Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 18 Tháng Tư, 2024, 10:08:23 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954  (Đọc 55692 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #160 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2016, 07:57:05 pm »

Tiếp theo chỉnh huấn chính trị, liên khu ủy chỉ đạo các địa phương, các cơ quan tiến hành chỉnh đốn tổ chức đảng, xử lý những cán bộ, đảng viên có sai phạm, đưa ra khỏi đảng những người không đủ tư cách đảng viên, nhằm làm cho đảng trong sạch vững mạnh. Công tác chỉnh đốn tổ chức chủ yếu là ở cấp chi bộ. Kết quả là đã đưa ra khỏi đảng những cán bộ, đảng viên không kiên định, vững vàng, tư lợi, nâng cao được thành phần công nhân, bần, cố nông, trung nông lớp dưới trong đảng, đề bạt được nhiều cán bộ nữ vào những chức vụ chủ chốt trong chính quyền, đoàn thể. Cùng với việc phân nhỏ lại các xã, quy mô các chi bộ cũng được điều chỉnh lại. Qua bốn đợt phát động quần chúng, từ 351 chi bộ lúc mới phát động, đã chia thành 674 chi bộ mới.

Tuy nhiên, công tác chỉnh đốn chi bộ phạm phải nhiều sai lầm như không dựa vào chi bộ đảng, nặng về phân biệt thành phần, thiên về kỷ luật, xử phạt mà không chú trọng đến giáo dục, giác ngộ. Do lịch sử để lại, hầu hết các chi bộ trong liên khu đều có tình trạng đông về số lượng (trung bình một chi bộ có 400 đến 500 đảng viên, thậm chí có chi bộ lên tới 600 đảng viên), phức tạp về thành phần, trong đó có cả những đảng viên vốn là địa chủ(1). Nhiều nơi chi ủy không nắm hết đảng viên, đảng viên không biết đến chi ủy, mối quan hệ trong chi bộ không chặt chẽ… Trong tình hình đó, việc chỉnh đốn lại chi bộ là cần thiết. Tuy nhiên, do xuất phát từ nhận thức: “Chỉnh đốn chi bộ trong phát động quần chúng giảm tô là cuộc đấu tranh giai cấp chống lại những phần tử địa chủ và tư tưởng địa chủ trong nội bộ đảng ở nông thôn” và “phải phối hợp với cuộc đấu tranh của nông dân chống giai cấp địa chủ ở bên ngoài”(2), nên cuộc chỉnh đốn đảng đã nặng về thanh lọc thành phần. Hầu hết đảng viên thuộc thành phần tư sản, địa chủ, trong đó có cả những người bị quy vào thành phần giai cấp bóc lột đều bị khai trừ ra khỏi tổ chức đảng. Trong số 1.993 đảng viên bị xử lý ở đợt bốn giảm tô thì có tới 1.327 người thuộc thành phần bóc lột(3). Trong sáu tháng đầu năm 1954, ở vùng tự do Liên khu IV có 4.374 người bị xử lý thì 1.884 người có thành phần xuất thân thuộc giai cấp bóc lột(4). Việc kết nạp đảng viên mới, đề bạt cán bộ cũng chỉ chú trọng trong tầng lớp bần, cố nông. Theo số liệu tổng kết công tác chỉnh đốn chi bộ trong đợt ba phát động quần chúng giảm tô thì toàn bộ 271 đảng viên mới được kết nạp (số liệu tính trong năm xã) đều là bần, cố nông. Trong chỉnh đốn chi bộ kết hợp với giảm tô đợt bốn đã kết nạp 371 đồng chí, tất cả thuộc thành phần bần, cố nông(5). Sáu tháng đầu năm 1954, trong số 2.315 chi ủy viên thì 4/5 thuộc về thành phần công nhân, bần, cố nông(6). Nếu tính cả năm 1954 thì 72% số cán bộ được đề bạt thuộc về thành phần bần, cố nông(7). Công việc của đảng trong các chi ủy và một số huyện ủy chỉ do các đồng chí thuộc thành phần bần, cố nông đảm đương, nhiều người chưa được rèn luyện, bồi dưỡng đúng mức nên lúng túng trong công tác, có kiêu căng, tự mãn. Số đảng viên thuộc thành phần trung nông, tiểu tư sản hay có nguồn gốc xuất thân từ gia đình bóc lột không được bố trí công tác nên hoang mang, dao động, lo lắng.

Việc chỉnh đốn chi bộ do các đội công tác đảm đương và chủ yếu dựa vào quần chúng không dựa vào tập thể chi bộ cũng gây ra những hậu quả không tốt. Các đội công tác trong khi tiến hành năm bước chỉnh đốn cho rằng do tình hình các chi bộ phức tạp, không trong sạch nên không thể dựa vào được. Từ đó, các đội không chú ý phát động tư tưởng đảng viên, không giao công tác cho đảng viên, vì sợ như thế là “dựa vào tổ chức cũ mà mù quáng”. Có cán bộ trong đội công tác không dám gặp đảng viên, cho rằng vào nhà đảng viên thì quần chúng không dám xuất hiện. Những sai lạc trên đây đã làm cho chi ủy đứng ngoài công tác chỉnh đốn, một bộ phận đảng viên hoang mang, sợ sệt.

Việc xử lý đảng viên cũng có khuynh hướng nặng về kỹ luật, xử phạt, khai trừ. Trong 73 xã phát động quần chúng đợt ba kết hợp với chỉnh đốn chi bộ đã có 1.676 đảng viên bị đưa ra khỏi đảng. Số đảng viên bị khai trừ trong đợt bón giảm tô kết hợp chỉnh đốn tổ chức là 2.875 đảng viên, trong khi chỉ kết nạp được 371 đồng chí. Ngoài ra, ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh còn giải tán hai chi bộ, 30 tổ đảng với 864 đảng viên. Ở Nghệ An và Hà Tĩnh, cuộc chỉnh đốn chi bộ trong đợt bốn giảm tô ở 34 xã đã đưa ra khỏi đảng 1.452 người, trong khi chỉ kết nạp được 154 đồng chí mới. Tỷ lệ đảng viên bị khai trừ trong các đợt chỉnh huấn chi bộ ngày càng có xu hướng tăng lên.

Những sai lạc trong công tác xây dựng đảng nói trên đã có ảnh hưởng nhất định đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo của đảng bộ cũng như các hoạt động kháng chiến của quân và dân liên khu, trước hết là quân và dân ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh.


(1) Báo cáo số 24 BCTC/LK4 (8-7-1954) của Ban Tổ chức Liên khu IV.
(2) Theo số liệu điều tra ở 83 chi bộ trong chỉnh đốn chi bộ đợt ba thì trong 23.093 đảng viên có 614 phú nông 165 địa chủ, 78 con địa chủ, 39 tư sản, 806 tiểu tư sản, 211 công nhân, 369 bần, cố nông, 10.743 trung nông, 11.068 bần nông. Trong 757 chi ủy viên có hai công nhân, 333 bần nông, 366 trung, 12 phú nông, 38 tiểu tư sản, một địa chủ, một lưu manh.
(3) Tổng kết công tác chỉnh đốn chi bộ trong đợt ba ở Liên khu IV.
(4) Báo cáo số 24 BC TC/LK4 (8-7/1954) của Ban Tổ chức Liên khu IV.
(5) Báo cáo số 24 BC TC/LK4 (8-7/1954) của Ban Tổ chức Liên khu IV.
(6) Báo cáo toàn năm 1954, số 90 BC/LK4 của Liên khu ủy IV (26-1-2-1954), tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
(7) Báo cáo chỉnh đốn chi bộ bước một của các đội công tác ở Liên khu IV, tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #161 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2016, 07:58:41 pm »

IV. CHỐNG ÂM MƯU VÀ HÀNH ĐỘNG MỚI CỦA ĐỊCH,
HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ SAU KHI KẾT THÚC CHIẾN TRANH

Thắng lợi to lớn của quân và dân ta trong chiến cuộc đông - xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ đã giáng một đòn quyết định vào ý đồ xâm lược của quân đội Pháp. Bị thiệt hại nặng nề sau chín năm theo đuổi cuộc chiến tranh vô vọng, mưu toan dùng quân sự để tìm kiếm một giải pháp chính trị cho nước Pháp thất bại đã buộc Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ lập lại hòa bình ở Đông Dương vào ngày 21-7-1954. Bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam bao gồm sáu chương, 47 điều và phụ bản kèm theo quy định lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới quân sự tạm thời để lực lượng hai bên tập kết. Giới tuyến quân sự chỉ có tính chất tạm thời, hoàn toàn không thể coi như một biên giới chính trị hoặc lãnh thổ. Thời gian tổng tuyển cử thống nhất nước Việt Nam được ấn định vào tháng 7-1956.

Sau Hiệp định Giơnevơ tình hình Liên khu IV có thay đổi lớn, tác động sâu sắc đến mọi hoạt động của liên khu. Một lần nữa trong lịch sử dân tộc, địa bàn Liên khu IV trở thành nơi chứa đựng đường ranh giới tạm thời chia đôi đất nước(1). Phía bắc liên khu gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và hơn ba phần tư huyện Vĩnh Linh của tỉnh Quảng Trị được hoàn toàn giải phóng; phía nam liên khu gồm phần lớn tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên còn nằm trong vùng địch tạm đóng quân. Cuộc chiến chống Pháp kết thúc song cuộc đấu tranh giải phóng khỏi sự chiếm đóng của quân đội nước ngoài của quân và dân Liên khu IV mới đi được hơn nửa chặng đường. Chính đặc điểm này đã làm cho tình hình ở Liên khu IV khó khăn và phức tạp không kém thời kỳ kháng chiến.

Mặc dù bị bại trận buộc phải chấm dứt chiến tranh xâm lược song thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đã lợi dụng thời gian tập kết chuyển quân giữa hai bên để phá hoại miền Bắc về nhiều mặt. Tại Liên khu IV, quân đội Pháp và can thiệp Mỹ cùng bọn tay sai đã ráo riết thực hiện âm mưu biến vùng tạm đóng quân Quảng Trị, Thừa Thiên thành căn cứ quân sự phục vụ ý đồ chia cắt đất nước ta. Chúng dụ dỗ, cưỡng bức đồng bào công giáo di cư vào Nam, tung gián điệp ra vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh, vùng giải phóng Quảng Bình để xây dựng cơ sở chống phá ta lâu dài.

Ở Trị Thiên, quân Pháp chuyển lính Âu - Phi ra đóng dọc giới tuyến và các vị trí quan trọng như Huế, sân bay Phú Bài, Quảng Trị, Đông Hà, Dốc Miếu... Đến tháng 11-1954, ở Quảng Trị địch có Binh đoàn cơ động số 18 và Tiểu đoàn 5 Trung đoàn Bắc Phi (RTM); ở Thừa Thiên, chúng cũng bố trí nhiều đơn vị lính Âu - Phi đóng giữ. Bên cạnh đó, địch còn bắt thanh niên đi lính để lập Bảo chính đoàn(2) làm chỗ dựa cho cơ quan ngụy quyền. Đến tháng 11-1-54, chúng đã tổ chức được ở Quảng Trị 10 đại đội Bảo chính đoàn, mỗi đại đội có trên 100 tên; ở Huế, một tiểu đoàn gồm ba đại đội.

Đồng thời với các hoạt động quân sự, địch đẩy mạnh các thủ đoạn chính trị, xúc tiến tạo dựng cơ sở để lập chính quyền tay sai, tiến hành các hoạt động khủng bố, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân, trả thù những người tham gia kháng chiến trước đây, bắt bớ, giết hại cán bộ.

Được đế quốc Mỹ tiếp sức và các thế lực hiếu chiến Pháp khuyến khích, bọn tay sai ở Trị - Thiên tuyên bố: “Pháp đầu hàng Việt Minh nhưng quốc gia không đầu hàng”, “Ngừng nòng súng nhưng không ngừng báng súng”. Ngay trong ngày ngừng bắn 1-8-1954, một số đồn, bốt do ngụy binh chốt giữ vẫn tiếp tục bắn vào quần chúng biểu tình mừng hòa bình hoặc đòi chồng con về, điển hình là cuộc gây tội ác ở Kim Đôi làm chết 26 người, bị thương 70 người. Tính đến 20-11-1954, ở Trị - Thiên, địch đã tiến hành 149 vụ khủng bố, bắt bớ làm 114 người chết, 1.030 người bị thương, 303 người bị bắt.

Những âm mưu và hành động quân sự, chính trị của địch trong vùng tạm đóng quân Trị - Thiên nằm trong âm mưu đánh phá cơ sở chính trị của ta, phá hoại Hiệp định Giơnevơ, tiến tới phá hoại tổng tuyển cử tự do thống nhất đất nước, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Sự ngoan cố và xảo quyệt của kẻ thù đã đặt ra cho nhân dân Liên khu IV, trước hết là nhân dân Quảng Trị - Thừa Thiên những thử thách to lớn.


(1) Sau lần đánh nhau thứ bảy (vào năm 1672) chính quyền Trịnh và chính quyền Nguyễn đã ngừng chiến, lấy sông Gianh làm giới hạn chia cắt Đàng Ngoài, Đàng Trong. Đến tháng 11-1774, quân Trịnh vượt giới tuyến sông Gianh đánh chúa Nguyễn, chiếm dần các dinh phía bắc Phú Xuân. Đường chia cắt Đàng Ngoài, Đàng Trong mất ý nghĩa từ đó. Đến năm 1783, chính quyền chúa Nguyễn bị quân Tây Sơn đánh đổ thì cục diện Trịnh - Nguyễn phân tranh hoàn toàn chấm dứt. Do sự xâm lược của Mỹ, giới tuyến quân sự tạm thời trên thực tế trở thành đường chia đôi đất nước suốt 21 năm.
(2) Bảo chính đoàn là lực lượng ngụy quân người Việt ra đời vào giữa năm 1948, do Nghiêm Xuân Thiện - Tổng trấn Bắc phần tổ chức. Bảo chính đoàn nghĩa là đoàn quân bảo vệ các hoạt động hành chính.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #162 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2016, 08:00:04 pm »

Trên địa bàn các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình, nhân dân cũng gặp phải những khó khăn không nhỏ. Sau gần một thập kỷ kháng chiến, những công trình thủy lợi lớn, hệ thống giao thông huyết mạch, các đô thị bị tàn phá, xuống cấp, hư hỏng nặng nề. Hạn hán gay gắt rồi nạn lụt lớn xảy ra làm một số đê đập bị vỡ, 7.000 nhà bị trôi, bị sập, 1.015 trâu, bò bị chết, 118.128 mẫu ruộng bị mất trắng khiến cho vụ mùa 1954 thất thu nghiêm trọng. Hòa bình lập lại, nhiều chủ sản xuất hàng công nghệ hồi cư mang theo phương tiện, tiền vốn về vùng giải phóng Bắc Bộ, cùng với sự giảm sút về nguyên liệu và sức mua ở thị trường nông thôn đã làm cho các ngành thủ công ở Thanh - Nghệ - Tĩnh bị đình đốn; hàng ngàn người lao động ở các đô thị và vùng ven biển thiếu việc làm. Do địch đe dọa, lừa bịp và cả sự chủ quan của ta, đến tháng 11-1954, trên địa bàn bốn tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và huyện Vĩnh Linh đã có hơn 2,5 vạn giáo dân bán hết nhà cửa, tài sản, trâu bò bỏ sản xuất di cư vào Nam. Sự đóng góp cao độ nhân tài, vật lực trong chiến tranh, nhất là trong đông - xuân 1953-1954 đã gây nên những ảnh hưởng trầm trọng đối với Thanh - Nghệ - Tĩnh. Tin trên cùng với sự bất cập của mạng lưới y tế đã gây nên nạn thiếu đói trầm trọng và dịch bệnh diễn ra trên diện rộng, kéo dài, đe dọa tính mạng và đời sống của nhân dân(1). Trong khi đó, nhân dân các tỉnh phải cung cấp một khối lượng lớn lương thực, thực phẩm nuôi dưỡng bộ đội, thương bệnh binh, cán bộ đồng bào từ các chiến trường trở về miền Bắc di chuyển qua, cũng như cho quân nhân, cán bộ, đồng bào bị địch bắt được trao trả ở Sầm Sơn, Cửa Hội. Đời sống của nhân dân bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình càng thêm khó khăn gay gắt.

Ngoài những khó khăn trên, trong không khí phấn khởi tràn ngập liên khu, một bộ phận cán bộ, nhân dân vùng tự do, vùng mới giải phóng xuất hiện tư tưởng lạc quan tếu, chủ quan một chiều, không nhận thấy hết âm mưu của địch. Ngược lại, số cán bộ có trách nhiệm ở lại hoạt động biểu lộ rõ sự lo lắng, bi quan, thiếu tin tưởng khi nhận được tin quân ta tập kết ra Bắc. Những lệch lạc tư tưởng, nhận thức nói trên cũng là một trở ngại cần phải khắc phục ở Liên khu IV sau ngày đình chiến.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi đã đem lại cho quân và dân Liên khu IV những thuận lợi cơ bản. Bốn trong sáu tỉnh của liên khu là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và một phần phía bắc tỉnh Quảng Trị đã hoàn toàn thoát khỏi thế bị uy hiếp và kìm kẹp của kẻ thù. Là một bộ phận của miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân bốn tỉnh có điều kiện xây dựng lại cuộc sống quá độ lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh giải phóng hai tỉnh tạm thời còn nằm trong sự kiểm soát của địch, góp phần cùng cả nước thực hiện cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã thổi một luồng sinh khí mới vào các tầng lớp nhân dân liên khu. Niềm tin tưởng vào Đảng, Chính phủ, vào khả năng tự thân cũng là một nguồn lực để nhân dân liên khu vượt qua khó khăn, hoàn thành các nhiệm vụ thời kỳ hậu chiến.

Trước tình hình mới, quán triệt những nhiệm vụ mà Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra, một ngày sau khi thực hiện lệnh ngừng bắn, Liên khu ủy IV mở hội nghị mở rộng để quyết định những nhiệm vụ cấp bách trước mắt.

Hội nghị thống nhất về các vấn đề bức xúc sau đây:

“- Quy định phạm vi và kế hoạch tiếp thu vùng mới giải phóng Quảng Bình, Vĩnh Linh cho các đơn vị.

- Chuẩn bị kế hoạch tập kết cán bộ, bộ đội và một bộ phận nhân dân Trị - Thiên, bố trí cơ sở đảng và chính quyền ở lại hoạt động để lãnh đạo nhân dân Trị - Thiên đấu tranh lâu dài với địch.

- Chuẩn bị trao trả tù binh.

- Chống âm mưu địch cưỡng ép đồng bào theo đạo Thiên chúa di cư vào Nam.

- Xây dựng lực lượng vũ trang trong tình hình mới”(2).

Tiếp đó từ ngày 5 đến ngày 8-10-1954, Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu IV đã tiến hành hội nghị hành chính liên khu để xác định những nhiệm vụ của liên khu trong thời gian tới. Hội nghị đã đề ra quyết tâm: “Nghiêm chỉnh chấp hành hiệp định đình chiến và kiên quyết đấu tranh chống mọi âm mưu phá hoại hiệp định, phá hoại hòa bình.

Nỗ lực khắc phục mọi khó khăn, ra sức phát huy thuận lợi và khả năng để hoàn thành phát động quần chúng triệt để giảm tô và đẩy mạnh công tác cải cách ruột đất ở vùng tự do cũ, phục hồi và phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm, phục hồi, phát triển thương mại và giao thông vận tải, chấn chỉnh lại việc học hành và thiết thực chăm lo sức khỏe của nhân dân, bắt đầu hàn gắn những vết thương chiến tranh, chuẩn bị xây dựng một nền kinh tế phồn thịnh trong liên khu”(3).

Hội nghị đã đề ra chương trình công tác trên các mặt kinh tế, tài chính, công tác nội chính năm tháng cuối năm 1954. Nghị quyết hội nghị nêu rõ: Cần phải đẩy mạnh công tác kinh tế, tài chính, chủ yếu là công tác sản xuất và vận thương. Trong công tác sản xuất thì sản xuất nông nghiệp là quan trọng nhất; trong công tác vận thương thì phục hồi các thị trấn cũ, phục hồi các đường bộ và đường biển là chính. Về công tác nội chính, nghị quyết đề ra các nhiệm vụ cụ thể gồm: chỉnh đốn gấp rút các trại quân; thành lập các đơn vị cảnh vệ cần thiết để bảo vệ các phái đoàn ngoại quốc và kiểm tra tuần tiễu ở vành đai phi quân sự và các vùng giáp địch; phối hợp với tuyên huấn, có kế hoạch tổ chức và giáo dục cho số cán bộ và đồng bào bị địch bắt được thả ra, xây dựng bộ máy chính quyền trong vùng mới giải phóng đặc biệt là thị xã Đồng Hới và vùng nông thôn trước đây bị tạm chiếm, nghiên cứu kế hoạch sử dụng và phân phối số cán bộ ở Trị - Thiên sắp rút ra, điều hòa hợp lý số cán bộ của các ngành hiện đã hết nhiệm vụ như Hội đồng cung cấp, tiếp vận miền Nam…; tăng cường công tác bảo vệ chính trị, chú trọng vùng giáp địch và vành đai phi quân sự. Những chương trình do hội nghị đề ra chính là sự cụ thể hóa những phương hướng do Hội nghị Liên khu ủy đề ra trước đó.


(1) Đầu năm 1955, trong số ba triệu dân của các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình và của huyện Vĩnh Linh có hơn 55 vạn người thiếu đói nặng (có nơi như huyện Thanh Chương - Nghệ An có 64% dân bị đói), trên 365.000 người bị mắc năm thứ bệnh; số người bị chết đói và chết bệnh lên tới 5.609 người.
(2) Quân khu IV, Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), Sđd, tr. 382.
(3) Nghị quyết Hội nghị hành chính Liên khu IV (từ ngày 5 đến ngày 10-8-1954), tài liệu Trung tâm lưu trữ quốc gia III.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #163 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2016, 08:02:00 pm »

Sau các hội nghị của Liên khu ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu, Hội nghị Ủy ban Liên Việt Liên khu IV mở rộng đã họp từ ngày 10 đến ngày 12-8-1954. Sau ba ngày thảo luận, 66 đại biểu dự hội nghị đại diện cho các tầng lớp công, nông, binh, dân công, nhân sĩ, trí thức, công thương, tôn giáo đã nhiệt liệt hoan nghênh thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ; biểu lộ sự tin tưởng tuyệt đối vào Chủ tịch Hồ Chí Minh, vào Đảng và Chính phủ, quyết tâm mở rộng và củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất trên cơ sở liên minh công - nông cho phù hợp với tình hình mới để làm tròn ba nhiệm vụ lớn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra và những công tác cấp thiết trong liên khu đã được Liên khu ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu đề ra.

Những chủ trương và quyết nghị của hội nghị nói trên đã thể hiện quyết tâm lớn của đảng bộ, của quân và dân Liên khu IV trước những khó khăn và thử thách to lớn, là cơ sở để nhân dân liên khu phát huy thắng lợi, tập trung mọi nguồn lực hoàn thành những nhiệm vụ nặng nề và cấp thiết trên chặng đường mới.

Theo thỏa thuận tại Hội nghị quân sự Trung Giã, vào ngày 22-7-1954, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ra lệnh ngừng bắn trên toàn chiến trường Việt Nam. Theo lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, đúng 7 giờ sáng ngày 1-8-1954, lệnh ngừng bắn có hiệu lực ở Bình - Trị - Thiên. Đúng như kế hoạch đã được bàn bạc giữa ta và Pháp, quân đội Pháp đã bắt đầu rút quân ra khỏi Quảng Bình và bắc Quảng Trị. Lực lượng vũ trang ta và một bộ phận cán bộ, nhân dân ở Quảng Trị và Thừa Thiên nhanh chóng tập trung vũ khí ra Bắc tập kết. Một giai đoạn mới bắt đầu trên mảnh đất “Bình - Trị - Thiên khói lửa”.

Để kịp thời chỉ đạo Bình - Trị - Thiên chuyển hướng hành động cho phù họp với tình hình mới, ngày 3-8-1954, Liên khu ủy IV đã ra chỉ thị về công tác của Bình - Trị - Thiên, hướng quân và dân ba tỉnh thực hiện những nhiệm vụ trước mắt cho đến khi ta rút quân. Theo đó, Bình - Trị - Thiên có hai nhiệm vụ chính là: “Tiếp tục các công tác trước mắt của chính quyền cách mạng” và “Chuẩn bị để chuyển hướng hoạt động đúng theo phương châm công tác ở vùng địch tạm đóng quân”(1).

Đối với nhiệm vụ thứ nhất, chỉ thị yêu cầu các tỉnh Bình - Trị - Thiên tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về tình hình và phương châm, nhiệm vụ mới của Đảng, ý nghĩa và thắng lợi của việc ký hiệp định đình chiến, tổng tuyển cử thống nhất đất nước; lãnh đạo nhân dân giải quyết những nhiệm vụ cần kíp; giải quyết những vấn đề thắc mắc cho nhân dân; trong vùng tạm chiếm, phải bố trí cán bộ thâm nhập và tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng để xây dựng cơ sở lâu dài; đẩy mạnh công tác địch vận, ngụy vận.

Đối với nhiệm vụ chuyển hướng công tác ở vùng địch tạm đóng quân, chỉ thị chỉ rõ phải thực hiện chuyển hướng tư tưởng cán bộ đồng thời phải chuẩn bị về tổ chức, đặc biệt coi trọng tổ chức đảng. Tổ chức cơ sở đảng phải bí mật, trong sạch, trọng chất hơn lượng. Lãnh đạo phải chặt chẽ, giữ vững nguyên tắc. Phương pháp tiến hành phải nhẹ nhàng, đơn giản. Bộ máy lãnh đạo của tỉnh và huyện phải tổ chức theo nguyên tắc đơn giản, gọn nhẹ, trọng chất hơn số lượng. Đội ngũ cán bộ phải tuyển chọn những người có lập trường vững vàng, kiên quyết đấu tranh với địch, có khả năng công tác và liên hệ với quần chúng, lịch sử nhân thân phải rõ ràng. Các tổ chức quần chúng phải thực hiện nguyên tắc bí mật là chính kết hợp với khả năng hợp pháp với khả năng nửa hợp pháp. Chỉ thị cũng yêu cầu các tỉnh phải chuẩn bị rút quân và di chuyển các cơ quan, bộ phận không cần thiết ra vùng giải phóng.

Để ngăn chặn những hành động bột phát có thể xảy ra(2), ngày 5-8-1954, Liên khu ủy đã ra Chỉ thị số 82/CT-LK4 yêu cầu các cấp ủy chấp hành đúng lệnh ngừng bắn “tuyệt đối tránh những hành động quân sự”, trách việc Pháp tạo cớ kéo dài thời gian tập trung và rút quân.

Để giúp Quảng Bình hoàn thành tốt nhiệm vụ tiếp quản, Liên khu ủy đã tăng cường cho tỉnh gần 200 cán bộ, cử một ủy viên thường vụ khu vào trực tiếp truyền đạt chỉ thị, bàn với địa phương kế hoạch thực hiện các công tác cấp bách trước mắt. Liên khu ủy cũng ra quyết định sáp nhập huyện Vĩnh Linh vào tỉnh Quảng Bình, bao gồm cả vùng phi quân sự.

Dưới sự chỉ đạo sát sao, kịp thời của Liên khu ủy, từ đầu tháng 8-1954, khi quân địch rút khỏi các vị trí, bộ đội và cán bộ ta lần lượt tiếp quản Bố Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thủy, Vĩnh Linh. Đến trưa ngày 18-8-1954, đơn vị cuối cùng của địch rút khỏi Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình (bao gồm cả huyện Vĩnh Linh) hoàn toàn giải phóng. Việc tiếp quản chính quyền từ tay địch được chuẩn bị sẵn từ trước theo kinh nghiệm của các thành phố mới giải phóng ở Bắc Bộ đã diễn ra thuận lợi. An ninh trật tự được bảo đảm. Một số hiện tượng lệch lạc được sửa chữa kịp thời(3). Được cán bộ cách mạng tuyên truyền vận động, nhân dân các vùng địch chuẩn bị rút quân đã đấu tranh chống địch cướp bóc, phá tài sản công cộng, giữ được nguyên vẹn nhà máy điện cho thị xã Đồng Hới. Đồng bào còn hăng hái tham gia các hoạt động xã hội, chuẩn bị tích cực đón tiếp cán bộ, chiến sĩ và một bộ phận nhân dân Trị - Thiên ra tập kết.


(1) Chỉ thị số 178 Về công tác của Bình - Trị - Thiên của Liên khu ủy IV, tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
(2) Sau khi Hiệp định Giơnevơ mới ký kết, một số địa phương ở Bình - Trị - Thiên còn có khuynh hướng nặng về đấu tranh vũ trang, tranh thủ diệt thêm một số địch.
(3) Thời gian đầu ngừng bắn, do việc vận động chính trị chưa kịp thời nên một số nơi ở nông thôn đồng bào không theo đạo đã đến dỡ nhà cửa, lấy tài sản của đồng bào công giáo, một số cán bộ nằm im đã đứng ra bắt ép địa chủ bán lúa rẻ, vi phạm chính sách.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #164 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2016, 08:04:09 pm »

Sau khi việc rút quân của cả hai bên ở Bình - Trị - Thiên hoàn tất, vào ngày 9-9-1954, Liên khu ủy đã ra Chỉ thị số 94/CT-LK4 Về tình hình nhiệm vụ mới ở Bình - Trị - Thiên. Tiếp đó, vào ngày 25-9-1954, Liên khu ủy ra tiếp Chỉ thị số 262 về công tác của tỉnh Quảng Bình. Trong chỉ thị này, Liên khu ủy vạch ra những công tác chính của tỉnh Quảng Bình cho đến khi phát động quần chúng giảm tô là: “Tiếp tục tuyên truyền giải thích chính sách của Đảng và Chính phủ trong mọi tầng lớp nhân dân và trong nội bộ đảng, chú trọng khôi phục sinh hoạt của nhân dân”(1). Chỉ thị yêu cầu Tỉnh ủy tỉnh Quảng Bình phải chú trọng khôi phục sản xuất ở nông thôn, chấn chỉnh các sinh hoạt và mọi mặt công tác ở thành thị, chú trọng vận động đồng bào công giáo, giải quyết các vấn đề tư tưởng đoàn kết nội bộ… Theo phương hướng đó, cấp ủy đảng, chính quyền các cấp trong tỉnh đã tổ chức nhân dân đẩy mạnh sản xuất chống đói, phục hồi ruộng hoang, giải quyết tình trạng thất nghiệp ở các thị xã, thị trấn, đưa các hoạt động công, thương nghiệp trở lại bình thường. Do sự nỗ lực của đảng bộ, chính quyền và toàn thể nhân dân, đến cuối năm 1954, nạn thiếu đói tuy vẫn còn song không nghiêm trọng như sau lũ lụt; nạn thất nghiệp của các tầng lớp nhân dân nghèo ở thị xã, thị trấn được giải quyết một phần. Nhiều công trình thủy lợi được xây dựng để phục vụ sản xuất. Riêng huyện Lệ Thủy đã phục hồi được 3.296 mẫu ruộng bị bỏ hoang.

Ở Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế, quân và dân hai tỉnh gấp rút chuẩn bị cuộc đấu tranh mới. Đúng vào ngày Hội nghị Giơnevơ kết thúc, Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị đã triệu tập hội nghị cán bộ toàn tỉnh tại chiến khu Ba Lòng để xác định nhiệm vụ trong thời gian tới. Hội nghị nhất trí chuyển chi bộ từ đơn vị xã thành các chi bộ theo đơn vị thôn, đề ra phương châm xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở vùng địch tạm đóng quân là gọn và bí mật. Hội nghị đặc biệt nhấn mạnh công tác tư tưởng: “Cán bộ đảng viên không vì hòa bình mà lơ là mất cảnh giác với những âm mưu và thủ đoạn mới của địch (…), phải bám địa bàn, cùng với quần chúng phát huy và bảo vệ thành quả cách mạng đã giành được trong 25 năm qua”(2). Những chủ trương của hội nghị sau đó được bổ sung hoàn chỉnh bằng Chỉ thị số 178 (ngày 3-8-1954) của Liên khu ủy, trở thành quyết tâm hành động của quân và dân Quảng Trị trong thời gian trước mắt.

Sau khi tiếp thu Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương (khóa II), các chỉ thị của Liên khu ủy, tham khảo chủ trương của Hội nghị Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu và hội nghị Ủy ban Liên Việt liên khu, Tỉnh ủy Thừa Thiên đã triệu tập hội nghị cán bộ toàn tỉnh vào ngày 24-8-1954 tại chiến khu Hòa Mỹ để triển khai công tác, tổ chức lãnh đạo trong thời gian trước mắt. Hội nghị chủ trương chuyển hướng hoạt động với phương châm kết hợp hình thức đấu tranh hợp pháp với bất hợp pháp, lấy hoạt động bí mật, không hợp pháp là chính; hình thức đấu tranh phải linh hoạt, sáng tạo, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ; phải coi trọng cả địa bàn thành thị lẫn nông thôn, tổ chức hoạt động phải tuyệt đối không để lộ lực lượng nhưng cũng không vì giữ bí mật, giữ lực lượng mà thủ tiêu đấu tranh. Hội nghị quyết định phát động phong trào rộng lớn trong toàn tỉnh nhằm “đấu tranh khôi phục đời sống bình thường sau chiến tranh, đòi địch thi hành hiệp định, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, chống khủng bố những người kháng chiến cũ, chống việc cướp ruộng đất và vi phạm quyền tự do dân chủ, đòi hiệp thương tổng tuyển cử”(3).

Theo những chủ trương mà Liên khu ủy và cá tỉnh ủy vạch ra, quân và dân Quảng Trị, Thừa Thiên đã thực hiện việc tập kết, di chuyển cơ quan, kho tàng ra vùng giải phóng trước ngày đóng giới tuyến. Ở Thừa Thiên, trong các ngày 17, 18, 19-8-1954, 2.760 cán bộ, chiến sĩ, nhân dân, trong đó có 240 du kích chia làm ba đợt lên đường ra Bắc. Ở Quảng Trị, ngày 28-8, 2.317 người, trong đó có 573 du kích rời địa phương đi tập kết. Trong thời gian chuẩn bị tập kết, cán bộ, chiến sĩ vẫn tranh thủ thực hiện nhiệm vụ của chính quyền cách mạng: tuyên truyền rộng rãi chủ trương chính sách của Đảng, thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ, ổn định tư tưởng cho cán bộ và nhân dân; sửa chữa những sai lầm như phát động đấu tranh chính trị rầm rộ sau ngày hiệp định được ký kết làm lộ cơ sở; vận động nhân dân giúp đỡ nhau khôi phục lại sinh hoạt bình thường, đảm bảo đời sống sản xuất. Các tỉnh ủy Quảng Trị, Thừa Thiên cũng khẩn trương sắp xếp lại tổ chức đảng, chính quyền, bố trí cán bộ, đảng viên ở lại hoạt động, gây cơ sở lâu dài lãnh đạo nhân dân đấu tranh buộc địch phải thi hành hiệp định. Việc chuyển hướng hoạt động ở vùng du kích vào căn cứ du kích cũng thực hiện kịp thời theo đúng phương châm bí mật là chính kết hợp với khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp.


(1) Chỉ thị số 262 của Liên khu ủy IV (25-9-1954), tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
(2) Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Trị (t.I (1930-1954), Sđd, tr. 409.
(3) Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên - Huế, Sđd.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #165 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2016, 08:05:14 pm »

Sau khi lực lượng bộ đội ta tập kết ra Bắc, tình hình Trị - Thên thay đổi, nhân dân hai tỉnh nằm trong vùng kiểm soát của chính quyền và quân đội địch. Để định hướng cho Trị - Thiên thực hiện nhiệm vụ cách mạng trong bối cảnh mới, ngày 9-5-1954, Liên khu ủy IV ra chỉ thị về tình hình, nhiệm vụ mới của Bình - Trị - Thiên. Chỉ thị nêu rõ nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân đấu tranh ở đây phải nhằm vào việc chống những âm mưu của địch, giữ vững những quyền lợi dân chủ và dân sinh đã đạt được, đòi cải thiện sinh hoạt; nội dung và khẩu hiệu đấu tranh phải xoay quanh những nhiệm vụ củng cố hòa bình, chống vi phạm hiệp định. Chỉ thị nhấn mạnh công tác củng cố cơ sở vùng căn cứ du kích và vùng du kích cũ, xây dựng cơ sở vùng tạm chiếm cũ, coi đó là công việc chính hiện thời của các địa phương. Chỉ thị viết: “Việc lãnh đạo ở vùng căn cứ du kích phải hành động khôn khéo, không để bộc lộ lực lượng. Bố trí lực lượng ở xã, thôn phải có bộ phận công khai để lãnh đạo quần chúng đấu tranh, có bộ phận hoạt động bí mật để bảo toàn cơ sở”(1). Sau khi nghiên cứu, thảo luận chỉ thị của Bộ Chính trị về tình hình và nhiệm vụ công tác mới của miền Nam, ngày 26-9-1954, Thường vụ Liên khu ủy IV đã ra nghị quyết về công tác của Thừa Thiên và Quảng Trị. Sau khi chỉ ra những hạn chế của hai tỉnh về giải quyết các vấn đề dân sinh, trong lãnh đạo, tổ chức đấu tranh, nghị quyết để ra những nhiệm vụ công tác mới ở Trị - Thiên là: “Tiếp tục giải quyết tư tưởng, thống nhất nhận định, quán triệt phương châm và đường lối mới của Trung ương, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm. Cán bộ các cấp phải thấy được tình hình miền Nam và Trị - Thiên (…). Tổ chức cơ sở đảng phải giữ vững nguyên tắc bảo đảm bí mật và quan hệ chặt chẽ với quần chúng. Việc sắp xếp lại chi bộ, chọn lọc đảng viên phải tiến hành dần dần, có kế hoạch, có trọng điểm, tránh làm chấn động trong đảng. Thường xuyên bồi dưỡng cán bộ để khi cần tăng cường cho địa phương”(2). Nghị quyết còn nêu ra các trách nhiệm như tranh thủ điều kiện thuận lợi đưa những phong trào văn nghệ với hình thức nhẹ nhàng để vận động nhân dân đòi tự do dân chủ; đề cao nhiệm vụ chống gián điệp, mật thám, bảo vệ cán bộ; tranh thủ đưa người của ta vào các cấp chính quyền ngụy từ tỉnh đến xã, sửa chữa những lệch lạc ở Quảng Trị, đặt kế hoạch kinh doanh để tiến tới tự túc tài chính…

Những phương hướng nhiệm vụ trên là cơ sở cho các cấp đảng bộ, quân và dân Quảng Trị, Thừa Thiên vượt qua khó khăn, đẩy mạnh phong trào đấu tranh trong những năm tiếp sau.

Từ cuối tháng 8-1954, nhân dân các tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa đã chuẩn bị mọi điều kiện để đón đồng bào và chiến sĩ miền Nam, cán bộ chiến sĩ ở Trung Lào, ở Campuchia, trước hết là Trị - Thiên ra Bắc tập kết.

Ngày 23-8-1954, hơn 5.000 cán bộ, bộ đội và nhân dân Trị - Thiên, trong đó có hơn 2.306 bộ đội địa phương đã rời khỏi nam vĩ tuyến 17 được đón tiếp tạm thời ở Quảng Bình và đến ngày 15-9 chính thức được đón tiếp tại Nghi Xuân (Hà Tĩnh). Tại đây, những người tập kết được bồi dưỡng và phân bố đi các nơi. Được sự chăm sóc chu đáo của nhân dân bắc liên khu, bộ đội và nhân dân Trị - Thiên đã nhanh chóng ổn định đời sống.

Ngày 20-9-1954, để việc thi hành chỉ thị của Trung ương về đón tiếp đồng bào, cán bộ, chiến sĩ miền Nam được chu đáo, Liên khu ủy đã ra Chỉ thị số 161/CT-LK4 Về kế hoạch đón tiếp quân đội, cán bộ, đồng bào miền Nam. Chỉ thị quy định các điểm đón tiếp là Sầm Sơn (Thanh Hóa), Cửa Hội (Nghệ An), Hà Tĩnh, Quảng Bình. Chỉ thị yêu cầu các tỉnh tổ chức các đợt học tập, tuyên truyền và tiến hành cuộc vận động rộng rãi trong nhân dân để mọi người nhận rõ đây là cuộc vận động chính trị lớn của liên khu, viết thư thăm hỏi và tặng quà cho đồng bào, chiến sĩ miền Nam. Sau chỉ thị này, liên khu đã chỉ đạo các cấp địa phương bố trí đầy đủ các trạm đón tiếp, huy động nhân dân cung cấp lương thực, thực phẩm, chuẩn bị nhà cửa chu đáo. Do đó, công việc đón tiếp các đoàn từ miền Nam, từ Lào, Campuchia về tập kết đã hoàn thành tốt đẹp. Tính đến tháng 11-1954, liên khu đã đón hơn 3.000 bộ đội giải phóng Lào, gần 4.000 quân tình nguyện Việt Nam từ Campuchia về. Đồng thời đón nhận 24 chuyến tầu, chở 26.432 cán bộ, bộ đội, nhân dân miền Nam ra tập kết. Tất cả các đoàn đại diện đều được đón tiếp ân cần, bố trí nơi ăn ở, sắp xếp công việc chu đáo. Việc chăm lo cho đồng bào tập kết đã biểu hiện sự gắn bó máu thịt giữa nhân dân Liên khu IV với nhân dân miền Nam. Nó càng có ý nghĩa hơn khi chính người dân nhiều nơi ở Thanh - Nghệ - Tĩnh đang phải vật lộn với nạn thiếu đói lương thực, thực phẩm diễn ra ngày càng trầm trọng.

Từ ngày 28-7-1954, thực hiện mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, Liên khu IV đã tích cực chuẩn bị trao trả tù binh giữa ta và địch. Một lực lượng cán bộ, bộ đội và một số cơ quan ở Thanh Hóa, Nghệ An được huy động để thực hiện công tác này. Nhờ sự chuẩn bị chu đáo và đấu tranh kiên quyết của ta, tại hai địa điểm trao trả ở Sầm Sơn và Cửa Hội, địch trao trả cho ta 2.791 người, ta trao trả cho địch 3.083 tù binh các loại. Số tù binh được ta trao trả cho Pháp đã nói lên lòng biết ơn đối với chế độ ta. Có 95 tù chính trị xin ở lại miền Bắc để được cải tạo. Số người ta nhận về được trở lại đơn vị cũ, bố trí các công tác khác, từng bước sắp xếp việc làm.


(1) Chỉ thị 94/CT-LKIV về tình hình nhiệm vụ mới ở Bình - Trị - Thiên, tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
(2) Nghị quyết của Thường vụ Liên khu ủy IV về công tác của Thừa Thiên và Quảng Trị (26-9-1954), tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #166 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2016, 08:06:08 pm »

Cũng trong thời gian này, nhân dân vùng giải phóng Liên khu IV đã đấu tranh chống lại các âm mưu và thủ đoạn của địch cưỡng bức giáo dân di cư vào Nam.

Lợi dụng Điều 8 trong Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Giơnevơ gồm 13 điều về lập lại hòa bình ở Đông Dương quy định tôn trọng quyền tự do lựa chọn nơi sinh sống của nhân dân mỗi nước, thực dân Pháp cùng can thiệp Mỹ và tay sai đã ráo riết tiến hành lừa bịp, cưỡng ép đồng bào công giáo vào Nam. Ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, chúng đã ra sức tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ ta, nhồi nhét tinh thần chống cộng với các luận điệu phản động “cộng sản chia cắt đất nước”, “cộng sản sẽ xẻo mặt, cắt tai những ai có liên hệ với Pháp”, “cộng sản phá đạo”, “không đội trời chung với cộng sản” “cộng sản ở miền Bắc, công giáo ở miền Nam”… Tàu của Pháp xâm phạm hải phận của ta dùng loa phóng thanh dụ dỗ giáo dân theo chúng di cư.

Đi đôi với đầu độc về tư tưởng, chúng thực hiện thủ đoạn làm bần cùng hóa giáo dân, xúi giục giáo dân cắt đứt quan hệ với nhân dân miền Bắc, bán hết đồ đạc, tài sản, phá hoại hoa màu. Chúng còn dùng vũ lực trắng trợn như vác gậy đến từng gia đình đốt nhà, phá tài sản, đe dọa buộc giáo dân phải đi theo chúng.

Từ tháng 11-1964, chúng tiến lên vũ trang, tập trung giáo dân tại các địa điểm Ba Làng (Thanh Hóa), Thuận Nghĩa, Tân An, Xã Đoài, Diễn Tiến, Thì Sơn (Nghệ An), Xuân Hồng, Dục Yên, Thọ Ninh (Hà Tĩnh), Thanh Khê, Hòa Ninh (Quảng Bình) để đưa giáo dân đi từng đợt. Ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, chúng dựa vào Ủy ban quốc tế, phát triển hình thức làm đơn kiến nghị để đưa giáo dân đi.

Do địch hoạt động ráo riết, các cấp, các ngành lại chưa lường hết được âm mưu thâm độc của kẻ thù, công tác vận động quần chúng chưa được quan tâm đúng mức, việc thi hành chính sách tôn giáo có nhiều sai phạm nghiêm trọng nên một số lượng lớn giáo dân ở liên khu đã di cư vào Nam. Đến cuối tháng 11-1954, ở Quảng Bình có hai vạn đồng bào công giáo di cư vào Nam. Ở Thanh Hóa, con số này là 2.800, ở Nghệ An là 25 người.

Trước tình hình đó, ngày 25-11-1954, Liên khu ủy IV đã ra Chỉ thị 224 Về việc thi hành Chỉ thị 103 của Trung ương chống cưỡng ép di cư của địch. Chỉ thị đã vạch rõ những khuyết điểm của liên khu trong công tác vận động quần chúng đấu tranh chống lại âm mưu và hành động cưỡng ép giáo dân di cư vào Nam và đề ra các nhiệm vụ cụ thể “học tập, thấm nhuần trong đảng bộ Chỉ thị 103 của Trung ương phát động chiến dịch tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng mạnh mẽ, gây dựng phong trào nhân dân chống địch vi phạm hiệp định, chống địch đưa giáo dân ra tập trung ở Phát Diệm (Ninh Bình) và tập trung thành cụm ở địa phương; đặc biệt chú trọng việc cải thiện sinh hoạt cho quần chúng giáo dân; sửa chữa những sai lầm trong việc thi hành chính sách tôn giáo, điều tra nắm tình hình bọn phản động và trấn áp chúng kịp thời, đào tạo cán bộ, xây dựng cơ sở, chấn chỉnh tổ chức tôn giáo vận”(1).

Thực hiện Chỉ thị 103 của Trung ương, Chỉ thị 224 của Liên khu ủy IV, các ấp, các ngành đã đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống địch cưỡng ép đồng bào giáo dân di cư vào Nam. Qua tuyên truyền, đa số cán bộ và nhân dân đã thấy được âm mưu của địch, một số quần chúng ở một số địa phương đã đứng ra đấu tranh vạch mặt bọn phản động. Giáo dân ở các vùng Cầm Rầm, Xã Đoài, Nghi Phụ, Nam Đàn (Nghệ An), Dục Yên, Thọ Ninh (Hà Tĩnh), Hò Minh (Quảng Bình)... được ta kiên trì vận động đã tự nguyện ở lại. Liên khu còn chỉ đạo các lực lượng công an, bộ đội, dân quân, du kích kết hợp với cán bộ dân vận phá các cụm tập trung lớn của địch. Ở Thuận Nghĩa, ta đã vận động được hàng nghìn giáo dân ở lại địa phương; ở Tân An ta đã giữ 40 thuyền trong số 98 thuyền đưa giáo dân di cư; ở Thương Chiều, 3.000 giáo dân được tuyên truyền cũng trở về; ở Ba Lòng và Trụ Sơn bên cạnh việc tuyên truyền vận động, liên khu phải điều động bộ đội đến can thiệp mới đưa được giáo dân trở lại địa phương. Trong tháng 12-1954, các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình đã tổ chức hội nghị tôn giáo toàn tỉnh, có sự tham gia của năm linh mục, ba tu sĩ. Sau hội nghị, các tỉnh đã cử cán bộ đi báo cáo kết quả ở nhiều nơi. Thanh Hóa cử hai đoàn đi báo cáo ở bảy nơi; Nghệ An tổ chức báo cáo ở 10 điểm; Quảng Bình thực hiện báo cáo ở 15 điểm, tại các điểm tập trung từ 200 đến 500 giáo dân. Các địa phương còn tổ chức míttinh, biểu tình chống Mỹ có sự tham gia của các linh mục. Ở Quảng Bình có năm linh mục tham gia, ở Thanh Hóa có ba linh mục và ở Nghệ An có một linh mục tham gia hoạt động này. Mặt trận liên khu cũng tổ chức một phái đoàn có linh mục tham gia đi thăm chín nơi ở Quảng Bình, gây được thiện cảm và có sức cảm hóa giáo dân. Chính quyền các cấp đã tiến hành giải quyết đơn thư của đồng bào công giáo, qua đó giúp họ hiểu rõ chính sách của Đảng và Nhà nước. Liên khu cũng tiến hành trừng trị, trấn áp những phần tử phản động dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào công giáo vào Nam, xử bốn vụ ở Nghi Phụ, Nam Lộc, Thọ Ninh và Thuận Nghĩa, gây ảnh hưởng tốt trong giáo dân. Bằng những biện pháp kể trên, liên khu đã hạn chế được sự di cư ồ ạt của đồng bào công giáo, đưa tình hình một số vùng có đồng bào công giáo dần dần đi vào thế ổn định.

Với tình thần quyết tâm vượt khó, nhân dân bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình đã ra sức phục hồi sản xuất, ổn định đời sống sau chiến tranh. Ngay sau khi hòa bình lập lại, nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh đã phải chống hạn để kịp thời gieo cấy vụ mùa. Được Trung ương chỉ đạo, liên khu đã tập trung ổn định tinh thần nhân dân, phát động đồng bào sản xuất hoa màu cứu đói. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng gửi thư động viên đồng bào liên khu.

Hòa bình lập lại, liên khu có điều kiện để thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng trong vùng giải phóng. Đợt sáu giảm tô được tiến hành trong ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Đến cuối đợt sáu, toàn bộ các xã ở Thanh - Nghệ - Tĩnh (trừ vùng thượng du) đã hoàn thành phát động quần chúng giảm tô. Đến cuối tháng 12-1954, liên khu đã phát động giảm tô ở miền bắc tỉnh Quảng Bình.


(1) Chỉ thị số 224 của Liên khu ủy IV về việc thi hành Chỉ thị 103 của Trung ương chống cưỡng ép di cư của địch (25-11-954), tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #167 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2016, 08:07:10 pm »

Để đáp ứng với tình hình nhiệm vụ mới, tháng 10-1954, Hội nghị Liên khu ủy hợp phân tích tình hình, đặc điểm của Liên khu IV. Nhận rõ vị trí của liên khu là mới có giới tuyến quân sự, là nơi tiếp giáp với quân địch, bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ nặng nề của liên khu. Liên khu ủy đã chỉ rõ nhiệm vụ của toàn liên khu là: “Phải xây dựng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích lớn mạnh không ngừng, đủ sức làm chỗ dựa cho nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh hoàn thành cải cách ruộng đất và cho Trị - Thiên đấu tranh hoàn thành thống nhất nước nhà, đồng thời đủ sức trấn áp bọn phản cách mạng, giữ vững và bảo vệ biên phòng, bờ biển và tham gia mọi công tác khác”(1).

Nghị quyết của Hội nghị Liên khu ủy đã được Bộ Tư lệnh liên khu triển khai, hiện thực bằng việc chấn chỉnh xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, làm cơ sở xây dựng Quân đội nhân dân tiến lên chính quy, hiện đại.

Bộ Tư lệnh liên khu tổ chức chỉnh huấn chính trị trong các đơn vị qua tài liệu Tình hình nhiệm vụ mới và nghị quyết Xây dựng quân đội nhân dân hùng mạnh của Tổng Quân ủy Trung ương. Qua học tập, cán bộ, chiến sĩ nhận rõ vai trò, trách nhiệm của lực lượng vũ trang trong tình hình mới, yên tâm phấn khởi công tác. Liên khu nhanh chóng chỉnh đốn, ổn định, sắp xếp lại tổ chức trong các đơn vị chủ lực và bộ đội địa phương, bổ sung quân số và trang bị cho các đơn vị có đủ khả năng công tác và sẵn sàng chiến đấu. Theo quyết định của Bộ tư lệnh liên khu, bộ đội tập kết từ Trị - Thiên ra được biên chế thành hai trung đoàn 269 và 271. Trung đoàn 161 giải thể lấy quân số bổ sung cho hai trung đoàn trên. Bộ Tư lệnh liên khu quyết định thành lập bốn tiểu đoàn biên phòng là các tiểu đoàn 923, 925, 927, 929 làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới phía tây Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình; củng cố trung đoàn 280, chuyển Trung đoàn 44 huấn luyện sang làm nhiệm vụ khác; kiện toàn Trung đoàn 53 thứ hai đưa ra Bắc làm nhiệm vụ bảo vệ Hà Nội. Các cơ quan chỉ huy liên khu, huyện đội, tỉnh đội cũng được chấn chỉnh, kiện toàn theo tổ chức biên chế mới.

Tính đến tháng 11-1954, lực lượng vũ trang toàn Liên khu IV có hơn 25.000 chiến sĩ, trong đó bộ đội chủ lực có hơn 8.000 người gồm ba trung đoàn 269, 270, 271 và Tiểu đoàn 544; bộ đội địa phương có hơn 6.500 gồm bốn tiểu đoàn tỉnh, 34 đại đội và năm trung đội huyện. Ngoài ra, còn có hơn 10.000 quân thuộc các Trung đoàn 280, Trung đoàn 44, đoàn an dưỡng 33, 34, K-42, K43 và công an vũ trang. Công tác đảng trong quân đội cũng được chú trọng. Đến tháng 11-1954, Đảng bộ quân đội liên khu có 5.600 đảng viên sinh hoạt trong 260 chi bộ.

Sau khi chỉnh huấn về chính trị, ổn định về tổ chức, các đơn vị bộ đội trong liên khu bước vào huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật để nâng cao sức chiến đấu. Các đơn vị bộ đội đã tham gia công tác ở các địa phương, giúp dân chống lũ lụt được nhân dân tin yêu.

Cùng với việc tăng cường sức chiến đấu của bộ đội, liên khu còn chú trọng chấn chỉnh, xây dựng lực lượng dân quân, du kích, đủ sức làm nòng cốt trong việc bảo vệ an ninh, trật tự ở các địa phương.

Cảnh giác trước âm mưu và thủ đoạn của địch, ngay sau khi ngừng bắn, Bộ Tư lệnh liên khu đã điều Trung đoàn 270 vào hoạt động ở Vĩnh Linh, thành lập đội công an vũ trang gồm 107 chiến sĩ làm nhiệm vụ bảo vệ giới tuyến. Đến tháng 11-1954, đại đội công an vũ trang thứ hai được thành lập để tăng cường cho công tác bảo vệ, phòng thủ. Các đơn vị bộ đội, công an đã phối hợp cùng nhân dân và du kích Vĩnh Linh luôn đề cao cảnh giác, ngăn chặn các âm mưu, hành động phá hoại của địch ở vùng phi quân sự, bảo vệ tuyến đầu của vùng giải phóng Liên khu IV.
   
Dưới sự lãnh đạo của Liên khu ủy và ủy ban kháng chiến Liên khu IV, nhân dân, các lực lượng vũ trang vững bước vào thời kỳ mới - thời kỳ cùng cả nước xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chi viện tiền tuyến lớn miền Nam đánh đuổi đế quốc Mỹ, giành lại hòa bình, độc lập, thống nhất Tổ quốc.

Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược trong đông - xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử đã buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ, lập lại hòa bình ở Đông Dương, có đóng góp to lớn của quân và dân Liên khu IV. Nhân dân các tỉnh phía bắc Liên khu IV đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một hậu phương lớn mà Đảng và Chính phủ đã giao phó. Những chiến thắng ở Trung Lào, Hạ Lào, Điện Biên Phủ đều có một phần xương máu của quân và dân liên khu. Ở ba tỉnh phía nam, quân và dân các tỉnh đã phát huy cao độ tinh thần và khả năng cách mạng cùng cả nước thực hiện tiến công chiến lược, đánh thắng những cố gắng cuối cùng của kẻ thù, góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến. Quân và dân Liên khu IV còn có những đóng góp lớn lao đối với cuộc kháng chiến của nhân dân các bộ tộc lào. Bằng sự giúp đỡ trên tinh thần quốc tế trong sáng, Liên khu IV đã góp phần không nhỏ vào việc bảo tồn và phát triển mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước Việt - Lào.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, Liên khu IV trở thành tuyến đầu bảo vệ miền Bắc, nơi đối diện với kẻ thù cũ và mới đang có cùng dã tâm chia cắt đất nước ta. Với bản lĩnh đã được tôi luyện, quân và dân liên khu sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của thời kỳ hậu chiến.


(1) Quân khu IV: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Sđd, tr. 385.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #168 vào lúc: 03 Tháng Ba, 2016, 07:44:31 pm »

Chương 6

THẮNG LỢI VÀ KINH NGHIỆM

Sáu tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên trải dài trên địa bàn Bắc Trung Bộ, từ buổi khởi đầu đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đều được liên kết chặt chẽ với nhau trong một đơn vị hành chính, quân sự theo quyết định của Trung ương Đảng, Chính phủ và tồn tại với các tên gọi Chiến khu IV (tháng 10-1945), Khu IV (cuối năm 1946) và Liên khu IV (đầu năm 1948). Sau một thời gian tiến hành kháng chiến, do yêu cầu thống nhất chỉ đạo hoạt động quân sự, Phân khu Bình - Trị - Thiên được thành lập (đầu năm 1948) trực thuộc Liên khu IV và đến tháng 10-1949, Bộ Tổng tư lệnh quyết định thành lập Mặt trận Bình Trị Thiên trực thuộc Bộ Tổng tư lệnh, nhằm tăng cường tổ chức, xây dựng lực lượng, nâng cao sức chiến đấu của quân và dân ta tại hướng chiến lược đường 9 - Bắc Trung Bộ, dùng quân chủ lực tác chiến phối hợp với chiến trường Bắc Bộ.

Trong quá trình phát triển của cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Đảng bộ, quân và dân Liên khu IV tiếp tục phấn đấu trên mọi lĩnh vực hoạt động, thực hiện khẩu hiệu: Tổ quốc trên hết và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. “Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước”(1). Ý chí kiên cường đó đã biến thành hành động của các tầng lớp đồng bào và chiến sĩ trong công cuộc xây dựng, bảo vệ hậu phương, chi viện cho tiền tuyến, chiến đấu trên chiến trường và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.

Là một bộ phận gắn bó máu thịt với cuộc kháng chiến của nhân dân cả nước, Liên khu IV đã khắc phục khó khăn gian khổ, hy sinh, vượt qua nhiều trạng huống hiểm nghèo, từng bước xây dựng và trưởng thành, hoàn thành những nhiệm vụ to lớn quan hệ trực tiếp tới sự sống còn của vận mệnh dân tộc, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.

Cuộc kháng chiến của Liên khu IV mang đầy đủ những nét phổ quát của cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, tiếp tục thực hiện những mục tiêu cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, vừa chiến đấu, vừa xây dựng và tăng cường lực lượng để đánh thắng các chiến lược và kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp, giải phóng miền Bắc, tạo lập cơ sở vững chắc cho những chặng đường phát triển tiếp theo của cách mạng.

I. THẮNG LỢI CỦA LIÊN KHU IV TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP

1. Giữ vững địa bàn chiến lược trong mối quan hệ chặt chẽ giữa chiến trường Bình - Trị - Thiên và hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh

Liên khu IV là một vùng rộng lớn, với diện tích khoảng 1/8 cả nước và số dân khoảng gần 4 triệu khi cuộc kháng chiến bùng nổ, nơi tích tụ nhiều tiềm lực và giữ vị trí quan trọng về quân sự, kinh tế và chính trị của đất nước.

Địa hình Liên khu IV xòe rộng ra ở phía bắc, tiếp giáp với Ninh Bình, tỉnh cực nam đồng bằng Bắc Bộ, và các tỉnh Hòa Bình, Sơn La thuộc Tây Bắc. Phía nam bị thu hẹp lại, giáp Quảng Nam, mà điểm phân cách là đèo Hải Vân. Đường 1A, đường thượng đạo và đường biển là mạch máu giao thông nối liền sáu tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh, Bình - Trị - Thiên, bằng những con đường đó, việc liên lạc, vận tải từ Bắc vào Nam và ngược lại đều qua Liên khu IV, Từ miền đất này, còn có nhiều đường bộ sang Lào và Thái Lan, mở ra một hướng liên lạc giữa Việt Nam và thế giới.

Địa bàn Liên khu IV bao gồm cả ba vùng đồng bằng, rừng núi và ven biển, có nhiều loại tài nguyên, có thể khai thác, chế biến phục vụ nhu cầu dân sinh và kháng chiến. Đây cũng là vùng đất cư trú của nhiều tộc người vốn có truyền thống đoàn kết trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm và xây dựng đất nước. Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đổi đời cho đồng bào từ kiếp sống nô lệ trở thành người tự do, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh để bảo vệ nền độc lập mới giành được. Sức mạnh của nguồn nhân lực đó thật là dồi dào.

Đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, bảo vệ nền độc lập và thống nhất đất nước, Liên khu IV có vị trí rất quan trọng và trách nhiệm rất to lớn mà Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh giao cho, đồng bào cả nước cũng đặt nhiều kỳ vọng ở vùng này.

Ngoài vị trí địa lý, nhân văn vốn có của địa phương, sự hình thành của địa bàn chiến lược Liên khu IV còn do những nhân tố rất quan trọng chi phối, đó là đường lối kháng chiến trường kỳ, toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, bảo toàn thực lực kháng chiến lâu dài.

Nét nổi bật trong quá trình Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là vừa xác định, hoàn thiện đường lối chiến tranh nhân dân, vừa chỉ đạo các địa phương (khu, tỉnh, thành phố), các ngành quán triệt, thực hiện đường lối đó theo hướng phát huy cao nhất sức mạnh của từng vùng trong xây dựng lực lượng trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, bảo vệ và chăm lo đời sống nhân dân để tiến hành kháng chiến và kiến quốc. Quyết định lập các khu, liên khu và điều động nhiều cán bộ có năng lực lãnh đạo cho các đơn vị hành chính và quân sự cấp khu, trong đó có Liên khu IV, chính là nhằm mục tiêu quan trọng đó.

Phát huy sức mạnh của từng địa phương trong mối liên kết với toàn quốc càng trở nên cấp bách khi tình thế chiến trường của cả nước bị chia cắt.

Đế quốc Pháp từ khi tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược đã mưu toan tập trung lực lượng đánh ồ ạt vào các địa bàn quan trọng để sớm chiếm lại Việt Nam. Nhưng mưu đồ đó đã nhanh chóng bị phá vỡ sau thất bại của chúng tại chiến dịch Việt Bắc, buộc chúng phải kéo dài cuộc chiến bằng những chủ trương và kế hoạch mới: lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt. Quy mô và cường độ phát triển đó, chiến trường chính cũng được chuyển từ Nam ra Bắc và hình thế chiến trường được xác lập theo dạng chia cắt. Địch chiếm các thành phố lớn và nhiều vùng đồng bằng trù phú ở Bắc Bộ và Nam Bộ. Vùng tự do và hậu phương lớn của ta được xác lập như căn cứ địa Việt Bắc, Thanh - Nghệ - Tĩnh, Liên khu V.

Địa bàn chiến lược Liên khu IV trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp hình thành sau khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ không lâu. Ở thời điểm cuộc chiến diễn ra tại Huế và bùng lan hầu khắp ba tỉnh Bình - Trị - Thiên, cũng là lúc Thanh - Nghệ - Tĩnh trở thành hậu phương của chiến trường này, cục diện đó đã kéo dài đến kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và tạo nên đặc điểm của địa bàn chiến lược Liên khu IV.


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr. 480.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #169 vào lúc: 03 Tháng Ba, 2016, 07:46:52 pm »

Thi hành lệnh của Bộ Quốc phòng, đêm 19-12-1946, bộ đội và dân quân, tự vệ của ta mở cuộc tiến công các đơn vị quân Pháp đóng tại Huế. Chúng bị bao vây trong các khu đóng quân và chỉ được tiếp tế, tăng viện một số binh lính bằng máy bay thả dù vũ khí, lương thực, cuộc chiến đấu của quân, dân ta trên địa bàn này diễn ra rất dũng cảm, song do thiếu vũ khí công phá các ngôi nhà kiên cố, quân Pháp cố thủ, ta vẫn không thể tiêu diệt được lực lượng đối phương.

Trong những ngày cuối tháng 1, đầu tháng 2-1947, một đội quân lớn trang bị vũ khí hiện đại, mới từ Pháp sang, cập bến cảng Đà Nẵng, vượt qua sự ngăn chặn của quân ta, tiến ra Huế. Địch kết hợp hai hướng tiến công, trong ra và từ ngoài vào, đã chiếm được Huế, sau 50 ngày giao chiến với quân, dân ta tại thành phố này, kể từ 19-12-1946, địch không dừng ở phạm vi chiếm đóng đó, nhiều toán quân Pháp từ phía Lào kéo sang theo đường số 9 và số 12, hợp với số quân Pháp đang đóng tại Huế, tạo thành một lực lượng đông đảo, đánh tràn ra, chiếm trọn Thừa Thiên, Quảng Trị và ba huyện bờ nam sông Gianh của Quảng Bình. Hành động chiến tranh của phía thực dân Pháp cho thấy chúng rắp tâm, dồn sức đánh chiếm thành phố Huế, để sử dụng nơi đây là trung tâm chính trị của miền Trung, và cả ba tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình, vốn là địa bàn quân sự trọng yếu của toàn Đông Dương. Chủ trương và hành động đó của thực dân Pháp đã vấp phải sức phản kháng quyết liệt của quân và dân ta. Bình - Trị - Thiên nhanh chóng trở thành mặt trận nóng bỏng, là vùng đối đầu quyết liệt giữa lực lượng kháng chiến quyết tâm bảo vệ độc lập và thống nhất của dân tộc Việt Nam và quân xâm lược Pháp.

Về phía ta, trong buổi đầu tiến công địch ở Huế, ta sử dụng bộ đội, dân quân, tự vệ mới được xây dựng, vũ khí rất thô sơ và thiếu thốn, để vây đánh quân xâm lược nhà nghề, trang bị vũ khí hiện đại, cố thủ trong nhiều ngôi nhà kiên cố. Phương pháp tác chiến đó không thể thực hiện được chủ trương của ta “là tiêu diệt lực lượng địch trong thành phố Huế để rảnh tay chống quân địch từ ngoài đánh vào”. Mặt khác, ta cũng không dự kiến được khả năng tăng viện nhanh của quân đội viễn chinh Pháp đến giải vây cho đồng bọn của chúng đang bị vây hãm tại Huế và phản công ta. Do vậy, ta không chuẩn bị cho cuộc chiến đấu lâu dài bằng kế hoạch toàn diện và biện pháp thực hiện khẩn trương.

Khi địch đưa tới chiến trường này một lực lượng quân đội đông đảo và tinh nhuệ (6.000 quân), làm thay đổi so sánh lực lượng không có lợi cho ta, lực lượng vũ trang và cán bộ ta phải rút lui trong thế bị động, không có kế hoạch bảo toàn lực lượng và ổn định kịp thời tư tưởng cán bộ và nhân dân trong thời điểm vô cùng khó khăn, khốc liệt đó. Song chỉ sau một thời gian ngắn, bằng nhiều biện pháp lãnh đạo tư tưởng và công tác tổ chức, cán bộ và lực lượng vũ trang của ta trở lại vùng bị địch chiếm, gây dựng cơ sở trong quần chúng, củng cố niềm tin cho đồng bào và thắng lợi của cuộc kháng chiến trường kỳ trên cơ sở phát huy sức mạnh của quân và dân ta. Về tổ chức và lãnh đạo, Phân khu Bình - Trị - Thiên được thành lập, ba tỉnh liên kết chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của Phân khu ủy và sự chỉ huy của Ban Chỉ huy quân sự.

Cuộc kháng chiến của quân và dân ta trên chiến trường Bình - Trị - Thiên trong thời điểm khởi phát, phải đối diện với biết bao khó khăn bộn bề về nhiều mặt. Bên cạnh những vấn đề tư tưởng và tổ chức mà các cấp lãnh đạo, chỉ huy đã giải quyết bước đầu, còn nổi lên những khó khăn gay gắt về hậu cần và lực lượng chiến đấu đến mức sau khi bộ đội, cán bộ rút khỏi thành phố Huế và vùng đồng bằng lên chiến khu, tỉnh Thừa Thiên chỉ còn hơn hai tấn gạo mà có hơn 2.000 người ăn, tỉnh Quảng Trị lại khó khăn hơn, vì chỉ còn chín tạ gạo để nuôi 2.000 cán bộ, bộ đội và nhân dân(1). Về quân số, tháng 10-1947, quân địch ở Bình - Trị - Thiên đông tới 9.075 tên, ta chỉ có 3.914 người (bằng 43%), vũ khí của ta càng thiếu thốn, nhất là vũ khí nặng (bằng 1/5 vũ khí của địch)(2). Khắc phục những khó khăn, bất cập ấy, cùng với sự phấn đấu cao độ của quân và dân Bình - Trị - Thiên là chính, không thể thiếu sự chi viện tích cực, kịp thời của Thanh - Nghệ - Tĩnh. Đó cũng là nhiệm vụ quan trọng được quán triệt từ các cấp lãnh đạo liên khu đến nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh.

Từ khi cuộc kháng chiến bùng nổ, Thanh - Nghệ - Tĩnh đã sẵn sàng tiếp đón, tạo điều kiện thuận lợi về đời sống và công tác cho các cơ quan và nhân dân Bình - Trị - Thiên tản cư tới. Cũng trong năm 1947, số binh khí của liên khu đã dành phần nhiều hơn cho Bình - Trị - Thiên, riêng sáu tháng cuối năm, Thanh - Nghệ - Tĩnh chỉ nhận số kinh phí bằng 2/3 Bình - Trị - Thiên.

Trong công tác lãnh đạo, Liên khu ủy IV luôn luôn chú trọng thắt chặt mối quan hệ Bình - Trị - Thiên và Thanh - Nghệ - Tĩnh như Nghị quyết của Liên khu ủy IV ngày 18-12-1948 đã xác định rõ: “Phải coi quan hệ giữa hai vùng này phải như hậu phương với tiền tuyến. Riêng Hà Tĩnh có nhiệm vụ chung lo với Quảng Bình”. Đại hội lần thứ hai của Đảng bộ liên khu (tháng 7-1949), vấn đề chi viện cho Bình - Trị - Thiên được khẳng định ở một mức độ cao: “Gấp rút tăng cường cho chiến trường Bình - Trị - Thiên”. Trong chương trình hoạt động của các đảng bộ Thanh - Nghệ - Tĩnh, công tác chi viện cho Bình - Trị - Thiên đều được coi là một nhiệm vụ quan trọng của mình.

Việc chi viện cho Bình - Trị - Thiên trước hết là lương thực, thực phẩm, được vận chuyển theo đường núi, đường bộ qua Đèo Ngang và đường biển với các phương tiện: dân công gánh bộ, xe bò, xe goòng (trên đoạn đường từ La Khê đến đò Vàng dài 30 km), thuyền bè, nhiều con đường vận chuyển ở vùng núi phía tây mới mở dài hàng trăm kilômét, nhiều đoạn sông, kênh phải nạo vét đều đòi hỏi rất nhiều công sức, nhưng đã được tiến hành khẩn trương. Tính đến kết thúc kháng chiến, số gạo Thanh - Nghệ - Tĩnh cung cấp cho những chiến dịch, những đợt hoạt động lớn của Bình - Trị - Thiên là 30.000 tấn gạo, nếu kể cả số lương thực giúp đồng bào tản cư, sử dụng cho đội ngũ dân công làm đường và vận chuyển và số lương thực nuôi các đơn vị từ chiến trường ra huấn luyện, thì số lương thực lên tới 300.000 tấn(3) và hàng ngàn tấn muối. Ngoài lương thực, thực phẩm, Thanh - Nghệ - Tĩnh đã giúp trâu, bò, dụng cụ sản xuất khi Bình - Trị - Thiên bị lũ lụt lớn và cung cấp thuốc chữa bệnh cho thương binh, bệnh binh và nhân dân.

Phần lớn số vũ khí sản xuất ở Thanh - Nghệ - Tĩnh đều được chuyển vào chiến trường Bình - Trị - Thiên để trang bị cho lực lượng vũ trang chiến đấu.

Nhân lực do Thanh - Nghệ - Tĩnh điều động làm đường và chuyển số vật phẩm trên lên tới hàng chục vạn lượt người và hàng triệu ngày công.

Chiến đấu trên mặt trận Bình - Trị - Thiên bao gồm các đơn vị vũ trang của địa phương và các đơn vị bộ đội chủ lực của liên khu mà phần lớn chiến sĩ là con em nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh. Kết hợp chiến đấu với lực lượng trên còn có nhiều đơn vị bộ đội địa phương cấp trung đoàn, tiểu đoàn và dân quân, tự vệ của Thanh - Nghệ - Tĩnh.

Thanh - Nghệ - Tĩnh còn cung cấp hàng ngàn cán bộ chính trị, quân sự, văn hóa, giáo dục và tiếp nhận nhiều cơ quan, trường học của Bình - Trị - Thiên. Sự chi viện của Thanh - Nghệ - Tĩnh diễn ra liên tục và toàn diện từ buổi đầu cho đến khi kết thúc chiến tranh là một nguồn lực quan trọng, bổ sung sức mạnh vật chất và tinh thần cho Bình - Trị - Thiên chiến đấu và chiến thắng. Về phía Thanh - Nghệ - Tĩnh, các khẩu hiệu “Hướng về Bình - Trị - Thiên khói lửa”, “Tất cả cho Bình - Trị - Thiên” lại là một động lực vươn tới trong muôn vàn khó khăn, gian khổ và hy sinh của vùng đất này.

Chi viện một khối lượng lớn sức của, sức người cho Bình - Trị - Thiên cũng thể hiện một phần kết quả xây dựng hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh. Nơi đây mang trong mình sức sống của chế độ dân chủ nhân dân và cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện. Hai yếu tố đã hòa quyện với nhau và nhân lên gấp bội sức mạnh của địa bàn này. Các mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đều thay đổi cơ bản theo hướng dân chủ, tiến bộ, làm cơ sở vững chắc cho quan hệ đoàn kết dân tộc, giai cấp và tôn giáo thêm bền chặt. Lực lượng vũ trang nhân dân được xây dựng và phát triển rộng khắp, nhanh chóng, đủ sức cùng nhân dân bảo vệ an toàn hậu phương quan trọng này của cuộc kháng chiến. Đồng thời, Thanh - Nghệ - Tĩnh đã cung cấp hàng vạn thanh niên để thành lập nhiều đơn vị bộ đội chủ lực, trong đó có hai đại đoàn trên tổng số sáu đại đoàn của toàn quốc. Thanh - Nghệ - Tĩnh không chỉ là hậu phương của Bình - Trị - Thiên mà là hậu phương của chiến trường chính Bắc Bộ và nhiều chiến trường khác.

Sự lớn mạnh của mặt trận Bình - Trị - Thiên và hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh là xu thế phát triển của Liên khu IV. Hai bộ phận đó liên kết, thống nhất với nhau, tạo nên sức mạnh to lớn để chiến đấu và chiến thắng, làm thất bại mưu đồ xâm lược của thực dân Pháp chiếm toàn bộ Liên khu IV, thủ tiêu một nguồn lực dồi dào của cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam.


(1) Trần Quý Hai: Những ngày khói lửa, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1984, tr.61.
(2) Hồng Chương: Chiến trường Bình - Trị - Thiên những ngày đầu kháng chiến, Nxb. Văn - Sử - Địa, Hà Nội, 1957, tr.75.
(3) TS. Ngô Đăng Trí: Vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.192.
« Sửa lần cuối: 03 Tháng Ba, 2016, 08:04:21 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM