm toả của giặc vẫn là một sự tiếp nối truyền thống hào hùng, bất khuất của dân tộc. Dù tuổi đời còn quá trẻ, nhưng Tôn Thất Đàm lúc sống đã đóng một vai trò khá lớn đối với lịch sử đất nước, và lúc chết ông cũng giữ được phong thái hiên ngang của những nhà lãnh đạo phong trào yêu nước lớn của dân tộc.

Tôn Thất Đàm xứng đáng được xem là một bậc anh hùng, chớ không chỉ ngang tầm mức một “thiếu niên anh dũng” như đại uý Gosselin đã tỏ lời khen ngợi và cảm phục.
___________________________________
1. Như trên, tr. 172-173. Bức thư này được trung uý Bonnafoy chuyển đến vua Hàm Nghi vào chiều 14/11/1888 khi nhà vua đang bị giam tại đồn Thuận Bài ở Quảng Bình.
2, 3. Như trên, tr. 174.
4. Nhiều tài liệu và gia phổ dòng họ Tôn Thất Thuyết nói ông Đàm chết lúc 22 tuổi. Ông Tôn Thất Hứa trong bài "Quanh sự kiện Tôn Thất Thuyết", Viên Giác, số Xuân Quý Dậu (1993), tr. 128 nói Tôn Thất Đàm sinh năm 1865, lúc chết 23 tuổi.
5. Theo Phạm Văn Sơn, Sđd, tr. 97, thì người Pháp  đã đào mộ Tôn Thất Đàm để truy coi hình dáng và nhận diện, rồi cải táng ông ở gần chùa Vàng Liêu.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #57 vào lúc: 01 Tháng Tư, 2016, 06:23:38 pm »


NGHĨA TÌNH CỦA NGUYỄN THƯỢNG HIỀN
ĐỐI VỚI GIA ĐÌNH TÔN THẤT THUYẾT
(Tư liệu văn học và lịch sử)


CHƯƠNG THÂU1


Nguyễn Thượng Hiền (1868-1925) hiệu Mai Sơn và Đỉnh Nam, người làng Liên Bạt, huyện Ứng Hoà, Tỉnh Hà Tây. Ông là con thứ của cụ Hoàng Giáp Nguyễn Thượng Phiên (1829-1907). Sau một thời gian ra làm quan, cụ Phiên xin về nghỉ tại nhà riêng ở Lan Châu, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá. Tại đây, gia đình cụ đã sớm có quan hệ thân tình với Tôn Thất Thuyết là người từng làm quan ở Thanh Hoá.

Nguyễn Thượng Hiền, do xuất thân trong một gia đình khoa bảng, vốn có tư chất thông minh học giỏi, nên 17 tuổi (1884) đã đỗ Cử nhân. Năm sau (1885), thi Hội đáng lẽ ông được đỗ đầu, nhưng chưa kịp truyền lô thì Kinh thành thất thủ, kết quả của khoa thi bị xoá bỏ. Năm 1889, vì có tang mẹ, ông không dự thi; đến năm 1892 ông vào thi Hội, trúng Nhị giáp tiến sĩ tức Hoàng giáp. Thế là, với cái tuổi 25, ông đã “đại đăng khoa”, nay phải vâng lời thân phụ tính đến việc “tiểu đăng khoa”. Trong việc cưới vợ này, Nguyễn Thượng Hiền vấp phải một điều nan giải. Gia đình đã chọn cho ông cô Tôn Nữ Thị Diện, con gái Thượng thư Tôn Thất Phan. Nhưng theo ý ông lại muốn kết hôn với người bạn tri âm từng ước hẹn là Tôn Nữ Thị Ẩn, con gái Tôn Thất Thuyết. Không thể trái ý cha, nhưng cũng không thể từ hôn với bạn, nhất là gia đình Tôn Thất Thuyết đang lâm vào thế kẹt phải mặc cảm nặng nề bị chính quyền thực dân Pháp và quan lại Nam triều o ép truy bức, phân biệt đối xử... ông đã mạnh dạn quyết định cưới cả hai Tôn Nữ cùng một ngày, và coi “cả hai vợ đều là vợ cả”.

Tuy đỗ đạt cao khoa, Nguyễn Thượng Hiền không muốn ra làm quan, mà lại xin về ở vùng núi Nưa (Thanh Hoá) mười năm “để ở nhà đọc sách”, nhưng triều đình không nghe, chỉ cho nghỉ ba năm. Trong thời gian này tư tưởng của ông có phần ngả theo trào lưu tiến bộ, cũng có phần muốn làm người ẩn sĩ theo đạo tiên, song việc đời, việc nước không bao giờ có thể rời khỏi tâm trí ông.

Năm 1895, buộc lòng phải nhận một chức quan nhỏ, ông xin vào Quốc sử quán và được ít lâu lại xin từ chức. Bấy giờ ông bắt đầu tìm đọc nhiều “tân thư” và đi nhiều nơi tìm bạn đồng chí, bắt liên lạc với những người yêu nước như Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng và viết nhiều thơ văn kêu gọi lòng yêu nước, đả kích bọn làm tay sai cho thực dân Pháp khiến bọn thống trị phải lo ngại. Muốn buộc bớt chân ông lại, chúng cử ông làm Đốc học Ninh Bình, rồi Nam Định. Nhưng sau đó mượn cớ để tang cha, ông lại xin nghỉ và chuẩn bị xuất dương vào năm 1908. Gặp Phan Bội Châu ở Quảng Đông, ông cùng Phan sang Nhật Bản gặp Cường Để, rồi lại về Trung Quốc. Hoạt động trong Duy Tân hội, ông đã cùng Phan Bội Châu góp phần quan trọng tổ chức và lãnh đạo phong trào Đông du trong những năm 1908-1909.

Năm 1912, Nguyễn Thượng Hiền lại tham gia Đại hội thành lập Việt Nam Quang Phục hội và là một thành viên trong Bộ Bình nghị của Hội, mà lúc này tổ chức Hội gần giống như một Chính phủ lâm thời do Đại hội VNQPH bầu ra. Năm 1915, ông đại diện cho tổ chức VNQPH sang Xiêm liên hệ với công sứ Đức, Áo để tranh thủ sự giúp đỡ của họ trong việc đánh Pháp. Nhưng việc đánh Pháp ở biên giới Trung - Việt mà ông được phân công phụ trách bị thất bại và phong trào cách mạng ở hải ngoại liên tiếp gặp nhiều điều bất lợi, ông nản chí bỏ đi tu, rồi ốm chết trong tâm trạng phiền muộn. Ông mất ngày 28-11-1925 tại một ngôi nhà chùa ở Hàng Châu tỉnh Triết Giang (Trung Quốc).

Trong quá trình sống và hoạt động cứu nước của mình, Nguyễn Thượng Hiền có sáng tác khá nhiều thơ văn yêu nước, trong đó có một số tác phẩm nói lên tấm lòng kính yêu, trân trọng với một tâm cảm và tình cảm sâu sắc đối với gia đình nhạc phu Tôn Thất Thuyết như sau:
_______________________________
1. Viện Sử học - Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #58 vào lúc: 01 Tháng Tư, 2016, 06:26:46 pm »


1. Tư liệu 1: Đối với cụ Tôn Thất Đính, thân phụ của Tôn Thất Thuyết.

Cụ Tôn Thất Đính bị giặc Pháp bắt lưu đày ra hoang đảo nơi viễn dương cùng với Phạm Thận Duật và Nguyễn Văn Tường năm 1885. Về sự kiện lịch sử này, Nguyễn Thượng Hiền đã trân trọng chép lại trong tác phẩm Tang hải lệ trần (Giọt lệ bể dâu) lần đầu tiên đăng trên Vân Nam tạp chí số 20 (1911) ký tên tác giả là “Giao Chỉ khách”. Đoạn văn đó, dịch như sau:

“Ngày 23 tháng 5 năm Ất Dậu (1885) là ngày kỷ niệm lớn cho việc nước bị phá, vua bị mất của nước chúng tôi vậy. Trước đấy, hàng năm đánh luôn không thắng lợi. Thống đốc quân vụ đại thần Nguyễn Tri Phương, Tổng đốc Hoàng Diệu đều nối nhau tuẫn tiết. Bắc Nam hai kỳ đã bị hãm, chúng mới đem trọng binh đến áp bức kinh thành, Chính phủ chúng tôi phải ký điều ước mới. Quan Điện tiền tướng quân Vệ Chính hầu Nguyễn Thuyết (tức Tôn Thất Thuyết) vốn là người chủ chiến, bấy giờ càng thêm tức giận. Nhân lúc đương đêm tiến quân vào, toan kéo thẳng đến chỗ yếu hại của chúng mà giết hết. Không ngờ chúng đã phòng bị trước, bèn xua quân đánh giữ, đến lúc sáng ngày thì kinh thành bị hãm. Tướng quân phò giá ra Cam Lộ (một huyện sơn phòng ở phía bắc tỉnh Quảng Trị). Chúng đuổi theo kịp, mới bắt cha già của tướng quân đày ra hoang đảo. Lấy ông già ốm yếu ngoài tám mươi tuổi, thần khí đã hôn mê, hầu như không biết việc đời là gì, mà cũng bắt tội đày đi nơi đất chết, phải đem tấm thân tàn ra làm bạn với ma thiêng nước độc, mà chúng vẫn còn tự cho mình là văn minh, huống hồ còn có lắm thứ luật lệ dây mơ rễ má liên luỵ đến nhiều người.

Ôi! Dân mất nước, thật là bị rơi xuống chín tầng địa ngục, mà không biết kêu van vào đâu vậy!”1
______________________________________
1. Trích dịch theo nguyên văn chữ Hán trong Vân Nam tạp chí tuyển tập. Khoa học xuất bản xã Bắc Kinh 1958 tr. 724.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #59 vào lúc: 01 Tháng Tư, 2016, 06:32:34 pm »


2. Tư liệu 2: Đối với Tôn Thất Đạm, con trai của Tôn Thất Thuyết.

Cũng gọi là Tôn Thất Đàm, Nguyễn Đàm (1866-1888) tên chữ là Nhược Trứ. Khi Kinh thanh thất thủ (1885), vua Hàm Nghi xuất bôn, ông cùng với em là Tôn Thất Thiệp theo cha trong đoàn cận vệ nhà vua. Năm 1888, vua bị bắt, em bị hy sinh, ông đau đớn uất hận quá, vào núi thắt cổ tự tử. Sự kiện lịch sử này, được Nguyễn Thượng Hiền ghi lại qua hai tư liệu: một bài thơ và một trang văn.

a) Bài thơ: Quá Nguyễn Nhược Trứ cố cư, hữu cảm (Qua nhà cũ của Nguyễn Nhược Trứ, có cảm xúc làm bài thơ):

          Tuyệt tái trì khu huyết tiện qua,
          Ngũ hồ1 qui kế cảnh sa đà.
          Sơn Dương địch2 lý vô cùng hận,
          Tà nhật bi phong nhẫn trụng qua.

Dịch nghĩa:

Tiểu dẫn (của tác giả): Nguyễn Đàm, tên chữ là Nhược Trứ, là con Điện tiền tướng quân Nguyễn Thuyết. Năm Ất Dậu Hàm Nghi nguyên niên (1885), vua ngự giá ra Quảng Bình. Nhược Trứ làm chức Binh bộ Tham tri đem nghĩa binh đánh giặc. Sau được tin vua bị Pháp bắt, Nhược Trứ theo cứu không kịp, liền vào núi tự tử, dân địa phương thương xót lập đền thờ, thường năm cúng lễ. Ông có ngôi nhà cũ ở phía đông thành Thanh Hoá.

          Vẫy vùng ngoài ải xa, gươm dây đầy máu,
          Định kế lui về năm hồ mà còn dùng dằng.
          Tiếng sáo Sơn Dương chứa chan mối hận,
          Ác tà gió thảm nỡ nào qua đây.

Dịch thơ:

          Nhuộm máu gươm dong chốn ải xa,
          Năm hồ lui bước vẫn sa đà.
          Sơn Dương giọng sáo vô cùng hận,
          Gió thảm trời chiều nỡ lại qua!
3
___________________________________
1. Ngũ hồ: Năm cảnh hồ ở Trung Quốc. Ngày xưa, Phạm Lãi cùng nàng Tây Thi đến dạo chơi ở đây sau khi đã giúp Câu Tiễn diệt Ngô, khôi phục cơ đồ nước Việt
2. Sơn Dương địch: Hướng Tư đời Tấn khi đi qua nhà cũ ở Sơn Dương nghe ngưòi hàng xóm thổi còi, nhân đó làm bài “Tư cựu” (nhớ bạn). Trong bài phú này tả tình nhớ nhung người cũ rất đau xót.
3. Theo Thơ văn Nguyễn Thượng Hiền, Nxb Văn hoá, Hà Nội, 1959, tr. 58-59.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM