Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 10:12:12 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954  (Đọc 55492 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #30 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:52:15 pm »

*
*   *

Qua hơn nửa năm xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, Đảng bộ, chính quyền cùng quân và dân Khu IV đã quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo các chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh của địa phương. Cán bộ, đảng viên, quân, dân Khu IV đã phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, bền bỉ phấn đấu xây dựng và bảo vệ vững chắc chính quyền non trẻ, bước vào một thời kỳ mới với những khó khăn và thử thách mới.

Đầu năm 1946, ở miền Nam, quân Anh rút về nước nhưng quân Pháp đã chiếm đóng phần lớn đất Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ. Pháp cũng đã chiếm Campuchia và phần lớn nước Lào (tháng 3-1946 Pháp chiếm Savanakhẹt, Thà Khẹc; tháng 4 chiếm Viêng Chăn, tháng 5 chiếm Luông Phabăng, hoàn thành việc tái chiếm nước Lào). Ngày 28-2-1946, Pháp lật tức đưa quân ra Bắc.

Biết rõ dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, cuối tháng 2-1946, Thường vụ Trung ương Đảng đã chủ trương: “Ta nên nói chuyện với Pháp, nhưng đồng thời phải chuẩn bị kháng chiến”(1). Sau khi Hiệp ước Pháp - Hoa được ký kết, Thường vụ Trung ương lại chỉ rõ: “Điều cốt tử là trong khi mở cuộc đàm phán với Pháp, không những không ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu, mà còn hết sức xúc tiến việc sửa soạn ấy và nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của ta”(2).

Ngày 5-3-1946, hạm đội Pháp tiến vào vùng biển Hải Phòng. Pháp thúc ép ta chấp nhận lập trường của chúng, ta kiên quyết bác bỏ. Tình hình trở nên rất căng thẳng. Cũng trong ngày 5-3-1946, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng mở rộng nhất trí tán thành chủ trương Hòa để tiến, quyết định tạm thời hòa hoãn với thực dân Pháp. Ngày hôm sau, mồng 6-3-1946, Chính phủ ta và Chính phủ Pháp ký Hiệp định sơ bộ.

Hiệp định sơ bộ được ký kết, cách mạng Việt Nam chuyển sang một chặng đường mới, chặng đường đấu tranh phức tạp không kém phần gay go, quyết liệt trước những âm mưu và thủ đoạn thâm độc mới của kẻ thù.

Ngày 9-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị lịch sử Hòa để tiến. Bản chỉ thị vạch rõ hòa với Pháp là nhằm: “... Bảo toàn thực lực giành lấy giây phút nghỉ ngơi và củng cố vị trí mới đã chiếm được, chấn chỉnh đội ngũ cách mạng, bổ sung cán bộ, bồi dưỡng và củng cố phong trào... Chuẩn bị đầy đủ, nhằm cơ hội tốt tiến lên giai đoạn cách mạng mới”(3). Bản chỉ thị còn nêu bật nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân lúc này là: giải thích cho nhân dân hiểu rõ chủ trương “Hòa để tiến” của Đảng là đúng, kiên quyết chống lại các biểu hiện bi quan, dao động, hoặc tả khuynh, chủ quan mất cảnh giác trong khi thi hành hiệp định. Ráo riết và kín đáo chuẩn bị để kháng chiến lâu dài. Duy trì và phát triển thực lực về quân sự. Thực hiện sách lược khôn khéo, mềm dẻo nhằm mau chóng đuổi quân Tưởng về nước.

Chấp hành chị thị Hòa để tiến, cấp ủy và chính quyền các địa phương Khu IV đã kịp thời giải thích cho cán bộ và nhân dân hiểu rõ mục đích, ý nghĩa, nội dung chỉ thị, xác định trách nhiệm, thái độ trước tình hình mới.

Để thi hành Hiệp định sơ bộ, hội nghị tham mưu hai bên Việt - Pháp đã bàn việc đóng quân tiếp phòng. Ta thành lập Bộ tổng chỉ huy tiếp phòng quân, tổ chức Ủy ban liên kiểm (Ủy ban liên lạc và kiểm soát Trung ương). Trung ương quyết định cử đồng chí Lê Thiết Hùng làm Tổng chỉ huy, đồng chí Trần Văn Quang làm Chính ủy và đồng chí Hoàng Điền làm Tham mưu trưởng quân tiếp phòng Việt Nam.

Ngày 3-4-1946, Việt Nam và Pháp ký hiệp định quân sự quy định nơi đóng quân và số quân của các lực lượng tiếp phòng mỗi bên.

Các địa phương có quân tiếp phòng Pháp đóng còn tổ chức Ban Liên kiểm Việt - Pháp. Ở Vinh có Ban Liên kiểm và một tiểu đoàn quân tiếp phòng Việt Nam do đồng chí Lê Nam Thắng phụ trách. Ở Huế, Ban Liên kiểm và tiểu đoàn tiếp phòng do đồng chí Lê Khánh Khang phụ trách.

Quân tiếp phòng của Pháp ở Huế lúc đầu có khoảng hơn 800 tên từ Lào kéo về theo Hiệp định sơ bộ 6-3-1946, chúng đóng ở trường Khải Định, Penlơranh và khách sạn Morin. Lực lượng tiếp phòng của ta đóng ở xen lẫn với các vị trí của quân Pháp để kiềm chế các hoạt động và ngăn cản sự liên hệ móc nối giữa quân Pháp với các phần tử tay sai, phản động ở địa phương.


(1) Biên bản Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng ngày 24-2-1946, Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.46.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.49.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #31 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:53:58 pm »

Ở Vinh, ta đã buộc lực lượng tiếp phòng của Pháp đóng theo những vị trí do ta sắp xếp (quân Pháp phải đóng ở ngoài khu trung tâm thành phố). Do đó, chúng không gây nhiều khó khăn cho ta. Nhưng ở phía tây, Pháp đã đưa quân từ đông Lào áp sát biên giới ở Thừa Thiên, Quảng Trị, các trục đường số 9, số 8, số 7 và đưa quân từ Thượng Lào xuống uy hiếp phía tây Thanh Hóa.

Thời gian này các tổ chức tình báo, gián điệp của Pháp tăng cường hoạt động. Chúng cho người cùng với tiền của và phương tiện móc nối bọn tay sai cũ của Pháp còn ẩn náu ở các địa phương, tìm cách liên lạc, tranh thủ bọn thổ ty, lang đạo phản động ở miền núi như cha con Lê Xuân Kỳ, Lê Xuân Tín ở Thanh Hóa; Sầm Văn Kim, Lò Khăm Thi ở Nghệ An. Chúng còn sử dụng những phẩn tử phản động trong các vùng có đồng bào theo đạo Thiên chúa và các cha cố người nước ngoài, tăng cường hoạt động chống phá chính quyền ở các địa phương.

Mục tiêu, nội dung và phương thức hoạt động của các lực lượng tình báo, gián điệp của Pháp trên địa bàn Khu IV rất thâm độc và xảo quyệt. Chúng tuyên truyền, xuyên tạc việc ta ký Hiệp định 6-3 là bán nước, gây chia rẽ giữa Đảng, Chính phủ và quần chúng nhân dân. Chúng thu thập tin tức, nắm tình hình nội bộ ta, tìm hiểu thái độ của dân chúng đối với Chính phủ, tinh thần thái độ của lực lượng chống đối và tổ chức phá hoại về kinh tế, tài chính.

Quân Pháp ngày càng vi phạm trắng trợn việc thi hành hiệp định trên phạm vi cả nước. Chúng âm mưu tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam, lập ra “Nam Kỳ quốc”, dùng miền Nam làm bàn đạp tiến công miền Bắc, sử dụng nhân tài vật lực ở Nam Bộ phục vụ ý đồ mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Việt Nam. Để thực hiện mưu đồ ấy, chúng ráo riết bắt lính, liên tiếp mở nhiều trận càn vào căn cứ của các Khu VIII, IX. Ở Nam Trung Bộ, thực dân Pháp mở nhiều trận càn quét, lân chiếm, mở rộng chiến tranh. Địch cho quân đánh một số điểm quan trọng trên đường số 14, đường số 18, chiếm thị xã Kon Tum, Đắc Lây và Komplông...

Ở miền Bắc, bên cạnh những hoạt động khiêu khích, quân Pháp đã lấn chiếm thêm nhiều nơi ở Hà Nội, Lạng Sơn, Phủ Lạng Thương, Móng Cái, Bắc Ninh, Hải Ninh... Ở Tây Bắc, sau khi chiếm Sơn La, Lai Châu, địch sử dụng bọn thổ ty phản động chuẩn bị thành lập “Xứ Thái tự trị”.

Trước tình hình trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đã kiên trì tìm giải pháp thương lượng với Chính phủ Pháp nhằm kéo dài thời gian hòa hoãn để có thêm điều kiện xây đựng thực lực về mọi mặt, chủ động chuẩn bị kháng chiến lâu dài. Mọi cố gắng thương lượng từ Hội nghị Đà Lạt (18-4-1946) đến Hội nghị Phôngtennơblô (Pontainebleau) (6-7-1946) và Tạm ước 14-9-1946 là để phục vụ chủ trương đó.

Để nâng cao tiềm lực mọi mặt cho công cuộc chuẩn bị kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Chính phủ và nhân dân phải đồng tâm nhất trí, ra sức tổ chức, ra sức công tác, đoàn kết hơn nữa, mở mang kinh tế, xây dựng nước nhà, thực hành đời sống mới khắp mọi phương diện. Bất kỳ gái, trai, già trẻ, bất kỳ sĩ, nông, công, thương, toàn thể quốc dân phải ra sức làm việc”(1).

Đáp lơi kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân các tỉnh Khu IV tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất, góp phần tiêu diệt giặc đói, giặc dốt. Công cuộc khai hoang, phục hóa mở rộng diện tích canh tác phát triển ở nhiều nơi. Tháng 6-1946, Nghệ An khai hoang được hơn 700 mẫu, nhiều tỉnh tổ chức các trại tăng gia sản xuất, trại chăn nuôi, thành lập các hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng. Ở Nghệ An, tính đến tháng 6-1946 đã có 41 hợp tác xã nông nghiệp, Hội nông gia tương tế được thành lập tử tỉnh đến xã; các ngành nghề truyền thống được khai thác triệt để như trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải, làm đồ gốm. Các tuyến đường liên huyện, liên xã và nhiều cầu cống được sửa chữa và làm thêm. Một số cơ sở công nghiệp được phục hồi để sản xuất phục vụ kháng chiến và đời sống nhân dân.

Phong trào xóa nạn mù chữ tiếp tục phát triển rộng khắp được mọi tầng lớp nhân dân tham gia tích cực. Ở mỗi thôn xóm, đường phố, bản làng có nhiều lớp bình dân học vụ mở cả buổi trưa, buổi tối. Các trường tiểu học được mở rộng đến xã. Các trường đã sử dụng sách giáo khoa mới và dùng tiếng Việt thay thế tiếng nước ngoài(2).
   
Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao phát triển mạnh mẽ. Những vở kịch, bài thơ, những khúc ca cách mạng có tác dụng cổ vũ tinh thần quật cường của dân tộc được mọi người ưa thích, nhất là đối với thanh, thiếu niên, học sinh...


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr.418.
(2) Ở Hà Tĩnh tính đến tháng 10-1946, toàn tỉnh đã có 15 vạn người được xóa nạn mù chữ, có 181 trường tiểu học, 2 trường trung học.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #32 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:56:02 pm »

Chính quyền dân chủ nhân dân đã được bảo vệ vững chắc và từng bước được củng cố và không ngừng lớn mạnh. Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ hai thông qua khẳng định sự vững mạnh của chính thể dân chủ mới.

Ở Khu IV, các cấp chính quyền cơ sở đến cấp xứ từng bước được kiện toàn. Thực hiện quyết định của Quốc hội, từ tháng 2-1946, các tỉnh thuộc Khu IV tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và cấp xã, sau đó Hội đồng nhân dân đã bầu ra Ủy ban hành chính các cấp từ tỉnh đến xã. Từ đây Ủy ban hành chính chính thức được thành lập để thay cho Ủy ban lâm thời. Các đoàn thể quần chúng từ đội thiếu niên, đoàn thanh niên, hội phụ nữ đến hội phụ lão đều hoạt động sôi nổi, hăng hái trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...

Để nâng cao sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang, Chính phủ ra sắc lệnh quy định cấp bậc, quân hiệu, quân phục, đổi tên Vệ quốc đoàn thành Quân đội quốc gia Việt Nam.

Thực hiện sắc lệnh của chính phủ, lực lượng vũ trang các tỉnh Khu IV được kiện toàn về tổ chức, đứng chân trên các địa bàn chiến lược quan trọng, sẵn sàng đối phó với tình hình. Ở Thanh Hóa, Trung đoàn 77 có ba tiểu đoàn bộ binh 319, 355, 375; Mặt trận miền Tây có hai đại đội 73 và 71. Ở Nghệ An, Trung đoàn 57 có ba tiểu đoàn bộ binh 346, 365 và 418; Mặt trận Quỳ Châu có hai đại đội 58 và 62; Mặt trận Đường 7 có Tiểu đoàn 265. Khu tăng cường tiểu đoàn tiếp phòng quân cho Huế. Ở Hà Tĩnh, Trung đoàn 103 có ba tiểu đoàn bộ binh 377, 460, 453; Mặt trận đường số 8 có sáu đại đội, Đại đội 6 phụ trách Mặt trận Banaphào. Ở Quảng Trị, Trung đoàn Nguyễn Thiện Thuật có ba tiểu đoàn 13, 14, 15; Tiểu đoàn 13 bố trí ở Mặt trận đường số 9. Ở Thừa Thiên, Trung đoàn Trần Cao Vân có bốn tiểu đoàn 16, 17, 18 và tiểu đoàn tiếp phòng quân Huế.

Các trung đoàn đều có trung đội hay đại đội trực thuộc như công binh, trợ chiến, thông tin, trinh sát... Khu còn có một đại đội vệ binh, một đại đội pháo binh thiết giáp. Khu tăng cường cho Huế một khẩu pháo 75 mm, tăng cường cho Vinh một khẩu 37mm.

Lực lượng dân quân tự vệ và du kích do các tỉnh đội, huyện đội, xã đội... tổ chức chỉ huy. Ở Thanh Hóa, Nghệ An, mỗi tỉnh có từ bốn đến năm đại đội tự vệ tập trung. Các tỉnh khác, mỗi tỉnh có độ hai đại đội. Ở cơ sở, dân quân, tự vệ không thoát ly có từ một đến hai tiểu đội hoặc trung đội.

Cơ quan Bộ chỉ huy khu có các phòng tham mưu, chính trị, hậu cần, văn phòng, tòa án quân sự và năm đại đội trực thuộc đáp ứng yêu cầu của công tác chỉ đạo, chỉ huy.

Lực lượng công an các tỉnh được tăng cường và mở rộng phạm vị hoạt động về cơ sở nông thôn; đồng thời tiến hành thành lập các quận công an, mỗi quận được giao phụ trách một số huyện, thị xã, phát triển các mạng lưới điệp báo viên, trinh sát viên và biệt động đội ở các thôn xã.

Bên cạnh công tác tổ chức xây dựng lực lượng, việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang được đặc biệt quan tâm. Đảng bộ Khu quân sự có hệ thống tổ chức từ Quân khu ủy đến các chi bộ đại đội và cơ quan(1). Khu bộ có liên chi cơ quan tham mưu - chính trị - hậu cần; Trung đoàn có trung đoàn ủy, liên chi cơ quan trung đoàn bộ; tiểu đoàn có tiểu đoàn ủy gồm nhiều chi bộ hoặc một chi bộ, đại đội có chi bộ.

Song song với hệ thống tổ chức đảng, có hệ thống cán bộ chính trị và cơ quan công tác chính trị đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị. Cấp khu và trung đoàn có chính trị ủy viên; cấp tiểu đoàn, đại đội có chính trị viên. Cơ quan cấp khu có Phòng chính trị, trung đoàn có Ban chính trị, tiểu đoàn có Tiểu ban chính trị, đại đội có trợ lý chính trị.

Trong hoàn cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, nhưng Đảng, Chính phủ và nhân dân quan tâm đặc biệt đến đời sống vật chất và tinh thần của bộ đội. Bộ Quốc phòng quy định phụ cấp cấp bậc và thâm niên cho quân nhân. Chính phủ thành lập Ủy ban mùa đông binh sĩ. Nhân dân các địa phương Khu IV đã hết lòng chăm lo đời sống bộ đội, hăng hái nhiệt tình đóng góp tiền bạc, vài vóc, chăn màn, gửi quà bánh, thực phẩm cho chiến sĩ. Gia đình quân nhân được chính quyền và nhân dân địa phương động viên giúp đỡ. Hội mẹ chiến sĩ, quán quân nhân được tổ chức ở nhiều nơi để chăm lo và động viên chiến sĩ.

Để tăng cường trang bị vũ khí cho các đơn vị, tháng 9-1946, Ty quân giới Khu IV được thành lập nhằm phụ trách viện chế tạo và sửa chữa vũ khí trong toàn khu. Các xưởng quân giới ở Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Bình được củng cố và mở rộng, bảo đảm sản xuất và sửa chữa các loại vũ khí, đáp ứng một phần yêu cầu của lực lượng vũ trang, cung cấp kịp thời cho các mặt trận. Tháng 9-1946, Thừa Thiên sáp nhập hai xưởng Ngọc Lâm và Phú Lâm thành một xưởng rồi di chuyển về khu an toàn.


(1) Tháng 3-1946, ông Hoàng Văn Hoan đại diện cho Tổng quân ủy vào tổ chức Quân khu ủy IV. Trong Quân khu ủy IV có Chu Văn Tấn làm Khu trưởng (Hồi ký của Thiếu tướng Lê Nam Thắng, nguyên Tư lệnh Quân khu IV, tr.18).
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #33 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:58:58 pm »

Tháng 10-1946, được sự giúp đỡ của Ủy ban hành chính Khu IV của Việt Nam, hội nghị cán bộ các tỉnh Khăm Muộn, Savanakhẹt, Sầm Nưa, Xiêng Khoảng đã họp tại thành phố Vinh nhằm thống nhất phương hướng, hành động và thành lập Ủy ban kháng chiến Đông Lào do ông Nuhắc Phumxavẳn làm Chủ tịch. Ủy ban giải phóng Đông Lào đã đề ra đường lối xây dựng lực lượng vũ trang, đường lối tuyên truyền, tổ chức nhân dân tham gia kháng chiến. Ủy ban đã đóng trên đất Khu IV trong một thời gian dài với sự đùm bọc của nhân dân và sự giúp đỡ toàn diện của Khu ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính Khu IV.

Pháp ngày càng vi phạm trắng trợn Hiệp định sơ bộ, mọi cố gắng của ta nhằm thương lượng với Pháp đều không đem lại kết quả. Thực dân Pháp đánh chiếm nhiều vùng ở miền Bắc, tăng cường khiêu khích ở Hà Nội, đổ quân trái phép lên Đà Nẵng; điều quân từ Lào tăng cường cho các vị trí của chúng ở miền tây Khu IV, nhất là vùng đường số 9 (Quảng Trị); đưa thêm nhiều đơn vị quân đội từ bên Pháp sang Đông Dương.

Ngày 19-10-1946, Hội nghị quân sự toàn quốc đã nhận định “Nhất định không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”(1). Thường vụ Trung ương Đảng quyết định thống nhất Quân ủy hội và Bộ Quốc phòng thành Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy. Để tiện chỉ đạo chiến tranh và phát huy khả nặng độc lập tác chiến của từng địa phương, cuối năm 1946, cả nước được chia thành 12 chiến khu; điều chỉnh cán bộ chỉ huy quân sự trong toàn quốc. Ở Khu IV, đồng chí Lê Thiết Hùng, Tổng chỉ huy tiếp phòng quân Bộ Tổng tư lệnh được cử trở lại làm Khu trưởng, đồng chí Trần Văn Quang làm Chính trị ủy viên, đồng chí Hoàng Điền làm Tham mưu trưởng. Để trực tiếp chỉ đạo tác chiến, ngày 3-12-1946, Khu trưởng và Chính trị ủy viên Khu ra quyết định thành lập cơ quan chỉ huy các đơn vị bộ đội ở các tỉnh Bình - Trị - Thiên (bao gồm cả Mặt trận đường số 9, Banaphào, đường 13) do các đồng chí Hoàng Điền làm Chỉ huy trưởng, Lê Tự Đồng làm Chính trị viên, Phùng Duy phiên làm Tham mưu trưởng, nhưng không thực hiện được.

Về chính quyền, giải thể Ủy ban phòng thủ các cấp và lập Ủy ban kháng chiến từ xã đến khu.Đồng chí Hồ Tùng Mậu được cử giữ chức Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Khu IV. Khu ủy đã chỉ đạo Ủy ban kháng chiến và Bộ chỉ huy chiến khu, các tỉnh và một số huyện tích cực xây dựng các khu căn cứ, tổ chức lại lực lượng bảo vệ biên giới, phòng thủ bờ biển, củng cố lực lượng công an, xây dựng dân quân tự vệ và tiếp tục kiện toàn các đơn vị quân đội.

Tháng 11-1946, sau khi giải thể Xứ ủy Trung Bộ, Trung ương Đảng quyết định bỏ cấp xứ, chia Trung Bộ thành hai khu: Khu IV và Khu V, Khu IV gồm sáu tỉnh Bắc Trung Bộ, Khu ủy Đảng Khu IV được thành lập cuối tháng 11-1946 tại Hà Tĩnh do đồng chí Hoàng Quốc Việt, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng, đại diện Trung ương ở Trung Bộ làm Bí thư(2). Hội nghị thành lập Khu ủy chủ trương phải tổ chức bộ máy gọn nhẹ. Ở các cấp lãnh đạo chỉ để lại bộ phận nhỏ (Thường vụ) để chỉ đạo chung, còn lại tập trung cán bộ cho cơ sở. Cán bộ Khu của tỉnh nào thì trả về tỉnh đó, tình nào yếu được tăng cường thêm. Hội nghị cũng xác định: chiến khu là ở trong lòng dân, phải dựa vào dân. Lúc này nhiệm vụ quân sự là chủ yếu do đó tập trung lựa chọn các đồng chí có khả năng về quân sự đưa vào đội ngũ lãnh đạo.

Các đảng bộ tỉnh cũng lần lượt mở đại hội đại biểu để kiểm điểm tình hình, xác định rõ nhiệm vụ mới và kiện toàn cơ quan lãnh đạo cấp tỉnh(3).

Tháng 12-1946, các tỉnh mở hội nghị quân, dân, chính, đảng bàn kế hoạch tác chiến. Các địa phương, các ngành tăng cường nắm tình hình hoạt động của địch, tổ chức động viên nhân dân chuẩn bị kháng chiến. Các kế hoạch tác chiến, bố phòng, chuẩn bị cắm cọc ở các cửa sông, các bãi bằng để phòng địch tiến quân bằng đường thủy và đổ quân bằng đường không, chuẩn bị tiêu thổ kháng chiến, sơ tán, tản cư... gấp rút được bổ sung và không ngừng hoàn chỉnh. Các lực lượng vũ trang được bố trí ở sẵn các địa bàn cần sẵn sàng đánh địch và ráo riết diễn tập theo kế hoạch tác chiến đã được dự kiến. Nhiều nơi bắt đầu thực hiện chủ trương quân sự hóa toàn dân. Tất cả nam, nữ trong độ tuổi đưa vào dân quân. Việc tu sửa đường sá, chuẩn bị phương tiện vận chuyển, tiếp tế được triển khai tích cực. Bộ chỉ huy Khu IV nhận định: khi chiến tranh nổ thì Huế là mặt trận chủ yếu vì ở Huế quân Pháp đông, Huế có vị trí chiến lược quan trọng, địch chiếm được Huế sẽ mở rộng chiến tranh ra các tỉnh Bình - Trị - Thiên, thực hiện chia cắt chiến lược đối với miền Bắc và miền Nam nước ta. Để tăng cường lực lượng cho mặt trận Huế, ngoài bốn tiểu đoàn đã có mặt tại huế (ba tiểu đoàn của Trung đoàn Trần Cao Vân - và tiểu đoàn tiếp phòng quân Huế), Quân khu điều động thêm tiểu đoàn tiếp phòng quân thành phố Vinh, các đại đội của Hà Tĩnh, Quảng Bình,Quảng Trị, đại đội đại đao quân khu, đại đội học viên trường Quân chính quân khu, một khẩu pháo 75 mm.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr. 133.
(2) Các Khu ủy viên lúc đầu có Hoàng Quốc Việt, Hoàng Văn Hoan, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Vịnh... về sau bổ sung Nguyễn Sơn, Hồ Viết Thắng, Phạm Thể.
(3) Đồng chí Nguyễn Chí Thanh trực tiếp làm Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế, đồng chí Hoàng Anh làm Chủ tịch chính quyền Thừa Thiên - Huế; các đồng chí Đặng Thí, Nguyễn Xuân Luyện làm Bí thư, Chủ tịch Quảng Trị, Nguyễn Đình Chuyên, Hoàng Văn Diệm làm Bí thư và Chủ tịch Quảng Bình, các đồng chí Kiều Hữu Thao, Trần Hữu Duyệt làm Bí thư và Chủ tịch Hà Tĩnh, Hồ Viết Thắng và Lê Viết Lượng làm Bí thư và Chủ tịch Nghệ An, Tố Hữu, Lê Chủ, Đặng Việt Châu làm Bí thư và Chủ tịch Thanh Hóa.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #34 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2015, 09:00:48 pm »

Kế hoạch tấn công quân Pháp ở Huế và đánh viện binh từ Đà Nẵng ra đã được Hội nghị Khu ủy IV ngày 15-12-1946 và Hội nghị Xứ ủy Trung Kỳ đêm 18-12-1946 dự kiến và bàn bạc. Hội nghị cũng đã cử đồng chí Nguyễn Chí Thanh làm Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên. Cũng trong tháng 12-1946, Ủy ban kháng chiến Thừa Thiên được thành lập, đồng chí Hà Văn Lâu, Trung đoàn trưởng Trung đoàn Trần Cao Vân được cử làm Chủ tịch kiêm Chỉ huy trưởng Mặt trận Huế. Đồng chí Hoàng Anh làm Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh.

Mặt trận Huế được chia làm ba khu vực A, B, C. Khu A tả ngạn sông Hương do Tiểu đoàn 17 phụ trách; khu B, hữu ngạn sông Hương do Tiểu đoàn tiếp phòng quân Huế phụ trách; khu C, khu vực sông đào An Cựu, ga Huế, ga An Cựu do Tiểu đoàn 16 phụ trách. Các đại đội của Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, đại đội đại đao được đưa về tăng cường cho các tiểu đoàn. Tiểu đoàn tiếp phòng quân thành phố Vinh bố trí ở phía bắc Huế làm lực lượng dự bị. Quyết tâm của khu và Tỉnh ủy Thừa Thiên là tiêu diệt quân Pháp ở Huế. Để ngăn chặn lực lượng địch từ Đà Nẵng ra giải vây cho Huế, Tiểu đoàn 18 được bố trí dọc đường số 1, xây dựng trận địa tác chiến ở các khu vực Thừa Lưu, Phước Tượng, Truồi.

Ở Thừa Thiên, công tác xây dựng hệ thống công sự chiến đấu, đào giao thông hào, làm chướng ngại vật được đẩy mạnh. Nhân dân thành phố Huế xây dựng một hệ thống giao thông hào ở khu tam giác nam sông Hương, chạy dọc theo bờ sông An Cựu đến Đập Đá. Trên trục đường số 1 và các trục đường quan trọng khác, nhân dân xẻ đường, ngả cây to làm chướng ngại vật để chặn đường tiến quân của địch.

Thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến, nhân dân tự tay đập phá nhà cửa, đình chùa... Đến cuối tháng 11-1946, kế hoạch tản cư nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân được triển khai. Nhân dân thực hiện “vườn không nhà trống”, nhiều kho tàng, tài liệu được chuyển ra các khu căn cứ an toàn.

Để chuẩn bị kháng chiến ở Bình - Trị - Thiên, giữa tháng 12-1946, Bộ Quốc phòng Tổng tư lệnh thành lập Bộ chỉ huy quân sự Bình - Trị - Thiên do đồng chí Hoàng Điền làm chỉ huy trưởng, đồng chí Lê Tự Đồng làm chính trị ủy viên, đồng chí Phùng Duy Phiên làm tham mưu trưởng(1).

Tại Quảng Trị, thực hiện quyết định của Hội nghị cán bộ Đảng toàn tỉnh họp cuối tháng 10-1946, Tỉnh ủy và Ban chỉ huy Trung đoàn Thiện Thuật bố trí lực lượng chủ yếu để đánh địch từ Lào theo đường số 9 sang để chi viện cho Huế. Tiểu đoàn 13 và Đại đội Lê Hồng Phong (đại đội dân quân tập trung của tỉnh) sẽ đánh địch từ Lao Bảo đến Cam Lộ. Tiểu đoàn 15 đánh địch từ Cam Lộ về Đông Hà. Tiểu đoàn 14 bố trí tại thị xã Quảng Trị có nhiệm vụ sẵn sàng cơ động để đánh địch trên đường số 9. Tỉnh ủy cũng quyết định chuẩn bị xây dựng chiến khu của tỉnh, lập kế hoạch sơ tán các cơ quan, di chuyển công binh xưởng, di chuyển hồ sơ, tài liệu, thành lập Ủy ban kháng chiến. Nhân dân cùng các lực lượng bộ đội, dân quân tự vệ phá đường, phá cầu trên đường số 1, số 9, xây dựng các chiến hào, trận địa...

Tại Quảng Bình, Tiểu đoàn Lê Trực phân công, Đại đội 1 phòng thủ thị xã, Đại đội 2 đánh địch đổ bộ vào cửa Nhật Lệ, Đại đội 3 chặn đánh địch từ Quảng Trị theo đường số 1 tiến ra Đồng Hới, Đại đội 4 bố trí ở Bố Trạch, Đại đội 5 bố trí ở Quảng Trạch, hai đại đội này sẵn sàng đánh địch đổ bộ vào cửa sông Gianh. Đại đội 6 bố trí ở Tuyên Hóa có nhiệm vụ đánh địch từ Banaphào tiến công vào phía tây Quảng Bình.

Cùng với sự chuẩn bị khẩn trương của bộ đội chủ lực tỉnh (Tiểu đoàn Lê Trực), Ủy ban kháng chiến tỉnh được thành lập và gấp rút triển khai những công trình chủ động phòng ngự, sẵn sàng chiến đấu. Khắp các làng xã, tuyến quốc lộ 1, tuyến đường sắt, cửa lạch, bãi biển, các khúc sông trọng yếu... đều được bố phòng, đào hào, đắp ụ ngăn cản bước tiến của giặc. Thị xã Đồng Hới thi hành chính sách tiêu thổ kháng chiến, phá hủy những công sở kiên cố mà địch có thể lợi dụng đóng đồn, xây căn cứ.

Ủy ban kháng chiến tỉnh quyết định chia Quảng Bình thành ba khu vực kháng chiến: khu Nam từ nam sông Nhật Lệ, sông Long Đại vào giáp tỉnh Quảng Trị. Khu Trung từ bắc sông Long Đại, Nhật Lệ đến phía nam sông Gianh, sông Son. Khu Bắc từ bắc sông Gianh và sông Son trở ra giáp tỉnh Hà Tĩnh. Tuyên Hóa là chiến khu cho toàn tỉnh, chuyển tất cả các cơ quan, xí nghiệp và kho tàng lên Tuyên Hóa...

Tại Nghệ An, đầu tháng 12-1946, Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị đại biểu quân, dân, chính, đảng bàn kế hoạch kháng chiến. Hội nghị quyết định: thành lập Ủy ban kháng chiến ở các cấp, gấp rút xây dựng chiến khu, phát triển, củng cố lực lượng vũ trang, lực lượng công an. Sau hội nghị, Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến tỉnh lãnh đạo các cấp, các ngành phát động toàn dân chuẩn bị kháng chiến.

Tại Hà Tĩnh, cuối năm 1946, Tỉnh ủy chỉ đạo xây dựng một số căn cứ ở huyện Hương Sơn, Hương Khê, Cẩm Xuyên, thường xuyên tuần phòng biên giới phía tây, ven biển; tiến hành xây dựng làng, xã chiến đấu; thành lập Trường quân chính tỉnh để đào tạo cán bộ cho các địa phương, đơn vị. Ngày 2-12-1946, Tỉnh ủy mở Hội nghị quân, dân, chính, đảng bàn kế hoạch chuẩn bị kháng chiến. Sau đó Tỉnh ủy mở tiếp hội nghị cán bộ chủ chốt các ban, ngành đoàn thể để triển khai các công tác cụ thể. Phát động toàn dân tích cực chuẩn bị, sẵn sàng đợi lệnh của Chính phủ đứng lên kháng chiến.

Tháng 12-1946, quân Pháp liên tiếp nổ súng, ném lựu đạn tàn sát dân thường, khiêu khích công an, tự vệ và bộ đội ta ở Hà Nội. Chúng còn gửi tối hậu thư đòi tước vũ khí của tự vệ, công an và đe dọa: đến sáng 20-12, những yêu sách của chúng không được chấp nhận thì quân Pháp sẽ chuyển sang hành động.

Đứng trước tình hình đó, trong hai ngày 18 và 19-12-1946, Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng ở làng Vạn Phúc (thị xã Hà Đông) dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau khi phân tích tình hình, Thường vụ Trung ương nhận định: âm mưu của Pháp mở rộng chiến tranh nay đã chuyển sang một bước mới, thời kỳ hòa hoãn đã qua, khả năng hòa bình không còn nữa. Nhân dân ta không thể trở lại cuộc đời nô lệ. Trung ương Đảng quyết định phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Chấp hành mệnh lệnh của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Khu ủy, Ủy ban kháng chiến khu và Bộ chỉ huy Khu IV đã chỉ thị cho các địa phương, các đơn vị vũ trang gấp rút chuẩn bị mọi mặt để khi có lệnh chủ động tấn công địch, trước hết là những nơi có quân Pháp đóng (Vinh, Huế). Quân dân Khu IV đã sẵn sàng và chủ động bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ.

16 tháng (từ 8-1945 đến 12-1946) là một thời gian ngắn, nhưng là một thời kỳ lịch sử đặc biệt đối với cách mạng Việt Nam nói chung và Khu IV nói riêng. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự chỉ đạo của Xứ ủy Trung Bộ, các cấp bộ đảng ở Khu IV đã được thiếp lập và xây dựng lại, cùng với chính quyền cách mạng bắt tay xây dựng chế độ xã hội mới, xây dựng lực lượng vũ trang, mặt trận và các đoàn thể quần chúng. Từ hai bàn tay trắng, sau khi giành chính quyền, các cấp bộ đảng, chính quyền, quân và dân các địa phương Khu IV đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách bảo vệ vững chắc chính quyền cách mạng, xây dựng lực lượng về mọi mặt cùng cả nước sẵn sàng, chủ động, vững tin vào cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc.


(1) Bộ chỉ huy quân sự Bình - Trị - Thiên không hoạt động được. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Bình - Trị - Thiên là do cấp ủy đảng và Ủy ban kháng chiến của các tỉnh phụ trách dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo của Xứ ủy Trung Kỳ và Bộ chỉ huy Khu IV.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #35 vào lúc: 10 Tháng Mười Hai, 2015, 08:44:20 pm »

II. NĂM ĐẦU CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP Ở LIÊN KHU IV (12-1946 - 12-1947)

Thực hiện mệnh lệnh chủ động tấn công địch của Bộ Tổng chỉ huy và lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, Đảng bộ, chính quyền, quân dân Khu IV đã cùng cả nước nhất tề đứng dậy chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

Tại Nghệ An

Ngay trong đêm 19-12-1946, sau khi mật lệnh tấn công quân địch được thông báo trên Đài Tiếng nói Việt Nam, quân dân Nghệ An với lực lượng áp đảo, theo sự chỉ đạo và kế hoạch đã vạch sẵn của Khu ủy và Bộ chỉ huy Khu IV(1) đã chủ động tiến công trung đội tiếp phòng quân của Pháp đóng ở Vinh và sân bay Yên Đại, nhanh chóng bức địch đầu hàng, bắt toàn bộ tù binh, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng. Ta bắt 34 tù inh, bắt tổ lái và chiếc máy bay Morane, thu ba xe vận tải. Đây là chiến công đầu xuất sắc của quân và dân Nghệ An hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tại Thừa Thiên - Huế

Từ đầu tháng 12-1946, quân Pháp đã chuẩn bị công sự, dự trữ lương thực chờ viện binh chuẩn bị đánh chiếm Huế và Thừa Thiên.

Chiều 19-12-1946, Ủy ban kháng chiến Thừa Thiên họp cán bộ các mặt trận, các huyện. Đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Bí thư Tỉnh ủy thông báo tình hình khẩn cấp và giao nhiệm vụ cho các đơn vị, địa phương.

2 giờ 30 phút sáng 20-12-1946, tiếng nổ của đại bác 75mm bắn thẳng vào đồn tiền tiêu của địch ở cửa hàng Morin và tiếng nổ của công nhân phá nhà máy điện đã mở đầu cuộc tiến công quân Pháp ở mặt trận Huế. Bộ đội cùng dân quân, tự vệ đồng loạt nổ súng trên hầu hết các vị trí có quân Pháp đóng.

Do trang bị kém, thiếu kinh nghiệm chiến đấu, phân tán lực lượng tiến công nhiều mục tiêu cùng một lúc, nên trong đêm ta không diệt được địch trong các căn cứ chính của chúng, chỉ diệt được một số điểm nhỏ ở ngoại vi và diệt địch khi chúng tiến công ra ngoài. Đơn vị ở Trường kỹ nghệ chiếm ngã năm, phá một xe Jeép và một xe ôtô. Đơn vị Bến Ngự đánh chiếm khách sạn Thanh Minh, phá hai xe thiết giáp ở đầu cầu Nam Giao. Bộ đội cung An Định đánh vào trường Thiên Hữu và miếu Đại Càn, phá một xe thiết giáp. Đơn vị ở trường Đồng Khánh đánh vào trường Khải Định diệt một số địch, đốt một kho xăng. Quân địch từ trường Thiên Hữu chiếm nhà máy điện, bị bộ đội ta giật bom và tiêu diệt 45 tên, phá hủy một xe thiết giáp. Trong đêm, bộ đội ta giật bom phá hủy cầu Ga, cầu An Cựu và hai nhịp cầu Tràng Tiền, cắt đứt khu vực quân Pháp đóng với bên ngoài thành phố.

Sau gần một ngày đêm chiến đấu liên tục và ác liệt, Ban chỉ huy mặt trận chủ trương cho bộ đội, tự vệ cùng nhân dân dựa vào sông Hương, sông An Cựu, đường số 1, dựng chiến lũy bao vây địch. Quân địch cố thủ trong các vị trí kiên cố. Ta tiếp tục bao vây và thu hẹp khu vực chiếm đóng của Pháp. Triệt đường tiếp tế, thành lập các tiểu tổ cảm tử, chọn những chiến sĩ thông thuộc địa hình trong thành phố luồn sâu quấy rối liên tục đánh địch, buộc chúng phải thường xuyên đối phó. Quân Pháp ở Huế bị bao vây, đạn dược, lương thực... thiếu, địch gặp nhiều khó khăn phải dùng máy bay để tiếp tế.

Từ đêm 21 đến đêm 23-12-1946, ta liên tiếp tiến công quân địch ở trường Khải Định, hiệu buôn Chaffanjon, đồn Phan Đình Phùng, nhà Morin, tiêu diệt một số quân Pháp.

Sau 10 ngày đánh địch bằng những đơn vị nhỏ, hiệu quả thấp, Ban chỉ huy mặt trận thay đổi cách đánh, tập trung lực lượng lớn hơn để tiến công địch, do đó đã diệt được một số vị trí của chúng.

Đêm 1-1-1947, lực lượng ta (có cả công binh) đánh bom vào khách sạn Morin kết hợp với bộ binh tiến công địch diệt 50 tên, đốt một kho xăng, thu tám súng trường và hai tiểu liên.

Ngày 2-1, ta tiêu diệt nhà tên chỉ huy Pháp Marboenf trong khu vực trường Pellẻin. Trong trận tiến công miếu Đại Càn, ta sử dụng cả pháo 75mm phối hợp nhịp nhàng với bộ binh diệt nhiều địch và thu nhiều vũ khí.

Tuy nhiên, do có hỏa lực mạnh, có công sự kiên cố nên quân Pháp vẫn giữ được các vị trí then chốt trong thành phố, bảo toàn lực lượng để chờ viện binh.

Cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra quyết liệt. Có nhiều nơi ban đêm ta tiến công đánh chiếm, ban ngày địch lại phản kích, ta phải rút lui để bảo toàn lực lượng. Quân ta vẫn bao vây chặt quân địch ở khu nam thành phố Huế, địch hai lần phải thả quân nhảy dù và lương thực, đạn dược tiếp tế cho quân Pháp đang bị bao vây.

Để giải vây Huế, sau đó đánh chiếm Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình, Pháp đã dùng một lực lượng lớn có pháo binh và thiết giáp phối hợp từ nam đánh ra. Lực lượng này được chia làm hai mũi. Ngày 18-1-1947, một cánh quân gồm 550 quân Pháp đổ bộ từ Bãi Chối vào nam đèo Phú Gia, đánh vòng vào đèo Hải Vân và Sơn Trà. Ngày 20-1-1947, cánh thứ hai có khoảng 1.000 tên đổ vào cửa Cảnh Dương từ Thừa Lưu theo quốc lộ 1 về Huế.

Tiểu đoàn 18 của Trung đoàn Trần Cao Vân cùng dân quân tự vệ chặn đánh địch quyết liệt. Dân, quân huyện Phú Lộc chặn đánh địch ngay từ khi chúng vừa đổ bộ. Khi địch tiến đến đèo Mũi Né, bộ đội và dân quân từ trong rừng vận động tiến công. Bị đánh bất ngờ, địch phải tạm lui, bỏ lại một số xác chết. Tại đèo Phước Tượng, bộ đội ta dựa vào chiến hào đã dùng súng và bom, mìn chặn đánh địch liên tục trong các ngày 26, 27, 28-1, diệt một số địch, bắn rơi một máy bay tại Nam Giao (Huế). Do địch có xe tăng và pháo binh yểm trợ nên bộ đội ta phải vừa chiến đấu và rút lui. Ngày 31-1, quân Pháp tiến được tới hữu ngạn sông Truồi. Tại sông Truồi, ta lập trận địa ở tả ngạn sông. Với cách đánh kết hợp bom mìn với hỏa lực súng trường, súng máy trong chiến hào, ta đã đánh lui nhiều đợt vượt sông của địch, diệt một số tên. Ngày 3-2-1947, địch cho pháo binh, máy bay bắn phá trận địa, kết hợp vượt sông từ chính diện với vu hồi vào sau lưng trận địa của ta, do đó địch vượt sông Truồi, đánh chiếm một số vị trí quan trọng. Bộ đội ta tích cực phản công nhưng không thu được kết quả. Ngày 5-2-1947, quân Pháp chiếm Hà Úc, Hà Thanh, Cửa Thuận. Quân địch ở trong thành phố đánh ra bắt liên lạc được với bọn ở bên ngoài. Bộ đội ta bị tiến công từ nhiều phía phải rút khỏi thành phố trong thế bị động. Ngày 6-2-1947, viện binh địch vào được Huế. Sau khi giải vây Huế, ngày 7-2-1947, địch vượt sông Hương từ ngã ba Sình ở phía đông Huế tiếp tục tiến quân ra bắc Thừa Thiên chiếm Lại An (Phú Vang). Ngày 10-2-1947, địch chiếm Phò Trạch khi chúng vượt sông và đánh ra phía bắc. Ngày 13-2-1947, địch chiếm được Mỹ Chánh trên quốc lộ 1, địa điểm của tỉnh Quảng Trị tiếp giáp với Thừa Thiên.

Trước sức tiến công của địch, bộ đội ta bị tổn thất nặng, bị động, lúng túng. Một số đơn vị phải phân tán rút lên rừng, một số rút ra Quảng Trị, mệt mỏi, dao động, nhân dân hoang mang, thiếu tin tưởng.

Quân, dân Thừa Thiên - Huế với sự góp sức của tiểu đoàn tiểp phòng quân Vinh và bốn đại đội vệ quốc quân của khu và các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị đã dũng cảm, ngoan cường chiến đấu ngay từ giờ phút nổ súng và suốt 50 ngày đêm tiến công, bao vây địch ở Huế và đánh viện, gây cho địch nhiều tổn thất về sinh lực và phương tiện chiến tranh. Ta đã tiêu diệt gần 250 địch, bắn rơi một máy bay, phá một khẩu pháo 37 mm, thu hai trọng liên 20 mm, một trung liên 12,7 mm, 20 súng trường và nhiều quân trang, quân dụng. Song, quân địch là một đội quân nhà nghề, thiện chiến, được trang bị kỹ thuật hiện đại, lại có công sự kiên cố chuấn bị sẵn ở Huế, ngược lại, bộ đội ta trang bị kỹ thuật lạc hậu, thô sơ, thiếu hẳn vũ khí công đồn, chưa có kinh nghiệm tác chiến; cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức chỉ huy chiến tranh của ta chưa có nhiều kinh nghiệm, nặng về bố trí đánh địch theo kiểu trận địa chiến; thiếu ý thức bảo toàn lực lượng, chưa chuẩn bị kỹ về vật chất và tư tưởng cho cán bộ và nhân dân, nên khi gặp khó khăn dễ hoang mang, dao động. Như vậy, đối với ta, việc bao vây và tiêu diệt địch trong thành phố Huế đã thất bại; việc ngăn chặn địch, giữ nông thôn để chống địch lâu dài cũng không thực hiện được.


(1) 21 giờ 30’ ngày 19-12-1946, đồng chí Hồ Tùng Mậu, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Khu IV và đồng chí Đào Chính Nam, Khu phó giao nhiệm vụ cho Chính ủy Trung đoàn 57 Lê Nam Tháng và Tham mưu trưởng trung đoàn Lê Văn Xứng chỉ huy đơn vị tiêu diệt quân Pháp ở Vinh theo kế hoạch đã định.
23 giờ nổ súng tiến công. 0 giờ 30 phút ngày 20-12-1946, trung đội quân Pháp ở Vinh phải đầu hàng vô điều kiện.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #36 vào lúc: 10 Tháng Mười Hai, 2015, 08:45:03 pm »

Tại Quảng Trị

Sau khi tạm chiếm Lào, Pháp sử dụng hơn 1.000 quân có máy bay và xe thiết giáp yểm trợ đánh chiếm được 9 làm bàn đạp để tiến công Quảng Trị và chi viện cho Huế. Tiểu đoàn 13, Trung đoàn Thiện Thuật phối hợp với dân quân, tự vệ các địa phương dọc đường 9 đã tổ chức bố phòng chuẩn bị sẵn sàng đánh địch. Đoạn đường từ Khe Sanh đến biên giới đã bị phá hơn 20 km, xe cộ không đi lại được; dọc đường 9 đã bố trí lực lượng ngăn địch, dọc biên giới cũng đã bố trí lực lượng phòng địch lẻn vào theo đường tắt xuyên rừng.

Sau khi kháng chiến bắt đầu ở Thừa Thiên - Huế, trên cơ sở kế hoạch tác chiến đã được chuẩn bị từ trước, Tỉnh ủy tổ chức cuộc họp với các cán bộ chủ chốt của các huyện, thị để quán triệt chủ trương tác chiến. Đồng chí Đặng Thí, Bí thư Tỉnh ủy phân tích tình hình thuận lợi và khó khăn trong nước và trong tỉnh từ khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, quán triệt chủ trương kháng chiến và xác định vị trí, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang trong tỉnh hướng nào cũng phải bám sát địa bàn hoạt động.

Chủ trương của tỉnh là bộ đội chủ lực cùng với bộ đội của huyện và tự vệ đánh địch, ngăn chặn địch từng bước để hỗ trợ toàn dân trong tỉnh kháng chiến. Những vùng bị địch chiếm, chủ lực cũng không rút hết mà để lại mỗi huyện một đại đội bám địch cùng bộ đội huyện, tự vệ và nhân dân đánh địch.

Ngày 10-1-1947, địch từ Lào bắt đầu vượt biên giới đánh vào phía tây tỉnh Quảng Trị. Mục tiêu đầu tiên của chúng là Khe Sanh (huyện lỵ Hướng Hóa). Chúng tiến quân theo hai hướng: một hướng vượt sông Xêbăngphai theo đường tắt đánh vào Khe Sanh; hướng thứ hai theo đường 9 qua Lao Bảo đánh thẳng vào Khe Sanh.

Trên hướng Xêbăngphai, gần 500 quân địch vượt sông đánh thẳng vào Tông Thuật. Một đơn vị của tiểu đoàn 13 cùng dân quân chặn đánh địch ngay trên bờ sông. Ngày hôm sau (11-1-1947), địch dùng hỏa lực mạnh gồm pháo binh và máy bay bắn phá ác liệt yểm trợ cho bộ binh vượt sông, nhưng chúng phải bỏ lại hơn 30 xác chết. Sau khi vượt sông, địch xuyên rừng đánh Khe Sanh từ phía sau. Tuy bị địch đánh bất ngờ nhưng trung đội tự vệ của huyện Hướng Hóa cùng một số chiến sĩ trạm điều dưỡng chặn đánh địch ở Paca, tạo điều kiện cho đồng bào thị trấn thu giấu của cải, tài sản, thiêu đốt nhà cửa, tản cư vào rừng. Sau đó, ta vừa đánh vừa rút về Rào Quán.

Trên hướng đường số 9: một đơn vị của Tiểu đoàn 13 cùng dân quân Lao Bảo chặn đánh địch, diệt 60 tên. Địch phải dùng lực lượng vừa mới vào được Khe Sanh quay trở lại theo đường 9 đánh vào sau lưng bộ đội ta ở Lao Bảo mới mở được đường cho quân chúng tiến vào Khe Sanh. Bộ đội ta cùng dân quân rút vào rừng tiếp tục đánh địch.

Ngày 15-1-1947, địch bắt đầu tiến quân vượt sông Rào Quán. Tại đây đã diến ra trận đánh ác liệt gây cho địch nhiều thiệt hại. Đồng chí Hùng Việt, Trung đoàn trưởng Trung đoàn Thiện Thuật trực tiếp chỉ huy. Đồng chí Trần Hữu Dực, Chủ tịch Ủy ban hành chính Trung Bộ lên tận nơi kiểm tra và động viên cán bộ, chiến sĩ. Trận chiến đấu diễn ra rất ác liệt. Bộ đội ta dựa vào trận địa xây dựng ở bờ sông chặn đánh chính diện kết hợp với bố trí địa lôi, bom mìn và lực lượng ở phía tây sông đánh vào hai bên sườn địch. Địch bị chết và bị thương phải dừng lại một thời gian để củng cố lực lượng. Ngày 25-1, địch tiến công và chiếm được Mai Lĩnh. Trong đêm, ta tập kích Mai Lĩnh diệt một số địch.

Tại Đầu Mầu, ta vừa dựa vào địa hình hiểm trở để đánh địch từ chính diện, vừa luồn rừng tập kích quân địch ở phía sau. Bộ đội ta chiến đấu quyết liệt, diệt 30 tên địch. Mặc dù chiếm được Đầu Mầu nhưng địch bị thương vong nhiều nên chúng phải dừng lại để củng cố.

Sau khi lực lượng được củng cố, ngày 13-2-1947, địch đánh chiếm Cam Lộ. Ngày 17-2-1947, địch đánh chiếm Đông Hà.

Để đánh địch trên đường từ Cam Lộ về Đông Hà, Tiểu đoàn 15 vừa dựa vào trận địa được chuẩn bị ngăn chặn địch từng bước, vừa từ phía nam đường 9 liên tục tiến công địch, nên sau bốn ngày (từ 13 – 17-2) chúng mới vào được Đông Hà. Thị xã Đông Hà đã bị san bằng từ trước nên ta không bố trí lực lượng giữ Đông Hà. Từ Lao Bảo đến Đông Hà đoạn đường 9 chỉ có hơn 80 km nhưng địch đã phải mất 39 ngày đêm và hơn 300 tên bỏ mạng mới vượt qua được. Sau khi vào Đông Hà, địch phải dừng lại đây hơn một tháng để củng cố và bổ sung lực lượng mới bắt đầu tiến công ra bắc Quảng Trị. Trận đánh trên đường số 9 đã đánh thắng chủ trương đánh nhanh thắng nhanh của địch, làm phá sản kế hoạch của chúng định đưa lực lượng ở Lào về giải vây cho Huế; đồng thời cũng tạo điều kiện để quân dân Quảng Bình có thêm thời gian chuẩn bị kháng chiến.

Cánh quân địch ở Huế sau khi chiếm Thừa Thiên, ngày 13-2-1947, từ Mỹ Chánh hơn 1.500 tên tiến ra Hải Lăng, Triệu Phong. Ngày 16-2, chúng đánh chiếm thị xã Quảng Trị.

Tiểu đoàn 14 sau khi rút từ Cùa về đã cùng dân quân các huyện Hải Lăng, Triệu Phong và tự vệ thị xã triển khai lực lượng chặn đánh địch trên đường số 1 và trong thị xã. Ngày 14-2, ta chặn đánh địch ở Diên Sanh (huyện lỵ Hải Lăng). Ngày 15-2, ta tiếp tục đánh địch khi chúng vượt sông Nhùng và tiến công và các làng ở phía nam thị xã. Bộ đội ta dựa vào bờ sông Nhùng và các trận địa trong làng Thượng Xá đánh địch suốt ngày, diệt và làm bị thương nhiều tên, buộc địch phải dừng lại phía nam thị xã.

Để đánh địch tiến công vào thị xã, Tiểu đoàn 14 triển khai lực lượng, bố trí một đại đội ở Thượng Xá, La Vang sau đó chuyển về khu vực nhà ga Quảng Trị; một đại đội chặn địch ở Tri Bưu; một đại đội bố trí ngay trên mặt thành hướng ra phía sân vận động và đường số 1; Đại đội vệ binh Khu IV vừa được tăng cường cho Quảng Trị cũng được đưa ngay vào thị xã bố trí ở làng Thạch Hãn.

Ngày 16-2-1947, địch dùng hai tiểu đoàn bộ binh tiến công vào thị xã. Từ 5 giờ 30 phút địch đã bắn dữ dội, tiến công thị xã. Bộ đội ta cùng dân quân, tự vệ từ các hướng đồng loạt nổ súng đánh địch. Tại hướng Thạch Hãn, Đại đội vệ binh từ các giao thông hào trong làng xông ra đánh địch bật ra khỏi xóm và phải dạt về Tri Bưu. Súng cối của ta bố trí trong thành bắn trúng đội hình địch, các loại bom mìn, địa lôi cũng yểm trợ đắc lực cho bộ binh tiến công. Địch phải dùng pháo binh và xe thiết giáp dẫn bộ binh xung phong mới vào được thị xã, nhưng bị thiệt hại hơn 200 tên.

Sau khi bộ đội rút ra khỏi thị xã, một số tự vệ vẫn ở lại chiến đấu. Suốt mấy ngày sau đó, tiếng súng vẫn nổ ở khu vực Ty Công an, vườn hoa, ngã tư chợ tỉnh, khu bờ sông...

Sau khi địch chiếm được Đông Hà và thị xã Quảng Trị, ngày 17-2-1947, Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị họp mở rộng tại làng Lại An (Gio Linh). Hội nghị nhận định: Sau khi đánh chiếm được thị xã Quảng Trị và Đông Hà, địch đã bị tiêu hao nặng, nên chắc chắn chúng phải dừng lại một thời gian để củng cố lực lượng, tiến hành bình định vùng chúng vừa mới chiếm đóng. Sau đó, địch sẻ mở đợt tiến công đánh chiếm Gio Linh, Vĩnh Linh... Qua kinh nghiệm bước đầu rút ra ở Triệu Phong, Thường vụ nhận định và chủ trương: địch có thể chiếm đất nhưng ta không để mất dân. Ta phải vừa giữ vững vùng rừng núi, vừa giành giật khu vực đồng bằng với địch. Cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang quyết không rời quần chúng, giữ vững các căn cứ, ở đồng bằng, phá tề, trừ gian, bám đất, bám dân, giữ vững cơ sở, kiên quyết đập tan kế hoạch lập ngụy quyền, ngụy quân của địch.

Thực hiện chủ trương trên, Tỉnh ủy quyết định đưa Tiểu đoàn 14 trở lại đồng bằng Triệu Phong, Hải Lăng tiếp tục đánh địch bảo vệ dân, bảo vệ mùa màng; tổ chức đại đội biệt động cùng một đại đội của Tiểu đoàn 13 triển khai hoạt động dọc theo đường số 9; Tiểu đoàn 15 triển khai dọc đường số 1 để đánh địch khi chúng đánh ra Gio Linh, Vĩnh Linh.

Sau một tháng dừng lại để củng cố và bổ sung lực lượng, ngày 27-3-1947, quân địch cùng một lúc từ Cam Lộ và Đông Hà theo đường bộ và một cánh theo đường biển đổ bộ lên Đồng Hới để tiến đánh bắc Quảng Trị và Quảng Bình.

Tại Quảng Trị, ngày 25-3, Pháp cho quân đánh chiếm ngã tư Sòng. Ngày 27-3, giặc Pháp chia làm hai cánh quân tiến công Gio Linh. Ngày 30-3, quân Pháp tiến công Vĩnh Linh bằng hai cánh quân dưới sự yểm trợ của máy bay, tàu chiến và thiết giáp.

Trước sự tiến công của địch, trên đường 76, Tiểu đoàn 13 chặn đánh địch ở Nghệ An, diệt một xe tăng và 20 tên địch. Đêm 28-3, bộ đội ta tập kích vào chợ Cam Lộ diệt một số địch, trong đó có một tên thiếu tá. Tiểu đoàn 15 đánh địch ở ngã tư Sòng, huyện lỵ Gio Linh, bờ bắc sông Bến Hải, thị trấn Hồ Xá (huyện lỵ Vĩnh Linh). Ngày 30-3, địch chiếm được Hồ Xá và bắt đầu tiến công ra Quảng Bình.

Trước khi địch đánh ra phía bắc tỉnh, Thường vụ Tỉnh ủy đã họp (ở Thủy Ba Thượng) soát xét lại kế hoạch đánh địch khi chúng tiến công ra và bàn kế hoạch di chuyển cơ quan. Sau cuộc họp này, Tỉnh ủy theo đường đồng bằng chuyển về Triệu Phong, Ủy ban kháng chiến trở lại Cùa, sau đó về Ba Lòng. Trung đoàn Thiện Thuật cùng với Tiểu đoàn 15 tiếp tục chiến đấu, sau đó rút lên Khe Bò củng cố lực lượng đến cuối tháng 4-1947 trở về Hải Lăng.

Do có chủ trương đúng và sự chuẩn bị sớm của Tỉnh ủy và Trung đoàn Thiện Thuật nên đã phát huy được tinh thần tích cực tiến công, tiêu hao, tiêu diệt địch, làm chậm bước tấn công của chúng, phát động chiến tranh du kích, giữ gìn lực lượng để tiếp tục kháng chiến.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #37 vào lúc: 10 Tháng Mười Hai, 2015, 08:45:36 pm »

Tại Quảng Bình

Sau khi chiếm được Vĩnh Linh, địch cho quân tiến đánh hai huyện phía nam Quảng Bình là Lệ Thủy và Quảng Ninh, mặt khác, cùng với việc cho quân đánh Gio Linh, Vĩnh Linh, 6 giờ 30 phút ngày 27-3-1947, địch cho 2.000 quân có tàu chiến, canô, máy bay yểm trợ đổ bộ đánh chiếm Đồng Hới, đồng thời 11 giờ cùng ngày, địch cho 500 quân đổ bộ lên Thanh Khê (Bố Trạch).

Tại cửa Nhật Lệ (thị xã Đồng Hới), một đại đội vệ quốc quân do đồng chí Lê Thanh Đồng, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Lê Trực trực tiếp chỉ huy chặn đánh địch ngay từ khi chúng đổ bộ lên bờ, đánh lui đợt tiến công đầu tiên của chúng, diệt 10 tên. Sau đó địch dùng máy bay và pháo trên tàu chiến đánh phá ác liệt, phối hợp với lực lượng lớn bộ binh có xe thiết giáp yểm trợ tiến công liên tiếp vào trận địa ta. Bộ đội ta rất dũng cảm, táo bạo đánh trả đẩy quân địch ra mép biển, tiêu diệt 80 tên. Nhưng do lực lượng của ta ít, vũ khí thô sơ, đến 10 giờ cùng ngày, do bị tổn thất nặng, đồng chí Lê Thanh Đồng hy sinh, địch chiếm được Tam Tòa và làm chủ thị xã Đồng Hới. Liền sau đó, địch chia làm hai mũi: một mũi theo đường số 1, một mũi theo đường sắt tiến đánh huyện Quảng Ninh và Lệ Thủy, bắt liên lạc với cánh quân từ Quảng Trị đánh ra.

Trước sức tiến công của quân địch, Ủy ban kháng chiến tỉnh ra lệnh cho các đơn vị rút lui để giữ gìn lực lượng. Đơn vị công binh được lệnh đánh sập cầu Dài, phá hủy nhà máy điện và các công sở khác, thực hiện vườn không, nhà trống, tiêu thổ kháng chiến.

Tại cửa sông Gianh, sau khi đổ bộ, từ bàn đạp Lý Hòa, địch tiến chiếm Hoàn Lão (huyện lỵ Bố Trạch). Từ Hoàn Lão, ngày 1-4, địch đánh lên Thụ Lộc. Ngày 4-4, địch tiếp tục đánh chiếm Vạn Lộc, An Tiêm, Hòa Duyệt, dân quân Hòa Duyệt chặn đánh diệt bốn tên địch. Ngày 7-4, địch chiếm tiếp các chốt trên đường số 2, cùng ngày địch tiến đánh Thổ Ngao (Quảng Trạch), quân ta đánh trả quyết liệt, tiêu diệt 16 tên Pháp và hai tên Việt gian, buộc chúng phải rút lui. Ngày 10-4, địch dùng canô chở quân ngược sông Gianh đánh chiếm Tiên Lễ, Minh Lệ trên tuyến đường sắt. Ngày 15-4, địch vượt sông đánh chiếm Ba Đồn (huyện lỵ Quảng Trạch). Ngày 18-4, địch đánh Minh Cẩm (huyện lỵ Tuyên Hóa), quân ta chặn đánh quyết liệt, gây cho địch một số thương vong, buộc chúng phải quay về Ba Đồn, Thanh Khê.

Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn (từ 27-3 đến 18-4-1947), quân Pháp đã làm chủ quốc lộ 1 từ Hạ Cờ đến hữu ngạn sông Gianh, kiểm soát vùng duyên hải, đồng bằng ba huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh, Bố Trạch, kiểm soát một số tuyến đường giao thông quan trọng.

Trong hơn 20 ngày, Tiểu đoàn Lê Trực cùng dân quân, tự vệ và nhân dân các địa phương Quảng Bình đã anh dũng đứng lên chiến đấu tiêu diệt gần 400 tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng.

Mặc dù có hơn ba tháng chuẩn bị kháng chiến với những bài học xương máu của Thừa Thiên - Huế và Quảng Trị, nhưng do lực lượng địch quá mạnh; lực lượng ta ít về số lượng, vũ khí lại thô sơ, lạc hậu; lãnh đạo, chỉ huy thiếu kinh nghiệm nên đã bị quân Pháp nhanh chóng đánh chiếm nhiều vùng quan trọng.

Trong suốt quá trình ta tiến công địch ở Huế và đánh địch ở Quảng Trị, Quảng Bình, ngoài lực lượng dân quân, tự vệ cùng phối hợp chiến đấu với bộ đội, nhân dân cả ba tỉnh đều hăng hái cùng lực lượng vũ trang đánh địch. Nhân dân khắp nơi đào đường, đắp lũy để ngăn chặn địch; đào giao thông hào, công sự phục vụ bộ đội đánh giặc. Việc cứu chữa, nuôi dưỡng thương binh, chôn cất tử sĩ phần lớn do nhân dân đảm nhận, việc ăn uống đều do các mẹ, các chị phụ trách ở các địa phương.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #38 vào lúc: 10 Tháng Mười Hai, 2015, 08:46:09 pm »

Tham gia mặt trận miền Tây - phối hợp chiến đấu với Lào

Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ I (1-1947), Bộ Tổng chỉ huy quyết định mở mặt trận miền Tây (Tây tiến) nhằm phá tan thế bao vây, khống chế của địch trên một vùng chiến lược rộng lớn dọc theo biên giới Việt - Lào, đặc biệt là vùng Tây Bắc và Bắc Trung Bộ của Việt Nam. Mục địch tác chiến của mặt trận miền Tây là tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận quân địch; tuyên truyền giải thích, vạch rõ âm mưu của thực dân Pháp; củng cố tình đoàn kết Việt - Lào. Phương châm hoạt động của bộ đội ta trên đất Lào là vừa đánh địch, vừa vũ trang tuyên truyền; thực hiện chiến tranh nhân dân, xây dựng căn cứ địa, mở rộng vùng tự do.

Tham gia mặt trận miền Tây, ngoài lực lượng của Khu II, Khu III và Hà Nội, Khu IV cũng huy động một lực lượng lớn bao gồm hai tiểu đoàn và ba đại đội. Khu trưởng Lê Thiết Hùng ra tận Thanh Hóa giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 77; một tiểu đoàn do đồng chí Tống Thái, trung đoàn phó Trung đoàn 77 chỉ huy và Tiểu đoàn 265 thiếu của Trung đoàn 37 do đồng chí Kỷ làm Tiểu đoàn trưởng hoạt động ở khu vực đường số 7, một đại đội của Trung đoàn 103, Đại đội 6 của Tiểu đoàn Lê Trực ở Banaphào và đội biệt động Quảng Trị ở tây đường số 9.

Phối hợp chiến đấu với bộ đội Khu IV, về phía Lào có đại đội người Mẹo ở Noọng Hét, một trung đội ở Mường Dương và một trung đội ở Mường Mô.

Hoạt động ở miền Tây các lực lượng vũ trang Khu IV, vừa tác chiến vừa tuyên truyền vận động nhân dân, vạch rõ âm mưu thâm độc của thực dân Pháp, động viên nhân dân miền núi hăng hái tham gia kháng chiến. Ngày 21-2-1947, một đại đội của Trung đoàn 103 phối hợp với dân quân huyện Hương Khê (Hà Tĩnh) tiến công một đại đội ở Vũ Quang (Hương Khê), diệt 30 tên Pháp và ngụy Lào. Một đại đội khác của Trung đoàn 103 phối hợp với dân quân huyện Hương Sơn và bộ đội Lào đột kích đồn Napê, diệt 20 tên Pháp và ngụy Lào.

Đến cuối tháng 2-1947, các lực lượng vũ trang Khu IV đã tiến công các vị trí Mường Na, Mường Lạc, Mường Pun, Sầm Tớ… Tháng 3, các đơn vị ta cùng lực lượng vũ trang Lào bao vây thị xã Sầm nưa, quân Pháp phải tăng cường lực lượng để giải vây. Bộ đội Nghệ An đẩy mạnh hoạt động ở dọc biên giới khiến quân địch phải rút về Mường Na.

Sau khi được củng cố, bộ đội Thanh Hóa liên tục tập kích, phục kích tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch; dân quân Phù Lễ (Hồi Xuân) anh dũng đánh giặc bảo vệ làng bản. Liên quân Việt - Lào chặn đánh địch khi chúng đang vận chuyển, tiếp tế lương thực, thực phẩm, vũ khí, đạn dược gây cho địch nhiều khó khăn. Sau một thời gian, quân Pháp buộc phải rút khỏi Hồi Xuân.

Trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, bộ đội Liên khu IV hoạt động trong chiến trường Lào gặp rất nhiều khó khăn. Trong khi ở trong nước, vào đầu năm 1947, bộ đội và nhân dân Khu IV phải dồn sức đánh địch đến giải vây Huế và chiếm đóng Thừa Thiên, đánh địch tiến công Quảng Trị và Quảng Bình, bộ đội chiến đấu ở Lào lại càng khó khăn hơn nhiều. Đường xa, rừng núi hiểm trở, địch lại tập trung lực lượng bình định sau khi hoàn thành tái chiếm cả ở Việt Nam và Lào. Thiếu gạo, thiếu muối, thiếu vũ khí, đạn dược, thuốc men, thời tiết khắc nghiệt... nhưng cán bộ và chiến sĩ tình nguyện Khu IV vẫn nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh cùng các lực lượng yêu nước Lào bám địa bàn chiến đấu và giúp bạn xây dựng các cơ sở chính trị, quân sự phục vụ kháng chiến. Đầu năm 1947, với sự giúp đỡ của bộ đội Khu IV, ở Khăm Muộn, Savanakhẹt... nhiều yếu tổ chức hội yêu nước được thành lập. Bộ đội địa phương và dân quân du kích Lào cũng được bộ đội Khu IV giúp về tổ chức huấn luyện và phối hợp chiến đấu; Trung đội Xiêng Xinh, Trung đội Bon Liên, Trung đội dân quân Mẹo là những đơn vị điển hình thời kỳ này.
   
Tháng 4-1947, 80 lính ngụy Lào do sĩ quan Pháp chỉ huy đánh xuống Tri Lễ (tây Nghệ An) bị liên quân Việt - Lào chặn đánh ở Mường Pao và Mường Dương. Trung đội người Mẹo và trung đội Bon Liêng cùng phối hợp đánh địch diệt hàng chục lính Pháp và ngụy Lào, phá tan cuộc hành quân của địch.

Tháng 6-1947, ta giải phóng Mường Xén (Nghệ An) tạo nhiều điều kiện thuận lợi làm bàn đạp cho các đơn vị của Khu IV sang giúp Lào thời kỳ này; đồng thời cũng là cửa ngõ để nhiều cán bộ, chiến sĩ, đơn vị của Lào sang đứng chân ở Việt Nam. Năm 1947, một bộ phận của đội Pát Chay (khoảng 100 người) phần lớn là người Mẹo do Viêngphađao và Nhiêu Vư đưa từ Noọng Hét về Mường Xén, thành lập đội vũ trang Mẹo kháng chiến, do ông Thau Tu chỉ huy. Trong thời gian ở Mường Xén, đội đã được quân, dân Khu IV giúp đỡ tận tình về mọi mặt. Tháng 11-1947, một bộ phận hơn 30 người do ông Xiêng Xinh dẫn đầu sang Cửa Rào (Nghệ An), ta giúp củng cố và cử một số cán bộ đi theo để giúp bạn. Cuối năm 1947, hai đơn vị Giải phóng quân của Việt Kiều ở Thái Lan và Lào về Nghệ An thành lập Tiểu đoàn Trấn Ninh, sau đó Tiểu đoàn Trấn Ninh được điều trở lại hoạt động ở vùng Đông Lào.

Từ năm 1947, Trung ương giao cho Khu IV giúp đỡ và phối hợp chiến đấu với các địa phương thuộc Đông Lào. Từ Xiêng Khoảng đến Sầm Nưa, Khăm Muộn, Hủa Phăn, Savanakhẹt giáp Hạ Lào. Theo chỉ thị của Trung ương, tháng 7-1947, phòng Ngoại vụ ở Khu IV giải tán, thành lập phòng Biên chính (biên giới, chính sách) do Khu Ủy và Ủy ban hành chính kháng chiến khu lãnh đạo. Đồng chí Trần Đức Vịnh với danh nghĩa là phái viên của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa trực tiếp phụ trách phòng Biên chính. Sau khi đồng chí Vịnh hy sinh (6-1947), đổng chí Ngô Vân Anh làm trưởng phòng (8-1947). Đồng chí Anh chết, đồng chí Đào Việt Hưng thay (đến đầu tháng 10-1948, đồng chí Nguyễn Tài được phân công phụ trách phòng Biên chính Liên khu IV). Ở các vùng cũng có đại diện của phòng Biên chính như: vùng Na Pê có đại diện biên chính ở Hà Tĩnh, Sầm Nưa có đại diện ở Bái Thượng (Thanh Hóa). Phòng Biên chính còn giúp khu Đông Lào ra báo tiếng Lào.

Cuối năm 1947, đầu năm 148, Trung ương có chủ trương khôi phục và mở rộng đường liên lạc giữa Việt Nam - Lào - Thái Lan. Khu IV được giao nhiệm vụ này. Trong thực tế đã từng có những con đường mòn đi từ phía tây Khu IV qua Lào, sang Thái Lan. Nhưng lúc này do yêu cầu của cách mạng nước ta, con đường này phải được mở rộng. Sau khi được giao nhiệm vụ, khu đã tổ chức lực lượng trinh sát tìm đường và tổ chức bảo vệ con đường liên lạc quốc tế Việt - Thái. Điểm xuất phát của con đường từ đất Việt Nam là tại một địa điểm gần Khe Kiền (Khệ An) qua Mường Nham, Mường Mọc, Hạt Xuông, vượt sông Mê Công sang bản Mạy thuộc Nakhôn (Thái Lan). Đây là đoạn đường bộ gần nhất từ Việt Nam qua Lào, sang Thái Lan, từ đây mở ra một con đường liên lạc rất quan trọng. Từ 1948 đến 1950 (trước khi mở cửa biên giới Việt - Trung), hầu hết các đoàn cán bộ của Việt Nam đi ra nước ngoài và các đoàn khách quốc tế đến Việt Nam đều đi qua con đường này. Hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ Việt - Lào, nhiều tấn lương thực, thực phẩm, thuốc men, vũ khí, đạn dược… đã được vận chuyển qua đây, góp phần quan trọng vào việc phục vụ công cuộc kháng chiến của hai dân tộc Việt - Lào.

Trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, tuy trang bị còn thô sơ, lạc hậu, chưa có kinh nghiệm chiến đấu, nhưng với lòng yêu nước, tinh thần quyết chiến bảo vệ nền độc lập, bảo vệ quê hương, quân và dân Khu IV đã giành được những thắng lợi quan trọng: bắt gọn quân Pháp ở Vinh; 50 ngày bao vây, tiến công quân Pháp ở Huế; tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch khi chúng đến giải vây Huế và tiến công Quảng Trị, Quảng Bình; tham gia mặt trận miền Tây, phối hợp chiến đấu với các lực lượng vũ trang Lào. Những chiến thắng ấy đã làm thất bại chủ trương đánh nhanh, thắng nhanh của địch, gây cho chúng nhiều tổn thất. Tuy địch chiếm được các trục đường lớn, những thành phố, thị xã ở Bình - Trị - Thiên nhưng quân và dân Khu IV vẫn làm chủ rừng núi, một bộ phận nông thôn đồng bằng. Đó là những yếu tố quan trọng cho việc khôi phục và phát triển lực lượng kháng chiến sau này.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #39 vào lúc: 10 Tháng Mười Hai, 2015, 08:46:48 pm »

*
*   *

Từ tháng 4-1947, sau khi chiếm đóng Hà Nội, mở thông đường số 5 nối liền Hà Nội - Hải Phòng, giải tỏa Nam Định, quân Pháp đánh rộng ra các vùng xung quanh như Hà Đông, Phủ Lý. Ở Khu V, địch chiếm Quảng Nam, Đà Nẵng. Sau khi đánh chiếm ba tỉnh Bình - Trị - Thiên, địch đã nối thông hành lang chiến lược Đà Nẵng - Đông Hà - Xavanakhẹt, chúng thành lập Bộ chỉ huy Bắc Trung Bộ do tên tướng Lebris cầm đầu. Địch chia Bình - Trị - Thiên thành ba phân khu: phân khu Thừa Thiên, phân khu Quảng Trị và phân khu Quảng Bình. Mỗi phân khu chia thành các tiểu khu, mỗi tiểu khu phụ trách một đến hai huyện, thị. Trong từng tiểu khu, địch bố trí hệ thống cứ điểm lớn, tháp canh, quân địch bố trí các cụm pháo binh để khống chế các chiến khu, vùng du kích và vùng tự do của ta. Cùng với việc thành lập các cơ quan quân sự, địch đẩy mạnh việc tổ chức bộ máy ngụy quyền từ xứ xuống tỉnh, huyện, xã; thành lập các hội tề ở các địa phương. Chúng lập ra Hội đồng tham nghị lâm thời và Hội đồng chấp chính lâm thời Trung Kỳ. Bộ máy ngụy quyền gồm những tên Việt gian đầu sỏ, bọn đội lốt tôn giáo như Trần Văn Lý, bọn quan lại như Trần Thanh Đạt, Hà Xuân Hải, Nguyễn Khoa Toàn; bọn chuyên nghề mật thám như René Hạnh... Bên cạnh bộ máy ngụy quyền, địch còn sử dụng lực lượng của các tổ chức phản động như Quốc dân đảng, đảng Đại Việt và một số phần tử phản động trong Liên đoàn công giáo.

Quân Pháp đã xây dựng hàng trăm đồn, bốt lớn, nhỏ, chúng ra sức bắt lính để xây dựng ngụy quân. Quân địch ở Bắc Trung Bộ lúc đó có hơn 8.000 tên, Quảng Bình có gần 2.000 tên, Quảng Trị có gần 3.000 tên, Thừa Thiên có hơn 3.000 tên. Ngoài ra ở Bình - Trị - Thiên có hơn 2.000 tên bảo vệ quân. Ngoài các đồn, bốt do quân Pháp và ngụy quân phụ trách, một số nơi chúng còn tổ chức hương vệ để giữ các thôn xóm.

Để tiến hành bình định, địch dựa vào hội tề (những nơi do địch nắm) và các đảng phái phản động, tìm mọi cách bắt bớ, giết hại cán bộ, đảng viên của ta. Sau khi Thừa Thiên bị quân Pháp đánh chiếm, Đảng bộ Hương Thủy từ 170 đảng viên chỉ còn 30 người; ở Phú Vang từ 193 đảng viên còn lại 23 người, Hương Trà còn 20 đảng viên. Địch dùng tiền và vật chất khác để mua chuộc cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh việc càn quét, thực hiện đốt sách, giết sạch, cướp sạch.

Tại Thừa Thiên: trận càn Vĩnh Nẩy, địch giết hại hơn 100 người phần lớn là ông, bà già và trẻ em. Trận càn Phú Ninh, Hiền Sĩ địch giết hại 115 người.

Tại Quảng Trị: trận càn làng Quy Thiện (Hải Lăng) địch xả súng giết hại 115 người; trận càn Vĩnh Hoàng (Vĩnh Linh) địch giết hại 150 người dân vô tội.

Tại Quảng Bình: trận càn chợ Trạm, địch đốt hơn 400 ngôi nhà, bắn giết hơn 300 người; riêng thôn Mỹ Trạch địch sát hại 250 người. Trận càn vào thôn Lệ Xá địch giết 100 cụ già, đàn bà và trẻ em. Trận càn thôn Quy Hậu địch giết hơn 50 người.

Cùng với việc đốt nhà, giết hại dân thường, địch còn thực hiện cướp sạch, không cho dân sản xuất, chúng còn thu nhiều thứ thuế, bắt đi phu, đi lính…

Do địch phá hoại và do thiên tai, vụ chiếm bị hạn nặng, diện tích gieo trồng bị giảm đến 40%, năng suất rất thấp, mùa màng bị thất thu nặng; lương thực bị địch cướp phá, nhân dân Bình - Trị - Thiên đứng trước nguy cơ bị đói. Trong khi đó lực lượng vũ trang Khu IV cũng gặp rất nhiều khó khăn, Trung đoàn Trần Cao Vân (Thừa Thiên) giảm sút sức chiến đấu nghiêm trọng, Tiểu đoàn Lê Trực (Quảng Bình) phải rút lên núi. Nhiều nơi ở Bình - Trị - Thiên có một số cán bộ, đảng viên không bám đất, bám dân để tiếp tục chiến đấu; cán bộ cơ sở không liên lạc được với cấp trên, thậm chí có nơi cán bộ, đảng viên lẩn tránh vào rừng hoặc chạy sang địa phương khác, dân quân, tự vệ nhiều nơi tan rã; nhân dân nhiều vùng hoang mang…Ở những nơi đó tiếng súng kháng chiến tạm thời lắng xuống.

Trong khi đó trên phạm vi cả nước, sau khi quân ta rút khỏi Hà Nội, địch đám chiếm nhiều vùng rộng lớn ở đồng bằng Bắc Bộ. Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Tổng tư lệnh quyết định chuyển sang sử dụng chiến thuật “du kích vận động chiến” để tiêu hao lực lượng địch; làm cho địch suy yếu dần, bảo tồn và phát triển lực lượng ta, bảo đảm kháng chiến lâu dài. Khu ủy Đảng, Bộ chỉ huy quân sự khu và các cơ quan lãnh đạo đảng và quân sự các tỉnh Bình - Trị - Thiên đã lãnh đạo và chỉ đạo các cấp và quân, dân thực hiện chủ trương đó.

Cũng trong thời gian này (tháng 3-1947), Bộ chỉ huy Khu IV có sự thay đổi: đồng chí Nguyễn Sơn được cử làm Khu trưởng, Vương Thừa Vũ làm khu phó, Nguyễn Sĩ Tuấn làm Tham mưu trưởng khu.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM