Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 17 Tháng Tư, 2024, 01:22:51 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954  (Đọc 55677 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #20 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:32:54 pm »

Để bảo vệ nền độc lập mới giành được và xây dựng chế độ xã hội mới, ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ và nêu ra sáu nhiệm vụ cấp bách cần làm ngay:

Một là, phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất để chống đói...

Hai là, mở chiến dịch chống nạn mù chữ.

Ba là, tổ chức càng sớm càng tốt cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, thực hiện quyền tự do, dân chủ của nhân dân,

Bốn là, mở phong trào giáo dục, cần, kiệm, liên, chính để bài trừ những thói hư, tật xấu do chế độ cũ để lại.

Năm là, bãi bỏ ngay thuế thân, thuế chợ, thuế đò và nghiêm cấm việc hút thuốc phiện.

Sáu là, tuyên bố tự do tín ngưỡng và Lương Giáo đoàn kết.

Sau đó, trong bức thư gửi nông dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại nêu lên hai nhiệm vụ cấp bách trước mắt là “cứu đói ở Bắc và kháng chiến ở Nam”.

Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, đề ra nhiệm vụ cần kíp cho toàn Đảng, toàn dân là ”phải củng cố chính quyền chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”(1).

Thực hiện các chủ trương của Trung ương Đảng, Chính phủ và chủ tịch Hồ Chí Minh, Xứ ủy Trung Bộ sau khi được tổ chức lại(2) đã nhanh chóng tập trung sức tổ chức thực hiện những nhiệm vụ cấp bách trước mắt. Nhiệm vụ trước tiên là Thường vụ Xứ ủy cử cán bộ cùng với các địa phương củng cố và phát triển hệ thống tổ chức đảng từ tỉnh đến cơ sở, thành lập và kiện toàn cơ quan lãnh đạo đảng các cấp. Từ tháng 9 đến tháng 11-1945, các tỉnh lần lượt mở hội nghị cán bộ hoặc chấp hành mở rộng của các đảng bộ. Quảng Trị tổ chức hội nghị cán bộ toàn tỉnh (10 – 11-9-1945), Nghệ An tổ chức hội nghị thành lập đảng bộ tỉnh ngày 2-10-1945, Quảng Bình tổ chức hội nghị cán bộ đảng toàn tỉnh ngày 7-10-1945. Đầu tháng 10, Hà Tĩnh tổ chức hội nghị cán bộ và cử tỉnh ủy lâm thời. Tháng 10-1945, Thừa Thiên tổ chức hội nghị cán bộ đảng toàn tỉnh. Tháng 11-1945, Thanh Hóa tổ chức hội nghị tỉnh ủy. Các tỉnh tổ chức hội nghị nhằm kiểm điểm các mặt hoạt động từ sau ngày khởi nghĩa giành chính quyền và đề ra những chủ trương, biện pháp thiết thực thực hiện những nhiệm vụ cấp bách mà Trung ương đã đề ra. Đó là: ổn định đời sống nhân dân, củng cố và xây dựng hệ thống tổ chức đảng, xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng, phát triển Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể quần chúng, xây dựng lực lượng vũ trang và đối phó kiên quyết, khôn khéo, mềm dẻo với giặc ngoài, thù trong theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng và Chính phủ. Các hội nghị này có giá trị như những đại hội quyết định những vấn đề lớn về bảo vệ và xây dựng chính quyền cách mạng, xây dựng chế độ xã hội mới, bầu Ban Chấp hành đảng bộ cấp tỉnh và sau đó là cấp huyện và cơ sở(3).

Để tập trung củng cố và xây dựng hệ thống tổ chức đảng từ tỉnh xuống cơ sở, sau khi mở các hội nghị ở cấp tỉnh, các tỉnh ủy đã phân công cán bộ về các địa phương thành lập và kiện toàn các ban huyện ủy. Các huyện ủy lại đưa cán bộ về các làng xã củng cố và xây dựng các chi bộ. Các cấp ủy đảng từ tỉnh xuống tới các làng, xã từng bước được xây dựng. Cùng với việc khắc phục tư tưởng cô độc, hẹp hòi, nghi kỵ lẫn nhau, công tác xây dựng đảng được đẩy mạnh, nhiều quần chúng hăng hái trong Cách mạng Tháng Tám và những ngày đầu bảo vệ chính quyền được kết nạp vào Đảng. Đến cuối năm 1945, số lượng đảng viên so với những ngày giành chính quyền đã tăng lên đáng kể. Nhiều xã, cơ quan, xí nghiệp ở đồng bằng và một số trường học… đã có chi bộ. Sinh hoạt đảng được tiến hành thường xuyên để quán triệt đường lối, chính sách của Đảng, khắc phục các nhận thức, tư tưởng sai trái, làm bàn việc chỉ đạo các mặt công tác cấp bách trước mắt. Các tỉnh ủy chủ động phối hợp với Xứ ủy Trung Bộ mở các lớp bồi dưỡng chính trị cho cán bộ, đảng viên. Trong thực tế, những ngày đầu sau Cách mạng Tháng Tám, mặc dù sự lãnh đạo của Xứ ủy đối với các đảng bộ cấp dưới chưa được thường xuyên, nhưng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở các địa phương đã hăng hái hoạt động, nêu cao tính tiên phong, gương mẫu, luôn luôn là hạt nhân lãnh đạo chính quyền và phong trào cách mạng của nhân dân.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nọi, 2000, t.8, tr.26-27.
(2) Ngày 31-8-1945, Hội nghị đại biểu các tỉnh Trung Kỳ họp tại Huế (có đại biểu của 18 tỉnh Trung Bộ) đã quyết định thành lập Đảng bộ Đảng Cộng sản Đông Dương ở Trung Bộ, bầu Ban Chấp hành Xứ ủy do Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng làm Bí thư. Công việc chủ yếu của Xứ ủy Trung Bộ lúc đó là:
- Gấp rút thành lập cấp ủy các cấp trước hết là các tỉnh ủy đến huyện ủy cấp cơ sở và tương đương.
- Ra sức kiện toàn đảng những nơi đã có tổ chức đảng, phát triển đảng những nơi chưa có, đưa ra khỏi đảng những phần tử cơ hội...
- Nhanh chóng phổ biến các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến từng cơ sở và đảng viên.
- Tích cực bồi dưỡng đào tạo cán bộ, đảng viên bằng cách mở các lớp đào tạo từ Xứ xuống đến huyện.
- Lãnh đạo các tổ chức quần chúng và lãnh đạo chính quyền.
(Theo Bước qua đầu thù (hồi ký) của Trần Hữu Dực, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.251-252).
(3) Tại Quảng Trị, đồng chí Đặng Thí được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Nguyễn Xuân Luyện làm Chủ tịch tỉnh. Tại Nghệ An, đồng chí Nguyễn Xuân Linh làm Bí thư Tỉnh ủy. Ở Hà Tĩnh, đồng chí Nguyễn Thái được cử làm Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Trần Hữu Duyệt làm Chủ tịch. Ở Quảng Bình, đồng chí Nguyễn Đình Chuyên làm Bí thư, đồng chí Hoàng Văn Diệm làm Chủ tịch. Ở Thừa Thiên, đồng chí Nguyễn Văn Sơn làm Bí thư, đồng chí Hoàng Anh làm Chủ tịch. Ở Thanh Hóa, đồng chí Lê Chử làm Bí thư, đồng chí Lê Tài Đắc làm Chủ tịch.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #21 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:36:43 pm »

Thực hiện chủ trương của Trung ương “Đảng tuyên bố tự giải tán”, thực chất là rút vào hoạt động bí mật, từ tháng 11-1945, các đảng bộ đều mang tên “Công nhân cứu quốc hội” lấy danh nghĩa “Đoàn thể” và “Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác” để tiếp tục hoạt động, giữ vững vai trò lãnh đạo cách mạng, làm nòng cốt trong mọi phong trào và không ngừng phát hủy ảnh hưởng của Đảng(1).

Cùng với việc xây dựng đảng là xây dựng lực lượng chính trị quần chúng, phát triển tổ chức Mặt trận Việt Minh(2), các đoàn thể cứu quốc và tuyên truyền giáo dục nâng cao trình độ chính trị của nhân dân được xúc tiến khẩn trương. Các đội tuyên truyền xung phong do Cấp ủy Việt Minh tỉnh, huyện thành lập đi về các làng xã để tuyên truyền, phổ biến rộng rãi chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ; vạch trần những âm mưu, thủ đoạn phá hoại, xuyên tạc của kẻ thù; động viên toàn dân đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng kháng chiến cứu nước.

Nhờ có sự hoạt động tích cực của đội ngũ cán bộ, đảng viên, dặc biệt là ở những vùng cơ sở cách mạng còn yếu (vùng núi, vùng Thiên Chúa giáo) Mặt trận Việt Minh và các hội cứu quốc đều phát triển mạnh; cơ sở quần chúng được xây dựng ở nhiều địa phương. Ngoài các Hội Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Văn hóa cứu quốc... nhiều nơi còn thành lập các hội khác như Việt Nam cứu quốc, Chức nghiệp cứu quốc, Công giáo cứu quốc, Phật giáo cứu quốc, Hướng đạo cứu quốc... Các hội cứu quốc, nhất là công, nông, thanh, phụ... phát triển nhanh chóng, hoạt động sôi nổi, mạnh nhất là ở Nghệ An và Hà Tĩnh(3). Các tổ chức quần chúng đã phát huy tác dụng tích cực động viên, giáo dục nhân dân truyền thống yêu nước, tinh thần cách mạng và tổ chức nhân dân tích cực thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Công tác xây dựng và củng cố chính quyền được đặt biệt coi trọng. Sau khi quyết định thành lập lại Xứ ủy, Mặt trận Việt Minh, ngày 2-9-1945, Hội nghị cán bộ các tỉnh Trung Bộ quyết định thành lập và bầu Ủy ban nhân dân cách mạng Trung Bộ do Trần Hữu Dực làm Chủ tịch. Ủy ban chủ trương trong vòng một tháng bộ máy chính quyền từ cấp kỳ, tỉnh, huyện, xã và tương đương phải tổ chức xong và đi vào hoạt động. Chính phủ cách mạng lâm thời và Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời ở các tỉnh được thành lập sau ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám nay đổi thành Ủy ban nhân dân cách mạng (sau đổi thành Ủy ban nhân dân rồi lại đổi tiếp thành Ủy ban hành chính). Những cán bộ có năng lực, có phẩm chất được phân công giữ các chức vụ quan trọng trong bộ máy chính quyền các cấp. Nhiều nhân sĩ yêu nước và tiến bộ được lựa chọn tham gia và bộ máy chính quyền cách mạng. Các cơ quan chức năng như tòa án, thông tin tuyên truyền, y tế, giáo dục, ngân hàng, giao thông... lần lượt được thành lập.

Thực hiện chủ trương chung, tháng 12-1945, các tỉnh phân chia lại địa giới hành chính một số huyện, xã; xóa bỏ cấp tổng, lấy xã làm đơn vị hành chính cơ sở, hợp nhất các làng, xã nhỏ thành xã lớn; đồng thời kiện toàn bộ máy cơ sở. Chế độ làm việc của các ủy ban được cải tiến, hệ thống tư pháp được thành lập tử tỉnh xuống xã, đã giải quyết kịp thời một số vấn đề phức tạp, vướng mắc giữa chính quyền và nhân dân, giữa nhân dân với nhau. Ở các huyện miền núi xa xôi đã được bổ sung nhiều cán bộ có năng lực và phẩm chất tốt, nhờ đó mà các tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể quần chúng nhanh chóng được kiện toàn và xây dựng, từng bước hoạt động có hiệu quả, tổ chức đứng đầu đồng bào miền núi tham gia kháng chiến.

Ngày 6-1-1946, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân các dân tộc Khu IV hăng hái tham gia ngày hội Tổng tuyển cử bầu đại biểu Quốc hội. Đây là lần đầu tiên, những người dân của một nước độc lập được làm nhiệm vụ của một công dân, tự tay cầm lá phiếu bầu ra cơ quan lập pháp của đất nước. Từ thành phố, thị xã đến các vùng nông thôn, từ đòng bằng đến các vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh đông đảo các tầng lớp nhân dân nô nức đi bầu đại biểu Quốc hội. Nhiều địa phương đã huy động được 100% số cử tri đi bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội. Quảng Bình 100%, Quảng Trị 98%, Nghệ An, Hà Tĩnh 97%, Thanh Hóa 96%, Thừa Thiên - Huế hơn 90%. Tháng 2-1946, cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp đã tiến hành thắng lợi. Hội đồng nhân dân khóa I đã họp để quyết định những nhiệm vụ cấp bách của địa phương về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng; bầu Ủy ban hành chính và Ban thanh tra hành chính. Các ủy ban hành chính tỉnh, huyện, xã được Hội đồng nhân dân các cấp cử ra bao gồm những cán bộ tiêu biểu do các đảng viên cộng sản làm nòng cốt, càng làm cho các cấp chinh quyền được củng cố và tăng thêm hiệu lực tổ chức, điều hành, quản lý toàn xã hội.

Một trong những nhiệm vụ quan trọng cấp bách lúc này đối với các cấp ủy đảng và chính quyền là khắc phục nạn đói và ổn định đời sống nhân dân. Sau khi thành lập, chính quyền cách mạng các cấp đã thực hiện ngay cuộc vận động toàn dân đoàn kết tương trợ lẫn nhau. Hưởng ứng lời kêu gọi của chính phủ, noi theo gương sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào “Nhường cơm sẻ áo”, “Hũ gạo cứu đói”, “Ngày đồng tâm”..., đã được tổ chức để cứu giúp đồng bào đang bị đói. Thanh Hóa đã quyên góp được 1.076 tấn gạo, ở nhiều nơi, số gạo thu được không những đã trang trải nhu cầu tại chỗ mà còn thừa để giúp đồng bào Bắc Bộ đang gặp khó khăn(4).


(1) Những cán bộ chủ chốt đã đóng vai trò quan trọng đối với ssự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ở sáu tỉnh Khu IV trong những ngày đầu xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng là: Hoàng Quốc Việt, đại diện Trung ương Đảng ở Trung Bộ, Nguyễn Chí Thanh, Bí thư Xứ ủy, Tố Hữu - Ủy viên Thường vụ Xứ ủy, Trần hữu Dực, Chủ tịch ủy ban nhân dân cách mạng Trung Bộ, Lê Thiết Hùng, Hồ Tùng Mậu, Bộ tư lệnh Chiến khu IV và đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở các tỉnh.
(2) Ngày 1-9-1945, Hội nghị đại biểu các tỉnh Trung Bộ, họp tại Huế đã bầu Ban chấp hành Mặt trận Việt Minh Trung Bộ ((Theo Bước qua đầu thù (hồi ký) của Trần Hữu Dực, Sđd, tr.252).
(3) Ở Nghệ An còn thành lập Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội hoạt động mạnh ở Vinh. Ở Hà Tĩnh còn tổ chức Hội mẹ chiến sĩ, Hội giúp đỡ binh sĩ bị nạn.
(4) Hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh đã giúp đồng bào Bắc Bộ 477 tấn gạo. Thanh Hóa cũng giúp các tỉnh Hưng Yên, Bắc Ninh hàng trăm tấn gạo.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #22 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:38:31 pm »

Cùng với việc khắc phục nạn đói, ổn định đời sống nhân dân, chính quyền các địa phương thuộc Khu IV tiếp tục tổ chức thực hiện 10 chính sách lớn của Việt Minh và các chủ trương, chính sách mới của Đảng và Chính phủ. Ngoài việc xóa bỏ ngay các loại thuế bất hợp lý do chế độ cũ để lại (thuế thân, thuế chợ, thuế đò...), các tỉnh còn thực hiện miễn giảm thuế điền thổ cho vùng bị thiên tai mất mùa; vận động nhân dân hoãn nợ, thực hiện giảm tô, giảm tức cho dân nghèo, chia lại ruộng đất cho nông dân (cả nam lẫn nữ). Ngày cắm thẻ nhận ruộng đã trở thành ngày hội của nông dân lao động nghèo. Chính quyền cho nông dân chuộc lại ruộng đất cầm cố trước Cách mạng Tháng Tám. Thực hiện luật làm việc ngày làm tám giờ và chế độ bảo hiểm đối với công nhân. Vận động nhân dân thực hành tiết kiệm, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, thực hiện nếp sống mới, tổ chức các trại tế bần...

Thực hiện chủ trương của Chính phủ và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh khắc phục nạn đói, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, khắp nơi dấy lên phong trào sôi nổi làm thủy lợi, khai hoang, phục hóa. Nhiều công trình thủy lợi được tiến hành nạo vét, tu sửa. Ở Nghệ An, đập nước Xuân Đường (Diễn Châu), đê ngăn mặn ở La Văn (Nghi Lộc), đê ngăn cát ở Quỳnh Lưu, hệ thống nông giang ở Đô Lương, Diễn Châu, Yên Thành được sửa chữa phục vụ sản xuất. Nhiều địa phương thành lập Ban chỉ đạo sản xuất, Hội nông gia tương tế, lập ngân hàng tín dụng cho nông dân vay vốn để mua sắm nông cụ, trâu bò, lúa giống... Một số nơi còn thành lập tổ đổi công và hợp tác xã nông nghiệp (tính đến tháng 6-1946, ở Nghệ An đã xây dựng được 41 hợp tác xã nông nghiệp). Phong trào thi đua lao động sản xuất được tổ chức trong mọi ngành, mọi vùng, mọi giới, mọi gia đình với ý thức “tấc đất tấc vàng”, “tăng gia sản xuất, tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa”. Đường giao thông từ tỉnh xuống đến huyện, xã được tu sửa. Các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp được khôi phục, sản xuất những hàng hóa tiêu dùng thiết yếu phục vụ nhân dân.

Với những chủ trương, biện pháp tích cực và phù hợp với điều kiện của từng địa phương, sản xuất về mọi mặt bước đầu được khôi phục, góp phần đẩy lùi nạn đói và cải thiện một phần đời sống nhân dân.

Để góp phần giải quyết khó khăn về tài chính, ngân sách của Trung ương về các địa phương, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, các tỉnh đã tổ chức tốt “Tuần lễ vàng” và các cuộc quyên góp khác để xây dựng “Quỹ độc lập”, “Quỹ đảm phụ quốc phòng”. Những cuộc vận động quyên góp này đã được đông đảo các tầng lớp nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng bằng cách đóng góp tiền, vàng, bạc, đồng, lúa, gạo, trâu bò… Có những gia đình, những người dân đem cả của gia bảo, vật kỷ niệm quý giá như vòng vàng, dây chuyến, nhẫn cưới, đồ thờ cúng… ủng hộ Quỹ độc lập. Sau một thời gian ngắn vận động, nhân dân Thanh Hóa đã góp vào Quỹ độc lập 528 lạng vàng, 84 kg bạc. Nhân dân Nghệ An đóng góp 23,62 kg vàng, hơn 16 tấn đồng, hàng trăm kg bạc, 161.116 đồng tiền mặt. Hà Tĩnh góp 8 kg vàng, 53 kg bạc và một số kim cương, ngọc quý. Quảng Bình đóng góp 11 nén bạc, 1.030 đồng bạc trắng, 33 kg đồ nữ trang bằng bạc, 6,6 kg đồ trang sức bằng đồng. Quảng Trị góp 4 kg vàng. Thừa Thiên - Huế đóng góp 945 lạng và 10kg vàng(1), Thừa Thiên có vinh dự tham gia phát hành đồng tiền mới (đồng bạc Cụ Hồ) và sử dụng đầu tiên đồng tiền ấy.

Đi đôi với nhiệm vụ chống giặc đói, khắc phục khó khăn về tài chính, tiền tệ, nhiệm vụ chống giặc dốt, xây dựng đời sống mới cũng được triển khai tích cực ở khắp mọi nơi. Các khẩu hiệu cổ động “Tiền tuyến diệt xâm lăng, hậu phương trừ giặc dốt”, “Thêm một người đi học là thêm một viên đạn bắn vào quân thù, thêm một viên gạch xây đài độc lập của nước nhà” được chăng lên khắp các ngả đường, cổng chợ, đình làng. Các lớp học bình dân học vụ phát triển mạnh thu hút đông đảo mọi tầng lớp tham gia từ thành thị đến nông thôn, từ vùng biển đến những vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh. Người biết chữ dạy người chưa biết, cha con, vợ chồng, anh em dạy cho nhau. Học ban ngày, học cả ban đêm… Nhờ vậy chỉ trong thời gian ngắn hàng vạn người ở các tỉnh đã biết đọc, biết viết. Cùng với phong trào bình dân học vụ, bậc giáo dục phổ thông cũng có bước phát triển mới, thu hút thêm nhiều con em nhân dân lao động vào các trường tiểu học và trung học.

Cùng với việc xóa nạn mù chữ và phát triển bậc giáo dục phổ thông, cuộc vận động thực hiện “đời sống mới” ở các phong trào xã hội khác đã góp phần nâng cao dân trí ở khắp mọi nơi. Ban vận động “đời sống mới” được thành lập từ tỉnh đến xã để chỉ đạo phong trào. Chính quyền, mặt trận, các đoàn thể tích cực vận động nhân dân thực hiện, các tầng lớp nhân dân hưởng ứng rộng rãi. Phong trào xây dựng thôn, xã, đường phố kiểu mẫu phát triển. Nhân dân tự đóng góp công sức làm đường, cầu, cống, sân vận động, phòng đọc sách báo, chòi phát thanh, bản tin, trạm xá, nhà hộ sinh. Các phong trào vệ sinh, phòng bệnh, văn nghệ, thể thao... thu hút đông đảo nhân dân lao động tham gia.


(1) Ở Huế nhiều người trong hoàng tộc cũng hăng hái tham gia Tuần lễ vàng. Bà Nam Phương (vợ Bảo Đại) tham gia làm cố vấn của Ban tổ chức tuần lễ vàng và ủng hộ một số nữ trang bằng vàng. Ông Nguyễn Duy Quang, nguyên Ngự tiền văn phòng của vua Bảo Đại ủng hộ 42 lượng vàng, ông Ưng Quang ủng hộ 40 lượng vàng… (theo Nguyễn Đắc Xuân - Chuyện nội cung cựu hoàng Bảo Đại, Nxb. Thuận Hóa, 1999, tr.41).
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #23 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:40:03 pm »

Song song với việc xây dựng toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... các địa phương đã đặc biệt chú trọng nhiệm vụ xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang. Ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, thực dân Pháp không chỉ dựa vào quân Anh đã đánh chiếm một số tỉnh miền Nam mà còn âm mưu mở rộng chiến tranh ra cả nước, xâm lược Việt Nam một lần nữa. Xanhtơni theo chân phái bộ quân sự Mỹ đến Hà Nội, đại sứ Pháp ở Trùng Khánh vận động Tưởng Giới Thạch để quân Pháp ở Vân Nam vượt biên giới vào Bắc Đông Dương thay thế quân đội Tưởng. Sau ngày Nhật đảo chính (9-3-1945), một số tàn binh Pháp chạy khỏi các tỉnh lỵ, đồn binh ở Việt Nam, Lào và ẩn náu ở vùng rừng núi phía tây Việt Nam và đông Lào, nay lăm le trở lại Việt Nam. Pháp còn cho quân nhảy dù xuống Hiền Sĩ (tây - bắc Huế) nhằm móc nối với bọn Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi, Bảo Đại - vua và thủ tướng thân Pháp dựa vào sĩ quan và thường dân bị Nhật bắt giam trước đây ở Huế đã được trả tự do, để chiếm giữ những nơi trọng yếu trong thành phố Huế để nhân dân là người chủ đón tiếp Đồng minh, phỗng tay trên của chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim. Nhưng chúng không biết rằng ta đã khởi nghĩa giành chính quyền. Trước tình hình đó, thực hiện chủ trương của Trung ương, Xứ ủy và các tỉnh ủy khẩn trương bắt tay vào việc xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang cả về số lượng, chất lượng và trang bị.

Sau ngày giành chính quyền, các lực lượng vũ trang nhân dân và công an được gấp rút tổ chức và hoạt động. Các thôn xã đều thành lập các đơn vị dân quân tự vệ, mỗi tỉnh có một chi đội Giải phóng quân(1). Mỗi chi đội có từ 3 đến 4 đại đội, có tỉnh còn có một số đại đội tự vệ tập trung ở các huyện xung yếu. Các cơ quan trinh sát, cảnh vệ được xây dựng đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang nói trên làm tốt nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền.

Cùng với Sắc lệnh của Chính phủ ngày 15-10-1945 thành lập các chiến khu trong đó có Chiến khu IV, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ định đồng chí Lê Thiết Hùng (tức Lê Văn Sửu) làm chỉ huy trưởng, đồng chí Hồ Tùng Mậu làm Chính trị ủy viên Bộ chỉ huy Chiến khu IV. Sau đó một thời gian, Bộ chỉ huy Chiến khu IV được thành lập, bao gồm hệ thống chỉ huy, các ban thông tin, tác chiến, tình báo... Bộ máy chỉ huy chiến khu được bổ sung và tăng cường, đồng chí Hoàng Điền làm tham mưu trưởng, đồng chí Chu Văn Biên làm tham mưu chủ nhiệm, phụ trách công tác nội bộ cơ quan tham mưu, đồng chí Trần Văn Quang - Trưởng phòng chính trị, đồng chí Mười Uyển - Trưởng phòng quân nhu, đồng chí Lê Lộc - Chánh văn phòng chiến khu. Cơ quan chiến khu khi mới thành lập đóng ở Hà Tĩnh, đến ngày 6-3-1946 chuyển ra đóng tại Tòa giám binh và dinh Tổng đốc cũ ở Vinh. Ngày 16-12-1945, các hệ thống tổ chức chỉ huy, thông tin liên lạc, quân báo được thành lập và bắt đầu hoạt động.

Ở Thanh Hóa, Tỉnh ủy khẩn trương chỉ đạo tiến hành lựa chọn những chiến sĩ do đồng chí Hoàng Tiến Trình làm Chi đội trưởng, đồng chí Nguyễn Kiện làm Chính trị ủy viên. Ở mỗi huyện xây dựng một trung đội du kích tập trung, ở các xã cũng xây dựng các đơn vị tự vệ.

Ở Nghệ An, các đội tự vệ ở các làng, xã có từ trước khởi nghĩa cũng được khẩn trương tổ chức lại, bổ sung về số lượng, chỉ huy và trang bị. Ở tỉnh thành lập Chi đội Đội Cung, là đơn vị Giải phóng quân đầu tiên của tỉnh do đồng chí Mười Uyển làm Chi đội trưởng và đồng chí Nguyễn Phan làm Chính trị viên.

Hà Tĩnh có Chi đội Phan Đình Phùng do đồng chí Nghiêm Thưởng làm Chi đội trưởng và đồng chí Phan Quang Minh làm Chính trị ủy viên.

Ở Quảng Bình, sau Hội nghị tháng 10-1945, Tỉnh ủy chủ trương xây dựng ở mỗi huyện, thị một đại đội tự vệ chiến đấu tập trung, mỗi xã một trung đội xây dựng xưởng quân khí phát động phong trào ủng hộ quỹ nuôi quân, rèn sắm vũ khí... Ở tỉnh thành lập Chi đội Lê Trực do đồng chí Quách Sĩ Tạo làm Chi đội trưởng, đồng chí Trần Hường làm Chính trị ủy viên (đồng chí Trần Hường là Tỉnh ủy viên). Chi đội lúc đầu, có bốn đại đội, đến cuối 1946 có sáu đại đội. Quảng Bình còn thành lập Đại đội Phú Quý trực thuộc Tỉnh ủy làm nhiệm vụ bảo vệ cơ quan lãnh đạo tỉnh.

Ở Quảng Trị, Chi đội Giải phóng quân được thành lập từ ngày 23-8-1945 do ông Trương Linh phụ trách, sau đó đổi thành Chi đội Nguyễn Thiện Thuật gồm 1.500 chiến sĩ do Quản Xuyến làm Chi đội trưởng (sau một thời gian ngắn, Tỉnh ủy chỉ định đồng chí Nguyễn Đăng Trình làm Chi đội trưởng). Đến tháng 3-1946, Tỉnh ủy cử đồng chí Trần Sâm về làm Chính trị ủy viên (Chính ủy). Chi đội có các tiểu đoàn 13, 14, 15. Tháng 4-1946, Tiểu đoàn 15 chuyển sang làm nhiệm vụ tiếp phòng quân. Cán bộ, chiến sĩ của chi đội hầu hết được lựa chọn từ các đội tự vệ chiến đấu ở các địa phương trong tỉnh.


(1) Sau Cách mạng Tháng Tám, các tỉnh đã tổ chức đội quân chủ lực với những tên gọi khác nhau. Nơi gọi là Cứu quốc quân, Giải phóng quân, nơi gọi là Ủy ban quân sự, Tư lệnh giải phóng quân... Sau ngày 2-9-1945 thống nhất tên gọi là Chi đội giải phóng quân. Chi đội tương đương với trung đoàn, đại đội tương đương với tiểu đoàn, trung đội tương đương với đại đội, phân đội tương đương với trung đội, mỗi phân đội có ba tiểu đội.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #24 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:41:52 pm »

Ở Thừa Thiên, ngay sau ngày giành chính quyền, ở hầu khắp các thôn, xã, khu phố, trường học, bệnh viên, xí nghiệp… đã có lực lượng tự vệ chiến đấu. ở xã có tiểu đội, ở huyện đã có trung đội. Ở tỉnh, ngày 5-9-1945, Chi đội giải phóng quân Trần Cao Vân được thành lập do Quản Hậu làm Chi đội trưởng, đồng chí Hoàng Lưu làm Chính trị ủy viên, ông Phùng Đông làm Tham mưu trưởng. Chi đội có các tiểu đoàn 16, 17, 18 (sau đổi thành Giải phóng quân Thuận Hóa). Chi đội gồm có 15 trung đội.

Để có đủ cán bộ lãnh đạo và chỉ huy quân sự, Xứ ủy đã cấp tốc mở lớp đào tạo cán bộ đại đội, trung đội, mỗi khóa khoảng hai tháng. Học viên là những cán bộ chỉ huy các Chi đội Giải phóng quân và những cán bộ làm công tác đảng, chính quyền ở các địa phương. Các đồng chí lãnh đạo như Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Duy Trinh, Trần Hữu Dực, Tố Hữu, Lê Chưởng… Giáo viên quân sự chủ yếu là các cựu binh sĩ(1). Các tỉnh cũng mở các lớp đào tạo cán bộ tiểu đội (có cả cán bộ đảng, chính quyền cấp tỉnh, huyện tham gia học tập).

Cuối tháng 12-1945, để tăng cường công tác chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang, chế độ ủy viên quân sự trong các Ủy ban hành chính bị bãi bỏ. Các cơ quan tỉnh đội, huyện đội, xã đội được thành lập trực tiếp chỉ đạo lực lượng vũ trang địa phương. Các Chi đội Giải phóng quân các tỉnh được củng cố, kiện toàn, sau đổi là Chi đội Vệ quốc đoàn, đến đầu năm 1946 đổi là Chi đội Vệ quốc quân.

Lúc mới thành lập, lực lượng vũ trang toàn Khu IV có gần 10.000 người, trang bị đủ các loại vũ khí có thể có như giáo, mác, dao, kiếm, lựu đạn, súng trường và một số súng khác lấy được của quân đội Pháp, Nhật, bảo an binh cũ. Một số tỉnh thành lập các công binh xưởng để sản xuất và sửa chữa vũ khí. Cả Khu IV chỉ có 1 khẩu pháo 75 mm, 1 khẩu 37 mm và 1 khẩu 20 mm.

Các cấp bộ đảng ở các tỉnh trong khu đã đưa những cán bộ, đảng viên tốt vào lực lượng vũ trang, đồng thời sử dụng các sĩ quan, binh lính của chế độ cũ và các cán binh Nhật tự nguyện tham gia Quân đội Việt Nam làm nhiệm vụ huấn luyện bộ đội và dân quân tự vệ.

Bênh cạnh công tác tổ chức lực lượng, huấn luyện quân sự, đào tạo cán bộ, việc nâng cao chất lượng chính trị, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang được  chú trọng. Các cấp bộ đảng lãnh đạo trực tiếp công tác quân sự, điều động nhiều cán bộ có năng lực sang công tác quân sự. hệ thống tổ chức đảng, hệ thống cán bộ chính trị trong quân đội được xây dựng và củng cố. Đầu năm 1946, Tổng quân ủy được thành lập để giúp Trung ương Đảng lãnh đạo quân đội đã tác động tích cực đến công tác xây dựng đảng, công tác chính trị, tư tưởng trong lực lượng vũ trang Khu IV.

Để đáp ứng yêu cầu đào tạo cán bộ trong các đơn vị và địa phương, tháng 2-1946, Bộ chỉ huy Chiến khu IV tiếp nhận Trường quân chính của Xứ ủy Trung Bộ và chuyển trường từ Huế ra Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh). Trường do đồng chí Nguyễn Thanh Đồng phụ trách. Sau khi di chuyển, trưởng bắt tay ngay vào việc đào tạo cán bộ, khóa đầu tiên đã có 146 cán bộ theo học.

Bộ đội các tỉnh hầu hết được tập trung huấn luyện. Nội dung học tập bao gồm cả chính trị và quân sự. Về chính trị, học các bài nói về chiến sĩ Vệ quốc đoàn, 10 lời thề, 12 điều kỷ luật… Về quân sự, các chiến sĩ đều được học ba kỹ thuật chính: bắn súng, đâm lê, ném lựu đạn và chiến thuật từng người (ẩn nấp, di chuyển, xung phong). Về chiến thuật, lúc này chủ yếu học chiến thuật phân đội theo chiến thuật tác chiến chính quy của quân đội Pháp nên ít được sử dụng trong thực tế kháng chiến sau này.

Dân quân, tự vệ là lực lượng chiến đấu ở cơ sở. Các thôn, xã ở các tỉnh trong toàn khu đều có lực lượng này, phần lớn thanh niên nam, nữ và kể cả một số người lớn tuổi cũng hăng hái tham gia. Trên cơ sở lực lượng dân quân, tự vệ rộng rãi, các xã đều chọn một số thanh niên khỏe mạnh, hăng hái, tổ chức thành các đội dân quân du kích (ở nông thôn) và tự vệ chiến đấu (ở thành thị). Mỗi xã, khu phố có từ một đến hai trung đội dân quân, du kích hoặc tự vệ chiến đấu. Các huyện và tỉnh cũng thành lập các đơn vị dân quân thường trực cơ động, tập trung (thoát ly sản xuất) được trang bị, nuôi dưỡng và tổ chức như bộ đội chủ lực. Mỗi huyện có một đến hai trung đội, có huyện có đại đội, mỗi tỉnh có từ một đến hai đại đội. Dân quân tự vệ được trang bị chủ yếu là gậy gộc, gươm, đao; có số rất ít được trang bị lựu đạn và súng trường. Nói chung dân quân, du kích ít được huấn luyện quân sự, nhiệm vụ chính của lực lượng này là canh gác thôn xóm và làm xung kích trong công tác xây dựng nông thôn như làm đường, làm thủy lợi… Ở thành thị, lực lượng này làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự an ninh, vận động xây dựng nếp sống mới.


(1) Một số là sĩ quan, hạ sĩ quan quân đội Pháp, một số là người Nhật, người Đức, một số là cán bộ Giải phóng quân Việt Bắc, đã được học ở những trường quân chính chống Nhật.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #25 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:43:09 pm »

Để kịp thời có vũ khí trang bị cho bội đội và dân quân, du kích, các lò rèn ở thôn xã tập trung rèn dao, kiếm. Các tỉnh đều xây dựng binh công xưởng để sản xuất lựu đạn, sửa chữa các loại súng hư hỏng. Trang bị của các công binh xưởng lấy ở các xưởng cơ khí cũ của Pháp; cán bộ, công nhân kỹ thuật cũng chủ yếu dựa vào số học viên và giáo viên của Trường kỹ nghệ thực hành do Pháp lập ra trước đây. Ở Thừa Thiên, ngày từ tháng 9-1945, Ủy ban nhân dân tỉnh và Chi đội Trần Cao Vân đã tập hợp 200 công nhân lấy máy ở Trường kỹ nghệ, xưởng vôi Long Thọ, xưởng hỏa xa, nhà máy điện để lập hai xưởng Ngọc Lâm chuyển sửa chữa súng cũ, đúc vỏ lựu đạn và xưởng Phú Lâm chuyên nghiên cứu chế tạo thuốc nổ, ngòi nổ, hạt nổ và làm đạn súng trường. Ở Thanh Hóa thành lập xưởng Cao Thắng từ tháng 9-1945, với gần 30 công nhân, máy móc lấy từ Nhà máy diêm Hàm Rồng và mỏ crôm Cổ Định, sau này xưởng sửa chữa súng tiểu liên và lựu đạn. Ở Nghệ An thành lập xưởng Đặng Thái Thân, xưởng có 100 công nhân, nghiên cứu và chế tạo lựu đạn kiểu Mỹ. Ở Vinh, lập thêm xưởng Rạng Đông để sửa chữa súng tiểu liên, sửa chữa cả ôtô (sau này chuyển về Thanh Chương và đổi tên thành xưởng Lê Viết Thuật). Ở Hà Tĩnh lập công binh xưởng ở Nhượng Bạn (Cẩm Xuyên), xưởng có 100 công nhân chuyển sửa chữa các loại súng cũ. Ở Quảng Bình, lập công binh xưởng ở Quy Hậu (Lệ Thủy).

Để chỉ đạo thống nhất các công binh xưởng, cuối tháng 12-1945, Bộ chỉ huy Chiến khu quyết định thành lập Ban chế tạo khí giới. Những hoạt động của ngành quân giới Khu IV trong những ngày đầu kháng chiến đã góp phần giảm bớt những khó khăn về trang bị vũ khí cho các lực lượng vũ trang trong toàn khu.

Bên cạnh công tác tổ chức lực lượng, huấn luyện quân đội, đào tạo cán bộ... việc nâng cao chất lượng chính trị, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang cũng được chú trọng. Công tác quân sự luôn luôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu được các cấp bộ đảng thường xuyên bàn bạc, tập trung sức để xây dựng, củng cố và kiện toàn. Cấp ủy các địa phương trong toàn khu đã điều động nhiều cán bộ, đảng viên có năng lực sang công tác trong quân đội. Hệ thống tổ chức đảng, hệ thống cán bộ chính trị trong quân đội được xây dựng và củng cố.

Trong việc xây dựng lực lượng vũ trang, lực lượng công an cũng được chú ý xây dựng ngay từ đầu. Để thống nhất chỉ đạo việc giữ gìn an ninh, trật tự ở các địa phương, ngày 23-8-1945, Ủy ban nội vụ Trung Bộ quyết định thành lập bộ phận trinh sát và tư pháp trong các Ủy ban nhân dân, bộ phận này là thành viên của Ủy ban nhân dân, đồng thời cử các đồng chí Nguyễn Văn Ngọc, Thường vụ Xứ ủy làm Giám đốc Sở trinh sát Trung Bộ. Tiếp sau đó các tỉnh cũng lần lượt thành lập lực lượng công an với những tên gọi khác nhau. Ở Thanh Hóa thành lập lực lượng cảnh sát xung phong. Ở Nghệ An có Cục công an Nghệ An. Ở Quảng Bình thành lập Ty trinh sát. Ở Quảng Trị thành lập Ban trinh sát - tư pháp sau đổi thành Ty trinh sát. Ở Thừa Thiên từ tháng 8 đến tháng 12-1945, Ty công an Thừa Thiên được thành lập. Đến tháng 4-1946, Ty công an các tỉnh trong toàn khu được thành lập trên cơ sở sáp nhập Ty trinh sát và Sở cảnh sát xung phong. Tuy mới được thành lập, lực lượng công an các tỉnh Khu IV đã góp phần đắc lực vào việc theo dõi, khám phá, quản lý những ổ nhóm phản động, trừng trị bọn Việt gian, mật thám đầu sỏ(1) ổn định an ninh, trật tư xã hội, chống giặc ngoài, thù trong.

Như vậy, chỉ sau một thời gian rất ngắn, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trực tiếp là sự chỉ đạo của Xứ ủy Trung Bộ và các tỉnh ủy trong toàn khu, quân và dân Khu IV đã nhanh chóng vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ bắt tay vào xây dựng lực lượng cách mạng và chế độ xã hội mới, xây dựng đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang, các tổ chức quần chúng cách mạng về mọi mặt, góp phần giải quyết nạn đói, nạn dốt, bảo vệ vững chắc chính quyền cách mạng non trẻ, ổn định đời sống nhân dân sẵn sàng đối phó với mọi tình hình.


(1) Tại Thừa Thiên, chính quyền cách mạng đã bắt và xử lý một số tên nguy hiểm như Phạm Quỳnh, Ngô Đình Huân;
- Tại Quảng Trị, bắt tên tri phủ gian ác Trần Mậu Trinh, tên mật thám nguy hiểm Nguyễn Hữu Chước, Hồ Ích.
- Tại Quảng Bình bắt tên tỉnh trưởng Nguyễn Thơ, Tỉnh phó Đặng Hiếu An, tên mật thám gian ác Nguyễn Thương.
- Tại Thanh Hóa bắt tên Phan Văn Giáo trùm mật thám của tình báo Pháp ở Trung Kỳ.
- Đặc biệt công an Trung Bộ bắt tên Tôn Thất Hối mật thám Trung Kỳ từng tham gia đàn áp phong trào Xôviết Nghệ - Tĩnh.
(Công an nhân dân Liên khu IV - Biên niên sự kiện, Tài liệu chuyên đề của Bộ Công an, năm 2000, tr.15).
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #26 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:44:43 pm »

*
*   *

Sau ngày Nhật đảo chính (9-3-1945), một số lực lượng Pháp chạy khỏi các tỉnh lỵ, đồn binh ở Việt Nam, Lào về ẩn náu ở vùng rừng núi phía tây Việt Nam và đông Lào bám các trục đường giao thông quan trọng.

Ở đường số 9 có khoảng một tiểu đoàn bộ binh cơ giới thuộc Lữ đoàn bộ binh thuộc địa Trung Đông Dương của tướng Turquyn chiếm đóng vùng ngoại vi Sêpôn, Phường Phìn, Pha Lan; hơn một đại đội chiếm Cămcớt, Lạcxao.

Ở đường số 12, một đại đội địch chốt đèo Mụ Giạ (Banaphào), Nhômmarát, Mahaxây.

Ở đường số 7, một đại đội chiếm Noọnghét, Bản Ban, Mường Ngan, Mường Ngát.

Ở Sầm Nưa, quân địch chiếm giữ Sầm Tớ, Mường Na, Mường Lan, móc nối với bọn phản động ở các châu thượng du Thanh Hóa và Quỳ Châu (Nghệ An).

Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, với ý đồ trở lại xâm lược Việt Nam, được sự giúp sức của quân Anh, Pháp nổ súng tái chiếm Nam Bộ; đồng thời cho quân nhảy dù xuống tây bắc Huế và tổ chức đám tàn quân Pháp trên đất Lào để thực hiện ý đồ tái chiếm Việt Nam từ phía tây.

Ngày 28-8-1945, Pháp cho một toán tình báo gồm sáu tên do tên thiếu tá Casténa chỉ huy nhảy dù xuống Hiền Sĩ (Phong Điền, Thừa Thiên) nhằm móc nối với bọn phản động và quan lại cũ. Bọn này bị ta bắt gọn(1). Sau đó, địch còn cho một toán ba tên xâm nhập bằng đường biển, qua cửa Thuận An nhằm bắt liên lạc với Phạm Quỳnh và Bảo Đại. Bọn này cũng bị ta bắt.

Tại Lạcxao thuộc tỉnh Khăm Muộn (nay thuộc tỉnh Bôlykhămxay - Lào) địch cho một toán gồm ba tên nhảy dù xuống truyền đạt chỉ thị cho đám tàn quân chuẩn bị lực lượng, câu kết với bọn tay sai ở miền núi, xây dựng căn cứ chuẩn bị cho mưu đồ tái chiếm Việt Nam.

Cũng trong thời gian này, địch cho gần một đại đội do tên quan ba Pháp chỉ huy từ thị trấn Cămcớt theo trục đường số 8 đánh chiếm Napê, dùng Napê làm bàn đạp chuẩn bị đánh sang Việt Nam. Trước tình hình đó, để ngăn chặn từ xa âm mưu thâm độc của địch, lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh quyết định tấn công Napê. Lực lượng ta có một đại đội gồm đội viên của Chi đội Phan Đình Phùng và dân quân hai huyện Hương Sơn, Đức Thọ, sau đó được bổ sung thêm một trung đội của Chi đội Đội Cung (Nghệ An). Trận tiến công địch ở Napê diễn ra từ ngày 6 đến ngày 8-9-1945, kết quả ta đã tiệt diệt một trung đội địch, diệt tên quan ba, bắt sống một tên quan hai Pháp. Phối hợp chiến đấu với bộ đội Hà Tĩnh, bộ đội Thanh Chương (Nghệ An) dùng với lực lượng vũ trang Lào bí mật, bất ngờ tiến công huyện lỵ Cămcớt diệt thêm một số địch, số còn lại bỏ chạy. Liên quân Lào - Việt truy kích đến cầu Na Hương diệt thêm một tên quan tư và tên quan hai, lấy được bản kế hoạch đánh chiếm thành phố Vinh của chúng.

Chiến thắng Napê là chiến công đầu xuất sắc của lực lượng vũ trang Hà Tĩnh, Nghệ An phối hợp chiến đấu với lực lượng vũ trang yêu nước Lào, tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch, đập tan âm mưu của thực dân Pháp định dùng Napê làm bàn đạp theo trục đường số 8 tiến công Việt Nam từ phía tây. Phối hợp với các lực lượng vũ trang yêu nước Lào, bộ đội Việt Nam đẩy mạnh công tác vũ trang tuyên truyền, xây dựng lực lượng và chính quyền cách mạng ở hai huyện Cămcớt, Lạcxao thành những căn cứ kháng chiến đầu tiên của tỉnh Khăm Muộn.

Cùng với mặt trận đường 8, bộ đội Quảng Trị cũng tổ chức một số trận chiến đấu ở phía tây đường 9, kết hợp với lực lượng yêu nước Lào, ở tỉnh Savanakhẹt do ông Thao Ô chỉ huy, mặt trận đường 9 do ông Ba Thụ làm chỉ huy trưởng. Đồng chí Khu trưởng Lê Thiết Hùng cùng các cơ quan chức năng chiến khu trực tiếp chỉ huy và tổ chức chi viện kịp thời cho mặt trận đường 9 một khối lượng lớn lương thực, thực phẩm, thuốc men...

Ngoài lực lượng của Quảng Trị, Bộ chỉ huy Chiến khu IV còn tăng cường cho mặt trận một bộ phận của Chi đội Trần Cao Vân (Thừa Thiên). Nhiều đoàn đại biểu thay mặt chính quyền, đoàn thể lên tận mặt trận thăm hỏi động viên cán bộ, chiến sĩ. Đoàn đại biểu phụ nữ Trung Bộ do các chị Lê Thị Quế, Võ Thị Thể, Đào Thị Đinh đại diện; đoàn đại biểu phụ nữ Quảng Trị do chị Lê Thị Diệu Muội mang nhiều quà bánh của nhân dân Trị Thiên lên tận mặt trận động viên chiến sĩ.

Đầu tháng 10-1945, một trung đội bộ đội huyện Thanh Chương do đồng chí Nguyễn Như Cầu, Bí thư huyện ủy chỉ huy trận đánh Noọng Hét. Do thiếu kinh nghiệm chiến đấu, bộ đội bị thương vong nhiều, đồng chí Cầu hy sinh. Sau thất bại này ta rút kinh nghiệm, tăng cường lực lượng chuẩn bị cho những trận chiến đấu mới.


(1) Cùng với điện đài, vũ khí, tiền bạc, ta còn thu được một công vụ lệnh do tướng Lơcơléc (LECLERC), Tư lệnh quân viễn chinh Pháp ký ra lệnh cho các lực lượng của Pháp phải chịu sự chỉ huy của thiếu tá (CASTENA) khi có thời cơ thì lập lại nền cai trị ở Đông Dương.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #27 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:45:22 pm »

Ở Lào, từ ngày 7 đến 15-9-1945, Pháp đánh chiếm toàn bộ vùng Nam Lào. Cuối tháng 8-1945, hơn 16.000 quân Tưởng cũng đã tràn vào Lào. Tháng 1-1946, hơn 3500 quân Pháp từ Vân Nam (Trung Quốc) trở lại Lào mở đầu cuộc xâm lược Lào lần thứ hai.

Đứng trước cuộc tiến công quy mô của thực dân Pháp vào Lào, Liên quân Lào - Việt tuy mới được thành lập (tháng 9-1945) đã chiến đấu dũng cảm trong các trận đánh lớn ở Nhommarát, Hinbun, Đồng Hến.

Sau hai ngày nước Lào tuyên bố độc lập, ngày 14-10-1945, đại diện Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ký với Chính phủ Lào hiệp định tương trợ về các mặt. Ngày 30-10-1945, Hiệp định về tổ chức Liên quân Lào - Việt cũng được ký kết. Ban chỉ huy Liên quân Lào - Việt gồm một số cán bộ Lào và Việt Nam dưới sự chỉ huy của Hoàng thân Xuphanuvông. Từ đây, Liên quân Lào, Việt được xây dựng và chính thức xác lập về mặt nhà nước.

Các hiệp định đầu tiên được ký kết, nền móng pháp lý cho quan hệ liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung giữa nhân dân hai nước Việt - Lào đã được xác lập. Ở các địa phương dọc biên giới Lào - Việt cũng có những cuộc trao đổi ký kết những văn bản thỏa thuận giúp đỡ lẫn nhau. Ở Napê, tháng 10-1945, Ủy ban Việt - Lào thân thiện được thành lập do đồng chí Nguyễn Tam Khôi làm Chủ tịch. Ngày 11-11-1945, ủy ban huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh) cùng với Ban chỉ huy đơn vị Giải phóng quân Lào ở Khăm Muộn họp bàn phương án phòng thủ biên giới trên phạm vi địa phương mình.

Đầu tháng 12-1945, bộ đội Khu IV phối hợp với lực lượng vũ trang yêu nước Lào tiến công địch ở thị trấn Sêpôn, diệt và bắt 53 tên Pháp, thu toàn bộ vũ khí. Sau đó tiến công địch ở Mường Phìn, Huội Cay, cầu Thà Khống... thu được nhiều thắng lợi (chỉ có trận Pha Lan do ta chủ quan nên bộ đội bị thương vong nhiều).

Ở đường số 12, Đại đội 6 cùng dân quân huyện Tuyên Hóa (Quảng Bình) phối hợp với một bộ phận bộ đội huyện Hương Khê (Hà Tĩnh) đánh thắng địch ở Bãi Dinh (Quảng Bình), buộc địch phải rút chạy về cố thủ ở Banaphào.
   
Ở đường số 7, huyện Tương Dương (Nghệ An) được tỉnh bổ sung nhiều cán bộ để xây dựng lực lượng cách mạng, trọng tâm là hai thị trấn Cửa Rào và Mường Xén. Tỉnh còn tổ chức một đại đội (lấy quân của hai huyện Anh Sơn) và Thanh Chương lên xây dựng cơ sở chính trị ở các vùng dân tộc thiểu số (Hơmông, Khơmú).

Về phía Lào, thời gian này có một đại đội bộ đội Sầm Nưa do Xiêng Xinh chỉ huy; một đại đội người Mẹo, một đại đội Lào Thênh do Nhiêu Vư chỉ huy. Sau khi đánh ở Xiêng Khoảng rút về Tương Dương (Nghệ An) để củng cố một thời gian, đại đội Xiêng Xinh lại trở về hoạt động ở phía nam Sầm Nưa. Đại đội Nhiêu Vư trở về Xiêng Khoảng, hoạt động ở các huyện Mường Mộc, Noọng Hét, Mường Khăm. Đây là những lực lượng đầu tiên và nòng cốt của liên minh chiến đấu Việt - Lào sau này.

Cuối năm 1945, đầu năm 1946, tại khu vực Cửa Rào, Mường Xén (Nghệ An), đời sống của bộ đội và nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Người đói, bệnh tật hoành hành, thêm vào đó là quân Tưởng thường xuyên quấy nhiễu và vơ vét thuốc phiện. Để ổn định tình hình, Khu trưởng Lê Thiết Hùng, Phó chủ tịch tỉnh Nghệ An - Nguyễn Tài lên mặt trận đường 7 cùng với địa phương tìm cách giải quyết khó khăn cho bộ đội và nhân dân.

Ở vùng thượng du Thanh Hóa và phía tây Phủ Quỳ (Nghệ An), bọn địch ở phía đông Sầm Nưa tìm bắt liên lạc với bọn phản động Lê Xuân Kỳ, Lê Xuân Tín ở Lang Chánh (Thanh Hóa), Sầm Văn Kim, Lò Khăm Thi ở Quỳ Châu (Nghệ An). Bọn này một mặt giả vờ tích cực tham gia cách mạng, mặt khác ra sức lừa bịp, bóc lột nhân dân miền múi, âm mưu chống lại đường lối kháng chiến của Đảng và Nhà nước ta, nhờ thực dân Pháp lập “Xứ Mường tự trị”. Tỉnh ủy Thanh Hóa, Nghệ An tổ chức Ban cán sự các huyện miền núi, đưa cán bộ vào Ủy ban nhân dân huyện để tranh thủ tầng lớp lang đạo tiến bộ, cô lập bọn thổ ty, lang đạo phản động; giáo dục, tuyên truyền, giác ngộ nhân dân hăng hái tham gia cách mạng.

Âm mưu của thực dân Pháp trở lại xâm chiếm các nước Đông Dương ngày càng bộc lộ trắng trợn, từng bước chúng mở rộng phạm vi lấn chiếm. Đến cuối tháng 3-1946, nhiều thị xã, thị trấn của Lào như Savanakhẹt, Thàkhẹc... dần dần bị quân Pháp chiếm lại. Chính phủ lâm thời và lực lượng kháng chiến Lào phần lớn phải rút sang Thái Lan. Một bộ phận lánh sang Khu IV đã được chính quyền và nhân dân vùng biên giới Việt - Lào hết lòng giúp đỡ. Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, tháng 5-1946, Khu IV và Lào thành lập Chi đội Trần Phú và các Phân đội cảm tử. Sau đó ta giúp bạn xây dựng cơ sở ở nông thôn, các căn cứ du kích và phát triển lực lượng vũ trang. Tổ chức các lớp huấn luyện đào tạo cán bộ quân sự gồm 26 thanh niên yêu nước Lào và thanh niên Việt Nam.

Chiến thắng Napê, Sê Pôn... cùng với những trận chiến đấu gian khổ, hy sinh ở phía tây đường số 7, số 8 và số 9 là những chiến thắng đầu tiên của liên minh chiến đấu Việt - Lào. Tuy có những tổn thất, hy sinh nhưng quân và dân Khu IV đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang yêu nước Lào cầm chân địch, góp phần bảo vệ chính quyền cách mạng ở các địa phương dọc biên giới Việt - Lào trên địa bàn Khu IV, tạo điều kiện cho cách mạng Lào phát triển. Những chiến thắng đầu tiên quan trọng đó đã tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, bước đầu đánh thắng âm mưu chiếm giữ hành lang Thái Phiên (Đà Nẵng) - Thuận Hóa (Huế) - Đông Hà - Lao Bảo - Savanakhẹt, bám chặt đường 9 hòng xâm chiếm Bình - Trị - Thiên của thực dân Pháp.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #28 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:46:54 pm »

Đi đôi với việc đánh trả và ngăn chặn quân Pháp ở biên giới Việt - Lào, đảng bộ, chính quyền các tỉnh Khu IV đã lãnh đạo và chỉ đạo quân dân các địa phương trong toàn khu tiến hành đấu tranh chống lại âm mưu và những hành động khiêu khích, phá hoại của quân Tưởng và bè lũ tay sai, bảo vệ thành quả cách mạng. Với phương châm kiên quyết giữ vững chủ quyền nhưng không để xảy ra xung đột, chỉ nhân nhượng ở Trung ương chứ không nhân nhượng ở địa phương của Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đảng bộ, các cấp chính quyền và quân dân Khu IV đã cùng cả nước làm thất bại âm mưu của chúng.

Ở một số nơi quân Tưởng kéo vào, nhân dân đã tổ chức mít tinh, biểu dương sức mạnh và sự ủng hộ mạnh mẽ chính quyền cách mạng, ủng hộ mãnh mẽ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đảng bộ các địa phương vận dụng nhiều biện pháp vừa mềm dẻo, vừa kiên quyết, dùng áp lực của quần chúng vạch trần âm mưu đen tối của quân Tưởng, đòi chúng phải thừa nhận tôn trọng chính quyền cách mạng. Nhiều địa phương đã sử dụng các tổ chức “Hoa - Việt thân thiện”, “Ủy ban liên lạc Hoa - Việt” để nắm địch tình, kịp thời có đối sách đấu tranh với kẻ thù, không cho chúng quấy nhiễu nhân dân, khiêu khích cán bộ. Lực lượng công an, tự vệ chiến đấu đảm nhiệm việc canh gác, bảo vệ trị an trên các ngả đường. Lực lượng vũ trang nhiều nơi được bố trí xung quanh khu vực lính Tưởng đóng, bí mật bao vây, kiềm chế hoạt động của chúng, không để chúng tự do hoành hành phá hoại cách mạng.

Bọn tay sai Việt quốc, Việt cách núp dưới bóng quân Tưởng tranh thủ xây dựng và phát triển lực lượng trong các phần tử phản cách mạng và bọn địa chủ cường hào gian ác ở một số nơi, nhất là ở những nơi tình hình chính trị và xã hội sau ngày giải phóng còn nhiều phức tạp như Thanh Hóa, Thừa Thiên... Chúng đem báo Việt Nam, Thiết thực của bọn Quốc dân đảng xuất bản ở Hà Nội có nội dung phản động vào phát hành ở các tỉnh Trung Bộ, rải truyền đơn đả kích Việt Minh, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ ta, kích động quần chúng, ám sát cán bộ.

Trước những hành động ngang ngược phá hoại cách mạng của chúng, đảng bộ và chính quyền các tỉnh Khu IV đã lãnh đạo lực lượng vũ trang phối hợp với công an kết hợp đấu tranh với đông đảo quần chúng kiên quyết đập tan những vụ chống đối, dẹp gọn những âm mưu tổ chức biểu tình chống chính quyền cách mạng, nghiêm khắc cảnh cáo bọn tay chân, kiên quyết trừng trị bọn cầm đầu và những tên ngoan cố. Ngày 26-1-1946, Xứ ủy Trung Bộ ra nghị quyết về đối sách với bọn phản động, nghị quyết chỉ rõ đối sách với từng tổ chức phản động. Tại Thanh Hóa, quân Tưởng đã nuôi dưỡng, trang bị vũ khí cho bọn Quốc dân Đảng lập ra Đệ lục chiến khu ở ấp Di Linh, xã Hợp Lý, huyện Nông Cống (nay thuộc Triệu Sơn). Bọn Đại Việt cũng tăng cường hoạt động trong các vùng tôn giáo, tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ, xây dựng lại lực lượng chuẩn bị đón quân Pháp quay trở lại. Thực hiện chủ trương của Trung ương và Xứ ủy Trung Bộ, Tỉnh ủy và Ủy ban hành chính tỉnh đã cương quyết chỉ đạo trấn áp bọn phản động. Đầu năm 1946, lực lượng vũ trang của tỉnh tấn công ấp Di Linh, toàn bộ lực lượng địch ở đây phải đầu hàng và giao nộp vũ khí. Lực lượng cảnh sát xung phong và đội Sao vàng đã tiến công trụ sở Nông Giang và Khu bộ của bọn Quốc dân Đảng, bắt sống 12 tên, thu toàn bộ vũ khí.

Ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, quán triệt chủ trương của Trung ương về thái độ đối với quân đồng minh, cấp ủy và chính quyền ở đây đã có những đối sách thích hợp, do vậy đã hạn chế được những hoạt động khiêu khích, chống phá của quân Tưởng.

Ở Thừa Thiên, Đảng bộ và chính quyền tỉnh lúc đầu đã thực hiện đối sách mềm dẻo với quân Tưởng, nhưng trước những hành động khiêu khích, chống phá ngang ngược của chúng cũng đã phải cương quyết đấu tranh. Tỉnh đã tiến hành giải tán và truy quét các tỏ chức phản động ở địa phương như Việt quốc, Việt cách, đảng Đại Việt... thẳng tay trừng trị bọn phản động lợi dụng tôn giáo để chống phá chính quyền cách mạng.

Cuối năm 1945, đầu năm 1946, tình hình có nhiều thay đổi. Tháng 2-1946, Tưởng Giới Thạch buộc phải ký với Chính phủ Pháp “Hiệp ước Trùng Khánh” để cho quân Pháp vào thay thế quân Tưởng ở miền Bắc Việt Nam. Sau hơn sáu tháng quân Tưởng sang Việt Nam kéo theo bọn Việt quốc, Việt cách, nhưng không đạt được âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng, thành lập chính phủ tay sai. Tưởng Giới Thạch cuối cùng buộc phải điều đình với Pháp cho quân rút khỏi miền Bắc Việt Nam để đổi lấy một số quyền lợi kinh tế và lãnh thổ.

Trước tình hình mới, Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương đuổi nhanh quân Tưởng về nước, quét sạch bọn phản động tay sai của chúng để tập trung mũi nhọn vào kẻ thù chủ yếu là thực dân Pháp. Với ý thức chấp hành nghiêm túc chủ trương của Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đảng bộ, chính quyền và quân dân các tỉnh trong toàn khu đã có những đối sách rất cương quyết, nguyên tắc nhưng cũng rất mềm dẻo, khéo léo nên đã hạn chế được những hành động chống phá và khiêu khích của quân Tưởng trước lúc rút lui, thuyết phục được chúng bàn giao quyền giữ an ninh trật tự cho chính quyền ta(1). Đến cuối tháng 4-1946, toàn bộ quân Tưởng rút khỏi các địa phương Khu IV; phần lớn bọn tay sai phản động núp dưới bóng quân Tưởng đã bị trừng trị. Trong một thời gian ngắn, cùng với quân và dân miền Bắc, quân và dân Khu IV dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Trung Bộ và của đảng bộ, chính quyền các tỉnh đã loại trừ được kẻ thù nguy hiểm là quân Tưởng và tay sai của chúng, bảo vệ vững chắc chính quyền cách mạng, tập trung cao độ sức lực và trí tuệ chống kẻ thù chủ yếu là thực dân Pháp xâm lược.


(1) Ở Nghệ An, đồng chí Nguyễn Tài, Phó chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh đã thuyết phục được tên Trần Túng Tài, Sư đoàn trưởng Sư đoàn Vĩnh Dụ ký biên bản bàn giao quyền giữ an ninh trật tự cho chính quyền tỉnh. Ở Huế, Thanh Hóa cũng có những văn kiện bàn giao tương tự.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #29 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:48:25 pm »

Với mưu đồ tái chiếm Đông Dương, ngay trong ngày 2-9-1945, thực dân Pháp đã gây hấn ở Sài Gòn và ngày 23-9-1945 chúng nổ súng tiến công Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta một lần nữa. Đứng trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương hạ quyết tâm tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do và kêu gọi nhân dân cả nước chi viện sức người, sức của cho Nam Bộ. Thường vụ Trung ương Đảng quyết định thành lập các đơn vị Nam tiến.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch, các tỉnh thuộc Khu IV lập ngay “Phòng Nam Bộ”, ghi tên những người tình nguyện vào Nam chiến đấu và tổ chức các đơn vị Nam tiến. Các địa phương thành lập “Ủy ban ủng hộ chiến sĩ Nam Bộ”, lập “Quỹ Nam Bộ”, tổ chức “Ngày kháng chiến”, “Ngày nỗ lực sản xuất”; tổ chức hoạt động thể thao, văn hóa để quyên góp tiền bạc, thuốc men, quần áo, chăn màn gửi vào Nam và tổ chức nhiều cuộc mit tinh, biểu tình rầm rộ ủng hộ Nam Bộ kháng chiến. Phong trào tình nguyện vào Nam giết giặc đã được mọi tầng lớp nhân dân các tỉnh Khu IV hưởng ứng. Thiếu niên xung phong đi làm liên lạc, phụ nữ xung phong đi làm tiếp tế cứu thương, thanh niên, học sinh, sinh viên tình nguyện rực tiếp cầm súng chiến đấu. Có cụ già đã xung phong tình nguyện làm đơn xin được đi lính đánh Tây(1). Các đơn vị Nam tiến được tổ chức chặt chẽ thành những đơn vị quân đội gồm những người xung phong tình nguyện, đã được huấn luyện quân sự, được trang bị vũ khí tốt.

Chỉ sau ba ngày quân Pháp nổ súng ở Sài Gòn, ngày 26-9-1945, chuyến xe lửa chở đoàn quân Nam tiến đầu tiên gồm một chi đội rời Hà Nội thẳng tiến về phương Nam. Qua các tỉnh Khu IV, đoàn quân Nam tiến được bổ sung thêm các đơn vị bộ đội gồm những người con ưu tú của Khu IV với những trang bị đầy đủ nhất. Khắp địa phương Khu IV diễn ra những cuộc tiễn đưa người thân, chồng con, anh, em lên đường vào Nam chiến đấu và tặng quà bánh cho bộ đội Nam tiến ở đình làng, trụ sở, khu phố, bến xe, bến tàu thật lưu luyến và cảm động. Trên các toa tàu, sân ga, những chàng trai vệ quốc nai nịt gọn gàng, vai đeo súng, hông dắt lựu đạn, nét mặt tươi vui, hồn nhiên hát vang những bài ca hùng tráng “Tiếng súng vang sông núi miền Nam, âm vang đất nước Việt Nam”, “Xếp bút nghiên lên đường chiến đấu”, “Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi”...

Tại Thanh Hóa, Tỉnh ủy đã tổ chức cuộc mít tinh lớn tại thị xã, hàng vạn người xuống đường tuần hành qua các đường phố hô vang khẩu hiệu phản đối thực dân Pháp xâm lược Nam Bộ. Một đại đội bộ đội Thanh Hóa đã gia nhập đoàn quân Nam tiến ngay từ những ngày đầu (26-9-1945).

Tại Nghệ An, ngày 26-9-1945, hai đại đội tự vệ của công nhân và thanh niên thành phố Vinh đã gia nhập đoàn quân Nam tiến. Phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến diễn ra sôi nổi ở khắp các địa phương trong tỉnh, trong tất cả các tầng lớp nhân dân. Các nơi tổ chức “Ngày kháng chiến”, “Ngày nỗ lực sản xuất”, “Ngày họp chợ kháng chiến”... hoặc tổ chức diễn kịch thi đá bóng lấy tiền ủng hộ Nam Bộ kháng chiến. Nhiều mẹ chiến sĩ và chị em phụ nữ hàng ngày túc trực tại bến xe, bến tàu tiếp tế cơm nước cho đoàn quân Nam tiến từ các tỉnh phía Bắc đi vào. Cùng với chi đội bộ đội, Nghệ An còn đưa 32 cán bộ, chiến sĩ công an vào Nam Bộ tham gia chiến đấu.

Tại Hà Tĩnh, Tỉnh ủy đã lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khắp nơi nô nức ghi tên những người tình nguyện vào Nam chiến đấu, lập quỹ ủng hộ Nam Bộ kháng chiến; quyên góp quần áo, thuốc men, tiền bạc của nhân dân gửi ra mặt trận. Phong trào Nam tiến ở Hà Tĩnh thu hút hàng vạn người thuộc mọi lứa tuổi, thành phần tham gia trong đó có bốn phân đội Quân giải phóng và 250 tự vệ chiến đấu cùng những vũ khí, trang bị tốt nhất lên đường chi viện cho Nam Bộ kháng chiến. Nhiều chiến sĩ tham gia chiến đấu kiên cường, dũng cảm, lập được nhiều chiến công, tiêu biểu là tấm gương anh hùng liệt sĩ Lê Bình trong trận Cái Răng (Cần Thơ).

Tại Quảng Trị, cũng như các địa phương khác ở Khu IV, đông đảo các tầng lớp nhân dân từ thanh thiếu niên, phụ nữ đến các cụ phụ lão đều hăng hái tham gia phong trào Nam tiến. Trong một thời gian ngắn, Quảng Trị đã tổ chức được một đại đội gồm 115 cán bộ, chiến sĩ tình nguyện lên đường vào Nam chiến đấu.

Phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến ở Thừa Thiên cũng diễn ra sôi nổi, rầm rộ. Nhiều công nhân, thanh niên, học sinh nô nức ghi tên tình nguyện vào Nam chiến đấu. Công nhân các nhà ga thi đua bảo đảm cho các đoàn tàu chở quân an toàn; các bà, các chị lập quán quân nhân phục vụ các đoàn quân Nam tiến đi qua. Đảng bộ và nhân dân Thừa Thiên đã đưa bốn trung đội gia nhập đoàn quân Nam tiến.

Các đơn vị Nam tiến của Khu IV đã tham gia chiến đấu trên các mặt trận từ Nam Trung Bộ đến Nam Bộ. Các đại đội Thanh Hóa, Quảng Trị chiến đấu ở cực Nam Trung Bộ. Bộ đội Hà Tĩnh, Thừa Thiên chiến đấu ở mặt trận Nha Trang. Bộ đội Nghệ An chiến đấu ở Buôn Ma Thuột... Các đơn vị Nam tiến của Khu IV đã chiến đấu anh dũng, nhiều đơn vị lập công xuất sắc. Trong trận phục kích ở đèo Phượng Hoàng ngày 27-10-1945, đại đội bộ đội Thừa Thiên đã bắt toàn bộ quân Nhật trên 18 xe hành quân từ Tây Nguyên theo đường số 21 về Ninh Hòa. Quân Nhật đã giao lại cho đơn vị 240 khẩu súng và nhiều đạn dược.

Phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến của quân và dân Khu IV góp phần chi viện kịp thời sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam; đồng thời còn là nguồn sức mạnh tinh thần cổ vũ quân dân miền Nam chắc tay súng quyết tâm kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng.


(1) Cụ Nguyễn Văn Ngãi, 62 tuổi ở Nghệ An, khi nghe tin Pháp chiếm Sài Gòn đã gửi thư cho Hồ Chủ tịch xin được đi lính đánh Tây.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM