Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 06:05:49 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954  (Đọc 55483 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #10 vào lúc: 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:23:26 pm »

II. TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG

Đứng trước sự đầu hàng của triều đình Huế thừa nhận sự cai trị của thực dân Pháo ở Nam Kỳ, mở một số cửa biển và sông Hồng cho chúng thông thương, tăng quyền hạn cho Giáo hội, cột chặt công việc ngoại giao vào nước Pháp, ngay từ năm 1874, nhân dân Nghệ An đã cùng Trần Tấn - Đặng Như Mai nung nấu ý chí “phen này quyết đánh cả triều lẫn Tây”, để bảo vệ sự vẹn toàn nền độc lập dân tộc, tác động mạnh mẽ đến Tôn Thất Thuyết (hoàng tộc), Trần Xuân Soạn (Thanh Hóa), làm nên Vụ biến Kinh thành, tận dụng thế hiểm yếu của rừng núi Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh để xây dựng sơn phòng và hậu cứ cho cuộc kháng chiến lâu dài.

Sau khi Hàm Nghi hạ chiến Cần vương (71885), nhân dân đã đứng lên hưởng ứng, chiến đấu dưới ngọn cờ của Trương Đình Hội, Nguyễn Tự Như (Quảng Trị), Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân (Quảng Bình), Phan Đình Phùng, Lê Ninh, Cao Thắng (Hà Tĩnh), Nguyễn Xuân Ôn, Lê Doãn Nhạ (Nghệ An), Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Tống Duy Tân, Cao Điển (Thanh Hóa).

Với những cuộc khởi nghĩa ban đầu và nhất là trong 10 năm nhân dân đứng dậy giúp vua đánh giặc, vị thế chiến lược của địa phương đã được phát huy cao độ. Rừng núi hiểm trở thành nơi chủ động tiến lui để câu nhử đối phương vào đất chết. Làng mạc Ba Đình nơi đồng chiêm trũng Nga Sơn (Thanh Hóa) cũng là cứ điểm gần như bất khả xâm phạm. Trước tấm lòng yêu nước của vua tôi, nhân dân không tiếc thân mình, nguyện dâng xương máu để đuổi ngoại xâm, giành lại quê hương đất nước. Nhưng rõ ràng các văn thân và và sĩ phu đã cảm nhận được những khó khăn khi phải đối diện trước một phương Tây hiện đại. Vì thế, đến đầu thế kỷ XX, qua sự kiện Nga thất bại bởi Nhật Bản hùng cường, nhiều sĩ phu yêu nước đã hướng đến đất nước đồng văn, đồng chủng với hy vọng sẽ đạt được sở nguyện cầu họccầu viện nhanh chóng khôi phục lại quốc gia.

Tiêu biểu cho xu hướng duy tân đổi mới lúc này là Phan Bội Châu - con người nổi tiếng khắp vùng Nghệ - Tĩnh vì thuở tráng niên tài cao học giỏi, giầu lòng yêu nước, ghét Pháp, lại sớm được tiếp xúc với Tân báo, Tân thư. Bắt tay vào xây dựng một phương thức cứu nước mới, chí sĩ đã vạch ra kế hoạch liên kết dư đảng Cần vương và tráng kiện ở chốn sơn lâm xướng khởi nghĩa binh đánh giặc. Từ phương thức tập hợp đồng chí, xây dựng tổ chức, khích lệ lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết dân tộc, hướng tới học tập nước Nhật đã đưa Phan Bội Châu tới việc thành lập Duy tân hội (1904), tạo ra phong trào Đông Du chuẩn bị lực lượng cán bộ cho công cuộc chấn hưng dân khí, mở mang dân trí và xúc tiến bạo động đánh đuổi thực dân Pháp. Nó đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt liệt của mọi tầng lớp, nhất là thanh niên. Năm 1908, thực dân Pháp đàm phán và ký kết với chính phủ Nhật Bản hiệp ước trục xuất lưu học sinh Việt Nam, phong trào Đông Du bị dập tắt. Con đường cứu nước dựa vào sự giúp đỡ của nước ngoài đã thất bại bởi lẽ Nhật Bản cũng như những đế quốc khác, “tất thảy giàu về phần dã tâm mà nghèo về phần nghĩa hiệp”(1). Các hành động tạm thời dung nạp đó chỉ vì lúc đầu Nhật Bản muốn thực hiện mưu đồ cạnh tranh với Pháp mà thôi.

Không cam chịu thất bại, năm 1912, Phan Bội Châu lại cùng các đồng chí của mình lập ra Việt Nam Quang phục hội để tiếp tục thực thi phương thức bạo động, đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nền độc lập, thành lập nước Cộng hòa dân quốc thay thế cho chính thể quân chủ lập hiến mà Duy tân hội chủ trương. Việt Nam Quang phục hội có rất ít cơ sở ở trong nước, nhưng lại chú trọng hoạt động vũ trang, manh động. Đáng kể nhất là cuộc khởi nghĩa năm 1916 do vua Duy Tân đứng đầu đã bị kẻ thù nhanh chóng dìm trong bể máu, đúng như Phan Bội Châu sau này rút ra nguyên nhân: “trăm thất bại mà không chút thành công của Việt Nam Quang phục hội vì trong nước không có một kinh dinh tổ chức gì, chỉ chủ trương dựa vào thế lực bên ngoài, trăm nghìn đều nương vào người khác thì từ xưa đến nay, từ Đông đến Tây, không bao giờ một đảng cách mạng như thế, lại có thể thành công được”(2).

Do ảnh hưởng của phong trào kháng thuế các tỉnh Nam Trung Kỳ, đầu tháng 4-1908, hàng ngàn người kéo về Huế, hô vang khẩu hiệu không đi phu, không nộp thuế cho Pháp. Các sĩ phu Hà Tĩnh vận động nhân dân biểu tình rầm rộ ở Can Lộc, Nghi Xuân, Đức Thọ, Hương Khê. Tại Nghệ An, cuộc đấu tranh giữa phe hộphe hào dẫn đến bạo động không thành. Ở Thanh Hóa, các nhà khoa bảng dán nhiều truyền đơn và cáo thị vận động hưởng ứng. Cuộc kháng thuế đã sản sinh ra những Nguyễn Hàng Chi, Trịnh Khắc Lập (Hà Tĩnh), Chu Trạc (Nghệ An), Nguyễn Xứng, Nguyễn Lợi Thiệp (Thanh Hóa) anh dũng vô song. Là một cuộc đấu tranh công khai, tự phát của nhân dân, phong trào kháng thuế ở Trung Kỳ đã buộc chính quyền thực dân phải nới tay trong nhiều lĩnh vực. Nó đã thể hiện rõ tinh thần và năng lực cách mạng của nông dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như những hạn chế của nó khi chưa xuất hiện một giai cấp lãnh đạo tiên tiến.


(1) Phan Bội Châu: Toàn tập, t. 6, Nxb. Thanh Hóa, 1990, tr.178.
(2) Phan Bội Châu niên biểu, Nxb. Văn - Sử - Địa - Hà Nội, 1957, tr.164.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #11 vào lúc: 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:28:31 pm »

Phong trào Đông du và kháng thuế bị đàn áp, nhưng tinh thần xuất dương đi tìm con đường cứu nước vẫn nung nấu đối với nhiều chú sĩ. Sau khi ý định cướp tù giải thoát không thành, Đặng Thức Hứa đã quyết định thực hiện chủ trương thập niên sinh tụ, thập niên giáo hội (10 năm chiêu mộ nhân tài, 10 năm giáo dục rèn luyện) bằng cách sang Xiêm mướn đất lập ra Trại cày thu hút hàng trăm thanh niên. Trong khi đó, ở trong nước, Hồ Bá Phấn cùng với nhiều người khác đã tiến hành vận động binh sĩ người Việt bàn tính đến chuyện đánh thành Hà Tĩnh (1910); Liêu Thanh, Hồ Bá Kiện lãnh đạo tù chính trị phá ngục Lao Bảo ở Quảng Trị, lập căn cứ ở vùng bản Tạ Cha tại tỉnh Sanavakhét của Lào (1915); Nguyễn Trang, Nguyễn Hét lập quỹ xuất dương, trừng trị bọn tham quan và tay sai ở Hà Tĩnh (1916 - 1919); Trần Hậu Toàn và Lê Viết Lượng lập ra Hội bài Pháp (1920). Đặc biệt, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn và Phó Đức Chính vào tháng 4-1920 đi tới Trại cày Bạn Thầm (Thái Lan), mở đầu chặng đường hoạt động cách mạng của mình. Năm 1922, một số người yêu nước ở Thanh - Nghệ lập ra Hưng Nghiệp hội xã.

Bắt đầu từ đây, ở Việt Nam “lớp thanh niên từ bỏ phương pháp tiến hành những cuộc nổi dậy bột phát của lớp người đi trước và, ngày nay, người ta thiên về chiến thuật cần những nhà cách mạng châu Âu: tuyên truyền, tổ chức và khởi nghĩa quần chúng”(1) như lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khẳng định.

Vào năm 1922, nhiều nơi ở trong nước đã xuất hiện các báo Le Paria (Người cùng khổ), L’ Humanité (Nhân đạo), La vie Ouvrière (Đời sống công nhân). Đặc biệt, tại Quảng Châu (Trung Quốc) nhóm thanh niên yêu nước lập ra tổ chức Tâm Tâm xã vào đầu năm 1923 với tôn chỉ liên hiệp những người có trí lực trong toàn dân Việt Nam, không phân biệt ranh giới đảng phái miễn là có quyết tâm hy sinh tất cả tư ý và quyền lợi cá nhân, đem hết sức mình tiến hành mọi việc để khôi phục quyền làm người của người Việt Nam. Ngay sau đó, Lê Hồng Sơn - với tư cách là đặc phái viên của Phan Bội Châu đã mang thư về nước gặp Lương Văn Can ở Hà Nội và được Đào Trinh Nhất đưa đi gặp Đinh Chương Dương, Nguyễn Công Liệu tại nhà số 7 phố Bến Ngự, thành phố Nam Định để thông báo về việc thành lập Tâm tâm xã và xây dựng cơ sở trong nước. Ngày 19-6-1924, Phạm Hồng Thái nhận nhiệm vụ ném bom vào Sa Diện (Quảng Châu - Trung Quốc) để giết Toàn quyền Méclanh, “báo hiệu bắt đầu thời đại đấu tranh dân tộc, như chim én nhỏ báo hiệu mùa xuân”(2). Tháng 8 năm 1924, Lê Hồng Phong và nhiều thanh niên yêu nước khác cùng quê vào học trường Quân sự Hoàng Phố (Lê Quảng Đạt, Trương Văn Lĩnh, Lê Thiết Hùng, Phùng Chí Kiên...) để chuẩn bị cho các hoạt động cách mạng cứu nước, cứu dân sau này.

Ngày 11-11-1924, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu và đã chọn được nhiều thanh niên ưu tú từ tổ chức Tâm tâm xã đưa vào Thanh niên Cộng sản đoàn - trong đó có nhiều gương mặt ưu tú của vùng đất Nghệ - Tĩnh (Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Vương Thúc Oánh, Trương Văn Lĩnh, Lưu Quốc Long...). Trên cơ sở của nhóm nòng cốt, tháng 6-1925, Nguyễn Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên với tôn chỉ, mục đích hy sinh tính mệnh, quyền lợi, tư tưởng để làm cách mạng dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành lại độc lập cho xứ sở) rồi sau đó làm cách mạng thế giới lật đổ chủ nghĩa đế quốc, thực hiện chủ nghĩa cộng sản.

Hơn một tháng sau, vào ngày 14-7-1925, tổ chức Phục Việt ra đời ở thành phố Vinh (Nghệ An) với các sáng lập viên Lê Văn Huân, Tôn Quang Phiệt, Trần Mộng Bạch, Ngô Đức Diễn.

Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và Tân Việt Cách mạng Đảng (tên của Phục Việt kể từ ngày 14-7-1928) đã có cơ sở đều khắp và xen kẽ nhau trên nhiều địa bàn, xí nghiệp, trường học, công sở các tỉnh của liên khu.

Do nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, nhiều đảng viên của Tân Việt cách mạng Đảng đã chuyển sang Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và sau này trở thành những lãnh tụ xuất sắc của Đảng. Đến cuối năm 1929, cơ sở của Đông Dương Cộng sản Đảng thâm nhập vào nhiều địa phương của Liên khu IV. Trong khoảng giao thời giữa hai năm 1929-1930, Tân Việt cách mạng Đảng cũng lột xác thành Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Cả hai tổ chức cộng sản trên trở thành những tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.1, tr.466.
(2) Theo Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.58.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #12 vào lúc: 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:30:16 pm »

Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. tháng 3-1930, Phân cục Trung ương lâm thời Trung Kỳ được thành lập, đặt trụ sở chính ở Vinh và một trụ sở ở Đà Nẵng, và ngay sau đó lập ra Tỉnh bộ Vinh (bao gồm Vinh - Bến Thủy, Nghi Lộc, Hưng Nguyên và thị xã Thanh Hóa) do Lê Mao, Ủy viên Thường vụ Phân cục phụ trách(1)Tỉnh bộ Nghệ An do Nguyễn Liễn(2) đảm nhiệm.

Cùng thời gian, được Phân cục Trung ương lâm thời Trung Kỳ ủy nhiệm, Trần Hữu Thiều về Hà Tĩnh triệu tập hội nghị tại Can Lộc đã bầu Ban Chấp hành tỉnh bộ lâm thời và được cử làm Bí thư. Tháng 4-1930, Tỉnh bộ lâm thời Quảng Trị thành lập: Lê Thế Tiết nhận nhiệm vụ của Phân cục Trung ương lâm thời Trung Kỳ, tổ chức hội nghị tại Triệu Phong và giữ trách nhiệm Bí thư.

Riêng ở Thừa Thiên, tháng 3-1930, Nguyễn Phong Sắc, Bí thư Phân cục Trung ương lâm thời Trung Kỳ đã đến Huế để vận động việc thống nhất các tổ chức cộng sản trong tỉnh, gặp gỡ Dương Văn Lan (Đông Dương Cộng sản Đảng) và Lê Viết Lượng (Đông Dương Cộng sản Liên đoàn). Tháng 4-1930, Tỉnh bộ Thừa Thiên thành lập do Lê Viết Lượng làm Bí thư. Tại Thanh Hóa, Nguyễn Doãn Chấp được Xứ ủy Bắc Kỳ ủy nhiệm, đã lập Tỉnh bộ lâm thời Thanh Hóa do Lê Thế Long làm Bí thư và ra tờ Tiến lên.

Sự kiện các tỉnh bộ Đảng Cộng sản Việt Nam lần lượt được thành lập ở các địa phương (trừ Quảng Bình) từ tháng 3 đến tháng 7-1930 đã thúc đẩy các tổ chức cơ sở đảng phát triển sâu rộng trong các nhà máy, xí nghiệp và vùng nông thôn rộng lớn. Nhiều tổ chức quần chúng cũng được xây dựng khiến cho khí thế cách mạng bừng lên mạnh mẽ, làm nên cao trào cách mạng 1930 - 1931 với đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh. Chính quyền Xô viết ra đời làm chức năng của chính quyền cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo, bất chấp sự phản công quyết liệt của kẻ thù. Sức mạnh áp đảo của đội quân chính trị đã làm sụp đổ một phần bộ máy thống trị của đế quốc Pháp ở nông thôn. Báo chí cách mạng nở rộ với Người lao khổ, Công nông binh, Chỉ đạo, Vô sản, Tranh đấu của Xứ ủy Trung Kỳ; Tiến lên của Tỉnh ủy Nghệ An; Bước tới của Tỉnh ủy Hà Tĩnh cùng các tờ Sản nghiệp (Hưng Nguyên), Giác ngộ (Nam Đàn), Nhà quê (Thanh Chương), Gương vô sản (Anh Sơn), Tia sáng, Lao động (Quỳnh Lưu), Dân nghèo (Nghi Lộc), Tự cứu (Can Lộc), Tiếng gọi (Thạch Hà), Cổ động (Đức Thọ), Bước tới (Cẩm Xuyên)...

Xô viết Nghệ - Tĩnh đã nhận được nguồn cổ vũ mạnh mẽ của quần chúng công - nông trong cả nước với hàng trăm cuộc biểu tình, tuần hành rầm rộ. Phong trào còn được Quốc tế Cộng sản, Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Pháp nhiệt tình ủng hộ.

Xô viết Nghệ Tĩnh tuy chỉ tồn tại được một thời gian ngắn do sự đàn áp dã man của kẻ thù, phong trào bước vào thoái trào nhưng đã để lại nhiều bài học và kinh nghiệm lịch sử quý báu.

Những thay đổi của tình hình thế giới và trong nước từ năm 1936 trở đi có nhiều tác động đến phong trào cách mạng Việt Nam. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Thượng Hải (Trung Quốc) tháng 7-1936 xác định rõ mục tiêu trực tiếp, trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do dân chủ, cơm áo và hòa bình; kẻ thù trước mắt là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng. Chính vì thế khẩu hiệu đấu tranh tạm thời chưa nêu đánh đổ đế quốc Pháptịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày.

Đây chính là thời điểm Mặt trận nhân dân Pháp giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử và đứng ra lập Chính phủ mới do Leon Blum - lãnh tụ Đảng Xã hội làm thủ tướng, chủ trương thi hành một số điểm mà Cương lĩnh của Mặt trận nhân dân Pháp nêu ra. Đối với thuộc địa, chính phủ Pháp cho thả tù chính trị, lập ủy ban điều tra ở Bắc Phi và Đông Dương, thi hành một số cải cách xã hội cho người lao động. Nằm trong khuôn khổ những nới lỏng kể trên, tháng 8-1936, Đại hội lần thứ hai Mặt trận nhân dân Angiêri quyết định cử đoàn đại biểu đi Pari mang theo bản Dân nguyện; phong trào đòi tự do dân chủ ở Tuynidi phát triển mạnh, còn ở Marốc, Ủy ban hành động được thành lập.

Tại Việt Nam, nhân việc Nguyễn Phan Long đề cập tới việc thảo luận chương trình bày tỏ nguyện vọng của quốc dân Việt Nam một cách hạn chế tại Nghị viện Nam Kỳ, trên báo Việt Nam (26-5-1936), nhà trí thức mácxít Nguyễn An Ninh đã lật tẩy thủ đoạn chỉ xuất phát từ lợi ích một thiểu số người kể trên. Ông căn cứ vào thực tế phong trào Dân nguyện ở Angiêri, Marốc để đưa ra chương trình hành động ở xứ thuộc địa, trình bày luận điểm Tiến tới một cuộc Đại hội Đông Dương (Vers un Congré Indochinois) trên tờ La Lutte (Tranh đấu). Đề nghị trên nhanh chóng được Đảng Cộng sản Việt Nam và đông đảo các tầng lớp xã hội hưởng ứng.


(1) Đến 29-3-1931, Xứ ủy Trung Kỳ quyết định giao Nghị Lộc, Hưng Nguyên về Tỉnh ủy Nghệ An và thành phố Thanh Hóa về Tỉnh ủy Thanh Hóa, lập ra Thành ủy Nghệ An do Xứ ủy Trung Kỳ trực tiếp chỉ đạo.
(2) Nguyễn Liễn (tức Đàm) sau này làm việc cho Pháp.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #13 vào lúc: 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:33:51 pm »

Sự uyển chuyển, mềm dẻo trong quan điểm đối với việc thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương thể hiện khá rõ trong bức thư công khai của Đảng Cộng sản Đông Dương gửi các đảng phái, các nhóm cách mạng và không cách mạng đề nghị cùng đoàn kết để đòi các quyền tự do dân chủ và cơm áo, đẩy mạnh phong trào Đại hội Đông Dương. Xứ ủy Trung Kỳ đã nhanh chóng nắm lấy Hội nghị báo giới Trung Kỳ (7-6-1936) họp tại Huế để đề cập tới nhiều vấn đề dân chủ, dân sinh. Trong Đại hội nhân dân Huế (20-9-1936), các chính trị phạm như Nguyễn Khoa Văn, Lâm Mộng Quang mới được trả tự do đều có mặt trên ghế chủ tịch đoàn. Trong Ủy ban lâm thời chi nhánh Trung Kỳ của Đại hội Đông Dương có tới 17/26 ủy viên là chính trị phạm như Phan Đăng Lưu, Đào Duy Anh, Nguyễn Khoa Văn, Nguyễn Chí Diểu...

Ngày 13-1-1937, nhân dịp Nhành lúa ra số đầu tiên, tại tòa soạn báo, Nguyễn Chí Diểu đã chủ trì cuộc họp trù bị của Đại hội báo giới Trung Kỳ sắp tới, tuyên truyền về Đại hội Đông Dương và công bố những thu thập về Dân nguyện ban đầu.

Ở phủ Vĩnh Linh (Quảng Trị) có tới 72/93 làng xã lập ra Ủy ban hành động hướng tới Đại hội Đông Dương hoặc Ủy ban cải cách hương thôn. Tại Nghệ An mục tiêu tổ chức tốt Đại hội Đông Dương còn nhằm tăng cường sự đoàn kết trong đảng bộ mới được hợp nhất nên đã chọn giải pháp mềm dẻo là lợi dụng Đại hội Đông Dương do địch tổ chức ngày 20-9-1936, chủ động giành quyền đi dự Đại hội toàn xứ. Phát huy thắng lợi, Tỉnh ủy Nghệ An xây dựng các Ủy ban hành động, lập Nhà xuất bản Tập sách Tiến bộ, đổi tờ Vô sản thành Dân nghèo, xúc tiến soạn thảo Dân nguyện.

Từ ngày 22-2-1937 đến ngày 28-2-1937, Lao công đại sứ Gôđa (Justin Godart) lần lượt đi từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên. Trong hai ngày 23 và 24-2, Gôđa đã tiếp xúc với hàng ngàn đại biểu của hai tinh Nghệ An và Hà Tĩnh, di thị sát Nhà thương Vinh và Nhà máy sửa chữa xe lửa Trường Thi. Ngày 25-2, Gôđa qua Hà Tĩnh và Quảng Bình nhưng không dừng lại, mặc dù có nhiều đoàn chờ đón ở Đồng Hới và ga Chợ Rẫy. Ngày 26-2, viên Lao công đại sứ tới Quảng Trị, được hàng vạn đồng bào Vĩnh Linh và Gio Linh chờ đón ở Hiền Lương và các phủ Triệu Phong, Hải Lăng trước ga xe lửa thị xã. Hai ngày 27 và 28-2 ở Huế, Gôđa đã tiếp đoàn đại biểu do Phan Đăng Lưu dẫn đầu. Khi ông ta trên đường vào Đà Nẵng, hơn 5.000 nông dân huyện Phú Lộc đã trao bản Dân nguyện tận tay.

Nhờ biết vận dụng các điều kiện do Chính phủ và Mặt trận nhân dân Pháp tạo ra, các đảng bộ đã kịp thời khôi phục lại phong trào cách mạng, đảm nhiệm việc tập hợp các lực lượng dân chủ tiến bộ để chống lại bọn phản động thuộc địa. Phong trào Đại hội Đông Dương và đón Gôđa có mặt trong hoạt động chính trị của nhiều địa phương đã góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình cho nhân dân. Để phát huy một cách triệt để và có hiệu quả, nhiều chiến sĩ cách mạng còn tham gia vào Đại hội báo giới Trung Kỳ. Tờ Sông Hương tục bản do Phan Đăng Lưu phụ trách kịp ra số đầu tiên vào ngày 15-6-1937. Nhân dịp diễn ra cuộc bầu cử Viện dân biểu Trung Kỳ, nhiều nhân sĩ và trí thức có tư tưởng tiến bộ do Mặt trận Dân chủ các tỉnh giới thiệu ứng cử giành thắng lợi gần như tuyệt đối: Thừa Thiên (Hoàng Đức Trạch, Nguyễn Đình Diễn), Quảng Trị (Phạm Triệu Khanh, Trần Đăng hiến), Quảng Bình (Nguyễn Xuân Các, Hoàng Chính Đồng) trúng 100%. Riêng Thanh Hóa có 5/6 ứng cử viên trúng cử (Hoàng Văn Khải, Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Huy Cừ, Lê Mậu Hiền, Lê Khắc Độn) - trong đó Hoàng Văn Khải được bầu làm Viện trưởng, Nguyễn Đan Quế thường trực. Phong trào truyền bá quốc ngữ chỉ phát triển sôi nổi ở Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, vì Hội truyền bá quốc ngữ Trung Kỳ rất ít liên lạc với hội Trung ương và chỉ mang tính hình thức.

Thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936-1939 tuy chỉ giành được một số thắng lợi ban đầu, nhưng đã giúp Đảng tích lũy được nhiều kinh nghiệm có giá trị thực tiễn quan trọng. Ngày 1-9-1939, Đức tấn công Ba Lan mở đầu cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Lợi dụng tình thế Mặt trận nhân dân Pháp bị tan vỡ, Chính phủ Đalađiê ra sức đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa. Catru (Jean Catroux) Toàn quyền Đông Dương tuyên bố: Chúng ta đánh toàn diện và mau chóng và các tổ chức cộng sản; trong cuộc đấu tranh này, phải tiêu diệt cộng sản thì Đông Dương mới được yên ổn và trung thành với nước Pháp.

Tại Trung Kỳ và Lào, lúc này thực dân Pháp có một lữ đoàn bộ binh, một trung đoàn lính khố đỏ, một tiểu đoàn lính Tây Nguyên và đến năm 1943 có một tiểu đoàn lính Lào. Đó là không kể một số phi cơ phóng pháo, khu trục và thám thính thường xuyên lên xuống sân bay Vinh.

Một chiến dịch rộng lớn chống tuyên truyền và lưu hành tàng trữ tài liệu cộng sản diễn ra khốc liệt. Báo chí cách mạng và tiến bộ bị đóng cửa. Đảng viên và nhiều người yêu nước bị bắt giam.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #14 vào lúc: 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:35:20 pm »

Đứng trước tình hình đó, ngay từ cuối tháng 9-1929, Trung ương Đảng đã có thông cáo nêu rõ phương hướng và biện pháp cần kịp trước mắt về chuyển hướng các hoạt động của Đảng. Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược được vạch ra rõ ràng, đầy đủ hơn trong Nghị quyết của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu (11-1939), trong hai khẩu hiệu cách mạng về ruộng đất và thành lập chính quyền, trong chuyển đổi từ phương thức hoạt động hợp pháp - bán hợp pháp sang bí mật - bất hợp pháp để dự bị các điều kiện bước tới bạo động làm cách mạng giải phóng dân tộc. Nhằm tập trung mọi lực lượng của dân tộc vào nhiệm vụ chủ yếu là chống chiến tranh đế quốc và ách thống trị phát xít thuộc địa, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay Mặt trận Dân chủ không còn phù hợp trong tình hình nhiệm vụ mới. Tham gia và mặt trận là tất cả các giai cấp, các đảng phái, các phần tử phản đế muốn giải phóng dân tộc, thực hiện Đông Dương hoàn toàn độc lập với quyền dân tộc tự quyết. Đó là công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc, trung tiểu địa chủ - trong đó công - nông là lực lượng chính và giai cấp công nhân lãnh đạo.

Trước đòn phản công của kẻ thù, hầu hết các đảng bộ đã kịp thời chuyển sang hoạt động bí mật, tuy nhiên cũng không tránh khỏi những tổn thất, nhất là về tổ chức và mạng lưới cơ sở đảng. Ngày 2-3-1940, Trung ương Đảng đã gửi thư cho Đảng bộ Trung Kỳ chỉ rõ những thiếu sót về công tác tuyên truyền khiến cho dân chúng không hiểu rõ tính chất của cuộc chiến tranh, phải tuyên truyền “để cho dân chúng thôi không góp phần về người và của cho chiến tranh đế quốc và phải củng cố các cơ sở ở bất cứ nơi nào đã có cơ sở và tìm cách thích hợp để nối liền chúng với những trung tâm không có cơ sở”(1).

Thời gian mới rút vào bí mật, Đảng bộ Quảng Trị và Thừa Thiên ít bị tổn thất hơn. Trong số những đảng bộ phục hồi sớm nhất có Đảng bộ Hà Tĩnh. Tháng 3-1940, được sự chỉ đạo trực tiếp của Xứ ủy viên Trần Mạnh Quý, Tỉnh ủy lâm thời Hà Tĩnh được tái lập. Các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (9-1940), Nam Kỳ (11-1940) và binh biến Đô Lương (1-1941) nổ ra làm xuất hiện tư tưởng bạo động vũ trang ở nhiều nơi, nhất là Đảng bộ Hương Sơn. Mặc dù cuộc khởi nghĩa không được Xứ ủy Trung Kỳ đồng ý những vẫn nổ ra vào sáng 15-5-1941 tại đồn điền Sông Con, Cẩm Lĩnh (Hương Sơn) khiến quân thù có cớ huy động một lực lượng quân sự lớn tới đàn áp, khủng bố liền trong hai tháng, giết chết 30 người, bắt giam 170 người khác, triệt hạ hàng chục làng xóm. Phong trào và cơ sở cách mạng của Hà Tĩnh bị vỡ.

Vào thời gian này, một số cán bộ lãnh đạo của Xứ ủy Trung Kỳ đang tham dự Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám (10 đến 19-5-1941) tại Cao Bằng dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, được lĩnh hội tư tưởng chỉ đạo về cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại và việc thành lập Mặt trận Việt Minh nhằm Liên hiệp tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chủ yêu nước đặng cùng nhau đánh đuổi Nhật - Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Do việc hai đại biểu của Xứ ủy Trung Kỳ trên đường từ Cao Bằng trở về sa vào tay giặc tại ga Cầu Giát (nghệ An) nên Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tám và Chương trình hành động của Mặt trận Việt Minh chưa được triển khai tới các đảng bộ. Ngày 16-8-1941, cơ quan Xứ ủy Trung Kỳ đặt ở Nghệ An bị phá vỡ. Từ tháng 8 đến tháng 10-1941, chiến khu Ngọc Trạo của Thanh Hóa nằm trong tổng Trạc Nhật, huyện Thạch Thành liên tiếp bị địch tấn công và chịu nhiều tổn thất.

Mãi tới đầu năm 1942, trên địa bàn Quảng Trị mới lập ra các Ủy ban Việt Minh, Ủy ban vận động Việt Minh, chuyển các hội phản đế thành hội cứu quốc, tổ chức in Tuyên ngôn Việt Minh và thư của Nguyễn Ái Quốc để phân phát xuống các phủ huyện hoặc gửi tới một số nhân sĩ trong tỉnh. Phủ ủy Diễn Châu (Nghệ An) liên hệ được với các cô sở cách mạng Vinh và Nghi Lộc. Đồng chí Nguyễn Chí Thanh thoát khỏi nhà tù Buôn Ma Thuột, bắt tay vào khôi phục lại phong trào ở Thừa Thiên. Đến cuối 1942, Tỉnh ủy Thanh Hóa mới nhận được Nghị quyết Trung ương tám và Chương trình hành động của Việt Minh, chuyển Thanh Hóa ái quốc hội sang đoàn thể cứu quốc. Sau đó, nhờ liên hệ trực tiếp với Trung ương Đảng, Tỉnh ủy lâm thời Thanh Hóa được chính thức công nhận với nhiệm vụ nối lại liên lạc giữa các đảng bộ để nhanh chóng khôi phục Xứ ủy Trung Kỳ. Cũng nhờ có được các văn kiện trong tay, Hội Việt Minh cứu quốc Hà Tĩnh chuyển thành Mặt trận cứu quốc phát triển cơ sở tới Can Lộc, Đức Thọ, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Hương Khê; xây dựng cơ quan ấn loát tại Trại Hồng (Can Lộc) cùng nhiều căn cứ du kích ở Ngàn Trươi, Truông Bát (Hương Khê).

Tuy nhiên, từ giữa năm 1942, phong trào cách mạng Quảng Trị bị tổn thất nặng nề do bị địch khủng bố dữ dội. Cuối năm đó, kẻ thù lại đàn áp khốc liệt các cơ sở cách mạng Quảng Bình, Thừa Thiên. Giữa lúc Đảng bộ Nghệ An gặp muôn vàn khó khăn, thử thách thì tháng 4-1943 Trương Văn Lĩnh, Chu Huệ, Trần Hữu Doanh, Nguyễn Tạo vượt tù đày trở về xây dựng lại tổ chức ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa. Cuối năm 1943, Nguyễn Xuân Linh từ lớp tập huấn quân chính ở chiến khu Ngọc Trạo nhận nhiệm vụ về Nghệ An hoạt động. Nhờ những hoạt động không mệt mỏi đó, đến giữa năm 1944, phong trào cách mạng có nhiều dấu hiệu hồi phục ở Thanh Hóa, Quảng Trị và Thừa Thiên. Ngày 24-6, Tỉnh ủy Thanh Hóa mở hội nghị tại Hà Trung nhằm hướng dẫn phong trào toàn tĩnh gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa. Ở Quảng Trị, một số đảng viên từ Thái Lan trở về kết hợp với các đồng chí mãn hạn tù, bắt tay vào khôi phục các cơ sở cách mạng. Tại Thừa Thiên, do chưa bắt được liên lạc với Trung ương, Tỉnh ủy triệu tập hội nghị mở rộng ở ngã ba Sình, dựa trên tinh thần Nghị quyết Trung ương bảy đề ra nhiệm vụ cho công tác tuyên truyền, phê phán tư tưởng cơ hội hữu khuynh.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.10.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #15 vào lúc: 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:37:24 pm »

Bước vào năm 1945, các tỉnh gặp muôn vàn khó khăn. Phát xít Nhật đưa 10.000 quân vào chiếm đóng Nghệ An. Chúng rải quân xây dựng tuyến phòng thủ dọc bờ biển Cửa Lò, Cửa Hội và đóng chốt trên quốc lộ 1A, các đường số 7, số 8, đường sắt xuyên Việt, khẩn trương lập các xưởng cưa, đóng tàu thủy ở Cửa Hội, sửa chữa cảng Bến Thủy và sân bay Vinh, nạo vét kênh nhà Lê, mở rộng quy mô khai thác gỗ, khoáng sản (mănggan Núi Thành, mở sắt Phương Tích, mỏ than Khe Bố), bắt nhổ lúa trồng đay; ra sức trưng thu, trưng mua thóc, ngô, vừng, lạc, thầu dầu. Trên địa bàn thành phố Huế, ngoài 4.500 quân có sẵn chúng còn đưa hơn 60 hiến binh vào đóng gần tòa Công sứ, đặt tòa Lãnh sự và thiết lập hệ thống liên lạc nối với Quảng Nam, Quảng Trị, Đông Hà, Đồng Hới, Lào.

Do chính sách bóc lột của Nhật - Pháp, nạn đói xảy ra dữ dội ở nhiều địa phương. Thanh Hóa có hàng vạn người bị chết đói. Riêng Nghệ An trong ba tháng từ cuối năm 1944 đến đầu năm 1945 đã có 42.630 người thuộc 16.358 gia đình bị nạn đói cướp đi sinh mạng - trong đó có 2.250 gia đình không còn người sống sót, huyện Nghi Lộc có tới 16.140 người thuộc 5.089 gia đình (1.012 gia đình chết hết). Tỉnh Hà Tĩnh cũng có tới 50.000 người - riêng huyện Nghi Xuân có tới 8.161 người chết đói; thị xã Hà Tĩnh mỗi ngày phải huy động 2-3 chuyến xe bò mới chở hết xác người. Người dân Quảng Bình phải dùng củ khúc, củ nghèn để qua bữa, có nơi đạp cả phên đất để nhặt lúa lép. Củ chuối, vỏ lạc, rau rừng đều phải ăn thay cơm. Tại huyện Quảng Trạch có 1.518 người chết, 1.419 người đi ăn xin, 6.692 người tha hương. Ngư dân Thừa Thiên sống ở đầm Cầu Hai, đầm Chuồn, phá Tam Giang và nông dân ở vùng lúa màu Phong Điền, Quảng Điền cũng bị thiếu đói nghiêm trọng. Để đối phó với nạn đói, Tỉnh ủy Thanh Hóa ra Chỉ thị Đòi ăn, nêu khẩu hiệu Quyết giữ lấy thóc mà ăn, không để lọt một hạt vào tay Pháp - Nhật, vận động nhân dân làm đơn đòi cứu tế, vay lương thực, chặn xe chở thóc, ngô. Ở Nghệ An và nhất là Hà Tĩnh phong trào phá kho thóc phát triển mạnh mẽ tại các huyện Hương Sơn, Hương Khê, Cầm Xuyên, Kỳ Anh. Nhiều nơi còn quyên tiền, cử cán bộ vào Quảng Trị mua gạo về giúp dân. Hội đồng cứu đói Quảng Bình sau khi thành lập đã đến gặp tuần vũ, gửi điện đòi Bảo Đại giải quyết. Trước áp lực, nhà cầm quyền cho mở công trường làm đường Phong Nha (Bố Trạch), Ba Đồn, Tiên Lương (Quảng Trạch), Quảng Bình quan - Đức Phổ (Quảng Bình), Cưỡi - Đại Phong (Lệ Thủy). Các chợ Ba Đồn, Hoàn Lão, Đồng Hới nấu cháo phát cho dân. Một số nơi thuộc Quảng Trạch, Bố Trạch, Lệ Thủy nổ ra phong trào phá kho thóc để chia cho dân nghèo. Tỉnh ủy Thừa Thiên ngoài việc vận động còn lập các Hội cứu đói để cử người vào Quảng Nam, Quảng Ngãi mua lương thực.

Rõ ràng Nhật - Pháp có kế hoạch làm cho hàng triệu người Việt Nam bị chết đói, như chúng thừa nhận sau đây:

Mục đích chính trị: làm chết một phần quan trọng dân chúng và dìm số còn lại trong cảnh đói: đó là cái tay hãm tốt mà Sôvê - Thống sứ Bắc Kỳ đã tìm ra để làm dịu bớt lòng hăng hái yêu nước.

Mục đích kinh tế: a) làm cho vài công ty Pháp (Anh em Đơni), Nhật (Mítsui, Mítsubisi) có thể tích trữ hàng triệu tấn gạo với giá rẻ mạt để bán lại đắt như vàng, b) Làm cho việc mộ phu đồn điền và mỏ được dễ dàng”(1).

Đêm 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, nhanh chóng chiếm được các thành phố, thị xã trong vùng. Có nơi, quân Nhật không có mặt như Hà Tĩnh, viên Công sứ Pháp cũng viết thư xin hàng; còn ở Quảng Bình, quân Pháp chống cự yếu ớt rồi bỏ chạy lên Khe Gát, Quy Đạt. Cuộc đảo chính đã tạo nên một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, đối tượng của cách mạng thay đổi: phát xít Nhật trở thành kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương. Độc chiếm được Đông Dương, chúng không ngừng thi hành chính sách lừa bịp và mua chuộc để che đậy bản chất của mình. Các tổ chức ủng hộ Việt Nam độc lập đoàn, Tân dân đoàn, Thanh niên ái quốc đoàn mọc ra như nấm. Cha con Ngô Đình Khôi hoạt động mạnh ở Quảng Bình, Thừa Thiên để tìm cách đưa Cường Để về thay thế Bảo Đại.

Để lừa phỉnh nhân dân, giặc Nhật bỏ lệ thu thóc tạ ở Trung Kỳ nhằm tô son trát phấn cho Chính phủ Trần Trọng Kim. Mặt khác viên Thủ tướng của Chính phủ bù nhìn còn điều đình xin giảm thuế cho dân. Theo Đạo dụ ngày 26-5-1945, dân vô sản ở Trung Kỳ được miễn thuế thân và những người làm công ăn lương dưới 1200$ một năm được miễn thuế tỷ lệđặc nạp. Thật ra, bên cạnh việc giảm, chúng lại buộc những người trước đây đóng 7$ tăng lên 10$, loại 15$ lên 30$. Rõ ràng đó chỉ là chiêu bài.

Sau cuộc đảo chính, nhiều tù chính trị thoát khỏi lao tù bằng cách vượt ngục hoặc được trả tự do. Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên đều có hàng trăm chiến sĩ trở về, kể cả những người tạm lánh sang Lào và Thái Lan trong thời kỳ bị địch khủng bố, tạo thêm nguồn sinh lực mới cho đảng bộ. Do bị bắt qua nhiều thời kỳ khác nhau, hoàn cảnh và nơi giam cầm cũng khác nhau, lại mất liên lạc với tổ chức lâu ngày nên nhiều vấn đề về nhận thức đường lối chưa thống nhất, nhiều đồng chí còn quá dè dặt sợ vỡ cơ sở hoặc nằm im không dám hoạt động. Đó là một thực tế mà trong Thư gửi các đồng chí Trung Kỳ, Thường vụ Trung ương Đảng đã chỉ rõ: “Trước cuộc đảo chính 9-3-1945, ở Trung Kỳ, chúng ta đứng trước một tình trạng vô cùng nguy hiểm: các tổ chức của Đảng không thống nhất, các đồng chí nghi kỵ nhau, không khí hoài nghi, chia rẽ tràn ngập, chủ nghĩa cô độc và đầu óc địa phương nặng nề. Từ cuộc đảo chính, nhờ tình thế biến đổi thuận tiện và một số đồng chí ra sức phấn đấu, những nạn trên đây mới bớt được một phần nhỏ. Bởi vậy nhiệm vụ trước mắt của các đồng chí Trung Kỳ lúc này là phải tổ chức các tổ chức của Đảng từ trên xuống dưới”(2).


(1) Témoignags et documents francais relatif à la colonisation francaise du Việt Nam (Những chứng cớ và tư liệu Pháp liên quan đến chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam), hà Nội, 1945, tr.1-14.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr. 401-402.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #16 vào lúc: 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:40:45 pm »

Hơn thế nữa, Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta được truyền đạt về các địa phương chậm (sớm nhất là tháng 4-1945 đến Thanh Hóa, tháng 6-1945 về tới Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên). Tuy nhiên, ngay sau khi có chỉ thị trong tay, Thanh Hóa đã nhanh chóng tham gia vào việc xây dựng Chiến khu Hòa - Ninh - Thanh (tức Chiến khu Quang Trung) để chuẩn bị cho khởi nghĩa (5-1945); Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh phát truyền đơn, đăng bài trên báo Kháng địch kêu gọi mọi người đem máu xương hiến dâng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc (6-1945). Nhiều hội nghỉ tỉnh ủy và tỉnh bộ Việt Minh của các tỉnh đã diễn ra từ tháng 3 đến tháng 7-1945. Khoảng giữa tháng 7-1945, đồng chí Tố Hữu được Trung ương phái vào Trung Bộ để thống nhất Đảng bộ Trung Kỳ, thành lập Xứ ủy. Ngày 26-7-1945, Thường vụ Trung ương Đảng gửi thư cho các đồng chí Trung Kỳ nêu rõ:

“Tình hình biến chuyển mau lẹ và thuận tiện. Hàng ngũ quân thù ngày một rối loạn thêm. Sau cuộc chính biển 9-3-1945, Đảng bộ Trung Kỳ cũng như toàn Đảng đã được thêm một số cán bộ có năng lực, cựu chính trị phạm... Đất Nhật đang bị quân Đồng minh đánh dữ. Cuộc đổ bộ của quân Đồng vào Đông Dương không xa. Tình hình chủ quan và khách quan rất thuận tiện. Giờ tổng khởi nghĩa sắp tới.

Tất cả những đồng chí cộng sản Trung Kỳ phải kíp đứng lên gánh vác một phần nhiệm vụ của Đảng trao cho. Phải kíp chạy lại dưới lá cờ chói lọi của Đảng, tụ tập chung quanh Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đặng chuẩn bị lãnh đạo một cuộc chiến đấu quyết liệt, tống cổ giặc Nhật ra khỏi nước, đánh đổ Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim, giành lấy độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc.

Các đồng chi!

Cơ hội quyết định vận mệnh ngàn năm của Tổ quốc đang đến. Không thể biệt phái chia rẽ! Không thể do dự, hoài nghi! Là chiến sĩ tiên phong, chúng ta không có quyền trốn trách nhiệm, không thể khoanh tay bó gối, cầu sự cầu an trong khi dân tộc ta rên xiết dưới gót sắt của giặc Nhật và giai cấp ta quằn quại trong thiếu thốn, nhục nhằn. Các đồng chí Trung Kỳ đã đi hàng đầu trong nhiều cuộc vận động quyết liệt thì nhất định không thể vắng mặt trong cao trào kháng Nhật cứu nước”(1).

Đáp lời kêu gọi của Trung ương Đảng, Ủy ban thống nhất Trung Kỳ đã gửi các đồng chí đồng chí cộng sản Trung Kỳ bức thư nêu rõ: “Tiếng súng của cứu quốc quân đang sôi động bảy tỉnh Bắc Kỳ. Hàng triệu tinh thần ái quốc đã tập hợp dưới ngọn cờ đỏ sao vàng của Việt Nam Độc lập Đồng minh và quả thực Đảng ta là linh hồn, là tiên phong đội. Quả thực Đảng ta đã tỏ một sinh lực dồi dào có thể làm tròn nhiệm vụ lớn lao mà thời đại đã giao phó cho: giải phóng nhân dân Đông Dương... Phong trào Trung Kỳ, với lịch sử oanh liệt của nó, hứa hẹn rất nhiều thành tích tốt đẹp. Nhiều triệu chứng đáng mừng gần đây đã phát lộ sức mạnh tiềm tàng của nó. Các tỉnh ở Bắc Bộ cũng như ở Trung Bộ đã bắt đầu xây dựng cơ sở trên lập trường vững chắc của Đảng”(2).

Từ thực tế giành chính quyền ở một số làng xã và huyện Hoằng Hóa (24-7), Tỉnh ủy Thanh Hóa triệu tập Hội nghị mở rộng vào ngày 13-8 để quyết định về chủ trương, biện pháp phát động nhân dân đứng lên khởi nghĩa. Ủy ban khởi nghĩa của tỉnh đã ra đời. Chỉ trong một thời gian ngắn, dưới sự lãnh đạo của Ủy ban khởi nghĩa, lực lượng cách mạng đã giành được chính quyền tại Thiệu Hóa, Cẩm Thủy, Thọ Xuân, Đông Sơn, Yên Định, Vĩnh Lộc, Thạch Thành, Hà Trung, Nga Sơn, Quảng Xương, Hậu Lộc, thành phố Thanh Hóa (19-8), Tĩnh Gia (20-8), Nông Cống (21-8), Ngọc Lặc (23-8).

Căn cứ vào nhận định và lời kêu gọi của Trung ương Đảng, ngày 8-8-1945, Đại hội đại biểu Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh quyết định nhiều vấn đề sẽ tổ chức, xây dựng lực lượng, công tác tuyên truyền, bầu Ban chấp hành. Tuy nhiên, ngay sau khi hội nghị kết thúc, Ban chấp hành đã nhận thấy các quyết định trên không còn phù hợp với tình hình thay đổi mau lẹ nên đã lập ra Ủy ban khởi nghĩa, phát động khởi nghĩa giành chính quyền và đã giành thắng lợi mau chóng ở Can Lộc (16-8), Thạch Hà, Cẩm Xuyên (17-8), thị xã Hà Tĩnh, Đức Thọ, Kỳ Anh, Quỳnh Lưu (18-8), Nghi Xuân, Hương Sơn (19-8), thành phố Vinh, Hương Khê, Diễn Châu (21-8), Nghĩa Đàn (22-8), Nam Đàn, Thanh Chương, Anh Sơn, Con Cuông (23-8), Nghi Lộc, Yên Thành (25-8).

Tại các huyện miền núi Nghệ An, do những đặc điểm riêng biệt nên địa phương sử dụng hình thức cải tổ là chính. Cán bộ Việt Minh có mặt tại các địa phương này tuyên bố xóa bỏ chính quyền cũ, lập chính quyền cách mạng, sử dụng những người tiến bộ, quy thuận cách mạng, có uy tín tham gia vào chính quyền mới.


(1) Sđd, tr.402-403.
(2) Các đồng chí Trung Kỳ mau thống nhất lại, Tạp chí Lịch sử Đảng, tháng 8-2000, tr.3-4.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #17 vào lúc: 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:41:47 pm »

Sau hội nghị Việt Minh, ngày 17-8, cán bộ của Quảng Bình khẩn trương tỏa về cơ sở, gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa. Các đội tự vệ phủ, huyện sẵn sàng chờ lệnh. Lực lượng vũ trang của tỉnh tại căn cứ Võ Xá được phân chia cho các nơi. Tại Quảng Trị, lực lượng quân Nhật khá đông ở tỉnh lỵ và Đông Hà, Cam Lộ, Cửa Việt, lại được bổ sung thêm lực lượng từ Thái Lan rút về, đóng dọc đường số 9. Lực lượng bao an binh gồm 180 người được trang bị đầy đủ. Do đó ngoài kế hoạch đánh chiếm dinh tỉnh trưởng, doanh trại bảo an binh, kho bạc, nhà ga xe lửa, bưu điện, nhà lao... hết sức tỷ mỷ, Ủy ban khởi nghĩa Quảng Trị đã bố trí Hồ Thân, Nguyễn Hữu Khiếu, Lê Thị Diệu Muội tới thương thuyết với chỉ huy lính Nhật, bảo an binh và tỉnh trưởng Quảng Trị. Nhờ chuẩn bị chu đáo, việc giành chính quyền cách mạng ở Quảng Bình, Quảng Trị đã thành công. Tại Quảng Ninh, Bố Trạch (22-8), thị xã Lệ Thủy, Quảng Trạch, Triệu Phong, Hải Lăng, Gio Linh, Vĩnh Linh, thị xã Quảng Trị (25-8), Cam Lộ (24-8), Đông Hà, Hướng Hóa, Tuyên Hóa, Minh Hóa (25-8).

Do đặc điểm của tình hình chính trị ở Huế, Thường vụ Việt Minh tỉnh Thừa Thiên đã viết thư cho tỉnh trưởng, đốc lý thành phố và huyện trưởng sáu huyện nêu rõ chủ trương của Mặt trận Việt Minh, cửa cán bộ gặp gỡ để vận động một số đối tượng quan trọng. Đối với quân Nhật, Thường vụ Việt Minh đã có thư gửi cố vấn Yôcôhama đề nghị không can thiệp.

Khí thế quần chúng ở các huyện rất sôi nổi. Ngày 19-8, việc giành chính quyền cách mạng ở huyện Phong Điền, Phú Lộc đã thành công. Nhận rõ tầm quan trọng của Huế, ngày 20-8, Trung ương Đảng cử đoàn cán bộ gồm các đồng chí Tố Hữu, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Duy Trinh đến phối hợp với đảng bộ địa phương chỉ đạo cuộc khởi nghĩa; lập ra Ủy ban khởi nghĩa do đồng chí Tố Hữu làm Chủ tịch, Hoàng Anh - Phó Chủ tịch và các ủy viên Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Nguyễn Sơn; quyết định sẽ khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày 23-8-1945.

Ngày 22-8, chính quyền cách mạng về tay nhân dân Hương Thủy, Phú Vang. Trong ngày này, tại Huế, các đoàn thể cứu quốc, các đội tự vệ trang bị vũ khí thô sơ giương cao băng cờ, biểu ngữ biểu tình trên các đường phố, chiếm các bộ, công sở, trại Bản an binh, đầu cầu Tràng Tiền khiến Bảo Đại phải tuyên bố nhường quyền lãnh đạo cho Việt Minh. Sáng 23-8, Thành bộ Việt Minh gửi tối hậu thư cho nhà vua, yêu cầu giao đội lính khố vàng và báo cho Nhật biết đã bàn giao quyền bính cho cách mạng. Bảo Đại chấp nhận yêu cầu trên.

Ngày 25-8, trên các ngả đường của thành phố, rừng người với cờ đỏ sao vàng, biểu ngữ, vũ khí thô sơ hô vang khẩu hiệu rồi kéo về sân vận động dự mít tinh chào mừng cách mạng thành công. Cùng ngày, Hương Trà cũng khỏi nghĩa thắng lợi. Ngay đêm đó, Chính phủ Cách mạng lâm thời gửi điện yêu cầu Bảo Đại rời bỏ ngai vàng. Chiều 30-8, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại Ngọ Môn. Trước hàng vạn quần chúng, Bảo Đại đọc chiếu thoái vị, nộp ấn kiếm cho phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời đánh dấu sự sụp đổ của chế độ phong kiến.

Đất nước và con người Liên khu IV có một quá trình đấu tranh vô cùng gian nan và vất vả với thiên nhiên khắc nghiệt và kẻ thù hung bạo. Đây là mảnh đất kết tinh tất cả cái phong phú, đa dạng của triệu triệu năm kiến tạo, của hàng vạn năm sáng tạo và không ngừng chinh phục mọi trở lực trên con đường đi tới. Đất nước giầu đẹp, con người sẵn có nhẫn nại, lại hết sức thông minh, tài hoa, sắc sảo. Đó chính là những tố chất vô cùng cần thiết để Liên khu IV bước vào cuộc kháng chiến gian khổ trường kỳ bảo vệ những thành quả mà cách mạng đã đem lại cho nhân dân. Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng bộ Liên khu IV (7-1940 đã chỉ rõ điều này:

“Sẵn có phong trào Tân Việt, Thanh niên Cách mạng đồng chí hội nên Đảng bộ Liên khu IV có cơ sở nhiều nơi ngay khi mới thành lập Đảng (6-1-1930), nên từ Xô viết Nghệ An cho đến toàn quốc khởi nghĩa ở các tỉnh, nhất là Nghệ, Tĩnh, Trị phong trào không một lúc nào bị dập tắt với sự hoạt động của người cộng sản.

Trong hoàn cảnh bí mật gian khổ, luôn luôn bị đàn áp kìm hãm trong nhà lao đế quốc, người đảng viên cộng sản ở Liên khu IV đã rèn đúc được một ý chí kiên quyết, bền bỉ và trung thực”.

Phát huy những truyền thống quý báu và niềm tự hào chính đáng, đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong Liên khu IV đoàn kết một lòng quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ, cùng quân và dân cả nước đánh thắng đội quân xâm lược đông tới hàng chục vạn tên, đuổi chúng ra khỏi bán đảo Đông Dương.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #18 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:26:46 pm »

Chương 2

XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ MỚI,
TIẾN HÀNH KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
(1945 - 1947)

I. GIỮ VỮNG CHÍNH QUYỀN, XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG
CHUẨN BỊ KHÁNG CHIẾN
(9-1945 - 12-1946)

Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng được thành lập trong cả nước. Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn độc lập, Người long trọng tuyên bố với thế giới rằng: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!

Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”
(1).

Sau khi giành được chính quyền, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời các cấp ở địa phương thuộc Khu IV bắt tay ngay vào việc ổn định tình hình xã hội và đời sống của nhân dân; đồng thời từng bước xây dựng bộ máy của chính quyền mới. Ủy ban phân công các thành viên phụ trách các ngành như: quốc phòng, nội vụ, tài chính, giáo dục, y tế, văn hóa xã hội, thông tin tuyên truyền, dân sinh, kinh tế. Cuối năm 1945, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời các cấp được đổi thành Ủy ban hành chính lâm thời (sau đó là Ủy ban hành chính). Các ngành chuyên môn được tổ chức thành các ty ở cấp tỉnh hoặc thành phố, các phòng ở cấp huyện, thị xã.

Cán bộ chính quyền từ những cán bộ hoạt động bí mật lần đầu tiên tham gia điều hành đất nước đã gặp muôn vàn khó khăn, lúng túng. Chưa một ai được đào tạo, số lượng cán bộ ít, công việc hoàn toàn mới mẻ, điều kiện về phương tiện làm việc thiếu thốn đủ bề. Mặc dù vậy, chính quyền các cấp đã bắt tay ngay vào việc tổ chức thực hiện chương trình của Việt Minh như thực hiện quyền nam nữ bình đẳng, tiến hành chia lại ruộng đất; khuyến khích, động viên mọi người hăng hái tham gia sản xuất...

Khí thế cách mạng sau ngày giành được chính quyền đã lôi cuốn toàn dân từ thành thị đến thôn quê, già, trẻ, gái trai phấn khởi tham gia các hoạt động cách mạng. Lớp lớp thanh niên, học sinh, sinh viên nô nức tòng quân, cầm súng bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu là lớp học viên trường Thanh niên tiền tuyến(2) ở Huế. Giai cấp công nhân hăng hái đi đầu trong mọi nhiệm vụ khó khăn, nguy hiểm. Nông dân khắp nơi ủng hộ chính quyền, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, chống đói, ổn định đời sống. Phần lớn công chức cũ tự nguyện phục vụ chính quyền mới không tính lương bổng, đãi ngộ. Đông đảo các nhân sĩ, trí thức lớn, kể cả những người trong dòng tộc nhà Nguyễn cũng đã sát cánh cùng nhân dân lao động, đem tài năng đóng góp vào sự nghiệp chung của dân tộc. Nhiều nhà tư sản dân tộc, địa chủ yêu nước sẵn sàng ủng hộ cách mạng, không ít người trong số họ đã hiến một phần gia tài, điền sản cho Tổ quốc. Đồng bào các dân tộc anh em đoàn kết, gắn bó trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Đồng bào các tôn giáo tích cực góp phần xây dựng một nước Việt Nam mới.

Mặt trận Việt Minh phát triển ngày càng nhanh, các hội cứu quốc của công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ được tổ chức thống nhất từ tỉnh xuống đến các làng, xã. Nhiều hội cứu quốc mới được thành lập, thu hút ngày càng đông đảo mọi tầng lóp nhân dân vào mặt trận. Mặt trận thực sự trở thành lực lượng chính trị hùng hậu, đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ chính quyền non trẻ và nền độc lập, chủ quyền quốc gia.

Lực lượng vũ trang ở các địa phương Khu IV cũng được chính quyền, mặt trận đặc biệt quan tâm. Trên cơ sở những nhóm vũ trang trong Cách mạng Tháng Tám, các địa phương bắt tay ngay vào việc tổ chức xây dựng các đơn vị vũ trang. Các đơn vị giải phóng quân và tự vệ chiến đấu lần lượt ra đời. Tuy kinh nghiệm ít và trang bị kém, nhưng các đơn vị vũ trang này là công cụ đáng tin cậy bảo vệ chính quyền cách mạng.

Cùng với việc ra đời của chính quyền cách mạng, Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể cứu quốc, các đơn vị vũ trang, tổ chức đảng ở Khu IV cũng từng bước được củng cố và phát triển. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, cuối tháng 8-1945, Xứ ủy Trung Bộ được tổ chứ lại do đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng, làm Bí thư. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Xứ ủy cùng với sự chủ động, sáng tạo của các cấp ủy đảng, các tỉnh trong địa bàn Khu IV đã tập trung cao độ, khẩn trương triển khai hàng loạt công tác cấp bách trước mắt.


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.3-4.
(2) Đây vốn là trường quân sự do Chính phủ Trần Trọng Kim thành lập. Hầu hết học viên của trường là trí thức, công chức, sinh viên, học sinh, trong đó bộ phận sinh viên cứu quốc từ Hà Nội về đóng vai trò nòng cốt. Tổ chức Việt Minh của trường được thành lập sớm thu hút đông đảo học sinh gia nhập các đoàn thể cứu quốc, tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế và tham gia cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Nhiều người sau này trở thành những cán bộ cao cấp của Đảng và quân đội: Trung tướng Cao Văn Khánh, Trung tướng Nguyễn Thế Lâm, Thiếu tướng Mai Xuân Tần, Thiếu tướng Cao Pha, Thiếu tướng Đoàn Huyên, Thiếu tướng Phan Hàm, Thiếu tướng Võ Quang Hồ, Thứ trưởng ngoại giao Ngô Điền...
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #19 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:29:54 pm »

Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, to lớn, cách mạng Việt Nam đứng trước những khó khăn, thử thách hết sức nghiêm trọng. Nạm đói khủng khiếp năm Ất Dậu (1945) chưa chấm dứt, đồng bằng Bắc Bộ bị vỡ đê, vụ mùa thất thu lớn. Hậu quả nặng nề của chế độ thực dân, phong kiến và Chiến tranh thế giới lần thứ hai làm cho nền kinh tế bị kiệt quệ, công, nông nghiệp đình đốn, đời sống nhân dân cứ kỳ khó khăn. Mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo bị khoét sâu; trên 90% nhân dân mù chữ; ngân quỹ quốc gia trống rỗng; chính quyền cách mạng vừa mới được thành lập đã phải đối phó với giặc ngoài, thù trong. Ở miền Bắc, gần 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch nhân danh quân Đồng minh vào giải giáp vũ khí quân Nhật, kéo theo lũ Việt gian (Việt quốc, Việt cách) hòng thủ tiêu chính quyền cách mạng còn non trẻ của ta, dựng lên một chính quyền bù nhìn tay sai mới.

Ở miền Nam, quân Pháp núp dưới bóng quân Anh vào giải giáp quân đội Nhật. Ngày 23-9-1945, được quân Anh hỗ trợ, Pháp nổ súng tiến công Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta một lần nữa.

Ở các tỉnh Khu IV, tình hình kinh tế, xã hội ngày càng nguy ngập. Sản xuất nông nghiệp hết sức tiêu điều. Sau vụ chiêm 1945, hạn hán kéo dài, ruộng đồng khô cạn, ruộng đất bị bỏ hoang, đến kỳ thu hoạch lại bị bão lụt phá hủy hàng vạn hécta mùa màng. Vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh mất khoảng 50% tổng sản lượng lúa. Ở một số huyện, 80-90% gia đình nông dân thiếu ăn. Khắp nơi rải rác vẫn có người tiếp tục chết đói, chết bệnh. Trâu, bò bị dịch bệnh chết hàng loạt, sức kéo thiếu trầm trọng. Các ngành sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp bị đình đốn; các nhà máy, xí nghiệp chỉ còn một bộ phận nhỏ hoạt động, nhiều công nhân, viên chức không có việc làm, đời sống bấp bênh. Tình hình tài chính cạn kiệt, trống rỗng... Công nhân, viên chức Nhà nước làm việc không lương. Trong đội ngũ cán bộ, đảng viên tình trạng thiếu đoàn kết sau khi có lời hiệu triệu của Thường vụ Trung ương Đảng gửi các đồng chí Trung Kỳ đã được khắc phục một bước, song chưa được giải quyết triệt để. Xứ ủy Trung Bộ và hệ thống tổ chức đảng ở một số tỉnh trước đây bị kẻ thù đàn áp, khủng bố bị tan rã đến sau ngày 19-8-1945 vẫn chưa được khôi phục.

Chính quyền cách mạng các cấp mới thành lập, chưa có kinh nghiệm quản lý, còn nhiều vấp váp, lúng túng, thậm chí còn phạm phải những sai lầm không đáng có. Ở nhiều huyện miền núi, lúc đầu chính quyền còn do các tri châu và thổ ty, lang đạo điều hành(1), Lực lượng vũ trang vừa mới thành lập còn non yếu, chưa được huấn luyện, trang bị thiếu, cán bộ chưa có kinh nghiệm chỉ huy. Ở các vùng tôn giáo và dân tộc thiểu số trình độ giác ngộ chính trị của nhân dân còn nhiều hạn chế...

Trong lúc phải tập trung giải quyết những khó khăn gay gắt, chống chất về kinh tế, xã hội thì các tỉnh thuộc Khu IV cũng như Trung ương và các tỉnh miền Bắc đã phải đối phó với nạn “Hoa quân nhập Việt” của chính quyền Tưởng Giới Thạch hòng “Tiêu diệt Đảng ta.
Phá tan Việt Minh,
Giúp bọn phản động Việt Nam đánh đổ chính quyền nhân dân để lập một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng”
(2). Tại các tỉnh ở Khu IV, hơn một quân đoàn quân Tưởng kéo vào chiếm đóng các đô thị lớn Thanh Hóa, Vinh, Huế, các thị xã và các vị trí trọng yếu dọc các tuyến đường sang Lào. Tại nơi chiếm giữ, quân Tưởng ngang nhiên đòi quyền kiểm soát trật tự, thực tế là phá rối trị an. Chúng vô cớ khám xét, bắt bớ và khủng bố nhân dân. Chúng ra sức vơ vét của cải của nhân dân, gây rối loạn về kinh tế, tài chính. Ngang ngược hơn, chúng còn gây áp lực buộc chính quyền cách mạng nơi chúng đóng quân để cho bọn Việt gian được tự do hoạt động và tham gia chính quyền, tiếp tay cho bọn tàn binh Pháp ở biên giới Quảng Trị - Lào lăm le kéo vào Quảng Trị, Thừa Thiên.

Được quân Tưởng tiếp tay, bọn Việt quốc, Việt cách câu kết với những phần tử quan lại, tay sai đế quốc cũ không chịu cải tạo ở các nơi, câu kết với bọn phản động trong các vùng Thiên chúa giáo và vùng dân tộc thiểu số để gây dựng các tổ chức phản cách mạng, chia rẽ nhân dân, vu cáo, bôi nhọ Đảng Cộng sản khiêu khích chính quyền, bắt cán bộ, điên cuồng chống phá chế độ mới.

Ở Thanh Hóa, một trung đoàn quân Tưởng kéo vào uy hiếp chính quyền, chiếm đóng các vị trí quan trọng trong thị xã. Chúng ngang nhiên đòi cung cấp lương thực, thực phẩm, đặt súng máy trên các ngả đường, đòi tước vũ khí của lực lượng vũ trang cách mạng. Chúng nuôi dưỡng, trang bị vũ khí và vạch kế hoạch cho bọn Quốc dân đảng lập ra Đệ lục chiến khu ở ấp Di Linh huyện Nông Cống (nay thuộc Triệu Sơn). Bọn Đại Việt cũng ráo riết hoạt động trong vùng tôn giáo, xây dựng lực lượng chống phá cách mạng. Ở Nghệ An và Hà Tĩnh, quân Tưởng chiếm giữ các vị trí quan trọng dọc các tuyến đường sắt, đường số 1, đường số 8 sang Lào. Ở Thừa Thiên, hơn 5.000 quân Tưởng vào giải giáp quân đội Nhật, chúng ra sức cướp bóc, vơ vét tiền của của nhân dân, cùng với bọn phản động ở địa phương điên cuồng chống phá cách mạng.

Trong khi đó, tàn quân Pháp ở Lào tụ tập ở nhiều điểm trên biên giới Việt Lào và trên đất Lào lăm le tiến chiếm miền tây Thanh - Nghệ - Tĩnh, Quảng Trị và tiến quân về Huế qua đường số 9.


(1) Ở Thanh Hóa có sáu huyện Quan Hóa, Bá Thước, Thường Xuân, Cẩm Thủy, Lang Chánh, Ngọc Lặc lúc đầu do các tri châu, lang đạo nắm chính quyền. Đặc biệt, tri châu Bá Thước là Hà Công Thắng giả danh cách mạng, đưa quân lên Quan Hóa tuyên bố thành lập chính quyền rồi tự phong là quận trưởng, liên kết với một số thổ ty, lang đạo phản động chống phá cách mạng (Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy xuát bản, 1991, t.1, tr.138).
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.6, tr.161.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM