Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 08:09:13 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954  (Đọc 55491 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #50 vào lúc: 19 Tháng Mười Hai, 2015, 08:43:23 pm »

Chương 3

ĐẨY MẠNH KHÁNG CHIẾN TOÀN DÂN, TOÀN DIỆN,
PHÁT TRIỂN CHIẾN TRANH DU KÍCH, XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG,
CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN
(1948-1950)

I. PHÁT TRIỂN CHIẾN TRANH NHÂN DÂN, TOÀN DÂN ĐÁNH GIẶC,
ĐẨY MẠNH CHIẾN TRANH DU KÍCH

Từ sau thất bại ở Việt Bắc (thu - đông năm 1947), thực dân Pháp thay đổi chiến lược từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang đánh kéo dài, thực hiện âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”. Chúng tập trung quân mở hàng loạt cuộc càn quét, chiếm đóng vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ.

Trên chiến trường Bình - Trị - Thiên, đầu năm 1948, với lực lượng được tăng thêm từ Pháp sang và ở Nam Bộ ra, chúng tập trung lực lượng mở nhiều cuộc hành quân mở rộng vùng chiếm đóng, thực hiện âm mưu dập tắt “các đốm lửa du kích ở đồng bằng” và tiêu diệt các “căn cứ Việt Minh ở trên núi”. Chúng tập trung càn từng đợt ở từng địa bàn: “Tuần lễ Hải Lăng”, “Tuần Lễ Gio Vĩnh”, “Tuần lễ Ninh Lệ”…

Dải đồng bằng Bình - Trị - Thiên dài và hẹp, địch sử dụng chiến thuật “tằm thực” và “vết dầu loang”, dùng các đại đội xung kích và tiểu đoàn lưu động, kết hợp với quân chiếm đóng trong các đồn bốt tỏa ra càn quét, lùng sục cán bộ và du kích. Chúng tổ chức nhiều cuộc càn lớn vào các khu du kích ở Lệ Thủy (Quảng Bình) vào tháng 1-1948, Phong Điền và Quảng Điền (Thừa Thiên) các tháng 1 và 2-1948, Chợ Cạn, Triệu Phong (Quảng Trị) 3-1948.

Ngày 25-1-1948, nhằm tập trung cho công tác lãnh đạo và chỉ đạo cuộc kháng chiến trên địa bàn cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 120/SL, tổ chức lại các chiến khu thành các liên khu và đặc khu. Mỗi liên khu có Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu, trực tiếp điều hành kháng chiến. Chiến khu IV đổi thành Liên khu IV trong đó có Phân khu Bình - Trị - Thiên.

Tháng 1-1948, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng, đánh giá tình hình năm đầu cuộc kháng chiến toàn quốc. Hội nghị nhận định so sánh lực lượng giữa ta và địch có sự thay đổi bước đầu. Khả năng kháng chiến của ta sẽ tăng dần và ngày càng tăng thêm, còn địch “Đã đến lúc chúng không thể tự do tung lực lượng ra chiếm đất ta một cách dễ dàng như trong thời kỳ kháng chiến toàn quốc mới nổ”(1). Hội nghị vạch ra những phương hướng và biện pháp lớn nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến trong giai đoạn mới. Về quân sự, hội nghị chủ trương đẩy mạnh để chuyển sang giai đoạn thứ hai, phát triển dân quân và phát triển chiến tranh du kích khắp nơi, nhất là vùng địch kiểm soát, xúc tiến việc luyện quân lập công, học tập kinh nghiệm chiến dịch Việt Bắc, tập dượt đánh những trận vận động tiêu diệt địch, quét những đồn lẻ của địch, bắt địch thu hẹp địa bàn lại, đột kích những thành phố nhỏ, v.v. Chuẩn bị để phá tan cuộc tiến công mùa đông của giặc. Đối với Liên khu IV phải chuẩn bị làm cho địch thất bại nặng nề nếu địch đánh vào mấy tỉnh miền bắc liên khu; về chính trị, tiếp tục xây dựng khối đoàn kết toàn dân rộng rãi với khẩu hiệu: “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”, chống chính sách “dùng người Việt trị người Việt” của thực dân Pháp, bằng mọi biện pháp phá tan chính quyền bù nhìn, củng cố và tăng cường bộ máy kháng chiến, tăng cường vận động quần chúng vùng sau lưng địch.

Những chủ trương của Hội nghị có tác dụng chỉ đạo hết sức quan trọng đối với cuộc kháng chiến của quân dân Liên khu IV trong giai đoạn mới.

Tháng 5-1948, Đại hội đại biểu Đảng bộ Liên khu IV họp đã phân tích các mặt ưu, khuyết điểm về sự lãnh đạo của Phân khu ủy, các Đảng bộ và phong trào ở Bình - Trị - Thiên, xác định rõ trách nhiệm của Thanh - Nghệ - Tĩnh đối với Bình - Trị - Thiên, tăng cường sự lãnh đạo của Liên khu ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính của liên khu. Tiếp đến hội nghị Phân khu ủy cũng đã họp kiểm điểm tình hình, đề ra chủ trương và biện pháp đưa kháng chiến ở Bình - Trị - Thiên vượt qua mọi khó khăn, tiến lên trong giai đoạn mới.

Quân, dân Bình - Trị - Thiên anh dũng chống trả, tiêu diệt, tiêu hao nhiều sinh lực địch. Trong nhiều trận chiến đấu bộ đội và du kích đạt kết quả xuất sắc:

Ngày 23-2-1948, Trung đoàn 101 tiến công đồn Cầu Nhì (Phong Điền, Thừa Thiên). Đây là vị trí bảo vệ giao thông trên đường số 1, ngăn chặn sự đi lại giữa đồng bằng và chiến khu. Bộ đội đóng giả Việt binh đoàn, cùng một hàng binh người Đức đóng giải sĩ quan Pháp, đột nhập vào đồn giữa ban ngày. Trận đánh diễn ra nhanh, gọn. Ta thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng.

Ngày 1-3-1948, Pháp mở cuộc hành quân càn quét vào xã Sơn Trạch (Bố Trạch, Quảng Bình) mục tiêu chủ yếu là làng Cự Nẫm. Chúng huy động lực lượng tương đương một tiểu đoàn có pháo binh chi viện. Đại đội 4 của huyện cùng dân quân, du kích vừa phục kích trên đường hành quân, cả lúc đi và lúc về, vừa dựa vào làng chiến đấu để đánh địch khi chúng tiến công, đã diệt gần 50 tên địch, phần lớn là lính Âu - Phi, phá hủy bốn xe quân sự, bắn cháy một ca nô. Làng chiến đấu Cự Nẫm vẫn đứng vững sau cuộc càn.

Ngày 7-4-1948, một tiểu đoàn địch đi càn quét vùng đồng bằng Hải Lăng. Ở làng Đồng Dương lực lượng vũ trang ta dũng cảm, mưu trí tiêu diệt hai trung đội địch, bắt tám tù binh Pháp, năm lính ngụy và 16 hương vệ, thu nhiều vũ khí. Chiến thắng này đã gây niềm tin tưởng cho nhân dân và lực lượng vũ trang vào khả năng chiến đấu và thắng lợi của chúng ta.

Ngày 27-4-1948 ta tiêu diệt đồn Mỹ Lợi (Thừa Thiên) bằng nội ứng.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.9, tr.21.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #51 vào lúc: 19 Tháng Mười Hai, 2015, 08:44:09 pm »

Quân, dân Bình - Trị - Thiên đã anh dũng chiến đấu, làm cho quân Pháp bị thiệt hại, nhưng không giảm được sức ép của chúng ở vùng đồng bằng. Thực dân Pháp tiến hành khủng bố nhân dân, gây nhiều tội ác man rợ, điển hình là ác cuộc thảm sát 600 người ở Chợ Cạn (13-3-1948), 1.333 người ở Hải Lăng trong ba ngày (17 đến 19-3-1948). Những người bị giết chủ yếu là cụ già, phụ nữ, trẻ em… Tính từ đầu kháng chiến đến tháng 4-1948, hàng vạn đồng bào, chiến sĩ bị địch giết hại, hàng nghìn cán bộ, đảng viên anh dũng hy sinh.

Sau cuộc càn khu du kích Chợ Cạn (Quảng Trị), Pháp xây dựng một hệ thống cứ điểm để giữ đất hòng đẩy chủ lực ta ra khỏi đồng bằng, biến vùng du kích thành vùng kiểm soát của chúng.

Quân Pháp còn liên tiếp mở nhiều cuộc tiến công lên các chiến khu vùng rừng núi: Đơn Quế, Bang Rợn, Thuận Đức (Quảng Bình), Thủy Ba Thượng (Vĩnh Linh), Cẩm Phổ (Gio Linh), Cùa (Cam Lộ), Hòa Linh, Khe Mương, Ba Lòng (Hướng Hóa, Quảng Trị); Hòa Mỹ, Lương Miêu, Dương Hòa (Thừa Thiên). Ngay 3-2-1948, địch kết hợp cả đường bộ và đường thủy, có phi pháo yểm hộ tiến công lên chiến khu Ba Lòng (Hậu cứ của tỉnh Quảng Trị).

Ngày 7-3-1948, kết hợp nhảy dù với tiến công bằng đường bộ và đường thủy, địch huy động hơn 1.000 quân, có pháo binh và không quân yểm hộ, tiến công từ chính diện và bên sườn lên chiến khu Hòa Mỹ (hậu cứ của tỉnh Thừa Thiên - Huế). Các cơ quan và một số nhân dân từ vùng xuôi sơ tán lên đã kịp thời di chuyển vào sâu trong rừng. Bộ đội ta vừa chặn đánh các cánh quân lùng sục vào rừng, vừa tập kích hỏa lực vào nơi quân địch tập trung ở Hòa Mỹ gây cho địch nhiều thương vong. Trong bồn tuần càn lên chiến khu Hòa Mỹ, địch chỉ đốt được một số lán, trại bỏ không. Chúng phải rút quân, nhưng đóng lại hai đồn án ngữ trước chiến khu. Tỉnh Thừa Thiên phải chuyển hậu cứ từ Hòa Mỹ về Dương Hòa, cách Huế hơn 10 km về phía tây.

Trong trận càn vào chiến khu Hòa Linh, địch huy động hơn 500 quân, có máy bay, đại bác yểm trợ, dùng nhiều thủ đoạn đánh phá rất ác liệt, nhưng bộ đội và du kích dựa vào địa thế hiểm trở nên quyết đánh trả, làm địch tổn thất nặng nề, bảo vệ được các cơ quan lãnh đạo kháng chiến và bảo toàn lực lượng. Không đạt được mục tiêu xóa bỏ các chiến khu miền núi, bọn chỉ huy Pháp phải thú nhận: Các chiến thuật vận dụng từ trước đến nay, chiến thuật gọng kìm, đánh chớp nhoáng, ồ ạt, không có hiệu quả với chiến trường rừng núi hiểm trở, với chiến thuật du kích vận động, với tinh thần cảm tử của đối phương.

Cùng với các cuộc càn quét để tiêu diệt hoặc xua dãn lực lượng ta, địch ra sức bình định, củng cố vùng chiếm đóng bằng biện pháp lập hội tề. Hệ thống đồn, bốt giặc và hội tề mọc lên ở nhiều nơi. Chúng xây dựng và củng cố 194 đồn, bốt lớn nhỏ để giữ đất, giữ dân. Chúng bắt dân đi phu, nộp thuế. Địch còn ra sức phá hoại sản xuất, nhổ lúa, ngô, cướp phá lương thực, bắn vào người đang làm đồng, bắn giết trâu bò, công khai tuyên bố tiến hành cuộc chiến tranh lúa gạo (guerre de riz), bao vây, ngăn chặn việc tiếp tế cho các chiến khu vùng núi.

Giữa năm 1948, tại Bình - Trị - Thiên, địch đã tổ chức được hệ thống ngụy quyền từ tỉnh đến thôn gồm hơn 1.347 ba hội tề.. Chúng dùng hội tề để gây cơ sở chính trị và thanh thế cho chính quyền tay sai, động viên tinh thần ngụy quân, lừa bịp dân chúng, chia rẽ lương giáo, chia rẽ nhân dân với bộ đội, nhân dân với chính quyền cách mạng, tổ chức các đảng phái phản động, tuyển mộ ngụy binh, thân binh bổ sung cho quân đội ngụy, làm tai mắt dò xét cơ sở, lực lượng và các hoạt động của ta, làm công cụ để thu thuế, vơ vét của[184] cải và phá hoại, bóp nghẹt kinh tế kháng chiến.

Trong khi các chiến khu ở rừng núi vẫn được duy trì thì căn cứ du kích ở đồng bằng bị địch chà xát và biến thành vùng chiếm đóng. Nhiều cán bộ, đảng viên bị đánh bật khỏi cơ sở lên rừng núi, thiếu lương thực, thuốc chữa bệnh. Phong trào kháng chiến sa sút nghiêm trọng và gặp nhiều khó khăn, thử thách. Trước lực lượng mạnh và những thủ đoạn càn quét ác liệt của địch, cùng với những tổn thất lớn của ta, một số cán bộ đảng viên hoang mang dao động. Nhiều tổ chức cơ sở đảng, cơ sở quần chúng, dân quân, du kích mới xây dựng còn non yếu bị tê liệt, thậm chí có nơi bị tan rã. Tình hình hết sức nghiêm trọng, nhưng lãnh đạo cá cấp chưa kịp thời đề ra chủ trương thích hợp để ổn định tư tưởng, tổ chức, giữ vững tinh thần cho quần chúng, duy trì phong trào.

Việc thực dân Pháp rải quân chiếm đóng vùng đồng bằng để giữ đất, giữ dân gây cho ta nhiều khó khăn, nhưng mặt khác cũng làm cho lực lượng ủa chúng ngày càng mỏng, lại phải thường xuyên đối phó với chiến tranh du kích của ta, nên tinh thần binh lính địch sa sút. Chúng gặp nhiều khó khăn giữa ý định tập trung quân để cơ động tác chiến với việc bắt buộc phải phân tán binh lực để bình định vùng chiếm đóng nhằm vơ vét sức người, sức của phục vụ chiến tranh. Tuy nhiên, trước những cuộc tiến công lớn của địch, nhất là ở đồng bằng, lực lượng ta bị tổn thất, hy sinh, vùng chiếm đóng của địch mở rộng, gây cho ta nhiều khó khăn mới, phong trào chiến tranh du kích giảm sút mạnh. Vấn đề đặt ra là phải khôi phục và phát triển phong trào kháng chiến ở đồng bằng, từng bước đưa chiến tranh nhân dân phát triển sâu rộng, biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #52 vào lúc: 19 Tháng Mười Hai, 2015, 08:45:47 pm »

Các hội nghị cán bộ lần thứ bốn (5-1948) và lần thứ năm (8-1948) chủ trương: phát triển chiến tranh du kích, kết hợp đấu tranh về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa…, phát triển du kích, các đội vũ trang tuyên truyền, các đại đội độc lập; phải đưa các đại đội độc lập vào vùng sau lưng địch xây dựng cơ sở chính trị và quân sự, phát động chiến tranh du kích, lập nhiều làng chiến đấu ở đồng bằng, khu chiến đấu ở rừng núi, lập căn cứ du kích; phát triển lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân; phối hợp với quân, dân Lào và Campuchia tiến công địch, khoét sâu nạn thiếu quân của chúng, làm cho địch bị động đối phó lúng túng ở mọi chiến trường.

Công tác trong vùng bị địch tạm chiếm đóng là một hoạt động rất quan trọng nhằm giữ vững và nâng cao trình độ giác ngộ và tinh thần quyết chiến của nhân dân, lập lại và làm kiên cố các tổ chức đảng và quần chúng, làm rối ren và tan rã hàng ngũ địch, phá chính quyền địch, phá kinh tế địch, lập lại chính quyền ta. Vì thế phải kiên quyết chống khuynh hướng thủ tiêu đấu tranh và khuynh hướng đấu tranh bừa bãi, đặc biệt phát triển vũ trang tuyên truyền “Tiến sâu vào sau lưng địch, chinh phục dân và hội tề, gây cơ sở ngay ở hậu phương địch, để dọn đường cho đại đội độc lập vào phát triển du kích chiến tranh”(1). Các tổ chức Đảng ở vùng sau lưng địch cần bám đất bám dân. “Dù khó khăn thế nào chi bộ cũng phải bám lấy địa phương mà hoạt động”. Các Ban Chấp hành huyện, tỉnh cũng bắt buộc phải bám lấy địa phương mình để lãnh đạo phong trào”(2).

Về phương hướng phát triển đảng, cần coi trọng vùng đồng bào Mường ở Thanh Hóa, đặc biệt là vùng biên giới Việt - Lào và thành phố Huế.

Sau sự ra đời của Phân khu ủy Bình - Trị - Thiên (cuối năm 1947), đầu năm 1948, Bộ Chỉ huy Phân khu được thành lập do đồng chí Trần Văn Quang làm chỉ huy trưởng và Lư Giang làm Chính ủy, với một số đơn vị trực thuộc như đại đội quân báo, đại đội thông tin, đại đội bảo vệ, xưởng quân giới, bệnh xá… tăng cường thêm sự chỉ đạo cuộc kháng chiến trên địa bàn phân khu.

Đầu tháng 4-1948, Bộ Tư lệnh Quân khu IV thành lập Sở chỉ huy quân sự Bình - Trị - Thiên đóng trụ sở tại chiến khu Nhà Gỗ (Quảng Trị), nhưng gặp nhiều khó khăn về cung cấp hậu cần do quân Pháp đang càn phá dữ dội, các đồng chí phụ trách Sở chỉ huy phải trở ra ngoài vùng tự do. Vì thế chủ trương thành lập sở chỉ huy không thực hiện được theo dự kiến.

Tháng 4-1948, Phân khu ủy Bình - Trị - Thiên do đồng chí Nguyễn Chí Thanh chủ trì họp hội nghị cán bộ mở rộng tại xóm Nhà Gỗ (Quảng Trị). Tham dự hội nghị có các Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hanh chính, chỉ huy các Trung đoàn 95, 101, Tiểu đoàn 274 và Tỉnh đội trưởng ba tỉnh. Hội nghị kiểm điểm đánh giá tình hình, nghe phổ biến kinh nghiệm du kích chiến tranh ở đồng bằng Bắc Bộ. Từ đánh giá tình hình ở những nơi cán bộ, đảng viên vẫn bám trụ trong ba tỉnh và từ thực tế lực lượng vũ trang ta tiêu diệt địch ở Cầu Nhì, Đồng Dương, Mỹ Lợi… Hội nghị đi đến nhân định:

- Không có dân thì kháng chiến không thể thắng lợi. Tình trạng nhiều cán bộ, đảng viên bị đánh bật khỏi cơ sở, thoát ly địa phương là cực kỳ nghiêm trọng. Âm mưu của địch là tách rời nhân dân khỏi phong trào cách mạng. Cán bộ, đảng viên không kiên trì bám đất, bám dân là mắc mưu của địch.

Bộ đội và du kích tập trung đã lâu không được học tập, rèn luyện, sức chiến đấu không cao, trong khi địch tăng cường quân số và vũ khí, thay đổi phương thức hoạt động. Vì vậy, bộ đội ta không đủ sức đối phó với lực lượng cơ động của địch, không hỗ trợ được phong trào đấu tranh của nhân dân.

- Quân số và vũ khí của địch tăng lên, nhưng vì chúng phải rải ra chiếm đống nhiều nơi, lại phải lo đối phó với chủ lực ta ở phía trước, nên ở phía sau có nhiều sơ hở. Nhân dân vùng địch kiểm soát vẫn một lòng ủng hộ kháng chiến, ủng hộ bộ đội. Những thủ đoạn khủng bố lừa bịp của kẻ thù không thể làm nao núng tinh thần kháng chiến của nhân dân.

Từ nhận định trên, Hội nghị Phân khu ủy chủ trương:

1. Toàn Đảng bám sát dân; nhằm vào những vùng dân cư đông đảo, ruộng đất phì nhiêu, những vùng xung yếu, sau lưng địch làm trung tâm hoạt động của cán bộ, của các ngành.

2. Gây phong trào tranh đấu sôi nổi, liên tiếp trong lòng địch, đánh bại tinh thần cầu an trong cán bộ, đảng viên và đồng bào, lấy việc phá tề, trừ gian và cải thiện dân sinh làm công tác chính.

3. Tranh đấu tư tưởng, thống nhất nội bộ Đảng, xây dựng cơ sở ở những nơi xung yếu, phát triển đảng trong quần chúng đông đảo.

4. Phát triển chiến tranh nhân dân; xây dựng các đơn vị Vệ quốc đoàn, thực hiện kế hoạch “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”, đồng thời củng cố và phát triển dân quân, du kích xã, gây một phong trào “tay không cướp súng giặc”.


(1), (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.9, tr.98, 115.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #53 vào lúc: 19 Tháng Mười Hai, 2015, 08:47:53 pm »

Về một số biện pháp cấp bách, Hội nghị Phân khu ủy nêu rõ:

1. Kiên quyết tập trung các trung đoàn và tiểu đoàn chủ lực, các đơn vị du kích tập trung của ba tỉnh đến những nơi tương đối an toàn, chỉnh đốn đội ngũ, bổ sung đầy đủ quân số và tiến hành một đợt rèn cán, chỉnh quân theo chương trình thống nhất của Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh, cố gắng nâng cao sức chiến đấu của bộ đội chủ lực để có thể đánh bại tiểu đoàn lưu động của địch đi càn quét. Các Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh cần cố gắng đảm bảo bổ sung quân số và cung cấp lương thực, thực phẩm cho bộ đội luyện tập và chiến đấu.

2. Các tỉnh tiến hành một đợt sinh hoạt chính trị cho các cấp ủy và đảng viên, làm rõ thắng lợi trong hơn một năm kháng chiến của quân và dân ta, thất bại trong chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của địch, hiểu sâu sắc âm mưu thâm độc của địch trong chiến lược “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”; thấy rõ hậu quả nghiêm trọng của tình trạng cán bộ, đảng viên xa dân, xa cơ sở. Mặt khác, cũng cần thấy những sơ hở không thể tránh được của địch; động viên cán bộ, đảng viên, chiến sĩ cứu quốc dũng cảm luồn sâu vào vùng sau lưng địch, phát huy lòng yêu nước của nhân dân và phát triển cơ sở kháng chiến làm chỗ đứng chân cho bộ đội đánh địch từ sau lưng chúng, biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta.

3. Cần kết hợp chặt chẽ đấu tranh vũ trang với đấu tranh kinh tế, chính trị, địch vận, giúp dân phát triển sản xuất, bảo vệ mùa màng; trong những vùng sau lưng địch càn phải[189] lãnh đạo nhân dân dựa vào luật pháp và những lời tuyên truyền mỵ dân của địch, đấu tranh chống những hành động cướp phá, ức hiếp dân của bọn ác ôn và binh lính địch, vận động dân chống bắt phu, bắt lính, kêu gọi chồng con bỏ ngũ về với gia đình… càng đánh mạnh thì càng có nhiều điều kiện để vận động binh lính địch.

Để đường lối kháng chiến toàn dân trở thành hiện thực, những đại đội độc lập và các đội vũ trang tuyên truyền được thành lập, tiến sâu vào vùng địch tạm chiếm phát động chiến tranh du kích.

Việc bố trí các đại đội độc lập có tác dụng “điều hòa được hai hình thức phân tán và tập trung, lúc địch chưa đến sẽ điều hòa được công tác dân vận và nhiệm vụ quân sự; lúc cần thiết sẽ quyết định được lúc nào thì ở lại địa phương, đến lúc nào thì phải tạm thời rút lui; lúc chiến sự lan rộng thì sẽ điều hòa được hình thức độc lập tác chiến trong địa phương mình và phối hợp tác chiến với các đại đội của địa phương láng giềng”(1).

Hội nghị dân quân toàn quốc lần thứ hai (4-1948) nêu lên nhiệm vụ quan trọng năm 1948 là phát động mạnh mẽ du kích chiến tranh, lập làng chiến đấu ở đồng bằng, phát triển chiến tranh du kích trong tất cả các giới và khắp các địa phương; tổ chức du kích bí mật, tình báo, liên lạc, giao thông nhân dân; gây cơ sở du kích trong vùng địch kiểm soát[190] và gây du kích chiến nơi đã có cơ sở; về tác chiến đặc biệt chú trọng vũ trang tuyên truyền, phát triển địa lôi, đánh bằng vũ khí thô sơ.

Trong thư gửi hội nghị này, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn; “Thiết thực tổ chức và thiết thực huấn luyện dân quân du kích từng làng. Lấy dân quân du kích làm nền tảng đồng thời phải kiện toàn các độ du kích thoát ly”(2).

Tại hội nghị, báo cáo của Cục trưởng dân quân nêu rõ: Chúng ta sẽ phát triển nhiều trận đánh nhỏ, những trận liên tiếp, những trận không ngừng, thực hiện khẩu hiệu “Mỗi người dân là một đội viên”, “mỗi làng, mỗi xóm, mỗi gia đình là một ổ chiến đấu”… Khẩu hiệu “góp gió thành bão” phải được triệt để thực hiện… làm cho mỗi con dao, mỗi cái cuốc, mỗi cái búa hoặc bất cứ một thứ dụng cụ nào nằm trong tay quần chúng hòa hợp với tinh thần quật khởi trở nên những vũ khí mầu nhiệm… Chúng ta sẽ phát triển du kích chiến tranh trong các hang cùng ngõ hẻm, trong mọi tầng lớp nhân dân… Chúng ta sẽ đánh địch ngay sau lưng chúng mạnh mẽ hơn ngày nay… Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ IV (5-1948) coi công tác vùng sau lưng địch là một bộ phận rất quan trọng trong toàn bộ công tác của Đảng nhằm giữ vững và nâng cao trình độ giác ngộ và tinh thần quyết chiến của nhân dân lập lại và làm kiên cố các tổ chức quần chúng của Đảng, làm rối ren và tan rã hàng ngũ địch, phá chính quyền địch, phá kinh tế địch, lập lại chính quyền ta. Khẩu hiệu đấu tranh ở đó là: chống khủng bố, chống bắt phu, bắt lính, chống nộp thuế, chống lập hội tề. Khi quần chúng đã có giác ngộ và có tổ chức cao, cần phối hợp các hình thức đấu tranh chính trị và quân sự.


(1) Kế hoạch, báo cáo và kinh nghiệm của đại đội độc lập, vũ trang tuyên truyền của Cục Dân quân, hồ sơ 06, phòng Cục Dân quân, lưu trữ Bộ Quốc phòng.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. , tr.415-416.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #54 vào lúc: 19 Tháng Mười Hai, 2015, 08:48:23 pm »

Tháng 5-1948, Đại hội đại biểu Đảng bộ Liên khu IV lần thứ nhất họp vào lúc địch đang tăng cường đánh phá ở Bình - Trị - Thiên và lăm le tiến công Thanh - Nghệ - Tĩnh.

Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Trường chinh dự đại hội, nhận xét cán bộ Liên khu IV có tinh thần tích cực, nhẫn nại, xung phong, quả cảm và có óc sáng kiến, nhưng chủ quan, hẹp hòi, bản vị, địa phương, chưa tiến kịp sự đòi hỏi của thời cuộc; quần chúng, đảng viên bên dưới tiến bộ nhanh hơn cán bộ phụ trách bên trên; nhân dân nói chung đoàn kết rộng rãi và bền chặt nhưng nội bộ Hội không thống nhất; kinh nghiệm của Hội rất nhiều nhưng đúc kết kinh nghiệm chưa đầy đủ. Tổng Bí thư chỉ rõ nhiệm vụ của đại hội là phải kiểm thảo chủ trương, chính sách, công tác thực tế của Hội và khu ủy; tổng kết kinh nghiệm của Hội; quyết định phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch cho thời kỳ mới; bầu lại khu ủy và chuẩn bị cứ đại biểu đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc.

Đại hội làm việc khẩn trương, dân chủ, với tinh thần thẳng thắn tự phê bình và phê bình; kiểm điểm đánh giá tình hình và quyết định nhiệm vụ công tác trong giai đoạn mới; nghe báo cáo và các đề án công tác cụ thể về quân sự, kinh tế, xã hội, dân vận, xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân và công tác đảng vụ.

Về quân sự, đại hội nhận định: địch khó có khả năng đánh lớn vào Thanh - Nghệ - Tĩnh nếu ta không chủ quan mất cảnh giác. Đại hội tập trung đánh giá tình hình Bình Trị Thiên; phê phán nhận thức sai lầm và những biểu hiện của tư tưởng hữu khuynh, biệt lập trong cán bộ các cấp, nhất là trong một số cán bộ lãnh đạo, chỉ huy chủ chốt, cán bộ các cấp chưa kịp thời đề ra được những chủ trương thích hợp để ổn định, giữ vững, phát triển phong trào. Thủ đoạn chủ yếu của địch để bình định Bình - Trị - Thiên là càn quét, chà đi xát lại quyết liệt; vấn đề đặt ra lúc này là phải lãnh đạo nhân dân vừa biết tránh giặc vừa kiên quyết đánh giặc, đánh bại thủ đoạn càn quét của địch. Muốn vậy, phải xây dựng cơ sở quần chúng, lãnh đạo tổ chức nhân dân đấu tranh, vận động toàn dân tham gia đánh giặc, giữ làng, trừng trị bọn Việt gian, giải tán hội tề, vận động binh lính địch; phối hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với hoạt động quân sự; phối hợp chặt chẽ giữa các vùng trong từng khu vực, giữa các chiến trường trong liên khu với chiến trường toàn quốc, tránh để địch dồn lực lượng đánh phá từng khu vực một.

Đại hội chủ trương “Tất cả cho Bình Trị Thiên”, chuyển khẩu hiệu “Tất cả cho kháng chiến” sang khẩu hiệu “Tất cả để chiến thắng” và đề ra các nhiệm vụ lớn sau đây:

1. Đánh mạnh ở Bình - Trị - Thiên.

2. Thúc đẩy phong trào kháng chiến, đề phòng địch đánh Thanh - Nghệ - Tĩnh, ráo riết chuẩn bị lực lượng, phát huy tác dụng tích cực của hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh đối với tiền tuyến Bình - Trị - Thiên.

3. Mở mặt trận Trung Lào.

Về xây dựng đảng, đại hội đề ra những biện pháp quan trọng nhằm “xây dựng đảng thành một Đảng quần chúng”, đẩy mạnh xây dựng “chi bộ tự động công tác”, tích cực đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng tốt cán bộ.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ Liên khu chính thức đầu tiên do đồng chí Nguyễn Chí Thanh làm Bí thư.

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư nhắc nhở Đại hội: 1. Phải đoàn kết chặt chẽ nội bộ để đoàn kết được toàn dân đưa khách chiến đến thắng lợi, và muốn thật thà đoàn kết chặt chẽ về mọi mặt phải tẩy cho sạch, cho tận gốc các bệnh thành kiến, bè phái, địa phương chủ nghĩa; hiện trạng đau đớn ở Bình - Trị - Thiên cũng do hai bệnh đó gây nên. Phải thực hành cho kỳ được chính sách đại đoàn kết toàn dân; muốn vậy phải sáng suốt và rộng rãi, khéo chia công việc, khéo dùng nhân tài, phải “tìm hiền, kính sĩ”, chớ bao biện, chớ “đố hiền, tật năng”. 2. Khu IV phải ra sức giúp đỡ Bình - Trị - Thiên về moi mặt nhất là về quân sự, chính trị. 3. Phải ra sức tăng gia sản xuất và tiết kiệm để đi đến tự cấp, tự túc. 4. Phải ra sức đào tạo, giúp đỡ, cất nhắc cán bộ mới càng nhiều càng tốt; đoàn thể mà có nhiều cán bộ mới và cán bộ giỏi hơn cán bộ cũ mới là một đoàn thể mạnh mẽ. 5. Mọi công việc đều lấy tinh thần thi đua mà làm; mỗi đồng chí phải là người xung phong trong cuộc thi đua ái quốc.

Cuối thư, Chủ tịch tin chắc: Đoàn thể, đồng chí sẽ cố gắng hơn nữa, dũng cảm hơn nữa; kiên quyết sửa chữa những khuyết điểm và phát triển những ưu điểm, quyết vượt qua mọi khó khăn, đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #55 vào lúc: 19 Tháng Mười Hai, 2015, 08:50:03 pm »

Chủ trương “Toàn dân tham gia đánh giặc” xuất phát từ đường lối kháng chiến của Đảng và được rút ra từ phong trào chiến tranh du kích ở Bình - Trị - Thiên là một chủ trương đúng đắn, là “điều kiện căn bản để khôi phục và phát triển chiến tranh du kích ở Bình - Trị - Thiên trong giờ phút gay go nhất của hai năm 1947-1948”(1).

Đại hội đại biểu lần thứ nhất là sự kiện lịch sử quan trong đánh dấu bước trưởng thành mới của Đảng bộ Liên khu, của cấp lãnh đạo liên khu và mở đầu bước phát triển mới của cuộc chiến tranh nhân dân trong toàn Liên khu IV.

Thực hiện chủ trương “Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung của Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy, các đơn vị bộ đội ở Bình - Trị - Thiên phân tán một bộ phận thành những đại đội độc lập luồn sâu vào vùng tạm bị chiếm. Cụ thể như sau:

Trung đoàn 101 phân tán Đại đội 120 về Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà; Đại đội 17 về Phú Vang, Phú Lộc, Đại đội 123 (đại đội biệt động) về Hương Thủy và thành phố Huế.

Trung đoàn 95: Đại đội 150 về Triệu Phong, Hải Lăng; Đại đội 153 về Gio Linh, Vĩnh Linh.

Tiểu đoàn 247: Đại đội 4 về Quảng Bình, Lệ Thủy; Đại đội 2 ở Bố Trạch, Quảng Bình.

Nhiệm vụ của các đại đội độc lập là vừa chiến đấu vừa công tác, vũ trang tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn nhân dân tránh giặc, đánh giặc, cất giấu tài sản, xây dựng lực lượng dân quân, du kích, phát động chiến tranh du kích.

Những cán bộ, đảng viên trước đây bị bật đất, sau khi được học tập và được cán bộ tỉnh, huyện hướng dẫn, động viên lần lượt trở về, được nhân dân hết lòng che chở, nuôi dưỡng, từng bước chắp nối lại liên lạc với nhiều cơ sở trong các vùng sâu, khôi phục lại tổ chức đảng, tổ chức quần chúng. Nhân dân hăng hái tham gia các đoàn thể Việt Minh, tham gia dân quân, xây dựng làng chiến dấu, sẵn sàng cùng bộ đội đánh giặc. Phần lớn các chi bộ ly hương trở về hoạt động và lãnh đạo quần chúng.

Có lực lượng vũ trang trở về hoạt động, phong trào kháng chiến ở đồng bằng lớn mạnh hẳn lên. Nhờ sự dìu dắt của các đại đội độc lập, lực lượng dân quân, du kích phục hồi và phát triển. Nhiều nơi dân quân du kích chủ động chống giặc giữ làng, tổ chức phục kích, chặn đánh những toán địch đi lùng sục, cướp phá, gây cho chúng những thiệt hại nặng nề. Ngay quanh thành phố Huế, một vành đai du kích gần như khép kín, làm chỗ đứng chân cho đại đội biệt động, giúp cho nhiều cán bộ kháng chiến bị địch bắt giam ở Huế vượt ngục an toàn, trong đó có Ủy viên thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên Trần Tân, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Huế Hoàng Phương Thảo.

Ngày 6-5-1948, Pháp huy động hơn 300 quân tiến công làng Cảnh Dương. Dân quân, du kích Cảnh Dương quần nhau với địch suốt một ngày, tiêu diệt một số tên, trong đó có hai sỹ quan Pháp. Ngày 12-5-1948, địch lại tiến công lần thứ hai, bị thương vong nhiều hơn vẫn không chiếm được làng.

Ngày 17-5-1948, dân quân, du kích cùng Trung đội 1 bộ đội Lệ Thủy phục kích trên gò đất bãi bồi Thượng Đội, giáp giới hai xã Ninh Khai và Hoàng Hoa Thám, đánh hai thuyền địch đi trên sông, gây cho chúng một số thương vong, thu một trung liên.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Liên khu (5-1948), các nhiệm vu do Liên khu ủy và Hội nghị cán bộ Phân khu Bình - Trị - Thiên đề ra, phong trào chiến[196] tranh nhân dân ở Bình - Trị - Thiên đã có bước tiến mới. Liên khu ủy và Bộ tư lệnh liên khu quyết định mở đợt tác chiến ở Bình - Trị - Thiên, lấy mặt trận bắc Quảng Bình làm hướng chính, nhằm đánh bại kế hoạch phá mùa Tháng Năm của địch, bảo vệ nhân dân gặt hái, thu giấu tài sản, đồng thời đẩy mạnh vũ trang tuyên truyền, gây dựng cơ sở, phát triển lực lượng, đưa phong trào chiến tranh du kích ở bắc Quảng Bình tiến kịp hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên, giữ vững giao thông liên lạc Bắc - Nam, phá âm mưu của địch chiếm bắc Quảng Bình làm bàn đạp tiến công Hà Tĩnh.

Cùng với việc điều động Tiểu đoàn 346 thuộc Trung đoàn 57 (Nghệ An) vào phối thuộc với trung đoàn 103 (Hà Tĩnh), Bộ Tư lệnh quyết định giao cho Ban chỉ huy Trung đoàn 103 trực tiếp chỉ huy mặt trận bắc Quảng Bình.

Cùng với việc điều động Tiểu đoàn 346 thuộc Trung đoàn 57 (Nghệ An) vào phối thuộc với trung đoàn 103 (Hà Tĩnh), Bộ Tư lệnh quyết định giao cho Ban chỉ huy Trung đoàn 103 trực tiếp chỉ huy mặt trận bắc Quảng Bình.


(1) Trần Văn Quang: Báo cáo kinh nghiệm kháng chiến ở Bình - Trị - Thiên năm 1949ư, Hồ sơ 41, lưu trữ Bộ Quốc phòng, tr. 2.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #56 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2015, 08:19:45 pm »

Chủ trương đưa các đơn vị ở hậu phương ra chiến đấu ở phía trước tạo cơ hội tốt để nâng cao trình độ chỉ huy và bản lĩnh chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ, đồng thời thông qua thực tiễn chiến trường để kiểm nghiệm kết quả xây dựng và huấn luyện của các đơn vị. Đó cũng là hành động thiết thực biểu thị tình cảm sâu sắc và trách nhiệm của ba tỉnh hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh đối với Bình - Trị - Thiên.

Cuối tháng 6-1948, các tiểu đoàn 274, 346 và 400 do Trung đoàn trưởng Tùng Lâm chỉ huy phối hợp chặt chẽ với du kích và nhân dân các địa phương, đồng loạt tiến công vào các vị trí Ba Đồn, Thụ Lộc, Cự Nẫm (bắc Quảng Bình), buộc địch phải cấp tốc điều quân từ Đồng Hới và Quảng Trị đến cứu nguy.

Đầu tháng 7-1948, bộ đội ta bí mật luồn về đồng bằng sau lưng địch, tiến công các vị trí Sen Bàng, Hy Duyệt (bắc Quảng Bình), tiêu diệt và làm bị thương hàng trăm tên, buộc địch phải rút bỏ các đồn Lẻ Khương Hà (Bố Trạch), Mỹ Đức (Lệ Thủy), Phú Kinh, Minh Lễ (Quảng Trạch). Địa bàn làm chủ của ta được mở rộng, phạm vi chiếm đóng của địch ở bắc Quảng Bình bị thu hẹp.

Lợi dụng lúc chủ lực ta cơ động tác chiến trên địa bàn khách ngày 12-7-1948, giặc Pháp huy động 500 bộ binh phối hợp với quân nhảy dù, dùng 28 xe, 8 canô, tàu chiến và 11 lần chiếc máy bay yểm trợ mở cuộc càn quét lớn đánh phá khu vực Ròn, tiến công làng Cảnh Dương. Dựa vào hệ thống nhà cửa, đường sá, công sự, vật cản và thế trận bày sẵn, du kích cùng nhân dân bám trụ kiên cường, dùng vũ khí, bom mìn tự tạo chống trả suốt một ngày, không cho địch vào làng, tiêu diệt 11 tên Pháp, trong đó có một tên quan ba. Ngày 13-7-1948, địch phải rút khỏi khu vực Ròn.

Làng chiến đấu Cảnh Dương (Quảng Trạch) trở thành một trong những làng chiến đấu anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Thực tiễn chiến đấu của dân quân, du kích và nhân dân Cảnh Dương chứng tỏ: trên một mảnh đất ven biển không đầy 1km2, dân số không nhiều, địa hình không thuận lợi, vũ khí thô sơ, nhưng có sự chỉ đạo chặt chẽ, quyết tâm chiến đấu cao, biết xây dựng thế trận làng, xã vững chắc, dựa vào hệ thống hầm hào, công sự, cây cối, chướng ngại vật, lực lượng chiến đấu tại chỗ của một làng vẫn có thể đánh lui được cuộc tiến công của quân địch thiện chiến có trang bị vũ khí hiện đại, giữ vững trận địa làng, xã.

Phối hợp với hoạt động của bộ đội ở rừng núi và đồng bằng Quảng Trạch, Bố Trạch, các lực lượng vũ trang ta đẩy mạnh hoạt động ở nhiều nơi:

Ngày 20-7-1948, du kích thôn Cao La (Bố Trạch) giả làm người cắt cỏ, chờ đi đi bảo vệ dân phu ra ngoài đồn lấy nước, nhảy lên ôm ba tên tước vũ khí giữa ban ngày.

Ngày 2-8-1948, bộ đội chủ lực được sự hỗ trợ của tự vệ và nhân dân, dùng bom bay và các loại vũ khí tiến công thị xã Đồng Hới. Trước sự xuất hiện của vũ khí mới của ta, giặc Pháp sợ hãi, vội vàng cho vợ con và ngoại kiều di tản vào Quảng Trị. Bọn tay sai của Pháp ở nhiều nơi hoang mang, bí mật liên lạc với cán bộ, bộ đội xin trở về với kháng chiến.

Sáng ngày 10-8-1948, Tiểu đoàn 274 cùng một bộ phận của Tiểu đoàn 400 (Trung đoàn 103) do Tham mưu trưởng Lê Bá Huyện chỉ huy thực hiện chiến thuật vận động phục kích quân địch đi quan sát khu vực Tiên Dương, phá hủy năm xe ôtô, tiêu diệt 17 tên, trong đó có 14 tên Pháp (một cấp tá, ba cấp úy), tỉnh trưởng Quảng Bình Nguyễn Nhơn, phó tỉnh trưởng Nguyễn Toan và huyện trưởng Quảng Trạch. Đây là lần đầu tiên ta diệt được bọn đầu sỏ ngụy quyền cấp tỉnh, gây tâm lý dao động trong hệ thống ngụy quân, ngụy quyền ở Quảng Bình. Nhân dân phấn khởi, hả dạ vì trừ khử được những tên phản động bán nước nguy hiểm.

Trong hơn hai tháng liên tục chiến đấu, quân, dân bắc Quảng Bình với sự chi viện tích cực của hậu phương, trực tiếp là Hà Tĩnh, đã giành nhiều thắng lợi, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 300 tên địch, thu hàng chục súng các loại, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch, mở rộng địa bàn hoạt động của ta ở vùng đồng bằng ven biển, góp phần phá tan âm mưu của địch chiếm bắc Quảng Bình làm bàn đạp tiến công Hà Tĩnh và các tỉnh phía bắc Liên khu IV.

Phối hợp với mặt trận bắc Quảng Bình, quân, dân Quảng Trị được sự chỉ đạo của phân khu ủy và Bộ chỉ huy phân khu, trực tiếp là Chính ủy Lê Chưởng và Trung đoàn trưởng Lê Nam Thắng, mở một đợt tác chiến, sử dụng các chiến thuật phục kích, địa lôi chiến… đánh nhiều trận, nhất là trên đường số 9. Bộ đội và dân quân, du kích Hướng Hóa liên tục đánh phá giao thông trên đường số 9, phá hủy hàng chục xe quân sự chở vũ khí, lương thực, thực phẩm, gây cho địch nhiều khó khăn trong việc tiếp tế cho mặt trận Trung Lào.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #57 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2015, 08:20:24 pm »

Ngày 23-6-1948, một trung đội (Trung đoàn 95) phục kích ở cầu Độc Mạch, tiêu diệt và bắt sống 13 tên Pháp, thu toàn bộ vũ khí và phá hủy một xe công binh.

Ngày 7-7-1948, tại Ao Đồn, Tiểu đoàn 302 vận động phục kích một đại đội địch hành quân lên càn vùng tiền chiến khu diệt bốn tiểu đội, bắt 20 tù binh, thu hàng chục súng, chặn đứng cuộc càn của địch.

Ngày 14-7-1948, Tiểu đoàn 302 dùng mưu mẹo diệt đồn Đập, huyện Do Linh. Nhân lễ Quốc khánh Pháp, ta bố trí hai hữ chiến sĩ gánh rượu, thịt vào đồn “khao” quan, lính địch. Khi chúng đã no say, cả tiểu đoàn do Chính ủy trung đoàn Lê Chưởng và Trung đoàn phó Phùng Thế Bằng chỉ huy áp vào đồn, bắt gọn cả đại đội, trong đó có bốn sỹ quan Pháp, thu toàn bộ vũ khí không tốn một viên đạn.

Ngày 9-8-1948, đại đội du kích Lê Hồng Phong phối hợp với một bộ phận bộ đội của Trung đoàn 95 phục kích đoàn xe địch tại kilômét 16 trên đường số 9, phá hủy và phá hỏng 13 xe, diệt 25 tên, thu 30 súng các loại. Đại đội du kích Lê Hồng Phong ghi thêm một chiến công mới, xứng đáng với danh hiệu cao quý do Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng: “Đơn vị kiểu mẫu của Liên khu IV”.

Trên đà thắng lợi, ngày 20-8-1948, Trung đoàn 95 tổ chức trận vận động phục kích tại đèo Tân Lâm trên đường số 9, đánh đoàn xe vận tải của địch tiếp tế cho Trung Lào, phá hủy, phá hỏng 16 xe, tiêu diệt và bắt sống 30 tên Pháp, thu nhiều vũ khí và quân trang, quân dụng. Để bảo vệ đội hình chiến đấu của trung đoàn, Đại đội phó Hồng Vân chỉ huy một tiểu đội, bí mật đưa hai khẩu trung liên áp sát sân bay Đông Hà, bất ngờ bắn rơi tại chỗ một máy bay trinh sát ngay khi nó vừa rời khỏi đường băng, góp phần chi viện và cổ vũ bộ đội trong trận đánh này. Đây là trận vận động phục kích giao thông cấp trung đoàn đầu tiên trên chiến trường Bình - Trị - Thiên. Thế trận được triển khai trên một tuyến dài hơn 3km, có sự tham gia của nhiều lực lượng, đặc biệt là lần đầu tiên Trung đoàn 95 dùng điện thoại chỉ huy trận đánh; đặt dưới sự chỉ huy thống nhất. Tuy hiệu quả chiến đấu chưa cao, nhưng trận đánh đã thể hiện bước phát triển mới của bộ đội chủ lực phân khu về năng lực tổ chức chỉ huy, về trình độ hợp đồng tác chiến cũng như bảo đảm hậu cần. Sau trận Tân Lâm, địch phải tìm cách đối phó với chiến thuật phục kích giao thông của ta, thay đổi quy luật và thủ đoạn hành quân vận chuyển, tổ chức các đoàn xe từ 30 đến 40 chiếc, có xe bọc thép, đại bác và máy bay hộ tống.

Tại Thừa Thiên, phối hợp với mặt trận bắc Quảng Bình và bắc Quảng Trị, Trung đoàn 101 do Trung đoàn trưởng Hà Văn Lâu và Chính ủy Trần Quý Hai chỉ huy, mở một đợt tác chiến nhằm phá âm mưu chính trị của địch đưa Phan Văn Giáo lên làm “Tổng trấn Trung phần Việt Nam”.

Giữa tháng 6-1948, xuất phát từ vành đai du kích quanh thành phố Huế, đại đội biệt động tiến vào nội thành rải truyền đơn và vũ trang tuyên truyền trong gần một tiếng đồng hồ.

Ngày 16-6-1948, một bộ phận của trung đoàn 101 đột nhập vào thành phố Huế giữa ban ngày, dùng AT, bazôka, súng máy tiến công kho xăng, nhà ga, bắn cháy nhà chứa quân dụng, gây cho địch nhiều thiệt hại, rồi rút lui an toàn,

Đêm 27-6-1948, Tiểu đoàn 237 do Chính trị viên Quách Sỹ Kha, Tiểu đoàn trưởng Trần Sơn Nham chỉ huy, bí mật hành quân vượt phá Tam Giang, sử dụng nhân mối làm nội ứng, kỳ tập vị trí Mỹ Lợi, chia thành nhiều mũi đồng loạt tiến công vào đồn. Bị đánh bất ngờ, địch rối loại, chống cự yếu ớt. Ta vừa chiến đấu vừa gọi hàng, sau một giờ tiêu diệt nhiều sinh lực địch, lôi kéo sáu hàng binh Đức và rút trước khi trời sáng.

Ngày 9-7-1948, Tiểu đoàn 319 kỳ tập đồn Hà Thanh (Phú Vang). Lực lượng địch đóng đồn ngay tại nhà chờ, gồm 50 ngụy binh, phần lớn là thanh niên theo đại Thiên chúa, do tên trung úy Thanh, một phần tử phản động đội lốt tôn giáo cầm đầu. Địch lợi dụng tôn giáo chống phá điên cuồng phong trào kháng chiến, dùng nhiều thủ đoạn xảo quyệt để kìm kẹp, khống chế nhân dân, phá chiến tranh du kích, gây nhiều tội ác man rợ đối với đồng bào trong vùng. Thường vụ huyện ủy Phú Vang yêu cầu Tiểu đoàn 319 tiêu diệt đồn này để tạo điều kiện phát động phong trào quần chúng. Ta dùng Kê Men, một hàng binh người Đức được giác ngộ, từng lập công trong trận Cầu Nhi, giả làm sỹ quan Pháp, cùng 30 chiến sĩ cải trang thành ngụy binh, dùng mưu lừa bọn lính gác mở cổng đồn, rồi nhanh chống xông vào nổ súng tiến công. Do bị đánh bất ngờ, tên Thanh bỏ trốn, bọn địch không dám chống cự. ta tiêu diệt[202] 44 tên địch, thu một trung liên, 34 súng trường, cùng nhiều đạn dược. giải thoát bảy cán bộ bị giam giữ. Mọi tài sản thuộc nhà thờ Hà Thanh được giữ nguyên vẹn. Nhân dân trong vùng thoát ách kìm kẹp của địch, vô cùng phấn khởi, hăng hái tham gia kháng chiến. Đặc biệt là đồng bào công giáo càng hiểu rõ hơn chính sách tự do tín ngưỡng của Chính phủ kháng chiến, khâm phục tinh thần chiến đấu dũng cảm, kỷ luật nghiêm minh của bộ đội Cụ Hồ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #58 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2015, 08:21:50 pm »

Tiếp theo trận tiêu diệt đồn Hà Thanh, Trung đoàn 101 phục kích ở cửa Tư Hiền, đánh chìm 14 đò lớn chở 150 tấn lương thực của địch; tổ chức trận vận động chiến đánh địch đi càn ở Dưỡng Mông (Phú Vang), v.v.

Phong trào du kích chiến tranh tuy chưa đều giữa các xã, các huyện, các tỉnh, nhưng ở nhiều nơi phát triển khá vững chắc như huyện Bố Trạch và một số xã của huyện Quảng Trạch (Quảng Bình), huyện Gio Linh (Quảng Trị), các huyện Phú Vang, Hương Thủy, Phong Điền (Thừa Thiên). Ở những nơi này, hễ địch ra khỏi đồn đều gặp tiếng súng đánh trả của dân quân, du kích.

Từ tháng 6 đến tháng 8-1948, quân và dân Bình - Trị - Thiên đánh 57 trận, diệt gần 500 tên (có 350 tên Pháp) làm bị thương hơn 110 tên (có 50 tên Pháp), bắt 112 tên (có 13 tên Pháp), 10 hàng binh Đức, Angiêri, diệt tỉnh trưởng, tỉnh phó Quảng Bình, thu 232 súng, phá hủy, phá hỏng 44 xe bọc thép và xe quân sự các loại, bắn rơi hai máy bay, phá hủy một đầu máy xe lửa, đánh sập bảy cầu, đánh chìm 14 đò chở lương thực.

Trước sự tiến công dồn dập của quân, dân Bình - Trị - Thiên, bọn chỉ huy Pháp ở Trung phần Việt Nam ra lệnh cho quân lính canh gác nghiêm ngặt, tăng cường công sự phòng ngự, đào hầm tránh bom bay trong thành phố, rút chủ lực ra ngoài đề phòng ta tiến công, đồng thời rút bỏ một loạt vị trí ở đồng bằng như Hà Thanh, Xuân Thiện, Trung Hà, Hòa Phú Đông, Quảng Xuyên để tăng cường cho các vị trí xung yếu.

Ngày 27-9-1948, thiếu tá Nguyễn Ngọc Lễ, tổng chỉ huy Bảo vệ quân ở Trung phần Việt Nam báo cáo lên Bộ chỉ huy Pháp và Thủ hiến Trung phần: Hai tháng nay tình hình bốn tỉnh (Bình - Trị - Thiên và Quảng Nam) rất nghiêm trọng. Việt Minh hoạt động ráo riết, lấy hết đồn này đến đồn khác và hoạt động cả ban ngày giữa tỉnh lỵ mà quân ta không đủ quân số và vũ khí để đối phó. Y đề nghị: … Cho 1.000 súng tay và súng máy, đóng thêm đồn ở tỉnh để giữ đất đai đã chiếm được và để Bảo vệ quân khỏi thất bại. Nếu không giải quyết thì an ninh và trật tự không giữ nổi, nhiều làng mạc nay sẽ rơi vào tay Việt Minh…

Đi đôi với tiến công quân sự, ta đẩy mạnh đấu tranh chính trị của quần chúng nhằm đập tan hệ thống ngụy quyền tay sai ở cơ sở. Nhận rõ âm mưu thâm độc của giặc Pháp và tác hại của hội tề, ta chủ trương vừa tiêu diệt sinh lực địch, vừa phối hợp với dân quân, du kích, công an hỗ trợ quần chúng phá tề, diệt ác, thành lập chính quyền nhân dân và phát triển lực lượng kháng chiến.

Rút kinh nghiệm thực tiễn phá tề trừ gian cuối năm 1947, đầu năm 1948 của Bình - Trị - Thiên, Liên khu ủy chủ trương phá tề từng đợt đều khắp ở ba tỉnh, tránh để địch tập trung lực lượng khủng bố từng nói.

Tháng 8-1948, Liên khu ủy chủ trương tổng phá tề lần thứ nhất. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các tỉnh ủy, được lực lượng vũ trang hỗ trợ, nhân dân vùng tạm bị chiếm ở cả ba tỉnh Bình - Trị - Thiên đồng loạt nổi dậy phá kìm, diệt ác, quét tề trên nhiều vùng lớn. Khí thế cách mạng của quần chúng sôi nổi như những ngày tổng khởi nghĩa, 80% hội tề ở Bình - Trị - Thiên bị giải tán. Chính quyền nhân dân thôn, xã lần lượt ra đời.

Cuối năm 1948, quân dân Bình - Trị - Thiên tổng phá tề lần hai. 95% hội tề bị giải tán. Chính quyền kháng chiến được thành lập lại và hoạt động, kể cả trong thành phố Huế và các thị xã Quảng Trị, Đông Hà, Đồng Hới, nêu cao vai trò và uy tín của chính quyền cách mạng. Tính đến năm 1948, ta phá được 3/4 số hội tề của địch ở Bình - Trị - Thiên. Riêng Quảng Trị phá được 230/280 hội tề, Thừa Thiên phá 390/490 hội tề. Cuộc đấu tranh trên mặt trận này hết sức dai dẳng và quyết liệt. Nhiều nơi ta vừa phá xong, địch lại quay về đàn áp nhân dân, khủng bố cán bộ, phá nát cơ sở, lập lại ngụy quyền tay sai. Có nơi ta phải phá đi phá lại ba đến bốn lần. Nhiều cán bộ cơ sở của ta bị bắt, bị giết. Thâm độc hơn, chúng còn lập hội tề bí mật để đối phó với chính quyền kháng chiến. Những nơi lực lượng kháng chiến mạnh, chúng đặt trụ sở hội tề ở gần đồn, ban ngày hội tề hoạt động, tối đến rút vào ngủ trong đồn.

“Tổng giải tán hội tề là một bằng chứng xác đáng để dân chúng nhận thấy sức mạnh của chính quyền nhân dân và uy tín của Chính phủ trung ương ta. Phong trào nhân dân kháng chiến sẽ nhờ việc giải tán hội tề mà ngày càng phát triển. Dân chúng nhờ đó càng thêm tin tưởng vững chắc vào thắng lợi cuối cùng”(1).

“Chủ trương “Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung” cùng với cuộc vận động “diệt tề, trừ gian” là yếu tố quan trọng hàng đầu trong những năm 1947-1948, đưa phong trào kháng chiến ở Bình - Trị - Thiên vững bước đi lên, thực sự trở thành một cuộc chiến đấu toàn dân, toàn diện, bền bỉ, kiên cường”(2).


(1) Chỉ thị về xây dựng lực lượng và tổ chức lãnh đạo công tác dân quân 1948-1949, hồ sơ 26, phòng Cục Dân quân, lưu trữ Bộ Quốc phòng, tr.42.
(2) Trần Văn Quang: Báo cáo kinh nghiệm kháng chiến ở Bình - Trị - Thiên năm 1949, Hồ sơ 42, phòng Liên khu IV lưu trữ Bộ Quốc phòng, tr. 2.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #59 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2015, 08:23:14 pm »

Chiến tranh nhân dân đã làm cho hệ thống đồn bốt chiếm đóng của quân đội Pháp bị lỏng lẻo. Hệ thống đồn bốt dầy đặc không thể ngăn cản nổi những hoạt động của quân dân Bình - Trị - Thiên, mà còn bị bao vây trở lại, bị chia cắt và cô lập ở nhiều nơi. Quân Pháp phải rút bỏ nhiều vị trí. Nhiều nơi vốn là vùng chiếm đóng của Pháp đã được thay bằng những khu du kích mạnh mẽ. Những vùng nông thôn rộng lớn như Khu 3 (Phú Lộc), Phú Hưng, Phú Tài (Phú Vang), Phong Chương (Phong Điền), Quảng Điền (Thừa Thiên), Chợ Cạn, phía đông Triệu Phong, Hải Lăng (Quảng Trị)… trở thành căn cứ du kích, không còn đồn địch. Các Ủy ban kháng chiến hành chính hoạt động công khai. Nhân dân hăng hái tăng gia sản xuất, cải thiện đời sống, đóng góp nhiều sức người, sức của cho kháng chiến. Một trung đoàn[206] bộ đội có thể đứng chân để nghỉ ngơi, chỉnh đốn đội ngũ và xuất phát đánh địch từ sau lưng chúng. Vành đai du kích hình thành và được củng cố ở xung quanh thành phố Huế, tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng vũ trang hoạt động. Mỗi căn cứ của ta, khi mới hình thành nằm giữa vòng vây của địch, nhưng nhiều căn cứ du kích hợp thành một cái lưới bủa vây địch.

Quán triệt nghị quyết của Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ IV về lập nhiều làng chiến đấu ở đồng bằng, khu chiến đấu ở miền núi, gây căn cứ du kích đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến đấu ở Liên khu IV, Liên khu ủy chủ trương phát động phong trào xây dựng nhiều làng chiến đấu không chỉ ở Bình - Trị - Thiên mà cả ở Thanh - Nghệ - Tĩnh. Nhiều làng chiến đấu liên hoàn hợp thành căn cứ du kích. Sự ra đời của căn cứ du kích là kết quả của phong trào quần chúng xây dựng làng, xã chiến đấu. Nhiều làng chiến đấu liên hoàn hợp thành một khu di kích hoặc căn cứ du kích. “Giữa làng chiến đấu và căn cứ du kích có quan hệ mật thiết về nội dung và bản chất. Có thể vì làng chiến đấu là từng viên gạch, căn cứ du kích là bức tường, là khối tổng hợp các làng chiến đấu tạo ra sức mạnh và tác dụng to lớn”(1). Làng chiến dấu là một thành tố của căn cứ du kích. Đánh giặc giữ làng là truyền thống của nhân dân Việt Nam. Mầm kháng chiến phải từ làng xã dấy lên. Truyền thống đó được kế thừa và phát huy cao độ dưới sự lãnh đạo của Đảng, hướng vào nhiệm vụ cụ thể là xây dựng làng chiến đấu, biến mỗi làng xã thành một pháo đài, gắn chặt giữ nước với giữ làng. Làng là gốc rễ của chiến tranh du kích. Nó là sào huyệt của dân quân để đánh giặc giữ mình. Địa hình của làng mạc rất thuật tiện cho quân du kích ẩn nấp. Tác dụng lớn nhất của nhân dân trong chiến tranh du kích thường phát huy ở làng mạc. Làng mạc là là cơ sở của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, là nơi có thể huy động mọi người tham gia đánh giặc và đánh giặc bằng mọi vũ khí có trong tay, có thể phát động và duy trì một cuộc chiến tranh du kích lâu dài. Vì vây, các cấp bộ đảng và chính quyền kháng chiến liên khu quan tâm chỉ đạo xây dựng làng kháng chiến để làm chỗ dựa tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, làm cơ sở để xây dựng căn cứ du kích, huy động nhân dân rào làng, đặt chướng ngại vật, đào hầm hào, đắp lũy, tổ chức bám địch, trinh sát…

Cùng với quá trình xây dựng là cuộc chiến đấu để bảo vệ các chiến khu và căn cứ du kích. Nhiều nơi dân quân du kích dựa vào làng mạc tự động đánh giặc. Dân quân, du kích các xã ở Bố Trạch, Quảng Trạch (Quảng Bình), Gio Linh (Quảng Trị), Phú Vang, Hương Thủy, Phong Điền (Thừa Thiên), hễ thấy địch là nổ súng chiến đấu.

Để củng cố tinh thần ngụy quân, ngụy quyền sau các đòn tiến công quân sự và các cuộc tổng phá tề của ta, từ giữa tháng 9 đến thượng tuần tháng 12-1948, thực dân Pháp liên tiếp mở nhiều cuộc càn quét vào căn cứ của phân khu và của các tỉnh, nhằm tiêu diệt cơ quan lãnh đạo kháng chiến, tiêu diệt chủ lực, hòng đè bẹp sức kháng chiến của Bình - Trị - Thiên, khôi phục lại ngụy quyền ở những nơi vừa bị mất.

Từ ngày 17 đến ngày 25-9-1948, địch điều bốn tiểu đoàn từ Đà Nẵng, Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình, cùng 10 máy bay, 100 xe quân sự, năm canô, 100 đò, có pháo binh chi viện, chia thành nhiều mũi, theo đường bộ và đường thủy tiến công lên chiến khu của tỉnh Quảng Trị và căn cứ của phân khu. Trước cuộc tiến công ồ ạt của địch, Bộ chỉ huy Phân khu chỉ đạo lực lượng vũ trang mở đợt tác chiến phối hợp trên toàn phân khu nhằm kìm chân, phân tán lực lượng địch, tạo điều kiện cho chiến khu chống càn thắng lợi.

Tại tiền chiến khu, dân quân, du kích dùng mìn, địa lôi, lựu đạn để đánh địch ở ngã tư Làng Am, Trường Phước, Phước Môn, Cùa, diệt và làm bị thương hàng trăm tên, làm giảm cường độ và tốc độ tiến công của địch.

Tại chiến khu Ba Lòng, cán bộ, cơ quan đã bình tĩnh sơ tán tài liệu, chuyển thương binh, kho tàng vào sâu trong rừng, đồng thời tổ chức chiến đấu, phối hợp với Đại đội trợ chiến 127 và Trung đội cảnh vệ (Trung đoàn 95) chặn đánh địch.


(1) Căn cứ du kích dự thảo kinh nghiệm kháng chiến chống Pháp, lưu Thư viện quân đội, tr.1.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM