Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 09:14:52 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954  (Đọc 55481 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #60 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2015, 08:23:52 pm »

Không diệt được cơ quan đầu não, đồng thời bị đánh đau, quân Pháp phải rút lui. Nắm vững thời cơ, lúc đối phương mệt mỏi, Đại đội trợ chiến và cảnh vệ do Trung đoàn phó Phùng Thế Bằng chỉ huy, chặn đánh địch trên đoạn sông từ Bỏng đến Chủ Cá, Bãi Dài, Khe Trái, bắn chìm 40 đò, một canô, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch.

Phối hợp với cuộc chiến đấu ở chiến khu, bộ đội chủ lực và dân quân, du kích Bình - Trị - Thiên hoạt động ráo riết khắp nơi, diệt nhiều toán địch đi lùng sục, phục kích, đánh giao thông, quấy rối các vị trí, đẩy mạnh vũ trang tuyên truyền, hỗ trợ nhân dân phá tề, trừ gian, làm rối loạn hậu phương địch, tiêu diệt hơn 300 tên, làm bị thương 150 tên.

Thắng lợi trên đây càng khẳng định vai trò hết sức quan trọng của lực lượng vũ trang địa phương, đồng thời chứng tỏ bước trưởng thành trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của phân khu và trình độ phối hợp tác chiến của các lực lượng vũ trang trên địa bàn Bình - Trị - Thiên.

Đầu tháng 12-1948, thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị tiến công Troóc nhằm cắt đường giao thông liên lạc duy nhất của ta từ Thanh - Nghệ - Tĩnh vào Bình - Trị - Thiên và Trung Lào. Làng Troóc là một căn cứ kháng chiến của tỉnh Quảng Bình, nằm giữa một thung lũng hẹp ở tây bắc tỉnh. Trên tuyến giao thông liên lạc Bắc - Nam, nên đã trở thành một “quyết chiến điểm” giữa ta và địch trong nhiều năm.

Sáng ngày 10-12-1948, địch sử dụng 200 tên có không quân, pháo binh yểm hộ chia thành hai mũi đánh chiếm Troóc. Đề phòng ta đánh trả, địch bắt hàng trăm đồng bào đi trước đội hình tiến công để làm bia đỡ đạn cho chúng. Dân quân, du kích dùng vũ khí thô sơ tự tạo dũng cảm chiến đấu, diệt 25 tên, trong đó có 13 tên Pháp.

Sau khi chiếm Troóc, với ý định chốt giữ lâu dài, địch gấp rút sửa chữa tỉnh lộ số 2, bắc cầu qua sông Xuân Sơn, nhanh chóng xây dựng sân bay dã chiến, công sự kiên cố, trận địa cố thủ, gây cho ta nhiều khó khăn trong việc vận chuyển tiếp tế và thông tin liên lạc từ vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh vào vùng bị tạm chiếm Bình - Trị - Thiên.

Từ ngày 18 đến ngày 23 tháng 12-1948 Liên khu ủy họp hộ nghị mở rộng, thông qua kế hoạch phát triển mạnh mẽ lực lượng dân quân, chủ trương xây dựng dân quân thành lực lượng chiến lược. Liên khu ủy nhận định: “khuyết điểm gốc rễ khiến cho dân quân tiến chậm là quan niệm chiến tranh nhân dân chưa được ăn sâu trong chính quyền, Đảng, quân đội”. Liên khu ủy quyết định: “chính quyền, Đảng, quân đội phải đặt vấn đề dân quân thành một vấn đề quan trọng trong kế hoạch công việc của mình”.

Về xây dựng đảng, hội nghị cho rằng phong trào Liên khu IV vẫn trầm trầm không tiến mạnh lên được, không phải vì nhân dân trên địa bàn thiếu tinh thần cách mạng, không phải điều kiện tự nhiên, kinh tế của liên khu khó khăn hơn nơi khác, cũng không phải vì lực lượng địch quá mạnh, mà chủ yếu là chưa làm tốt công tác cán bộ. Nhiều cán bộ đang giữ các cương vị lãnh đạo, chỉ đạo chủ chốt, tuy kiên cường, dũng cảm, tận tụy hy sinh nhưng trình độ không theo kịp sự phát triển của tình hình mới, đang trở thành lực cản của phong trào. Những cán bộ mới, trẻ, có kiến thức và có năng lực không được chú ý đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đề bạt…

Để thực hiện tốt ba nhiệm vụ trung tâm về xây dựng đảng (phát triển và củng cố đảng, đào tạo cán bộ, củng cố giao thông liên lạc) mà Hội nghị Trung ương mở rộng đã đề ra, Hội nghị Liên khu ủy quyết định:

- Tích cực gây cơ sở đảng trong vùng địch kiểm soát, những nơi xung yếu, những nơi quan trọng, các xí nghiệp, các đường giao thông, xung quanh vị trí địch, khắp các xã thôn.

- Tích cực phát triển đảng trong các tầng lớp trung kiên, chú ý phụ nữ, trí thức.

- Thi đua xây dựng chi bộ tự động công tác.

- Làm tốt công tác cán bộ: mạnh dạn đề bạt cán bộ mới, trẻ, có năng lực, có triển vọng; kiên quyết đưa nhiều cán bộ cũ đi bồi dưỡng; trao đổi cán bộ giữa hai vùng, giữa các tỉnh trong liên khu với Khu III; tăng cường cán bộ cho Bình - Trị - Thiên; lập đội dự bị sẵn sàng thay thế cho cán bộ đương nhiệm được điều động đi nhận công tác khác.

Nghị quyết của Hội nghị Liên khu ủy có ý nghĩa rất quan trọng trong việc làm chuyển biến phong trào kháng chiến ở Bình - Trị - Thiên cũng như Thanh - Nghệ - Tĩnh các năm tiếp theo.

Hội nghị Liên khu ủy mở rộng cũng phân tích ý đồ của quân Pháp và hậu quả nghiêm trọng do cuộc tiến công làng Troóc của chúng gây ra; quyết nghị tổ chức đánh bật địch ra khỏi Troóc, khai thông đường liên lạc Bắc - Nam.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #61 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2015, 08:25:04 pm »

Ngày 25-12-1948, hai đại đội của Trung đoàn 103 phối hợp cùng dân quân, du kích tiến công vị trí Troóc, tiêu diệt 18 tên Pháp và lê dương. Nhưng do lực lượng địch đông, lại có hệ thống công sự vững chắc, bộ đội ta còn thiếu các loại vũ khí, trình độ và kinh nghiệm công kiên chiến thấp, nên chưa thanh toán được vị trí này.

Trước bước tiến mới của phong trào chiến tranh nhân dân ở Bình - Trị - Thiên, nhất là về phá tề, trừ gian và hoạt động quân sự sâu trong vùng bị tạm chiếm, thực dân Pháp không những không tiến được bước nào trong việc thực hiện chiết thuật “vết dầu loang”, mà còn phải thay đổi kế hoạch để đối phó với phong trào kháng chiến. Chúng rút bỏ 67 vị trí nhỏ lẻ, ít quan trọng trong tổng số 194 vị trí chiếm đóng, để đề phòng quân ta tiến công tiêu diệt, làm cho phạm vi kiểm soát của quân Pháp bị thu hẹp, vùng du kích được mở rộng. Chúng tổ chức các đội ứng chiến chi viện cho các đồn khi bị tiến công và ra lệnh cho các đồn chỉ được tiếp viện cho nhau khi có lệnh, không đi lùng sục lẻ tẻ. Chúng phát triển màng lưới gián điệp để nắm bắt tình hình ta và tăng cường càn quét để bảo vệ các vùng kiểm soát, nhất là các đô thị, các trục đường giao thông quan trọng.

Cũng như trên phạm vi cả nước, năm 1948, quân, dân Bình - Trị - Thiên đã làm thất bại một bước âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt của địch”, “Biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta, đó là thành công lớn của ta trong năm 1948. Không “bình định” được vùng kiểm soát, đó là thất bại lớn nhất của địch trong năm nay”(1).

Để đối phó với chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích, từ năm 1949, thực dân Pháp tăng cường thực hiện chiến lược chiến tranh tổng lực, sử dụng những thủ đoạn chính trị, quân sự xảo quyệt.

Về chính trị, tháng 3-1949, Hiệp ước Êlydê (Élysé) được ký kết giữa thực dân Pháp với Bảo Đại, trao trả nền “độc lập” cho nước Việt Nam. Chính phủ bù nhìn trung ương được thành lập do Bảo Đại làm “quốc trưởng” kiêm Tổng tư lệnh quân đội, Nguyễn Văn Xuân làm “Thủ tướng” kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Với hiệp ước này thực dân Pháp tiến thêm một bước trong việc thực hiện âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”. Ở cơ sở, địch ra sức xây dựng và củng cố hội tề làm công cụ kìm kẹp và bóc lột dân chúng.

Về quân sự, ngày 13-5-1949, Đại tướng Rơve (Revers), Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp cầm đầu một phái đoàn sang Đông Dương. Sau hơn một tháng nghiên cứu tình hình, kế hoạch Rơve được rạch ra, nội dung cơ bản là: tăng cường xây dựng quân ngụy, dùng quân ngụy làm nhiệm vụ chiếm đóng; tập trung quân Âu - Phi để xây dựng lực lượng cơ động làm nhiệm vụ càn quét đánh phá phong trào chiến tranh du kích của ta, đồng thời mở các cuộc tiến công lớn tiêu diệt chủ lực ta, hòng làm đảo ngược tình thế có lợi cho chúng. Rơve chủ trương củng cố và đề cao ngụy quyền làm công cụ vơ vét sức người, sức của phục vụ chiến tranh xâm lược.

Từ tháng 6-1949, địch khẩn trương triển khai kế hoạch Rơve. Tại Bình - Trị - Thiên, chúng đưa tướng Lôriốt thay cho Lebris chỉ huy Trung phần Việt Nam; thay đổi một số thủ đoạn chiến thuật: rút bớt các đồn miền núi, tập trung lực lượng phòng thủ thị xã, vùng đồng bằng đông dân và các trục giao thông chính; ráo riết thực hiện chiến thuật lô cốt, tháp canh kết hợp với đội ứng chiến mạnh; tăng cường lực lượng Bảo vệ quân, tổ chức lực lượng đặc biệt ác ôn (như đại đội “áo đen”) do tên phản bội Quản Hậu chỉ huy làm nhiệm vụ càn quét, tàn sát, cướp bóc dân chúng; chú trọng củng cố, đề cao ngụy quyền, tích cực tuyên truyền cho chính phủ bù nhìn Bảo Đại, tăng cường các thủ đoạn chính trị, nhằm gây ảnh hưởng và chuẩn bị một khu vực an toàn để đón “quốc trưởng” Bảo Đại về Huế.

Đông - xuân 1948-1949, cuộc kháng chiến của quân dân Việt Nam phát triển mạnh. Tháng 1-1949, Trung ương Đảng đề ra chủ trương “Tích cực cầm cự chuẩn bị tổng phản công” với nhiều biện pháp cụ thể về quân sự, chính trị, xây dựng đảng. Liên khu ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính và Bộ chỉ huy quân sự Liên khu IV mở Hội nghị cán bộ toàn liên khu để quán triệt và chỉ đạo việc tổ chức thực hiện các chủ trương mới của Trung ương, Bộ tổng Tư lệnh và Nghị quyết Hội nghị Liên khu ủy tháng 12-1948. Trên cơ sở những tiến bộ đạt được trong năm 1948, các đảng bộ và quân dân Bình - Trị - Thiên kiên trì đẩy mạnh cuộc kháng chiến.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. , tr.76.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #62 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2015, 08:25:36 pm »

Đầu năm 1949, thực dân Pháp tổ chức những đợt vận chuyển lớn tiếp tế vũ khí, lương thực cho Quảng Trị, Quảng Bình và Trung Lào. Bộ chỉ huy Phân khu chủ trương tổ chức những trận đánh giao thông nhằm phá kế hoạch chuẩn bị của địch, lấy vũ khí trang bị cho các đơn vị, cổ vũ các đại đội độc lập và lực lượng vũ trang địa phương đẩy mạnh tác chiến, tạo ra bước phát triển mới trong phong trào chiến tranh du kích toàn phân khu.

Thực hiện phương châm đánh du kích, đánh địch dọc đường giao thông…, Trung đoàn 101 chọn Hói Mít làm điểm tiến công đoàn tàu địch. Đây là vị trí nằm trên tuyến đường sắt Đà Nẵng - Huế, cách ga Lăng Cô 2 km về phía bắc, kẹp giữa đầm An Cư, đường số 1 và dải rừng núi ở tây - tây nam. Ta có lợi thế về địa hình phục kích, nhưng địch lại có lợi thế về cơ động lực lượng.

Sáng ngày 12-1-1949, đoàn tàu chở vũ khí của địch có bộ binh và cơ giới yểm hộ lọt vào trận địa phục kích đặt sẵn mìn của ta. Mìn nổ, Trung đoàn trưởng Trần Sâm chỉ huy bộ đội dũng mạnh xông thẳng ra mặt đường tiến công đoàn tàu, dùng hỏa lực bắn mạnh vào toa chỉ huy, nhanh chóng đánh chiếm cả đoàn tàu. Một bộ phận khác dũng cảm xung phong đánh giáp lá cà với bọn địch đi hộ tống trên đường số 1. Sau hơn một giờ chiến đấu, ta đã tiêu diệt và bắt gọn 300 tên địch; thu 10 trung liên, 30 tiểu liên, 180 súng trường, phá hủy hàng ngàn súng máy, trên 80 tấn đạn các loại, toàn bộ đầu máy và 17 toa xe, trong đó có bốn toa chở đầy đạn. Địch phản ứng mau lẹ, điều quân ứng chiến liên tỉnh từ Đà Nẵng và Huế đến tiếp viện. Một bộ phận bộ đội ta bị địch vây kín, ẩn giấu trong các rừng cây, dưới tầm pháo địch, nhưng được sự giúp đỡ của du kích và nhân dân đã luồn sát nách địch, thoát vây, trở về chiến khu Phú Lộc an toàn.

Chiến thắng Hói Mít là một trận phúc kích tiêu diệt gọn, phá được kế hoạch tiến công của địch trong giai đoạn chuẩn bị. Tên Phó tư lệnh Trung phần Đờ Larốc (De Laroque) cấp tốc chỉ thị cho binh sĩ “phải tiết kiệm đạn được và vũ khí”, làm cho mật độ sử dụng hỏa lực của địch giảm rõ rệt. Chiến thắng này có sức cổ vũ mạnh mẽ toàn liên khu, tạo điều kiện cho quân dân Bình - Trị - Thiên và Trung Lào đánh thắng nhiều trận mới.

Trước thất bại trong những ngày đầu năm, địch tập trung lực lượng mở những cuộc càn dài ngày ở cả vùng đồng bằng và chiến khu rừng núi.

Từ 17-1 đến 24-2-1949, chúng huy động 500 quân, rồi 2.000 quân, có máy bay, tàu chiến yểm hộ càn các huyện Phong Điền, Quảng Điều, Phú Vang (Thừa Thiên), Hải Lăng, Triệu Phong (Quảng Trị).

Từ 25-2 đến 14-3-1949, chúng tung 2.000 quân, có máy bay yểm trợ mở cuộc càn lớn lên chiến khu của tỉnh Thừa Thiên hòng tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của Phân khu và gây ảnh hưởng cho chính phủ bù nhìn do Bảo Đại làm “Quốc trưởng”. Lực lượng địch chia thành ba mũi: một mũi từ Động Truồi lên Khe Su, Ly Hy, rồi theo đường 14 lên Khe Tro; một mũi từ Tuần theo sông Hữu Trạch tiến vào Bình Điền; một mũi từ Gia Lễ tiến lên Dương Hòa, Lương Miêu, án ngữ phía trước chiến khu.

Trước âm mưu, thủ đoạn càn quét của địch, các cơ quan và nhân dân sơ tán, các lực lượng vũ trang đánh địch rộng khắp trên toàn phân khu.

Các đại đội độc lập của Trung đoàn 101 phối hợp với quân dân Thừa Thiên đánh dịch đều khắp. Tiểu đoàn 319 bí mật luồn về vùng đồng bằng, dùng vận động chiến đánh địch ở Văn Trì (11-3-1949) làm cho chúng bị bất ngờ, lúng túng. Đại đội 1 dân quân tỉnh Thừa Thiên độc lập tác chiến, kết hợp tiến công quân sự với địch vận diệt gọn đồn Vân Trình (18-3-1949), thu 41 súng, hơn một vạn viên đạn các loại, từ trang bị cho mình và các đơn vị dân quân, du kích địa phương.

Suốt 20 ngày đêm phối hợp chiến đấu, các lực lượng vũ trang phân khu đã bảo vệ được chiến khu Thừa Thiên, làm thất bại âm mưu của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 350 tên, trong đó có một quan tư, một quan ba, một quan hai.

Nhằm biến hậu phương an toàn của địch thành tiền phương của ta, đêm 29-3-1949, các tiểu đoàn 302 và 310 (Trung đoàn 95) kỳ tập thị xã Đông Hà (căn cứ hậu cần của địch tiếp tế cho Quảng Trị, Quảng Bình, Trung Lào). Trong thời gian này, một đơn vị của Trung đoàn 95 cũng đã tiến công vào vị trú của địch ở Đầu Mầu trên đường số 9, tiêu diệt 54 tên, phá hủy hai xe bọc thép. Tuy không đạt được mục tiêu đã đề ra về tiêu diệt nhiều sinh lực và phá hủy nặng căn cứ hậu cần của địch, nhưng hành động táo bạo của quân ta đã làm địch hoang mang lo sợ, nhất là ngụy quân, ngụy quyền và cổ vũ mạnh mẽ tinh thần kháng chiến của nhân dân trong các độ thị.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #63 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2015, 08:26:02 pm »

Bộ chỉ huy quân Pháp ở Trung phần Việt Nam ra lệnh tăng cường các biện pháp kiểm soát và phòng thủ các thành phố, thị xã, cùng lúc rút 14 đồn lẻ: Đá Đen (Bố Trạch), Thế Chi Đông, Lãnh Thủy, Đại Hộc (Quảng Điền), Chợ Phiên (Cam Lộ), Văn Cự (Hương Trà), Mỹ Lợi, Phú An (Phú Lộc), Quảng Xuyên (Phú Vang)… và đưa thêm quân từ các nơi về tăng cường cho các thành phố, thị xã và các vị trí quan trọng. Chúng ra sức xây dựng hệ thống lô cốt, tháp canh; tích cực tuyển mộ ngụy binh, phát triển hương vệ làm lực lượng chiếm đóng; đôn quân thành lập các đội ứng chiến mạnh và đưa một số tiểu đoàn quân ứng chiến Âu - Phi từ Đà Nẵng và nơi khác tới để tăng cường hoạt động càn quét vùng tạm bị chiếm, nhằm bảo vệ các thành phố, thị xã, các trục đường giao thông, các vùng đồng bằng phì nhiêu, đông dân; ra sức cướp phá mùa màng; phá hoại cơ sở kháng chiến. Mặt khác, chúng còn sử dụng các thủ đoạn lừa bịp, lôi kéo, chia rẽ nhân, củng cố ngụy quyền, đề cao chính sách quốc gia giả hiệu và gây thanh thế cho Chính phủ Bảo Đại.

Ngày 28-3-1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị vạch mặt bọn bán nước Bảo Đại. Liên khu ủy IV có các chỉ thị “tích cực chống chiến tranh cướp phá mùa của địch” và “triệt để diệt tề, vạch mặt bọn bán nước, phá ảnh hưởng của bù nhìn Bảo Đại”.

Thực hiện kế hoạch Rơve, sau một thời gian chuẩn bị, giữa tháng 6-1949, địch liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân càn quét vào đồng bằng Bố Trạch, Quảng Trạch, chiến khu Quảng Trạch, Quảng Bình) nhằm giữ chân chủ lực ta ở Hà Tĩnh, Quảng Bình, tạo thành một hành lang bảo vệ an toàn thành phố Huế từ xa. Chúng còn điều thêm lực lượng từ Nam Bộ, Đà Nẵng ra bảo vệ Huế. Tại hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị, địch tăng cường các thủ đoạn chính trị lừa bịp xoa dịu lòng dân, tạo ra một không khí hòa bình giả tạo để gây thanh thế cho Bảo Đại.

Tháng 5-1949, Hội nghị Quân chính liên khu quyết định đưa cuộc chiến tranh nhân dân ở Bình - Trị - Thiên lên một bước mới, phát triển lực lượng dân quân, du kích, xây dựng bộ đội địa phương tỉnh, huyện, tập trung các đại đội độc lập về xây dựng các tiểu đoàn tập trung trong đội hình chiến đấu các trung đoàn chủ lực.

Thực hiện các chủ trương trên, trong mùa hè 1948, quân, dân Bình - Trị - Thiên mở đợt hoạt động ở cả miền núi, đồng bằng, đô thị nhằm làm thất bại âm mưu cướp mùa và ý đồ chính trị của địch.

Ngày 6-6-1949, quân, dân Hải Lăng (Quảng Trị) đã đánh tan một trung đội địch bảo vệ cuộc biểu tình ủng hộ Bảo Đại do địch tổ chức và một tiểu đoàn địch đến tiếp viện, biến cuộc biểu tình ấy thành cuộc biểu tình của quần chúng ủng hộ chính quyền kháng chiến, đả đảo Bảo Đại.

Ngày 25-6-1949, Tiểu đoàn 319 cùng các đại đội độc lập cường tập đồn Lương Vân. Ngày 12-7-1949, đúng vào lúc Bảo Đại đến Huế, mặc dù địch ra sức canh phòng nghiêm ngặt, đội biệt động thành phố phối hợp với dân quân và công an quấy rối thành phố Huế. Ngày 14-7-1949, Đại đội biệt động 123 phục kích một toán lính Marốc đi lùng sục, đồng thời bắn súng cối vào hoàng cung.

Công tác vận động nhân dân vùng tạm bị chiếm, kể cả người trong hoàng tộc, cô lập Bảo Đại đạt kết quả tốt. Cụ Ưng Úy, một người trong hoàng tộc có tiếng tăm, bỏ thành phố ra vùng tự do tham gia kháng chiến. Việc thực dân Pháp đưa Bảo Đại về Huế đã không gây được ảnh hưởng chính trị trong nhân dân.

Công cuộc phá tề được tiến hành triệt để, nhiều tên ác ôn bị trừng trị, Khác với trước, nhiều nơi ngụy quyền bị phá, một thời gian lâu chúng vẫn không lập lại được. Nhiều người trong ngụy quyền bắt liên lạc với kháng chiến để phòng thân về sau.

Quân, dân các tỉnh hăng hái thi đua đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tích cực chống địch bảo vệ mùa màng, cất giấu lương thực, tài sản để giải quyết vấn đề tự cung, tự cấp và đóng góp cho kháng chiến.

Đại hội đại biểu lần thứ hai của Đảng bộ liên khu (7-1949) đã tổng kết việc thực hiện nhiệm vụ tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công về các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa và xây dựng đảng. Đại hội đánh giá cao sự cố gắng vươn lên và những thành quả của quân dân Bình - Trị - Thiên, nhất là ở Quảng Trị, Thừa Thiên, đồng thời nêu rõ nhược điểm: nặng về cầm cự, nhẹ về chuẩn bị tổng phản công; lực lượng dân quân, du kích phát triển rộng nhưng trang bị vũ khí quá thiếu; trình độ của bộ đội, của cán bộ lãnh đạo, chỉ huy chưa theo kịp với đòi hỏi của tình hình mới; cơ sở chính trị và phong trào quần chúng ở đô thị và các vùng tạm chiếm sâu chưa vững…; ta mạnh lên, địch bị suy yếu, nhưng địch vẫn nằm thế chủ động chiến trường.

Đại hội đề ra nhiệm vụ cụ thẻ nhằm “gấp rút chuẩn bị tổng phản công” trong toàn liên khu. Đại hội bầu Liên khu ủy mới do đồng chí Chu Văn Biên làm Bí thư. Một số cán bộ trẻ mới trưởng thành sau Cách mạng Tháng Tám vừa được cử giữ chức vụ Bí thư tỉnh ủy trong các đại hội đại biểu đảng bộ các tỉnh đầu 1949 được bầu vào Liên khu ủy.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #64 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2015, 08:26:32 pm »

Sau Đại hội đại biểu lần thứ hai Đảng bộ liên khu, phong trào “rèn cán, chỉnh quân” được phát động rộng rãi; cán bộ lãnh đạo và chỉ huy Phân khu Bình - Trị - Thiên và Trung Lào được bố trí lại. Căn cứ vào yêu cầu của chiến trường, ngày 26-10-1949, Bộ Tổng tư lệnh ra quyết định thành lập “Mặt trận Bình Trị Thiên - Trung Lào” do đồng chí Hà Văn Lâu làm Tư lệnh trưởng, đồng chí Trần Quý Hai làm Chính ủy nhằm thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh hoạt động quân sự, tập trung ở hướng chiến lược đường 9 - miền Trung Đông Dương, dùng chủ lực tác chiến để phối hợp với chiến trường chính Bắc Bộ.

Phong trào chiến tranh nhân dân ở Bình - Trị - Thiên tiếp tục phát triển mạnh hơn.

Quán triệt tư tưởng chỉ đạo tác chiến của Bộ Tổng tư lệnh và Nghị quyết của Liên khu ủy: “Tranh thủ chủ động tửng trận đánh; mạnh bạo đẩy mạnh vận động chiến tiến tới”, Phân khu ủy và Bộ chỉ huy Phân khu Bình - Trị - Thiên mở hai đợt tác chiến tập trung, do đồng chí Trần Văn Quang làm chỉ huy trưởng, đồng chí Lê Nam Thắng làm chỉ huy phó và đồng chí Lê Tùng làm tham mưu trưởng.

Giữa tháng 7-1949, Phân khu mở đợt tác chiến thứ nhất (gọi tắt là kế hoạch ABC), tại khu vực đường số 9 và tây Hướng Hóa nhằm gây dựng cơ sở, tạo bàn đạp cho Tiểu đoàn 384 phát triển lên hướng bắc đường số 9 - Trung Lào. Lực lượng tham gia gồm Tiểu đoàn 436, 302. Tiểu đoàn 227 (Trung đoàn 95). Ngày 18-7-1949), tại làng Miệt, Tiểu đoàn 302 đánh trận mở đầu, diệt một trung đội địch từ Khe Sanh đi tiếp tế cho đồn Nguồn Rào, tiếp đó tiến công vị trí Nguồn Rào và phục kích đánh địch tiếp viện tại kilômét 46, diệt hơn một trung đội, phá hủy ba xe, nhưng không diệt được đồn.

Cuối tháng 8-1949, ta vây Khe Sanh, Lao Bảo và phục kích tiêu diệt gọn địch ở Nguồn Rào, khu vực bắc huyện Hướng Hóa được hoàn toàn giải phóng.

Tại Quảng Bình, đầu tháng 8-1949, Trung đoàn 18 liên tục tiến công địch tại Lệ Kỳ (Quảng Ninh) và Hòa Duyệt (Bố Trạch). Trước áp lực quân sự của ta, địch phải rút nhiều đồn lẻ như Mỹ Đức (Lệ Thủy), Trần Xá, Xuân Duy (Quảng Ninh), Đá Bạc (thị xã Đông Hà).

Trước thất bại thảm bại này, tỉnh trưởng Quảng Bình Nguyễn Khoa Nghi báo cáo lên tổng Trung phần Việt Nam: Sự hoạt động của Việt Minh ngày càng ráo riết. Ở các thôn quê, hương lý bị bắt, mộc triện bị thu, các tổng xã mất liên lạc, không có người làm việc cho chính phủ. Phủ, huyện làm việc trong tình trạng cô lập.

Cùng thời gian trên, Tiểu đoàn 227 và Tiểu đoàn 364 bí mật cơ động về đồng bằng Triệu Phong, Hải Lăng, Phong Điều, Quảng Điền, phối hợp với Tiểu đoàn 310 (Trung đoàn 95) mở đợt tác chiến thứ hai (gọi tắt là kế hoạch GMC) nhằm tiêu diệt đội ứng chiến của địch đi càn quét và rèn luyện khả năng tác chiến của các tiểu đoàn.

Ngày 18-8-1949, tiểu đoàn ứng chiến Bắc Phi cùng hai đại đội Việt binh đoàn với sáu xe bọc thép lội nước, do thiếu tá Depointer chỉ huy càn quét khu vực Mỹ Chánh, Mỹ Xuyên, Ưu Điềm (Phong Điền). Tại Mỹ Xuyên, dưới sự chỉ huy của Trung đoàn phó Lê Bá Vận, Tiểu đoàn 227 (đơn vị chủ công) phối hợp chặt chẽ với Tiểu đoàn 311 và Tiểu đoàn 364, Đại đội địa phương Phong Điền và dân quân vừa chống càn, vừa vận động phục kích chặn đánh các cánh quân của địch trên một địa hình trống trải. Sau hơn một giờ chiến đấu, ta diệt gọn một đại đội, đánh tan hai đại đội, bắt sống thiếu tá Depointer, Tiểu đoàn trưởng kiêm phân khu trưởng Phân khu Bắc Thừa Thiên, phá hủy ba xe lội nước, thu một súng cối, ba trung liên, một trọng liên 12,7mm và hơn 40 súng các loại, đập tan cuộc càn quét của địch. Đây là lần đầu tiên trung đoàn 95 sử dụng cả ba tiểu đoàn vận động tác chiến và cũng là lần đầu tiên quân ta tiêu diệt được xe bọc thép lội nước, một phương tiện chiến tranh hiện đại mà địch vừa đưa vào sử dụng trên địa bàn đồng bằng Bình - Trị - Thiên.

Chiến thắng Mỹ Xuyên đánh dấu bước trưởng thành của bộ đội và năng lực chỉ huy của cán bộ, mở ra triển vọng mới về tác chiến tập trung, đẩy mạnh vận động chiến của bộ đội chủ lực ta trên chiến trường Bình - Trị - Thiên.

Ở Quảng bình, đầu tháng 8-1949, Trung đoàn 18 liên tiếp tiến công địch ở Lệ Kỳ (Quảng Ninh), Hòa Duyệt (Bố Trạch). Trước áp lực của ta, địch buộc phải rút bốn đồn lẻ ở Lệ Thủy, Quảng Ninh, thị xã Đồng Hới; vùng giải phóng của ta ở nam Quảng Bình được mở rộng thêm.

Tháng 8-1949, quân, dân Bình - Trị - Thiên nổi dậy phá tề trên nhiều vùng rộng lớn; giải tán 698 trong tổng số 710 ban hội tề; cảnh cáo bọn tay sai, trừng trị một số tên ác ôn, 95% hội tề ở Trị - Thiên bị phá, số còn lại phải lẩn trốn vào đồn binh. Việc phá chính quyền địch đi đôi với xây dựng chính quyền kháng chiến. Ba tỉnh tổ chức bầu cử Hội đồng nhân dân xã. Nhân dân hồ hởi, phấn khởi đi bỏ phiếu. Những nơi xa đồn địch, có xã 100% cử tri đi bỏ phiếu (tiêu biểu là Phú Lộc). Hàng ngàn đồng bào ở vùng bị tạm chiếm bí mật ra vùng tự do tham gia bầu cử. Đây là một thắng lợi lớn, biểu thị trình độ giác ngộ chính trị của quần chúng nhân dân.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #65 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2015, 08:27:20 pm »

Tháng 11-1949, Trung ương Đảng và Bộ Tổng tư lệnh chủ trương mở chiến dịch Lê Lợi nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, phá thế kìm kẹp của địch ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, khai thông liên lạc giữa Việt Bắc với Liên khu III và Liên khu IV.

Trong đông - xuân 1949-1950, thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng, Liên khu ủy và Bộ tư lệnh Liên khu IV đưa Trung đoàn 9, bộ đội địa phương và dân quân miền tây Thanh Hóa tham gia chiến dịch Lê Lợi ở chiến trường Bắc Bộ và quyết định mở chiến dịch Lê Lai ở Bình - Trị - Thiên để phối hợp với chiến trường chính nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, xây dựng và mở rộng căn cứ đồng bằng. Đây là một kế hoạch hoạt động phối hợp lớn giữa các lực lượng vũ trang và nhân dân ta ở ba tỉnh Bình - Trị - Thiên.

Lực lượng tham gia chiến dịch Lê Lai gồm các trung đoàn 18, 95, 101, tiểu đoàn 346 và 418 của Trung đoàn 57 (nghệ An), Tiểu đoàn 364 và bộ đội địa phương, dân quân du kích Bình - Trị - Thiên, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đảng ủy mặt trận do đồng chí Hoàng Anh, Ủy viên Thường vụ Liên khu ủy làm Bí thư và đồng chí Hà Văn Lâu chỉ huy trưởng mặt trận.

Đồng chí Hoàng Anh, Bí thư Đảng ủy mặt trận chủ trì hội nghị liên tịch gồm Bộ chỉ huy Mặt trận, Bí thư tỉnh ủy và tỉnh đội ba tỉnh Bình - Trị - Thiên, ban chỉ huy các trung đoàn 18, 95, 101 để bàn việc chuẩn bị chiến dịch: nắm địch, chuẩn bị chiến trường, huấn luyện bộ đội, kế hoạch phá hoại giao thông, chuẩn bị lương thực, vũ khí, công tác địch vận, phá tề trừ gian, bao vây kinh tế địch, xây dựng căn cứ ta đồng bằng…

Thời gian mở chiến dịch dự kiến chia làm hai đợt:

Đợt một: (15-12-1949 đến 15-1-1950) hoạt động chủ yếu ở địa bàn từ năm Quảng Bình đến Bắc Quảng Trị.

Đợt hai: (15-1-1950 đến 15-2-1950) hoạt động từ nam Quảng Trị đến bắc Thừa Thiên.

Trong giai đoạn chuẩn bị, mỗi trung đoàn đánh một trận lớn để “lấy đà”. Từ ngày 18-11 đến ngày 11-12-1949 các trung đoàn 18, 57, 95 vừa tích cực chuẩn bị mọi mặt cho chiến dịch, vừa tranh thủ đánh một số trận, gây cho địch nhiều thiệt hại.

Bộ đội địa phương, dân quân Quảng Trạch (Quảng Bình) phối hợp với bộ đội chủ lực, bao vây đồn Hòa Ninh, Ba Đồn, Đơn Sa, Phú Kinh, Minh Lễ. Dân quân, du kích Vĩnh Linh tích cực chống càn, quấy rối đồn lẻ, phá hoại giao thông, cắt đứt vận chuyển tiếp tế của địch nhiều ngày. Đặc biệt, ngày 11-11-1949, quân và dân hai thôn Hiền Lộc, Hiền Ninh (Quảng Ninh) dựa vào làng chiến đấu, anh dũng đánh trả cuộc càn của 250 tên địch, có máy bay, pháo binh yểm hộ, trong suốt bảy giờ liền, bẻ gẫy cuộc càn quét lớn của địch. Dân quân xã Thụy Cần (Vĩnh Linh) kết hợp đánh địch với bao vây kinh tế suốt hai tháng liền, buộc địch phải rút khỏi đồn Thụy Cần.

Những hoạt động trên tạo ra thế trận có lợi cho ta và giữ được yếu tố bất ngờ trước khi bắt đầu chiến dịch.

Ngày 22-12-1949, chiến dịch bắt đầu. Chỉ huy trưởng chiến dịch là đồng chí Hà Văn Lâu.

Mở màn đợt một, Tiểu đoàn 436 (Trung đoàn 18) được tăng cường một đại đội phóng bom tiến công đồn Vạn Xuân, nhưng không tiêu diệt được vị trí này do đồn địch quá rộng, hỏa lực của ta có hạn. Chỉ huy trưởng chiến dịch quyết định chuyển sang bao vây đồn để diệt quân tiếp viện.

Ngày 23-12-1949, địch nhiều lần điều quân đến tiếp viện giải vây cho đồn Vạn Xuân. Lực lượng vũ trang ta anh dũng chiến đấu, bắn chìm ba đò, diệt hàng chục tên.

Tại Thạch Xá, ngày 25-12-1949, Tiểu đoàn 227 (Trung đoàn 95) do Tiểu đoàn trưởng Lê Thuyết chỉ huy, chặn đánh một cánh quân từ Đồng Hới vào tiếp viện cho đồn Vạn Xuân, diệt và làm bị thương 30 tên, bắt 51 tên, trong đó có thiếu tá Bruge chỉ huy phân khu Quảng Bình, trung úy đại đội trưởng, 22 lính Âu Phi, thu 62 súng, hai máy vô tuyến điện, phá hủy bảy xe. Ngày 30-12-1949, địch rút chạy khỏi đồn Vạn Xuân. Ta giải phóng khu vực phía tây sông Kiến Giang (Lệ Thủy), mở rộng vùng tự do nam Quảng Bình.

Ngày 31-12-1949, ta vận động lính địch gây binh biến ở đồn Cổ Hiền, toàn bộ binh sĩ ở đây mang vũ khí về với kháng chiến.

Cùng thời gian trên, Trung đoàn 95 chuẩn bị đánh quân ứng chiến liên tỉnh từ Cầu Huyện đến Hạ Cờ (Vĩnh Linh), nhưng địch không đến. Đợt một của chiến dịch kết thúc.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #66 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2015, 08:28:16 pm »

Phối hợp với hướng chính chiến dịch, trong đợt một từ 13-12-1949 đến 15-1-1950, Trung đoàn 57 đánh địch ở Đại Nam, Hòa Ninh, giải phóng Đơn Sa (bắc Quảng Bình), phá vỡ tuyến phòng thủ của địch ở khu vực bắc - nam sông Gianh, đồng thời diệt viện binh địch từ Thanh Khê tiếp tế cho Ba Đồn, diệt hơn 100 tên, giải tán nhiều hội tề, buộc địch rút nhiều vị trí ở tả ngạn sông Gianh, giải phóng một vùng có nhiều đồng bào theo đạo Thiên chúa bị địch kiểm soát trong nhiều năm.

Trước hoạt động mạnh của ta, Bộ chỉ huy Pháp điều quân từ Đà Nẵng và huế ra, phối hợp với quân nhảy dù hình thành bốn cánh quân mở cuộc càn lớn từ nam Quảng Bình vào Phong Điền, Quảng Điền nhằm tiêu diệt Trung đoàn 101 và phân tán chủ lực ta. Đêm 25-12-1949, Trung đoàn 95 vừa vào đến Phong Điền để phối hợp với Trung đoàn 101 hoạt động đợt hai, thì được tin địch càn lớn ở Phong Điền - Quảng Điền, liền cơ động chặn đánh một cánh quân của địch ở Phong Điền.

Ngày 27-1-1950, tại chợ Vân Trình và làng Phò Trạch, dưới sự chỉ huy của Trung đoàn trưởng Lê Bá Vận, các tiểu đoàn 227, 302, 319, 310 đã chiến đấu quyết liệt với ba cánh quân địch suốt từ 9 giờ đến 17 giờ, đẩy lùi nhiều đợt phản kích của chúng, diệt 130 tên Âu - Phi, làm bị thương 150 tên, giải thoát 50 cán bộ bị chúng bắt.

Thắng lợi này thể hiện trình độ kỹ thuật, chiến thuật của bộ đội và năng lực chỉ huy của cán bộ trong tác chiến vận động ở đồng bằng có bước trưởng thành rõ rệt.

Tuy nhiên thực tiễn trận đánh cũng bộc lộ rõ một số khuyết điểm về lãnh đạo, chỉ huy của cán bộ. Ta chưa hoàn thành được mục tiêu đề ra, chưa tiêu diệt được một trong các cánh quân của địch, chủ lực ta cũng bị tổn thất nặng.

Phối hợp với bộ đội chủ lực, trong đợt hai, các tỉnh đội phát động “Tuần lễ địa lôi”, “Tuần lễ rào làng”, “Tuần lễ phá hoại” trong toàn tỉnh. Đêm đêm hàng ngàn người đổ ra đường, dựng vật chướng ngại, cản tiếp tế của địch. Quốc lộ số 1, đoạn từ Lệ Thủy (Quảng Bình) đến Quảng Trị và tỉnh lộ số 2 (Bố Trạch), bị triệt phá nặng, làm tê liệt giao thông địch nhiều tuần lễ.

Bộ đội địa phương và dân quân, du kích Quảng Trị phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực tiến công một loạt vị trí: Thanh Lê, Dốc Miếu, Cửa Tùng, Nham Biều, An Lộc, phá hoại nặng quốc lộ 1 ở Vĩnh Linh và các tỉnh lộ. Dân quân, du kích thượng du làm đường số 9 phục kích giao thông, phá hủy bốn xe và chặt cây to lấp đường, làm tắc nghẽn gần 50 km, buộc địch phải huy động lực lượng lớn để giải tỏa, dân quân còn góp phần 40.000 ngày công rào 41 thôn, bao vây tám vị trí địch trong tỉnh.

Tại Thừa Thiên, lực lượng vũ trang giật mìn làm đổ một đoàn tàu quân sự ở Phú Lộc, đột nhập thành phố Huế, phá hủy một đầu máy xe lửa và nhà máy điện tả ngạn sông Hương. Dân quân các huyện Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang phá hoại nặng đường Sịa - Phú Ốc, Tuần - Tây Phương - Thuận An, cắt tiếp tế của địch trong nhiều ngày.

Trong chiến dịch Lê Lai, quân và dân Bình - Trị - Thiên đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.000 tên, thu 200 súng các loại, lật 13.437 m đường sắt, đào 49.000 m khối lượng đường đất, đắp 500 ụ trên đường giao thông, phá 67 cầu, 32 cống, cắt 22.213 m dây điện thoại, giải phóng một khu vực rộng 5.000 km2, mở rộng vùng tự do và căn cứ đồng bằng nam Quảng Bình.

Chiến dịch Lê Lai là chiến dịch phối hợp với chiến dịch Lê Lợi trên chiến trường Bắc Bộ của quân và dân Bình - Trị - Thiên có quy mô lớn nhất từ đầu cuộc kháng chiến, đã gây cho địch nhiều thiệt hại, góp phần làm thay đổi so sánh tương quan lực lượng có lợi cho ta trên chiến trường liên khu, mở ra khả năng đẩy mạnh quy mô tác chiến tập trung và vận động chiến lên một trình độ mới, nhằm tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giành thế chủ động chiến trường.

Tuy nhiên, trong chiến dịch này ta còn một số khuyết điểm, hiểu biết về chiến dịch và nghệ thuật chiến dịch còn hạn chế, mục đích chiến dịch thiếu cụ thể, phạm vi không gian rộng, thời gian quá dài, sử dụng lực lượng thiếu tập trung, chưa tạo được ưu thế áp đảo quân địch; trong lãnh đạo, chỉ huy chiến dịch có tư tưởng chủ quan, đơn giản dẫn đến tình hình tuy diệt được một số sinh lực quan trọng của địch nhưng chủ lực ta cũng bị tổn thất đáng kể.

Đi đôi với tiến công quân sự, công tác địch vận đã có bước tiến bộ mới. Từ chỗ chỉ lôi kéo từng cá nhân, từng bộ phận nhỏ, đến chiến dịch Lê Lai, ta vận động được cả đơn vị địch trở về với kháng chiến như ở đồn Cổ Hiền (Quảng Bình), Địa Linh (Thừa Thiên).
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #67 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2015, 08:29:01 pm »

Nhằm tăng cường kiểm soát vùng chiếm đóng và đối phó với phong trào chiến tranh nhân dân, từ đầu năm 1950, thực dân Pháp áp dụng kinh nghiệm về hệ thống Đờ Latua (De Latour) ở Bình - Trị - Thiên, xây dựng những tháp canh bằng gạch hoặc bêtông, cao từ 3 đến 5 m, có hàng rào dây thép gai, cùng với các đồn nhỏ. Hệ thống này mở rộng đến đâu thì việc di chuyển và hoạt động của ta bị thu hẹp và khó khăn đến đó. Sau chiến dịch Lê Lai, ở đồng bằng Thừa Thiên và trục đường số 1 từ Huế đến Đông Hà địch đóng hơn 90 cứ điểm, xây dựng 120 lô cốt, tháp canh, cách nhau từ 500 đến 1.000 m. Chúng còn lập thêm các đồn hương vệ ở các vùng có đồng bào đạo Thiên chúa. Cùng với hệ thống tháp canh, đồn bốt, địch ra sức tăng cường lực lượng cơ động, từ tiểu đoàn lên binh đoàn cơ động trong tỉnh, tiểu đoàn cơ động trong mỗi tiểu khu, kết hợp với không quân và pháo binh tkế hoạch bảo vệ mùa, chủ trương đẩy mạnh chiến tranh du kích, gặt mau, giấu kín, lấy dân quân và nông dân làm trụ cột trong việc bảo vệ mùa. Lập tập đoàn vận tải để chuyển thóc từ trong vùng địch ra.

Thực hiện chủ trương của Liên khu ủy và Đảng ủy mặt trận, dân quân, du kích và nhân dân Bình - Trị - Thiên sát cánh cùng bộ đội chiến đấu quyết liệt chống lại nhiều cuộc càn quét cướp lúa của địch, trong đó có những cuộc càn lớn từ 1.000 đến 2.000 quân ở vùng đồng bằng cả ba tỉnh Phong Điền, Quảng Điền, Triệu Phong, Hải Lăng, Gio Linh, Quảng Ninh, Lệ Thủy, Bố Trạch.

Trong đợt chiến đấu bảo vệ mùa này, Trung đoàn 18 do đồng chí Phùng Duy Phiên chỉ huy đã tiến vượt lên với trận thắng giòn giả Xuân Bồ (5-1950) có sự phối hợp của bộ đội địa phương và dân quân Lệ Thủy, đánh lại hai tiểu đoàn Âu Phi thiện chiến, tiêu diệt 200 tên, làm bị thương 300 tên, trong đó có viên quan năm Langlais, chỉ huy trưởng phân khu Quảng Bình, loại khỏi vòng chiến tiểu đoàn ứng chiến Âu - Phi Spahis; phá được kế hoạch cướp mùa ở hai huyện nam Quảng Bình, đập tan âm mưu của địch muốn tiêu diệt bộ đội chủ lực ta. Trong trận chiến đấu ác liệt này, trung đội trưởng Lâm Úy đã anh dũng hy sinh.

Ngày 17-5-1950, Bộ Quốc phòng ra chỉ thị thành lập Bộ chỉ huy mặt trận Bình - Trị - Thiên nhằm thực hiện kế hoạch quân sự của Tổng tư lệnh, trực tiếp chỉ huy bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, dân quân của mặt trận phối hợp với Bộ tư lệnh địa phương liên khu và Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu IV trong việc lãnh đạo và xây dựng bộ đội địa phương. Phát triển dân quân, chuẩn bị chiến trường và bảo vệ địa phương. Mặt trận có ba trung đoàn 18, 95, 101 bộ binh, tiểu đoàn 888 pháo binh.

Tháng 5-1950, thi hành chỉ thị của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh, Bộ chỉ huy phân khu Bình - Trị - Thiên mở chiến dịch Phan Đình Phùng trên địa bàn bắc Quảng Trị và nam Quảng Bình do đồng chí Trần Quý Hai trực tiếp chỉ huy nhằm phối hợp với chiến trường chính và phát triển chiến tranh du kích đến cực độ, đẩy vận động chiến lên địa vị chủ yếu, tiêu diệt một bộ phận quân ứng chiến của địch và thí điểm đánh công kiên diệt đồn địch để rút kinh nghiệm huấn luyện bộ đội. Tham gia chiến dịch có hai trung đoàn 18 và 95. Thời gian chiến dịch kéo dài từ ngày 15-5 đến 15-7-1950. Theo đúng kế hoạch, 18 giờ ngày 17-5-1950, Trung đoàn 18 nổ súng tiêu hao nặng đồn Sen Hạ. Ngày 19, khoảng 400 tên địch từ Hòa Luật đến tiếp viện. Ta chặn đánh quyết liệt tại Sen Động - Phú Thiết, tiêu diệt 250 tên, thu toàn bộ vũ khí.

Đêm 19-5-1950, ta định cường tập Sen Hạ, nhưng không kéo được pháo nên không đánh. Ngày 20, địch tăng cường một đại đội cho Sen Hạ và một đại đội cho Hòa Luật. Ngày 21, địch dùng 82 xe chở 700 quân từ thị xã Quảng Trị và 200 quân từ Đống Hới về tiến hành càn quét trong hai ngày (23 và 24) và đến ngày 26-5-1950 yểm hộ cho bọn ở Mỹ Trạch rút về Hòa Luật, rồi rút vào Quảng Trị.

Ngày 25-6-1950, địch tập trung quân ở Hồ Xá. Ta dự đoán chúng sẽ ra Quảng Bình và bố trí phục kích, nhưng không thực hiện được trận đánh dự kiến. Ngày 27, được tin địch trở vào, ta cho các trung đoàn 95 và 18 phục kích tại Chấp Lễ, Hạ Cờ (Vĩnh Linh). Đúng 13 giờ, 75 xe chở hơn 1.000 quân có phi cơ yểm hộ lọt vào trận địa, ta nổ súng tiến công quyết liệt vào đội hình hành quân của chúng, tiêu diệt hơn 300 tên, bắn rơi một máy bay chỉ điểm. Trận Chấp Lễ, Hạ Cờ là trận đầu tiên quân ta sử dụng hai trung đoàn phục kích ban ngày trên địa bàn đồng bằng, làm tổn thất nặng đội quân ứng chiến tinh nhuệ của địch có máy bay, pháo binh yểm hộ. Sau hai tiếng đồng hồ quân Pháp phải rút lui, nhưng ta cũng bị tiêu hao nhiều.

Ngày 13-7-1950, ta sử dụng một tiểu đoàn bộ binh và một tiểu đoàn pháo cường tập Sen Hạ nhưng không diệt được vị trí này. Một trung đoàn của ta chặn viện ở Phú Chánh nhưng địch ở Hòa Luật không vào. Ngày 14-7, địch từ Đồng Hới vào nhưng ta không đánh.

Thực hiện lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, quân, dân Bình - Trị - Thiên kéo dài chiến dịch Phan Đình Phùng một tháng để phối hợp với chiến dịch Biên giới. Bộ đội chủ lực từ nam Quảng Bình nhanh chóng cơ động vào nam Quảng Trị để tác chiến. Sau gần một tháng chiến đấu, quân, dân Bình - Trị - Thiên loại khỏi vòng chiến đấu 450 tên địch.

Chiến dịch Lê Lai và Phan Đình Phùng thể hiện rõ bước trưởng thành mới của quân, dân Bình - Trị - Thiên, trước hết là của bộ đội chủ lực trong việc thực hiện chiến thuật du kích vận động chiến để tiêu diệt nhiều sinh lực địch, tiến lên giành thế chủ động chiến trường hoàn thành nhiệm vụ tác chiến phối hợp với chiến dịch Biên giới kiềm chế địch, không cho địch rút lực lượng cơ động tăng cường cho chiến trường Bắc Bộ. Tuy vậy, quân ta cũng bị tổn thất lớn về sinh lực và vũ khí. Hoạt động phối hợp tác chiến của bộ đội địa phương và dân quân, du kích bị hạn chế trong điều kiện địch dựa vào hệ thống đồn, bốt dày đặc và các đội quân ứng chiến mạnh mở các cuộc càn quét lớn. Phong trào du kích chiến tranh nhiều nơi bị chững lại, thậm chí bị giảm sút.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #68 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2015, 08:30:58 pm »

Trước tình hình đó, để kịp thời khắc phục khó khăn mới, thực hiện chủ trương của Liên khu ủy, tháng 8-1950, hội nghị quân, dân, chính, đảng Bình - Trị - Thiên họp đề ra chủ trương; tập trung huấn luyện, củng cố bộ đội chủ lực và chỉnh đốn cơ quan; đẩy mạnh hoạt động của bộ đội địa phương và dân quân du kích. Bộ đội chủ lực lấy huấn luyện, xây dựng làm chính, tổ chức đánh một vài trận nhưng không để ảnh hưởng đến xây dựng, tránh khuynh hướng ăn to, cần đánh chắc thắng, cướp nhiều vũ khí của địch, nhất là đạn để tiếp tục hoạt động.

Giữa năm 1950, quân Pháp đưa vào Bình - Trị - Thiên những đoàn tàu bọc thép, có trang bị vũ khí mạnh. Các con tàu đều có lỗ châu mai bắn ra các hướng, trên tàu có hai khẩu pháo 40 mm. Phương tiện vận chuyển lợi hại này có tác dụng đối phó với những trận đánh giao thông của ta, đảm bảo việc vận chuyển tiếp tế trên chiến trường.

Những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù ngày càng thâm độc nhưng không thể dập tắt được phong trào nhân dân kháng chiến đang ngày càng phát triển ở Bình - Trị - Thiên. Được sự lãnh đạo của Đảng, quân dân Bình - Trị - Thiên không hề nao núng, càng kiên quyết đứng lên chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng.

Để giải quyết khó khăn về vũ khí công đồn, rèn luyện trình độ kỹ thuật, chiến thuật cho bộ đội, sau một thời gian được huấn luyện cách đánh tàu bọc thép, Bộ chỉ huy mặt trận quyết định dùng một bộ phận của trung đoàn 95 và 101 để tiêu diệt đoàn tàu bọc thép trên đoạn đường sắt Mỹ Chánh - Diên Sanh.

Tiểu đoàn 227 (Trung đoàn 95) được giao nhiệm vụ chủ công trong trận đánh này. Ngoài ra còn có các đơn vị phối hợp chiến đấu: Tiểu đoàn 319 và một đại đội thuộc Trung đoàn 101, một đại đội công binh, một đại đội trợ chiến, một đại đội thông tin, hai đại đội địa phương (Hải Lăng, Phong Điền) và 200 dân quân.

Được sự chi viện đắc lực của đại đội trợ chiến và các đơn vị bạn, ngày 24-10-1950, Tiểu đoàn 227 do Tiểu đoàn trưởng Trần Văn Trân chỉ huy hợp đồng chặt chẽ với lực lượng công binh đánh bom, tiến công đoàn tàu bọc thép của địch dài 16 toa, có hai khẩu 40 mm bố trí ở đầu và cuối tàu. Trận đánh diễn ra quyết liệt, kéo dài hai giờ liền. Ta phá hỏng một đầu máy, 10 toa, thu một khẩu pháo 40 mm, một đại liên, một trung liên FM và 32 thùng đạn 40 mm, diệt và làm bị thương 100 tên, bắt chín tên (có một quan hai chỉ huy, ty trưởng an ninh Quảng Trị, quận trưởng an ninh Hải Lăng và sáu lính Âu - Phi).

Đây là lần đầu tiên ta sử dụng một lực lượng tương đối lớn (12 đại đội, có nhiều đơn vị kỹ thuật) phục kích ban ngày, đánh đoàn tàu bọc thép của địch - một phương tiện vận tải được trang bị hỏa lực mạnh. Trận đánh diễn ra trên một khu vực gần nhiều cứ điểm có đường giao thông thuận tiện cho việc phản kích của địch. Nhưng nhờ làm tốt công tác chuẩn bị, tổ chức chỉ huy chặt chẽ, nên ta đã thực hiện được mục tiêu đề ra.

Thắng lợi Tân Điền thể hiện chủ trương “tập trung củng cố xây dựng bộ đội chủ lực” sau chiến dịch Phan Đình Phùng của Đảng ủy mặt trận là chính xác, khẳng định việc chuyển hướng chiến thuật của ta ở chiến trường Bình - Trị - Thiên là phù hợp. Đây cũng là trận đạt kỷ lục cao nhất về thu và phá hủy vũ khí, diệt lô cốt, đáp ứng nhu cầu bức thiết của chiến trường.

Tuy nhiên, thắng lợi trên chưa đủ làm thay đổi cục diện chiến trường ở đồng bằng. Trong khi bộ đội địa phương được điều động đi tăng cường cho chủ lực, nhưng không có lực lượng thay thế, sự hỗ trợ lẫn nhau giữa ba thứ quân bị giảm sút mạnh. Tình hình ấy làm cho chiến tranh du kích ở địch hậu không phát triển được. Căn cứ du kích ở đồng bằng bị địch càn phá dữ dội. Quân Pháp còn mở những cuộc càn lên chiến khu miền núi giữa lúc khả năng tác chiến chống còn của ta có phần giảm sút. Đầu tháng 11-1950, chúng huy động 1.500 quân mở cuộc tiến công lên chiến khu Hòa Mỹ nhằm tiêu diệt cơ quan lãnh đạo kháng chiến của ta. Các trung đoàn 95 và 101 không được lệnh đánh trả. Cơ quan đại diện Khu ủy và Bộ chỉ huy rút sâu vào rừng thẳm. Sau 10 ngày lùng sục địch kết thúc cuộc càn.

Cuối năm 1950, ở chiến trường Bình - Trị - Thiên, số lượng quân Pháp giảm vì phải điều động một số tiểu đoàn ứng chiến tăng viện cho Bắc Bộ nhưng thực hiện càn quét tích cực và liên tiếp hơn. Trong hai tháng 11 và 12-1950, quân Pháp đã tổ chức sáu cuộc càn quét ở đồng bằng Thừa Thiên, hai cuộc lùng quét ở chiến khu Hòa Mỹ và chiến khu Dương Hòa của Thừa Thiên, trong khi đó Việt binh đoàn tổ chức nhiều cuộc lùng quét nhở ở đồng bằng Quảng Trị, Quảng Bình, tiếp đó lùng lên chiến khu Thủy Ba, Vĩnh Linh (Quảng Trị). Trong những cuộc lùng quét này, quân số địch ít hơn trước, nhưng chúng lợi dụng phương tiện mới như tàu lội nước, canô, xe lửa, phi cơ, v.v. và liên kết chặt chẽ với hoạt động gián điệp, tạo điều kiện bất ngờ, hành quân chớp nhoáng và mạnh bạo để đánh ta bất ngờ. Ngoài ra, địch còn tổ chức nhiều cuộc phục kích trên đường giao thông để bắt cán bộ, phá hoại công việc tiếp tế, vận tải của ta(1). Chúng tích cực và gấp rút tổ chức ngụy quân, dùng ngụy binh làm quân chiếm đóng thay thế cho quân tinh nhuệ rút đi hoặc tập trung thành những đội ứng chiến lớn. Chúng đã thành công một phần trong việc giành giật cơ sở nhân dân ở một vài vùng và thành lập được hương vệ. Trong khi đó hoạt động quân sự của ta sút kém. Bộ đội chủ lực sau chiến dịch Lê Lai không thực hiện được tiêu diệt chiến mà lại còn bị tiêu hao khá nặng. Địch hoạt động mạnh không phải vì chúng mạnh lên mà do ta yếu đi. Ta đã bước đầu khắc phục khuyết điểm, nhất là tư tưởng chiến lược, chiến thuật, kiên quyết xây dựng bộ đội địa phương và dân quân du kích “Song tất cả những tiến bộ đó còn là do sự cố rán sức của ta, chứ chưa phải do một đà tiến có quy củ”(2).

Nhìn chung đến cuối năm 1950, những chiến khu ở vùng núi vẫn được duy trì, nhưng căn cứ du kích ở đồng bằng bị đẩy lùi lại trình độ khu du kích. Nhiều nơi chỉ còn cơ sở chính trị. Phong trào kháng chiến gặp nhiều khó khăn. Trong hoạn nạn khó khăn, quân dân Bình - Trị - Thiên đã yêu thương đùm bọc lẫn nhau, “bát cơm sẻ nửa, củ sắn chia đôi”, gan góc chịu đựng gian khổ hy sinh, giữ vững cuộc kháng chiến với tinh thần tự lưc và niềm tin kháng chiến nhất định thắng lợi, để từng bước vươn lên, bẻ gãy từng mắt xích của hệ thống De Latour, “xây đà chiến thắng”.


(1) Xem: Nghị quyết Hội nghị thường vụ khu ủy Khu IV (1-1951), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.12, tr.726.
(2) Xem: Nghị quyết Hội nghị thường vụ khu ủy Khu IV (1-1951), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.12, tr.736.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #69 vào lúc: 28 Tháng Giêng, 2016, 09:10:21 pm »

II. PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN LỰC LƯỢNG KHÁNG CHIẾN,
XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG VỮNG MẠNH, TỔ CHỨC CHI VIỆN TIỀN TUYẾN
VÀ PHỐI HỢP VỚI CUỘC KHÁNG CHIẾN CỦA NHÂN DÂN LÀO

Trong chiến tranh, đấu tranh quân sự giữ vị trí quyết định thắng lợi. Chiến tranh các phát triển thì vai trò của lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang càng trở nên quan trọng. Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam là một cuộc chiến tranh nhân dân. Để tiến hành chiến tranh nhân dân phải xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng bộ Liên khu IV (5-1948), các đảng bộ, quân, dân Thanh - Nghệ - Tĩnh và các cơ quan, đơn vị của liên khu khẩn trương xây dựng lực lượng về mọi mặt để tăng cường tiềm lực kháng chiến, phát triển chế độ dân chủ mới, sẵn sàng đánh địch bảo vệ vùng tự do, tích cực phục vụ việc “đánh mạnh ở Bình - Trị - Thiên” và phục vụ các chiến trường khác.

Sau khi quân Pháp mở rộng vùng chiếm đóng ra đồng bằng Khu III và đã giành được thế chủ động trên chiến trường Bình - Trị - Thiên, giữa và cuối năm 1948, đi đôi với việc chuẩn bị để chủ động đánh thắng địch ngay từ trận đầu nếu chúng liều lĩnh tiến công Thanh - Nghệ - Tĩnh, toàn liên khu đã dấy lên phong trào thi đua sôi nổi, liên tục trên các mặt, trong các ngành, các giới, đến tận từng gia đình, từng người, đặc biệt là phong trào “Phát triển dân quân thành một lực lượng chiến lược”, phong trào “Luyện quân lập công” của các lực lượng vũ trang diễn ra khá sôi nổi. Chỉ sau một tháng, số lượng dân quân ở Nghệ An tăng từ 166.460 lên 387.500 người, trong đó có có 43.380 lão dân quân, 67.200 nữ dân quân. Cuối năm 1948, số dân quân Hà Tĩnh lên tới 93.700 người, trong đó có 18.500 du kích thường trực, 75.050 dân quân, du kích, 2.250 lão dân quân, 2.180 nữ dân quân. Các đại đội dân quân thường trực tỉnh, miền thượng du Thanh Hóa và một số huyện được thành lập.

Lực lượng dân quân, du kích ở Bình - Trị - Thiên cũng có bước phát triển đáng kể. Đến cuối năm 1948, Quảng Bình có 929 du kích tập trung, 1.760 du kích xã, Quảng Trị: 706 du kích tập trung, 2.724 du kích xã; Thừa Thiên: 496 du kích tập trung, 1.257 du kích xã. Trung đoàn 9 (chủ lực quân khu), các trung đoàn 77 (Thanh Hóa), 57 (Nghệ An), 103 (Hà Tĩnh) được bổ sung thêm quân số, tăng thêm trang bị.

Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ sáu (1-4949) chủ trương “động viên mọi lực lượng kháng chiến kiến cuốc, giành cho kỳ được độc lập và dân chủ thực sự” với khẩu hiệu” Tất cả để chiến thắng”. Về nhiệm vụ quân sự, Hội nghị chỉ rõ: “phương châm chính vẫn là du kích chiến là căn bản, vận động chiến là phụ trợ. Nhưng cần mạnh bạo đẩy vận động chiến đi tới và khi đủ điều kiện thì kịp thời nâng vận động chiến lên địa vị quan trọng”. Việc xây dựng bộ đội chủ lực, tập trung cán bộ, vũ khí và phương tiện thông tin cho những đơn vị có nhiệm vụ vận động chiến, ráo riết phát triển và củng cố dân quân trong các vùng quan trọng về chiến lược(1) về kinh tế và chính trị. Phát biểu tại hội nghị này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đẩy tới quân sự, kháng chiến trên hết, quân sự trên hết. Mọi việc phải nhằm vào điểm làm cho kháng chiến thắng lợi”(2).

Thực hiện những chủ trương lớn của Đảng, Hội nghị quân chính liên khu quyết nghị tăng cường sức chiến đấu của bộ đội, mở rộng chiến tranh du kích, tăng cường huấn luyện, tăng gia sản xuất để tiến tới tự cung, tự cấp.

Cuối tháng 2-1949, liên khu phát động cuộc vận động “Luyện quân lập công” trong các lực lượng vũ trang làm cơ sở xây dựng bộ bộ đội chủ lực mạnh, đẩy mạnh tác chiến tập trung và vận động chiến, nâng cao trình độ dân quân tập trung tỉnh, huyện và du kích đủ sức bảo vệ địa phương để thực hiện chủ trương, tập trung các đại đội độc lập.

Sau ba tháng khẩn trương huấn luyện, trình độ cán bộ, chiến sĩ nâng lên rõ rệt. Dân quân, du kích phát triển mạnh, trình độ kỹ thuật, chiến thuật có bước phát triển đáng kể, đặc biệt các đại đội 1 và 2 dân quân tập trung của tỉnh Thừa Thiên, Đại đội du kích Lê Hồng Phong của tỉnh Quảng Trị.

Riêng tỉnh Quảng Bình, ngày 20-2-1949, Bộ tư lệnh liên khu quyết định thống nhất chiến trường nhằm đưa phong trào chiến tranh và du kích ở Quảng Bình tiến kịp hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Đồng thời, ngày 8-4-1949, Bộ Tư lệnh liên khu quyết định thành lập Trung đoàn 18 (Quảng Bình) do đồng chí Phùng Duy Phiên làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Quang Minh làm Ủy viên chính trị, đồng chí Tống Thái làm Trung đoàn phó.

Với việc thống nhất chiến trường Quảng Bình và thành lập Trung đoàn 18, Liên khu ủy và Bộ Tư lệnh liên khu đã tạo điều kiện rất cơ bản để quân, dân Quảng Bình đẩy mạnh phong trào chiến tranh nhân dân ở địa phương. Cũng từ đây, tại Phân khu Bình - Trị - Thiên, mỗi tỉnh đã có một trung đoàn vừa đảm nhiệm chiến đấu để bảo vệ địa phương mình, vừa sẵn sàng tác chiến cơ động tập trung theo kế hoạch của phân khu. Sự kiện này dẫn đến sự chuyển biến cả về thế và lực của ta trên chiến trường Bình - Trị - Thiên từ mùa xuân năm 1949.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.10, tr.1.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr.551.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM