Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 12:26:56 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954  (Đọc 55725 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #90 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2016, 08:06:56 pm »

Song song với hoạt động đánh phá về quân sự, địch tăng cường phá hoại về kinh tế, cả ở vùng tạm chiếm cũng như ở vùng tự do. Ngoài mục đích phá hoại về quân sự, trong mỗi trận càn quét, chúng phá hoại hoa màu, lương thực, giết hại trâu, bò, lợn, gà của đồng bào và bao vây, ngăn chặn các nguồn tiếp tế của nhân dân cho bộ đội. Để đánh vào sản xuất của nông dân, theo lệnh của các sĩ quan chỉ huy, binh lính địch đã thả sức cướp bóc lương thực, thực phẩm và bắn giết trâu, bò. Khẩu hiệu của chúng là: giết một con trâu bằng tiêu diệt hai du kích. Riêng một trận càn ở huyện Phong Điền, chúng đã bắn chết 300 trâu, bò và cướp đoạt hàng nghìn thúng thóc. Hàng nghìn mẫu lúa, hoa màu của nông dân bị xe cơ giới địch quần nát hoặc bị đốt cháy. Hầu hết trâu, bò, gia súc của nhân dân ở vùng giáp ranh đều bị địch triệt hạ. Nông dân không có trâu, bò để kéo cày nên đồng ruộng bị hoang, sản xuất hết sức khó khăn. Thậm chí nhiều nơi giặc Pháp ra lệnh cấm nông dân ra đồng cày cấy. Vì vậy, nhiều nơi nông dân phải chờ đêm tối mới ra đồng để sản xuất.

Ở các vùng giáp ranh và vùng tự do, địch tung bạc giả, hạ giá đồng bạc Đông Dương, nâng giá mua nông sản ở vùng tạm chiếm để thu hút hàng vào vùng chúng kiểm soát làm cho sản xuất và công tác tiếp tế cho phong trào kháng chiến gặp rất nhiều khó khăn. Chúng dùng hàng viện trợ của Mỹ để mua chuộc, lôi kéo một số cán bộ, trí thức từ bỏ hàng ngũ kháng chiến; dùng văn hóa thực dân độc hại để trụy lạc hóa một bộ phận thanh, thiếu niên trong vùng tạm chiếm. Trong các vùng độ thị tạm chiếm, đời sống của công nhân và người lao động cũng hết sức khó khăn. Hầu hết các loại thuế má đều tăng gấp hai hoặc 1,5 lần, giá cả lại không ổn định, khiến cho mức sống của đại bộ phận dân cư rất cơ cực đến mức hơn cả thời kỳ thuộc địa.

Hoạt động bình định, lấn chiếm của địch đã gây nhiều tổn thất cho phong trào kháng chiến về người và của. Đầu năm 1951, ở nhiều nơi, cơ sở đảng, cơ sở cách mạng bị địch khủng bố trở thành vùng trắng như Hương Thủy, Phú Vang, Phú Lộc (Thừa Thiên), các huyện Hải Lăng, Triệu Phong, Cam Lộ (Quảng Trị) và đặc biệt là ở Quảng Bình. Nhiều đồng bào bị địch bắt bớ, tù đày, trong số đó có một số cán bộ và quần chúng trung kiên bị chúng sát hại.

Tuy nhiên, trước sự khủng bố khốc liệt của kẻ thù và sự cám dỗ vật chất, số đông cán bộ, đảng viên vẫn kiên cường bám trụ, nêu tấm gương sáng về tinh thần trung kiên, dũng cảm bám trụ chiến đấu, tiêu diệt địch, bảo vệ tính mạng, tài sản của đồng bào. Nhưng bên cạnh đó, còn một số cán bộ, đảng viên do không giữ được tinh thần cách mạng đã đầu hàng, một số khác có biểu hiện hoang mang và chạy vào vùng địch. Huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình là nơi bị càn quét và đánh phá nặng nề nhất. Nhiều nơi, cán bộ, đảng viên được nhân dân nuôi dưỡng, đùm bọc, nhưng cũng phải nằm hầm hàng tháng trời, hoạt động rất khó khăn, nhất là trong các vùng ven thị xã, thị trấn, vùng ven cố đô Huế. Hầu hết quần chúng trong các vùng tạm bị chiếm phải sống trong cảnh vây hãm, kìm kẹp của địch, bị đàn áp và bóc lột về kinh tế.

Do những hoạt động bình định, đánh phá ác liệt của địch, phong trào đấu tranh ở vùng tạm chiếm tạm thời có phần bị giảm sút. Địch vừa thay đổi thủ đoạn đánh phá, vừa cố sức giành đất, giành dân và đã khá thành công trong âm mưu đánh vào tiềm lực kháng chiến. Tuy nhiên, chúng vẫn không thể đảo ngược được tình thế.

Những hoạt động chiến tranh mang tính tổng lực của thực dân Pháp đặt ra cho đảng bộ và nhân dân Liên khu IV yêu cầu phải nhanh chóng phát triển thế và lực một cách toàn diện, chủ động phản công - tiến công tiêu diệt sinh lực địch, phá bình định lấn chiếm.

Đối với vùng hậu phương, tuy chưa đủ sức lấn chiếm ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh, nhưng địch vẫn chưa chịu từ bỏ hoạt động đánh phá từ nhiều phía nhằm làm suy yếu tiềm lực của hậu phương, cô lập và cắt đứt sự chi viện của hậu phương với các mặt trận. Về quân sự, quân Pháp liên tục cho máy bay, tàu chiến đột kích đánh vào nhiều địa bàn trọng yếu thuộc vùng đông bắc tỉnh Thanh Hóa, vùng duyên hải Nghệ An, Hà Tĩnh. Chúng khuyến khích một số phần tử trong các đảng phái phản động, thổ phỉ, phìa tạo nổi dậy ở một số vùng thượng du các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An; tuyển mộ thêm lực lượng tay sai phản động để hoạt động gây rối. Đặc biệt, trong các vùng đồng bào tôn giáo ở Nghệ An, Hà Tĩnh, bọn phản động đã dùng thần quyền để mê hoặc, cưỡng bức thanh niên vào lính, lập ra các tổ chức: Thanh niên quốc gia đoàn, Thanh niên bảo vệ Chúa. Chúng lợi dụng một số phần tử bất mãn, lập ra cái gọi là Đoàn Thanh niên phật tử thống nhất lên tới cấp tỉnh và khu. Số này mang nặng tư tưởng chống cộng, tiếp tay cho giặc, xuyên tạc chủ trương, đường lối kháng chiến của Đảng, phá hoại khối đoàn kết lương giáo. Giữa năm 1951, sau khi giám mục phản động Đulây công bố bức thư kêu gọi chống cộng, một số cha cố phản động đã kích động lôi kéo đồng bào công giáo. Ở xã Hưng Yên, huyện Hưng Nguyên và vùng Xã Đoài thuộc xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc - Nghệ An, chúng tổ chức rào làng chống thuế. Ở Huế, chúng lôi kéo đồng bào Phật tử lập ra cái gọi là “Mặt trận quốc gia ở Huế”…
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #91 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2016, 08:08:42 pm »

Nhằm triệt tiêu mọi nguồn lực về kinh tế kháng chiến, giặc Pháp liên tiếp dùng máy bay bắn phá hệ thống đê điều, mương máng, đồng ruộng, phá hoại lúa, hoa màu, dùng gián điệp chỉ điểm bắn phá các kho tàng, cơ quan, công binh xưởng của ta, v.v.

Ở một số nơi thuộc đồng bằng duyên hải các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh, địch thường xuyên cho tàu chiến pháo kích vào Sầm Sơn, Ba Làng, Nga Sơn (Thanh Hóa), Quỳnh Lưu, Nghi Lộc (Nghệ An), Cẩm Xuyên, Kỳ Anh (Hà Tĩnh). Chúng phong tỏa đường biển, đánh phá ác liệt các tuyến đường thủy tiếp tế từ Thanh - Nghệ - Tĩnh vào các tỉnh Bình - Trị - Thiên. Hầu hết các hệ thống đê điều lớn trên địa bàn ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh đều bị địch pháo kích, thả bom làm vỡ hàng trăm kilômét đê, gây úng lụt ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống và sản xuất của nhân dân.

Để chống lại những phương thức đánh phá mang tính chiến tranh tổng lực của thực dân Pháp, công tác xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang của liên khu giữ một vị trí rất quan trọng. Trong những năm trước đó, lực lượng vũ trang cách mạng đã được thử thách qua chiến đấu và đã có bước trưởng thành, nhưng trình độ tổ chức và kỹ thuật tác chiến còn chưa theo kịp với sự phát triển của tình hình. Tác chiến đôi khi còn tách rời với công tác xây dựng. Sự phối hợp giữa ba thứ quân trong tiến công còn nhiều lúng túng trước một hệ thống đồn bốt, tháp canh phòng thủ dày đặc của địch. Khả năng tổ chức lãnh đạo và chỉ huy chưa đồng đều. Về tư tưởng, còn có biểu hiệu tư tưởng cầu an, bi quan, hoặc chủ quan, coi thường địch, ham đánh những trận lớn nhưng thiếu cơ sở đảm bảo giành thắng lợi. Trong khi đó, địch đang ra sức tăng cường lực lượng, đẩy mạnh các hoạt động càn quét, lấn chiếm nhằm phá hoại hậu phương kháng chiến, giành lại thế chủ động ở vùng tạm chiếm. Vì vậy, Liên khu ủy đã chỉ thị cho các cấp bộ đảng, chính quyền cần phải nắm vững đặc điểm và quy luật đấu tranh cách mạng ở Bình - Trị - Thiên, đánh giá đúng tình hình và chủ động lãnh đạo quần chúng vượt qua những khó khăn, thử thách mới. Có như vậy mới có thể hoàn thành những nhiệm vụ nặng nề đang đặt ra trước mắt.

 Đánh giá và nhận định tình hình mới của phong trào cách mạng ở địa phương, Liên khu ủy đã thấy rõ khó khăn lớn nhất của Bình - Trị - Thiên không phải là mất đất, cũng không phải vì địch mạnh mà là làm sao tìm ra cách đánh thích hợp, phối hợp lực lượng vũ trang ba thứ quân có hiệu quả để đánh địch.

Trong ba ngày 1, 2 và 3-1-1951, Hội nghị Ban Thường vụ Liên khu ủy đã họp nghiêm khắc kiểm điểm sự chỉ đạo đấu tranh quân sự ở Bình - Trị - Thiên cũng như việc xây dựng vũ trang ở Thanh - Nghệ - Tĩnh. Hội nghị chỉ rõ những yếu kém, thậm chí những sai lầm của ta trong việc tổ chức đấu tranh, xây dựng lực lượng. Vì vậy, quân số của địch ở Bình - Trị - Thiên tuy ít hơn trước những chúng đã thực hiện càn quét, hành quân lấn chiếm quyết liệt hơn trước. Đối với vùng tạm chiếm, quân Pháp đã thành công một phần trong việc giành giật đất đai và con người, lập được hương vệ ở một số địa phương. Trong việc tổ chức quân đội tay sai, chúng đặc biệt chú ý tổ chức hương vệ. Hội nghị nhận định: “Tổ chức hương vệ là một thành công của địch trong việc giành giật nhân dân với ta, một thất bại cao nhất về chính trị của ta, vì ở những nơi có hương vệ là nơi địch nắm được dân, cơ sở nhân dân của ta ở đó đã bị mất dần”(1). Tình hình xây dựng hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh về mặt quân sự cũng bộc lộ những yếu kém, bất cập. “Việc xây dựng lực lượng ở Thanh - Nghệ - Tĩnh trong thời gian gần đây có chiều hướng nặng về sắp xếp tổ chức các bộ đội địa phương, nhẹ việc xây dựng dân quân, ngay Thanh Hóa tuy đã đặc biệt chú ý tới dân quân, nhưng trong thực tế cũng còn nặng về lo sắp xếp các cơ quan đoàn bộ, tỉnh đội nhiều hơn”(2). Hội nghị cũng chỉ rõ hoạt động quân sự của địch ở Bình - Trị - Thiên tuy có ác liệt hơn trước nhưng chúng cũng bộc lộ những nhược điểm khó có thể khắc phục được. Địch phải rút bớt quân chủ lực ở Liên khu IV ra tăng cường cho chiến trường Bắc Bộ. Quân đội tay sai được xây dựng vội vàng, về lâu dài không thể thay thế được lực lượng quân Pháp đã phải rút đi.

Từ những nhận định trên, hội nghị đã đề ra nhiệm vụ cụ thể của quân dân Liên khu IV là phải chuẩn bị thật đầy đủ để sẵn sàng đánh thật mạnh, phá tan kế hoạch lấn chiếm của địch. Trên cơ sở nghiêm khắc kiểm điểm, rút kinh nghiệm về chỉ đạo tổ chức, hội nghị nhấn mạnh nhiệm vụ quân sự cấp bách của Liên khu IV là phối hợp với chiến trường chính, đẩy mạnh tác chiến, thu hút lực lượng và tiêu diệt sinh lực địch, ra sức phát triển ba thứ quân.

Đúng như dự đoán của Trung ương là sau thất bại ở Biên giới, địch đã đẩy mạnh đánh phá vùng tạm chiếm để củng cố vị trí chiếm đóng của chúng, chuẩn bị mở các cuộc phản kích nhằm giành lại thế chủ động đã bị mất.


(1), (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.728, 739.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #92 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2016, 08:10:09 pm »

Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) hợp tháng 3-1951, đã đề ra chủ trương chỉ đạo toàn diện phong trào đấu tranh ở vùng địch hậu, phá âm mưu bình định của địch. Hội nghị đã chỉ rõ: “Sau chiến dịch Biên Giới, chiến tranh du kích của ta lớn lên nhưng hiện nay đang trải qua một thời kỳ khó khăn, nhất là ở Nam Bộ và gần đây ở đồng bằng Bắc Bộ. Riêng ở Bình - Trị - Thiên thì bộ đội ta đã chiến thắng quân địch được mấy trận làm cho chúng khó thực hiện âm mưu mới"(1). Sau khi phân tích âm mưu mới của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ trong việc chống phá cách mạng Việt Nam, hội nghị đề ra chủ trương và phương châm đấu tranh trước mắt ở vùng tạm chiếm và vùng du kích là “giữ vững và phát triển chiến tranh du kích, để thực hiện việc kiềm chế địch và phối hợp với chiến trường chính có hiệu quả hơn. Phải làm cho chiến tranh du kích giúp cho việc xây dựng và giữ vững cơ sở chính trị và kinh tế của ta, giúp vào việc tranh thủ nhân dân. Phải làm cho chiến tranh du kích kết hợp với toàn bộ cuộc đấu tranh của nhân dân trong vùng địch”(2). Vùng du kích lấy đấu tranh vũ trang làm nhiệm vụ cơ bản; kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và kinh tế; vùng tạm chiếm lấy xây dựng cơ sở, đấu tranh chính trị và đấu tranh kinh tế làm nội dung chính. Giữa hai vùng có thể chuyển hóa lẫn nhau cho phù hợp với sự phát triển của cuộc đấu tranh chung.

Thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tiếp thu sự chỉ đạo của Trung ương, Liên khu ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu đã tăng cường chỉ đạo phong trào đấu tranh chính trị, tư tưởng, xây dựng phát triển lực lượng vũ trang, đẩy mạnh đấu tranh quân sự, kinh tế với địch, v.v.

Về đấu tranh quân sự, Liên khu ủy nêu rõ phương châm tác chiến vẫn là đánh từ nhỏ đến lớn, đánh liên tục. Trong lúc tiêu diệt sinh lực địch phải chủ trương xây dựng, bồi dưỡng lực lượng kháng chiến; trong lúc đánh lớn vẫn phải đẩy mạnh chiến tranh du kích, gắn liền với nhiệm vụ bảo vệ hậu phương và phối hợp với chiến trường chính.

Về đấu tranh chính trị, các cấp ủy đảng chính quyền trong liên khu cần mở cuộc vận động, tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân phá âm mưu chia rẽ của giặc, vạch tội ác của chúng; giáo dục tư tưởng trường kỳ kháng chiến, lòng căm thù giặc sâu sắc, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, nhất là đoàn kết nông thôn để đẩy mạnh kháng chiến. Để hoàn thành nhiệm vụ, các cấp ủy đảng và chính quyền trong toàn liên khu tiếp tục được củng cố, bộ máy được kiện toàn thêm một bước, khối đoàn kết dân tộc được tăng cường nhằm thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia kháng chiến trên cơ sở liên minh công nhân, nông dân, trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Đầu năm 1951, ở hầu hết các tỉnh trong liên khu đã tiến hành bầu cử xong hội đồng nhân dân cấp tỉnh, trong đó thành phần công nông chiếm tới trên 60%. Tuy nhiên, vấn đề cơ bản nhất là phải tiến hành củng cố chính quyền nhân dân ở cấp xã, làm cho bộ máy chính quyền ở mỗi cấp dần đi vào nề nếp, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân.

Ngay sau hội nghị cán bộ toàn liên khu và hội nghị quân chính mặt trận Bình - Trị - Thiên Liên khu ủy đã tiến hành một đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn thể cán bộ, đảng viên và trong các đơn vị lực lượng vũ trang nhằm quán triệt sâu sắc đường lối kháng chiến của Đảng, tình hình và nhiệm vụ trong giai đoạn mới; mở các khóa huấn luyện quân sự để nâng cao trình độ kỹ thuật tác chiến cho bộ đội địa phương và dân quân, du kích nhằm làm tốt nhiệm vụ phát triển phong trào chiến tranh du kích trong vùng địch tạm chiếm. Liên khu ủy cũng đã chỉ rõ những công tác chính trong vùng địch tạm chiếm là đẩy mạnh công tác binh vận, địch vận, chống âm mưu tổng động viên của địch, củng cố cơ sở cách mạng, cơ sở đảng, giữ vững phong trào, phát triển chiến tranh du kích nhằm tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch. Công tác xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân đã được triển khai từng bước phù hợp hơn với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Liên khu IV. Đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích trên địa bàn liên khu, nhất là mặt trận Bình - Trị - Thiên là một trong những nhiệm vụ then chốt của quân, dân Liên khu IV. Chỉ có phát triển mạnh mẽ, sâu rộng chiến tranh du kích ở khắp các địa phương mới bảo vệ được lợi ích thiết thân của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là tính mạng, tài sản của đồng bào. Mặt khác, đẩy mạnh chiến tranh du kích cũng là để phát huy sức mạnh toàn dân, toàn diện, chủ động tiến công địch, đưa phong trào kháng chiến ở vùng tạm chiếm phát triển.

Liên khu ủy nhận định lực lượng kháng chiến, phong trào chiến tranh du kích ở một số nơi chưa phát triển mạnh, trang bị và trình độ tác chiến của bộ đội địa phương và dân quân, du kích ở các vùng xung yếu còn kém. Bộ đội tập trung một cách máy móc, lại có tâm lý nóng vội, ham đánh các trận lớn và chưa huy động lực lượng chiến đấu đạt hiệu quả cao, do đó, chưa thực hiện được mục tiêu đã đề ra là tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch. Công tác địch vận chưa phá được chính sách bổ sung quân của giặc, chưa chú ý đúng mức để xây dựng và bảo vệ cơ sở.

Liên khu ủy và các cấp chính quyền đã mở nhiều hội nghị bàn cách tháo gỡ khó khăn, chú ý phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân, đặc biệt là bộ đội địa phương, dân quân du kích, kịp thời bổ sung quân số.


(1), (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.586, 589.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #93 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2016, 08:10:49 pm »

Thực hiện chỉ thị của Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh, Bộ Tư lệnh liên khu đã củng cố các trung đoàn chủ lực, tiếp tục xây dựng Binh đoàn huấn luyện 403 và Đoàn an dưỡng 33 ở Thanh Hóa, mở rộng quy mô các trại huấn luyện tân binh, đào tạo thêm 3.122 chiến sĩ. Các tỉnh cũng đã huy động 7.908 chiến sĩ mới bổ sung cho các đơn vị chiến đấu. Cho đến đầu 1951, quân số bộ đội địa phương toàn liên khu lên tới 10.450 chiến sĩ. Ngoài số quân thường trực của các tỉnh, liên khu đã điều động một số đại đội của Thanh Hóa, Nghệ An bổ sung cho Đại đoàn 304 và phục vụ các chiến dịch ở Việt Bắc, Tây Bắc. Năm 1951, Trung đoàn chủ lực 51 của Liên khu IV được thành lập.

Trên cơ sở phát triển lực lượng vũ trang, từ giữa năm 1951, các tỉnh ở Liên khu IV đã thành lập tiểu đoàn và các huyện đã xây dựng được đại đội độc lập. Lực lượng dân quân, du kích có khoảng gần chín vạn người. Lực lượng dân quân, du kích từ chỗ phân tán cũng được củng cố theo hướng xây dựng các đơn vị tập trung thường trực chiến đấu. Những đơn vị du kích vừa có nhiệm vụ phối hợp chiến đấu với bộ đội chủ lực, vừa chủ động tác chiến trên địa bàn để bảo vệ cơ sở, canh gác thu hoạch mùa màng, cùng nhân dân khắc phục hậu quả lũ lụt…

Quán triệt nhiệm vụ của Liên khu ủy, đầu năm 1951, Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên ra nghị quyết xác định rõ nhiệm vụ của đảng bộ: Phải lợi dụng những sơ hở của địch, đánh từng trận nhỏ, tiến đến đánh trận lớn, giữ vững và khuếch trương chiến thắng của bộ đội chủ lực, củng cố niềm tin trong nhân dân, trong lực lượng vũ trang, tích cực đẩy mạnh công tác địch vận, đặc biệt là binh vận.

Tháng 3-1951, Tỉnh ủy Hà Tĩnh tổ chức hội nghị tuyền đạt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II và xác định quyết tâm thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Liên khu ủy về nhiệm vụ đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị, xây dựng kinh tế trong tình hình mới.

Cùng với việc củng cố, phát triển lực lượng vũ trang địa phương, các trung đoàn chủ lực của liên khu tiếp tục được bổ sung quân số và kịp thời phân tán về các địa phương bám đất, bám dân, chủ động chống càn và phá càn, cùng với quân dân địa phương đấu tranh khôi phục cơ sở ở vùng địch hậu, bảo vệ kinh tế kháng chiến.

Trong dịp này, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương Liên khu IV được dự các lớp huấn luyện quân sự nhằm củng cố và nâng cao trình độ về chiến thuật, kỹ thuật tác chiến theo phương châm đánh nhỏ, nhưng chắc thắng, kết hợp tập kích với đánh vận động.

Nhờ có chủ trương chuyển hưởng tích cực và kip thời, phong trào chiến tranh du kích ở vùng địch tạm chiêm dần dần được phục hồi và phát triển. Bộ đội địa phương cùng với lực lượng chủ lực ở Bình - Trị - Thiên chủ động chống lại các hoạt động quân sự mới của địch. Phối hợp với các chiến dịch ở trung du Bắc Bộ và chiến trường Nam Bộ, quân và dân Liên khu IV đã nêu cao quyết tâm: Dù gian khổ thiếu thốn đến mấy cũng khắc phục để phản công, tiến công địch giành thắng lợi.

Trong dịp Tết Tân Mão (năm 1951), quân Pháp đã mở cuộc càn quét lớn vào căn cứ Phong Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Đây là trận càn quy mô lớn, lực lượng mạnh, được chuẩn bị chu đáo của địch lần đầu tiên trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên. Lực lượng vũ trang được quần chúng ủng hộ, đã cảnh giác phá tan cuộc càn quét của giặc ở Chợ Núi, làm tan rã bốn đại đội, bắt quan tư Girăng (Girand) chỉ huy trận càn. Ngay sau đó, ngày 12-2-1951, Trung đoàn 101, bộ đội chủ lực liên khu đã phối hợp với Tiểu đoàn địa phương 436, kết hợp cùng với lực lượng dân quân, du kích và nhân dân huyện Quảng Điền tiến công tiêu diệt vị trí An Gia trong hệ thống phòng thủ Phú Ốc - Sịa. Sáng 4-2, lại phục kích một đại đội địch từ đồn Sịa ra cứu viện bốt An Gia. Địch phải xây dựng lại nhiều lần bốt An Gia và tăng quân số gấp ba lần so với các đồn bốt khác, nhưng Trung đoàn 101 vẫn kiên quyết chiến đấu, làm chủ vị trí trên; đồng thời, kịp thời tổ chức rút kinh nghiệm phương thức đánh công kiên, tập kích vào các vị trí phòng thủ lô cốt, tháp canh vững chắc của địch.

Tiếp sau chiến thắng An Gia, đêm 9-3, Trung đoàn 101 cường tập đánh đồn Phổ Lại, nơi địch cho là một vị trí “bất khả xâm phạm”. Đồn Phổ Lại, địch có bốn trung đội phòng thủ trong tháp canh kiên cố. Quân ta dùng pháo 40 mm lấy được của địch bắn tiêu diệt hỏa điểm lô cốt. Sau hai giờ chiến đấu, quân ta đã tiêu diệt hoàn toàn quân địch trong đồn, trong đó có 150 tên đến thực tập, thu một đại liên, nhiều súng trường và đạn. Lực lượng dân quân, du kích xã phối hợp chiến đấu cũng thu được 30 súng trường Mỹ. Trong trận này, quân ta đã đập tan phòng tuyến Phổ Lại - Sịa của địch định chia cắt vùng căn cứ du kích của ta. Nhân dân phối hợp với tự vệ, du kích tích cực phá cầu đường, chặn đường tiếp tế của chúng. Trung đoàn 101 được lệnh hành quân ra vùng Phong Phú, Vĩnh Xương để củng cố lực lượng. Trung đoàn 95 được điều về Vĩnh Xuyên, Ưu Điềm chuẩn bị bước vào đợt hoạt động mới.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #94 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2016, 08:11:44 pm »

Chiến thắng An Gia, Phổ Lại và những cuộc tập kích, bao vây các vị trí đồn bốt địch ở Bình - Trị - Thiên đã thể hiện quyết tâm của các lực lượng vũ trang kháng chiến ở Liên khu IV luôn luôn sẵn sàng chiến đấu tiêu diệt sinh lực địch, chống kế hoạch bình định, càn quét của chúng. Qua thực tiễn chiến đấu trên chiến trường cho thấy trình độ tác chiến của lực lượng vũ trang ở Bình - Trị - Thiên đã được nâng lên một bước, đặc biệt là khả năng bao vây diệt đồn và đánh quân ứng chiến của địch.

Chiến thắng An Gia và Phổ Lại mở đầu cho chiến dịch mùa hè 1951 góp phần thúc đẩy phong trào “thi đua giết giặc lập công” đang phát triển rộng trong toàn liên khu. Quân và dân Liên khu IV đã phát huy thế chủ động tiến công tiêu diệt nhiều vị trí tháp canh, đồn bốt, đánh mạnh vào kế hoạch bình định lấn chiếm của địch ở khắp mọi nơi.

Bộ đội địa phương Quảng Trị đã đánh vận động, kết hợp với phục kích tiêu diệt các đơn vị nhỏ lẻ của địch đi tuần trên các tuyến đường ven thị xã, phối hợp với dân quân, du kích chống địch càn quét, bảo vệ nhân dân thu hoạch mùa màng, khôi phục cơ sở và phong trào ở vùng duyên hải. Nhiều địa phương đã tích cực rào làng, xây dựng làng chiến đấu, bố trí lực lượng dân quân, du kích canh gác, gài mìn, đặt bom, sẵn sàng chiến đấu tiêu diệt địch.

Bộ đội địa phương Quảng Trị đã đánh vận động, kết hợp với phục kích tiêu diệt các đơn vị nhỏ lẻ của địch đi tuần trên các tuyến đường ven thị xã, phối hợp với dân quân, du kích chống địch càn quét, bảo vệ nhân dân thu hoạch mùa màng, khôi phục cơ sở và phong trào ở vùng duyên hải. Nhiều địa phương đã tích cực rào làng, xây dựng làng chiến đấu, bố trí lực lượng dân quân, du kích canh gác, cài mìn, đặt bom, sẵn sàng chiến đấu tiêu diệt địch.

Sau khi tiêu diệt các vị trí quan trọng nhất trên tuyến phòng ngự Phú Ốc - Sịa, quân Pháp mở trần càn quét bất ngờ vào Thanh Hương - Vĩnh Xương nhằm tiêu diệt căn cứ du kích, triệt phá vựa lúa đồng bằng Thừa Thiên. Ngày 10-3, địch huy động hai binh đoàn với trên 2.000 quân ứng chiến tinh nhuệ có máy bay, cơ giới, pháo binh và công binh yểm trợ, chia làm ba mũi bao vây căn cứ Thanh Hương - Mỹ Xuyên. Cánh quân thứ nhất do đại tá Búttin, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân đội Pháp ở Quảng Trị cầm đầu, từ thị xã Quảng Trị kéo vào Thanh Hương - Vĩnh Xương. Cánh quân thứ hai do đại tá Sốckên, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân đội Pháp ở Thừa Thiên - Huế, cầm đầu, từ ga Mỹ Chánh theo đường thủy và đường bộ đánh xuống Mỹ Xuyên. Cánh thứ ba gồm một đại đội cùng với bốn xe lội nước, một số tàu và canô từ Sịa đánh ra Lai Hà. Đại tá Tabui, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân đội Pháp ở miền bắc Trung Bộ trực tiếp chỉ huy trận càn.

Đây là điều bất ngờ đối với địch vì chúng không biết quân ta có hai trung đoàn chủ lực đóng ở đây, chúng ta cũng không có sự chuẩn bị trước. Vì vậy, chiến sự đã diễn ra rất ác liệt. Các đồng chí Hà Văn Lâu và Hoàng Anh trực tiếp chỉ huy cuộc chiến đấu. Sáng ngày 11-3 và trong suốt ngày 12-3, hai cánh quân lớn của địch đã bị hai trung đoàn chủ lực của liên khu tiến công. Cuộc chiến đấu đã diễn rất quyết liệt tại Vĩnh An, Ưu Điềm, Mỹ Xuyên. Địch liên tiếp mở các cuộc phục kích vào vùng căn cứ của kháng chiến nhưng đều bị Trung đoàn 95 đánh bại. Đại tá Tabui ngồi trên chiếc máy bay Moran chỉ huy trận đánh. Nhiều lần địch cho máy bay và pháo bắn yểm trợ cánh quân của Sốckên, nhưng bị bộ đội áp sát nên không phát huy được tác dụng. Sau nhiều đợt phục kích, hai tiểu đoàn quân Pháp đã bị chặn lại và dồn xuống cánh đồng lầy Vĩnh An. Cánh quân chủ lực do Búttin chỉ huy tiến từ hướng thị xã Quảng Trị và một số đơn vị quân cơ giới từ phía nam kéo lên cũng bị Trung đoàn 101 tiêu diệt tại nhà thờ Tháp Một. Ngày 13-3, trận chiến đấu đã kết thúc thắng lợi. Hai trung đoàn 95 và 101 đã tiêu diệt hơn 1.500 quân địch, bắt gần 100 tù binh. Trung đoàn quân Pháp nổi tiếng hiếu chiến và tàn bạo đã bị xóa sổ, đại tá Búttin tử trận, đại tá Tabui bị thương nặng và sau đó bị cách chức.

Như vậy, chỉ trong ba ngày chiến đấu dũng cảm, các trung đoàn 95 và 101 chủ lực của liên khu phối hợp với bộ đội địa phương, dân quân, du kích đã đánh bật một binh đoàn cơ động và tiêu diệt một binh đoàn khác, loại khỏi vòng chiến đấu 2/3 lực lượng cơ động vùng chiến thuật của địch ở Bình - Trị - Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng. Quân Pháp phải rút bảy tiểu đoàn Âu - Phi ra Bắc Bộ xây dựng lại. Chiến thắng Thanh Hương - Ưu Điềm là một chiến công vang dội của quân, dân ta ở Bình Trị - Thiên nói riêng, ở Liên khu IV nói chung. Chiến thắng Thanh Hương - Ưu Điềm có ý nghĩa quyết định trong việc phá vỡ hệ thống Đờ Latua của địch tại mặt trận Bình - Trị - Thiên. Ngày mở đầu chiến thắng Thanh Hương - Ưu Điềm (11-3-1951) đã trở thành ngày truyền thống của Đại đoàn 325.

Kế hoạch của địch lấn chiếm và phá các khu căn cứ kháng chiến ở vùng đồng bằng đã bị thất bại. Mất một lực lượng quân ứng chiến quan trọng, địch đã bị suy yếu hẳn ở Bình - Trị - Thiên. Vùng căn cứ kháng chiến được giữ vững. Bộ đội chủ lực vẫn có khả năng cơ động trên chiến trường. Qua thực tiễn chiến đấu, trình độ tác chiến của bộ đội được nâng cao một bước, nhất là trong sử dụng phương thức đánh vận động chống càn quét. Đây là một trận chống càn đạt hiệu quả cao của lực lượng vũ trang Bình - Trị - Thiên, góp phần tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch.

Trận chống càn Thanh Hương - Mỹ Xuyên thắng lợi là một trận đánh vận động chiến lớn nhất từ trước tới nay trên chiến trường Trị - Thiên, là nguồn cổ vũ lớn đối với quân và dân liên khu, góp phần quan trọng củng cố, phát triển thế trận chiến tranh nhân dân ở địa phương.

Sau chiến thắng Thanh Hương - Mỹ Xuyên, Liên khu ủy và Bộ Chỉ huy mặt trận Bình - Trị - Thiên kịp thời tổ chức rút kinh nghiệm. Bài học quan trọng là phải đánh giá đúng tình hình, chủ động phối hợp chặt chẽ lực lượng vũ trang 3 thứ quân, giữa tiến công quân sự và phong trào quần chúng đấu tranh chính trị, binh vận, địch vận, tạo nên sức mạnh tổng hợp đánh thắng cuộc tiến công ồ ạt của địch, mặc dù chúng được trang bị các loại vũ khí hiện đại.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #95 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2016, 08:13:25 pm »

Nhằm kịp thời động viên, cổ vũ quân và dân liên khu hăng hái tiến lên tiêu diệt sinh lực địch, ngày 19-3-1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen ngợi quân dân Bình - Trị - Thiên và nhắc nhở: “Chúng ta phải cố gắng hơn nữa và phải nhớ rằng, ở Liên khu IV du kích chiến là chính, vận động chiến là phụ, Kháng chiến là trường kỳ gian khổ, rồi mới đến thắng lợi hoàn toàn”(1). Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Trường Chinh, Đại tướng Tổng Tư lệnh quân đội quốc gia Võ Nguyên Giáp cũng thay mặt Trung ương Đảng, Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy gửi điện khen ngợi quân dân Bình - Trị - Thiên.

Được chiến thắng Thanh Hương - Mỹ Xuyên cổ vũ, quân và dân vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh rất phấn khởi, ra sức khắc phục mọi khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc vùng tự do.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ liên khu, với tinh thần “tất cả vì tiền tuyến”, nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh đã vận chuyển hơn 904 tấn gạo, 45 tấn muối vào tiếp tế, chi viện cho chiến trường Bình - Trị - Thiên. Mỗi cán bộ, dân công đi nhận nhiệm vụ công tác ở vùng địch tạm chiếm đều tự giác mang vác thêm 1 kg lương thực và 50 gam hạt giống để giúp đỡ đồng bào địa phương chống đói, kịp thời sản xuất các loại rau, màu ngắn ngày góp phần cải thiện đời sống hằng ngày của bộ đội. Nhân dân Thanh Hóa đã huy động gần ba triệu lượt dân công vận chuyển lương thực cung cấp cho tiền tuyến.

Hội nghị bất thường của Tỉnh ủy Nghệ An đã phát động nhân dân bán vượt mức 30% lúa định giá để bù đắp cho các tỉnh Bình - Trị - Thiên bị lụt nặng. Liên khu và các tỉnh đã tổ chức, sắp xếp lại ban tiếp vận các cấp. Công tác điều động dân công cũng được chấn chỉnh về tư tưởng và tổ chức. Công việc sửa chữa đường giao thông được chú ý để bảo đảm kịp thời vận chuyển vũ khí, lương thực cho các mặt trận. Cũng trong dịp này, liên khu đã giao cho Hà Tĩnh vận chuyển 500 tấn gạo vào Quảng Bình, tiếp đón và nuôi dưỡng 3.000 thương, bệnh binh và chiến sĩ từ các chiến trường đưa về hậu phương.

Trên các trục đường thuộc Quảng Trị, Quảng Bình, Thừa thiên, bộ đội địa phương đã phối hợp cùng dân quân, du kích tích cực mở rộng phong trào chiến tranh du kích, phát triển lối đánh tập kích, phục kích, phá nhiều trận càn nhỏ lẻ của địch, bảo vệ mùa màng.

Nhờ sự chi viện kịp thời của hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh, lực lượng vũ trang kháng chiến ở Binh - Trị - Thiên đã tiếp tục chủ động đánh địch vào hệ thống đồn, bốt của địch. Ngày 21-3-1951, bộ đội địa phương huyện Hải Lăng đã tập kích đồn Hải Thái, tiêu diệt và làm bị thương 40 tên địch. Bộ đội tỉnh, huyện đã giúp đỡ, hướng dẫn du kích thôn xã đặt ổ phục kích tiêu diệt các đơn vị nhỏ lẻ của địch khi chúng tuần tiễu trên các tuyến giao thông trong tỉnh. Ngày 15-4-1951, du kích xã Hải Trường (Quảng Trị) phối hợp với bộ đội địa phương dùng mìn lật đổ bảy toa tàu của địch ở phía bắc cầu Mỹ Chánh.

Ủy ban kháng chiến hành chính các tỉnh và huyện đã chỉ đạo lực lượng du kích, tự vệ xã, thôn bám địa bàn, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích vùng địch tạm chiếm, phá hoại các kho tàng, nhà máy, hầm mỏ, nhà cửa, cầu cống, gây cho chúng thiệt hại nặng nề về kinh tế và quân sự. Dọc tuyến quốc lộ từ Quảng Bình vào Huế, nhiều đoàn xe vận chuyển tiếp tế của địch thường xuyên bị phục kích.

Ở Quảng Bình, ngày 29-4, Đại đội 362 của tỉnh đã tiến công ở đồn Mỹ Trung. Trong các tháng 4 và 5-1951, các Đại đội 361, 365 của tỉnh đã đẩy mạnh tuyên truyền vũ trang, đánh thắng nhiều trận càn quét của địch. Trong vùng tạm bị chiếm, lực lượng vũ trang địa phương còn tích cực tham gia công tác phá tề và thực hiện chủ trương lợi dụng tề, củng cố các cơ sở mật và các tổ chức yêu nước công khai và bán công khai. Do biết dựa vào dân và vận động nhân dân cùng tham gia công tác dân vận, binh vận, địch vận nên ở tỉnh Quảng Bình phá được 33 ban hội tề, đồng thời xây dựng lại và củng cố cơ sở kháng chiến ở các vùng Gia Ninh, Sào Nam, Quang Trung, Võ Ninh.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Chính phủ, quân, dân Liên khu IV đã đẩy mạnh phong trào đấu tranh quân sự, kinh tế, phong trào đấu tranh chính trị, tiêu diệt, tiêu hao nhiều sinh lực địch, giữ vững vùng tự do, góp phần quan trọng cùng quân, dân cả nước thực hiện chủ trương đẩy mạnh mọi hoạt động chuẩn bị cho tổng phản công - tổng tiến công.


(1) Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr. 39.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #96 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2016, 08:14:16 pm »

Từ ngày 14 đến 21-5-1951, Hội nghị đại biểu Đảng bộ liên khu được triệu tập tại làng Hoa Quân, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vì ý nghĩa quan trọng, hội nghị đã được Trung ương chuẩn bị y như Đại hội đại biểu Đảng bộ liên khu lần thứ III. Tham dự Đại hội có 170 đại biểu của các đảng bộ tỉnh từ Thanh Hóa tới Bình - Trị - Thiên. Đại hội đã kiểm điểm tình hình hoạt động mọi mặt của liên khu, thảo luận và quyết định những nhiệm vụ quan trọng của quân và dân liên khu nhằm tăng cường lực lượng cách mạng; củng cố và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng bộ để đẩy mạnh phong trào kháng chiến.

Đại hội nhận định: Địch vẫn đang cố gắng giành lại thế chủ động từng phần một để tiến lên giành thế chủ động đã bị mất. Chúng ra sức bắt lính, tăng quân, thay đổi quy luật hoạt động, triệt để phát huy hiệu lực của các phương tiện chiến tranh để chống phá phong trào kháng chiến trên tất cả các lĩnh vực quân sự, kinh tế, chính trị... Chiến trường Bình - Trị - Thiên lại dài và hẹp, nếu địch chỉ cần tăng thêm khoảng hai tiểu đoàn là có tác động lớn đến tương quan lực lượng có lợi cho chúng. Trình độ chiến thuật của bộ đội tuy có tiến bộ, nhưng khả năng đánh công kiên, đánh giao thông và chống máy bay chưa đạt hiệu quả cao... Việc vận chuyển tiếp tế còn gặp nhiều khó khăn. Nếu không giải quyết được vấn đề tiếp tế, bộ đội Bình - Trị - Thiên rất dễ bị động. Cần phải chú ý đặc điểm thế trận cài răng lược, chà đi sát lại ở chiến trường và luôn luôn chủ động đối phó với địch để bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tạo nên sự chuyển tiến tình thế một cách tích cực hơn...

Trên cơ sở kiểm điểm, thảo luận, đánh giá các mặt hoạt động đấu tranh quân sự, chính trị, kinh tế, đại hội đã nêu lên 2 nhiệm vụ trọng tâm của liên khu:

- Tiếp tục xây dựng lực lượng quân sự, tích cực tiêu diệt sinh lực địch, đồng thời bảo toàn và bồi dưỡng lực lượng kháng chiến.

- Đẩy mạnh sản xuất, đặc biệt là sản xuất lương thực, bảo đảm cung cấp cho nhu cầu của tiền tuyến và cải thiện đời sống nhân dân.

Căn cứ vào đặc điểm của mỗi chiến trường trong liên khu, đại hội cũng nêu rõ nhiệm vụ cụ thể của từng chiến trường như sau:

Đối với Bình - Trị - Thiên:

- Củng cố và phát triển lực lượng, phối hợp với chiến trường chính tiêu diệt sinh lực địch. Phải nắm vững phương châm: “du kích chiến là chính, vận động chiến là phụ”, phát triển mạnh phong trào chiến tranh du kích, đồng thời học tập đánh vận động.

- Bảo vệ mùa màng, giữ vững cơ sở chính trị và bảo toàn lực lượng kháng chiến; cần phải nắm vững đặc điểm địa hình vùng Bình - Trị - Thiên là dài, hẹp và quy luật phát triển chiến trường phải tuân theo đặc điểm đó.

Nhiệm vụ của các tỉnh hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh là đẩy mạnh sản xuất, đặc biệt là sản xuất lương thực, bảo đảm nhu cầu của tiền tuyến và hậu phương, tăng cường sản xuất vũ khí; kiện toàn bộ máy chính quyền các cấp và các cơ quan, phải hết sức coi trọng chất lượng.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ liên khu mới. Đồng chí Hoàng Anh, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được bầu làm Bí thư Liên khu ủy; đồng chí Lê Viết Lượng làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu; đồng chí Lê Nam Thắng làm Tư lệnh; đồng chí Võ Thúc Đồng làm Chính ủy; đồng chí Chu Văn Biên làm Phó Bí thư Liên khu ủy và trực tiếp làm Bí thư Đảng ủy mặt trận Bình - Trị - Thiên. Mặt trận Bình - Trị - Thiên vẫn do Bộ Quốc phòng - Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ đạo. Sau đó, đồng chí Lê Viết Lượng được điều động lên Trung ương làm Tổng giám đốc Ngân hàng nhà nước, đồng chí Hoàng Anh làm Bí thư Liên Khu ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính. Tổ chức đảng ở liên khu IV chính thức ra hoạt động công khai.

Sau Đại hội Đảng bộ liên khu lần thứ III, các tỉnh đảng bộ từ Thanh Hóa tới Bình - Trị - Thiên đã lần lượt tiến hành tổ chức hội nghị đại biểu đảng bộ nhằm quán triệt tinh thần Nghị quyết của Đảng bộ liên khu về hai nhiệm vụ đấu tranh quân sự, binh vận, địch vận, vận động quần chúng vùng địch tạm chiếm và xây dựng hậu phương ở vùng tự do. Hai nhiệm vụ này phải gắn liền với nhau, trong đó nhiệm vụ phát triển sản xuất, bảo đảm đủ cung cấp cho nhu cầu kháng chiến và bồi dưỡng sức dân là nhiệm vụ quan trọng số một. Tất cả các nhiệm vụ khác đều phải hướng vào hai nhiệm vụ đó. Các đảng bộ còn nhấn mạnh những nhiệm vụ về công tác cán bộ, công tác xây dựng đảng trong tình hình mới theo Điều lệ, Chính cương của Đảng. Theo sự chỉ đạo của liên khu ủy, các đảng bộ Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên đã triển khai hai cuộc vận động học tập lý luận, đào tạo cán bộ và phê bình, tự phê bình để khắc phục một số biểu hiện của tư tưởng chủ quan, tự mãn hoặc sợ gian khổ và xa rời quần chúng; phát huy tinh thần xung phong để thực hiện kháng chiến trường kỳ đến thắng lợi cuối cùng.

Giữa năm 1951, theo Thông tư số 53-TTg của Chính phủ về thực hiện công tác giản chính trong các cơ quan, Liên khu ủy và các tỉnh ủy cũng tinh giản bộ máy, bố trí hợp lý hơn đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp để đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện của kháng chiến. Đến tháng 9-1951, toàn bộ máy hành chính của liên khu đã giảm 5.732 người. Bộ máy có gọn nhẹ hơn trước, song do phương pháp và cách thức tiến hành thiếu điều tra, nghiên cứu đầy đủ nên hiệu lực quản lý của bộ máy chưa cao.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #97 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2016, 08:14:52 pm »

Tháng 6-1951, sau khi cử phái viên đi thị sát chiến trường Liên khu IV, Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy đã chỉ thị: Liên khu IV có vị trí và vai trò rất quan trọng, một mặt phải đẩy mạnh tác chiến ở Bình - Trị - Thiên, tránh chủ quan khinh địch, chống tư tưởng “đánh lớn, ăn to” trong một số cán bộ chỉ huy; phải đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang địa phương để thay thế dần các trung đoàn chủ lực, tiến tới thành lập đại đoàn cơ động của liên khu trong đội hình các đại đoàn chủ lực của Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy. Mặt khác, liên khu phải tập trung sự nỗ lực cao nhất để xây dựng và bảo vệ vững chắc hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh, sẵn sàng chi viện sức người, sức của cho chiến trường chính Bắc Bộ, cho các chiến trường Bình - Trị - Thiên, Tây Bắc và Thượng Lào. Trên chiến trường Bắc Bộ, các chiến dịch lớn của quân ta đang mở rộng về phía nam. Do đó, nhiệm vụ làm hậu phương trực tiếp của các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh càng trở nên quan trọng.

Thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng, Chính phủ và Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy, trong đó có thông tư về công tác tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng cán bộ, Liên khu ủy đã vận dụng phương châm “tình binh, tinh cán”, triệt để giảm bớt sự cồng kềnh của bộ máy hành chính các cấp, hội đồng nhân dân các cấp và chính quyền cấp xã được củng cố lại, đặc biệt là các cơ quan tòa án, tư pháp và các ban dân sinh, kinh tế.

Các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương cùng tiến hành sửa đổi lề lối, tác phong làm việc; thực hiện cải tiến chế độ cung cấp, bảo đảm sinh hoạt cần thiết cho bộ đội. Thành lập các kho dự trữ lương thực ở các địa phương để tăng cường khả năng cung cấp nhanh nhất cho nhu cầu chiến trường.

Tính đến cuối năm 1951, tại Liên khu IV đã thực hiện giảm biên chế ở Bộ Chỉ huy mặt trận và Ban chỉ huy các tỉnh đội. Số cán bộ dôi ra được bổ sung cho các đơn vị trực tiếp tham gia chiến đấu. Các trung đoàn 9 và 103 ở Thanh - Nghệ - Tĩnh, các trung đoàn 18, 101, 95 ở Bình - Trị - Thiên cũng được củng cố, phát triển. Ngoài ra còn một số đơn vị binh chủng pháo binh, công binh trực thuộc Bộ Chỉ huy mặt trận.

Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh vừa tích cực xây dựng hậu phương, vừa đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang cả về số lượng và chất lượng, trang bị vũ khí. Hình thức tổ chức lực lượng vũ trang của các tỉnh có đủ “ba quân, sáu cấp” (dân quân, du kích của thôn xã, bộ đội địa phương của huyện, tỉnh, bộ đội chủ lực của tỉnh, liên khu). Công tác vận động tuyển quân đã thu hút hàng vạn thanh niên gia nhập lực lượng vũ trang chiến đấu.

Trang bị vũ khí, quân trang cho bội đội cũng dần dần khá hơn. Toàn liên khu đã tổ chức được 30 xưởng sản xuất, sửa chữa để cung cấp cho bộ đội đánh giặc với cả một hệ thống binh xưởng nhỏ và binh xưởng lớn của liên khu và Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy. Trước mắt là lo vũ khí cho các đơn vị trực tiếp chiến đấu, đồng thời phát huy truyền thống của bộ đội Bình - Trị - Thiên”lấy súng giặc, giết giặc”.

Công tác xây dựng lực lượng vũ trang được gắn liền với các đợt sinh hoạt chính trị tư tưởng và các lớp huấn luyện nâng cao kỹ thuật tác chiến cho bộ đội theo kịp với yêu cầu mới. Qua thử thách ác liệt của chiến tranh, tình đoàn kết “quân với dân như cá với nước” đã tạo nên sức mạnh to lớn cho bộ đội đang chiến đấu trên các mặt trận. Hình ảnh tốt đẹp về “anh bộ đội Cụ Hồ” đã khắc sâu, in đậm trong lòng dân và được nhân dân hết lòng tin yêu, đùm bọc.

Để chống lại thủ đoạn đánh phá mới của quân Pháp và tích cực chủ động tiến công tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, Bộ Chỉ huy mặt trận Bình - Trị - Thiên đã chỉ đạo thực hiện phương châm tác chiến là đánh nhỏ ăn chắc, nhằm vào nơi sơ hở nhất của địch, đánh quân ứng chiến là chính. Khi đánh xong phải phân tán về từng tỉnh cùng bộ đội địa phương hoạt động, tích cực đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích.

Qua chiến đấu với địch trong chống càn, phá càn, bảo vệ căn cứ du kích, nhiều địa phương đã chú trọng tới việc tổng kết phong trào chiến tranh du kích, tự rút ra những kinh nghiệm về tác chiến để nâng cao hiệu quả đánh địch, bảo vệ mùa màng; phổ biến kinh nghiệm xây dựng làng chiến đấu, tổ chức công tác dân công tiếp vận, việc tăng cường công tác phòng không bảo vệ, tránh địch đánh phá, v.v.

Trong đấu tranh bảo vệ hậu phương, Liên khu ủy cũng đặc biệt chú trọng việc chỉ đạo xây dựng, củng cố những cơ quan là công cụ sắc bén của chính quyền nhân dân như công an, tòa án, tư pháp, v.v. nhằm trấn áp phản cách mạng, bảo vệ hậu phương.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #98 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2016, 08:16:12 pm »

Tháng 6-1951, công an tỉnh Nghệ An đã khám phá và trừng trị những kẻ lưu hành bạc giả. Tháng 11-1951, được sự chỉ đạo của Liên khu ủy, công an tỉnh Nghệ An đã đấu tranh thắng lợi, đập tan tổ chức phản động lợi dụng đạo Thiên chúa để tuyên truyền bức thư của giám mục Douley có nội dung chống lại đường lối kháng chiến của Đảng và Chính phủ. Với tinh thần cảnh giác cao, lực lượng công an tỉnh đã dựa vào sự ủng hộ của nhân dân, vạch tội ác của những kẻ phan động, kịp thời làm thất bại mọi âm mưu bạo loạn từ bên trong của địch. Tình hình vụ bạo loạn ở Hưng Yên (Nghệ An) đã tạm yên, nhưng vấn đề tôn giáo trong liên khu vẫn diễn biến rất phức tạp. Tổ chức phản động trong công giáo tạm rút vào hoạt động bí mật, ngụy trang để chờ dịp nổi dậy.

 Để kịp thời đấu tranh vạch mặt những kẻ phản động, đồng thời tuyên truyền chính sách đoàn kết dân tộc, động viên đồng bào công giáo tham gia kháng chiến, Liên khu ủy đã tổ chức hội nghị kiểm điểm rút kinh nghiệm về công tác công giáo vận để nhân dân hiểu đúng và tin tưởng vào chính sách của Đảng và Chính phủ, kịp thời trừng trị các tổ chức phản động và truy bắt những kẻ còn lẩn trốn.

Ở các vùng thượng du Thanh - Nghệ - Tĩnh, lực lượng công an các tỉnh phối hợp với các đoàn công tác của liên khu đã tích cực xây dựng cơ sở chính trị trong quần chúng, vận động nhân dân vạch tội ác của các thổ ty, lang đạo theo Pháp, kịp thời phá tan các nhóm phản động Sầm Văn Châu, Sầm Văn Cương, Sầm Văn Viên ở Quỳ Châu, cảnh cáo nhiều thổ ty, lang đạo xấu ở Lang Chánh, Ngọc Trạo, Thường Xuân, Thành Cao, Yên Nhân, Quan Hóa, Bá Thước, v.v. Do đó đã giữ vững được chính quyền cách mạng, duy trì và phát triển phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân đòi các quyền dân sinh, dân chủ.

Trên cơ sở phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân, quân, dân Bình - Trị - Thiên đã tích cực tham gia phong trào “thi đua giết giặc lập công, thi đua sản xuất, đề cao chiến sĩ” do Trung ương Đảng và Chính phủ phát động.

Trong hai tháng 5 và 6-1951, hưởng ứng và phối hợp với chiến dịch Quang Trung đang diễn ra ở các tỉnh Hà - Nam - Ninh, quân, dân Quảng Trị và bắc Thừa Thiên đã liên tiếp phá 31 lô cốt, hai vị trí, tiêu diệt 408 quân địch.

Ở bắc Quảng Trị, Trung đoàn 95 bộ đội chủ lực của liên khu đã tập kích vào vị trí Ba Dốc nằm trên quốc lộ 1 thuộc huyện Gio Linh. Trận này đã giành thắng lợi lớn, tiêu diệt và bắt 41 quân địch, thu nhiều súng đạn các loại và chiến lợi phẩm trong đó có trên 20 tấn gạo. Số gạo đó đã bổ sung kịp thời cung cấp cho mặt trận.

Thắng lợi về quân sự của quân và dân bắc Quảng Trị đã góp phần đập tan hệ thống phòng thủ của địch từ Quán Hàu đến Hòa Luật, buộc địch phải phân tán lực lượng để đố phó với lực lượng kháng chiến ở khắp các huyện Phong Thu, Bố Trạch, Lệ Thủy, Quảng Ninh, v.v.

Như vậy, dự định của thực dân Pháp là sử dụng tối đa lực lượng vũ trang cùng với việc thiết lập hệ thống lô cốt, tháp canh dày đặc để tăng cường kiểm soát, bình định, lấn chiếm vùng căn cứ kháng chiến đã không thực hiện được. Trái lại, hậu phương của chúng luôn mất ổn định, lực lượng quân ứng chiến Âu - Phi và số binh sĩ người Việt vẫn bị kiềm chế, bị tiêu hao, tiêu diệt.

Mặc dù bị thua trên các mặt trận, thực dân Pháp vẫn ngoan cố nuôi hy vọng tiêu diệt bộ đội chủ lực của liên khu. Cuối tháng 7-1951, được tin Trung đoàn 101 của liên khu đang đứng chân ở bắc Mỹ Lợi, địch đã điều ba tiểu đoàn lính Âu - Phi và một tiểu đoàn binh sĩ người Việt với trang bị hỏa lực mạnh, được máy bay, pháo binh và canô yểm trợ do đại tá Sốckên chỉ huy tiến công vào Mỹ Lợi và Thanh Lam Bộ nhằm tiêu diệt gọn trung đoàn chủ lực này. Song, âm mưu của địch đã hoàn toàn bị thất bại. Nhờ bám sát trận địa, nắm chắc được ý đồ của địch, quân và dân Phú Vang đã phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực của liên khu, chiến đấu ngoan cường, lập công xuất sắc, đập tan trận càn chớp nhoáng của địch. Trong trận này, 950 quân địch bị tiêu diệt, 18 lính Âu - Phi bị bắt. Chiến công của quân, dân Bình - Trị - Thiên lại được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen: “Một lần nữa, Bác vui mừng và thân ái gửi lời khen ngợi cán bộ và chiến sĩ đã thắng trận ở Phú Vang”(1). Người căn dặn: “Chớ vì thắng lợi mà chủ quan khinh địch, phải luôn luôn cẩn thận và cố gắng để tranh thủ thắng lợi to lớn hơn nữa”(2).

Phối họp với chiến dịch Hòa Bình và tận dụng thời cơ thuận lợi, lực lượng vũ trang và quần chúng cách mạng Bình - Trị - Thiên tiếp tục phát triển thế chủ động tiến công tiêu diệt địch, mở rộng vùng giải phóng, củng cố thế đứng chân vững chắc, ngăn không cho địch đưa quân tiếp ứng chi viện cho các chiến trường khác. Từ cuối tháng 11-1951, bộ đội địa phương tỉnh Quảng Bình đã tiến công và phá vị trí Hoàn Lão. Phát huy thắng lợi đã giành được, bộ đội địa phương và dân quân, du kích các huyện Bố Trạch và Quảng Trạch liên tục tiến công tiêu diệt địch. Ngày 23-1-1952, bộ đội địa phương huyện Cam Lộ chỉ có một đại đội đã kết hợp với du kích xã Vĩnh Hoàng đánh lui trận càn quét lớn của ba tiểu đoàn, diệt 50 tên địch, phá hủy hai xe quân sự, bảo vệ được nhân dân và vùng du kích.


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chinh trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.285.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #99 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2016, 08:16:59 pm »

Tính đến hết năm 1951, quân, dân ta ở Bình - Trị - Thiên đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 7000 quân địch, phá 70 lô cốt và năm đồn. Số vũ khí, đạn dược thu được đủ để trang bị cho một trung đoàn. Như vậy là chỉ trong thời gian ngắn, cùng với chiến thắng trên mặt trận Hòa Bình, quân và dân Bình - Trị - Thiên đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm quân địch, phá hàng loạt lô cốt, tháp canh kiên cố. Địch buộc phải rút khỏi một vùng rộng lớn thuộc phía bắc tỉnh Quảng Bình. Bị tiến công và hao tổn binh lực, quân Pháp ngày càng trở nên bị động. Tuy chúng có rút đi được một tiểu đoàn ứng chiến Sénégal số 28 đưa ra ứng viện cho mặt trận Hòa Bình nhưng ngay sau đó, Bộ Chỉ huy Pháp lại phải điều động thêm một tiểu đoàn khác từ Bắc Bộ vào tăng cường cho chiến trường Bình - Trị - Thiên. Lực lượng địch tập trung tại Bình - Trị - Thiên đã lên tới 33.000 quân, gần gấp mười lần thời kì đầu chiến tranh. Đây là một thành tích to lớn của quân và dân Bình - Trị - Thiên trong việc thực hiện chủ trương của Trung ương làm nhiệm vụ thu hút và phân tán lực lượng địch.

Phối hợp với bộ đội chủ lực của liên khu, lực lượng vũ trang địa phương và dân quân, du kích vừa bám đất, vừa bám dân chống càn, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, canh gác bảo vệ cho dân thu hoạch nhanh lúa, hoa màu và vận chuyển, cất giấu kịp thời để tránh rơi vào tay địch. Vụ chiếm của Bình - Trị - Thiên đã được quân và dân bảo vệ có kết quả.

Trong những vùng ven và nội thành Huế, các cấp ủy đảng và các cơ quan quân sự địa phương chủ động chỉ đạo phát triển mạnh phong trào chiến tranh du kích trong vùng địch tạm chiếm, tích cực phá tề trừ gian, xây dựng làng chiến đấu, sẵn sàng chống địch càn quét.

Đồng thời với hoạt động vũ trang, nhiều cán bộ dân, chính, đảng các cấp đã được phái xuống các địa bàn, bám đất, bám dân, tham gia xây dựng cơ sở, vận động tổ chức quần chúng đấu tranh.

Nhân dân vùng ven cố đô Huế đã tích cực tham gia công tác binh vận, động viên, tập hợp hàng trăm gia đình kéo đi biểu tình chống bắt lính, chống đàn áp khủng bố, đòi chính quyền địch phải thực hiện các yêu cầu dân sinh, dân chủ. Liên tục trong hai tháng 9 và 10-1951, Thành ủy Huế đã lãnh đạo các tầng lớp nhân dân nội và ngoại thành đấu tranh chống các đạo dụ tổng động viên bắt lính của Bảo Đại. Cuộc đấu tranh bền bỉ của gần 2.000 đồng bào ở đồn Mang Cá đòi trả chồng con đang bị giam giữ trong các đồn binh đã giành được thắng lợi, địch phải thả hơn 1.000 thanh niên bị chúng giam giữ.

Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng cơ sở, công nhân trong các nhà máy đèn, sở bưu điện, nhân viên sở điện nước ở các thị xã và thành phố Huế đã biểu tình, bãi công đòi tăng lương, giảm giờ làm. Học sinh các trường Quốc học Huế, trường kỹ nghệ cùng chị em tiểu thương chợ Đông Ba đã bãi khóa, bãi thị, phản đối chính sách bắt lính trong học sinh, phản đối chính sách tăng thuế vô lý của chính quyền địch.

Nhân dân trong vùng địch tạm chiếm tích cực quyên góp tiền bạc, mua thốc men, vải, muốn, bí mật chuyển ra vùng căn cứ. Nhiều nhân sĩ, trí thức yêu nước có cảm tình với kháng chiến đã viết báo, ra tuyên bố đòi Pháp chấm dứt chiến tranh xâm lược, tố cáo đế quốc Mỹ tăng cường giúp Pháp mở rộng chiến tranh Đông Dương, vạch trần chính sách lừa bịp mị dân của chính quyền Bảo Đại.

Cuộc chiến đấu tiếp tục diễn ra quyết liệt. Thực dân Pháp củng cố lại thế phòng ngự, tiến hành bình định một cách tàn khốc hơn. Hầu như ngày nào, tuần nào cũng có các cuộc càn quét, cướp phá, khủng bố của địch. Có nhiều cơ quan, đơn vị bộ đội của liên khu và các tỉnh phải thường xuyên di chuyển địa điểm đóng quân để tránh bị địch phục kích bất ngờ. Nhiều tổ chức gián điệp, biệt kích do địch lập ra cung hoạt động chống lại kháng chiến ở mọi nơi, mọi lúc.

Vì vậy, để duy trì hoạt động của tổ chức đảng ngay trong lòng địch, Liên khu ủy đã chỉ thị cho các cơ quan đảng, chính quyền, mặt trận phải phân tán nhỏ, giữ bí mật tổ chức. Các chi bộ đảng phải nêu cao phương châm: bám đất, bám dân, bám phong trào; giữ vững mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và quần chúng. Đó là phương thức hoạt động có hiệu quả nhất để bảo tồn và phát triển lực lượng kháng chiến, giữ vững cơ sở để vận động quần chúng đẩy mạnh chiến tranh du kích toàn diện, chống kế hoạch “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của địch. Trong tổ chức đảng, Liên khu ủy đã chỉ đạo các địa phương khắc phục nhanh tình trạng đảng viên đông nhưng công tác quản lý chưa chặt chẽ, có kế hoạch phân công bố trí đảng viên trong từng chi bộ đảng, tăng cường củng cố hệ thống tổ chức cơ sở đảng các cấp và trong quân đội.

Thực hiện chỉ thị của Liên khu ủy, hầu hết ở những nơi bị địch bình định lấn chiếm, các cấp ủy đều phân công cán bộ, đảng viên đi xuống địa bàn, nằm hầm bí mật, sống chung với nhân dân để móc nối cơ sở, phục hồi phong trào ở vùng tạm chiếm. Nhiều cán bộ, đảng viên đã nêu tấm gương sáng về tinh thần đấu tranh bất khuất, không ngại nguy hiểm trước sự rình rập, khủng bố của địch để giữ vưng phong trào. Nhân dân được cán bộ, đảng viên hướng dẫn để tận dụng mọi hình thức công khai, bán công khai, hợp pháp để trực diện đấu tranh hằng ngày với địch chống đàn áp, cướp bóc, hãm hiếp, bảo vệ các quyền dân sinh, dân chủ.

Nhờ sự bền bỉ đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, phong trào đã dần dần được khôi phục trở lại. Trong hoàn cảnh bị địch đánh phá ác liệt, cuộc sống vật chất và tinh thần thiếu thốn, căng thẳng, nhưng cán bộ, đảng viên và lực lượng vũ trang đã được nhân dân các tỉnh Bình - Trị - Thiên hết lòng đùm bọc, che chở. Nhiều cán bộ, đảng viên đã kiên cường bám trụ. Đó là những hạt nhân nòng cốt của phong trào kháng chiến trong vòng vây của địch.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM