Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 06:50:29 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954  (Đọc 55477 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« vào lúc: 08 Tháng Mười Hai, 2015, 08:48:13 pm »



Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954)
Nhà xuất bản: Chính trị quốc gia
Năm xuất bản: 2003
Người số hóa: macbupda

BAN CHỈ ĐẠO NỘI DUNG

Đặng Thí nguyên Bí thư Liên khu ủy IV: Trưởng ban
Hoàng Anh, nguyên Bí thư Liên khu ủy, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu IV: Ủy viên
Võ Thúc Đồng nguyên Thường vụ Liên khu ủy IV: Ủy viên
Trần Sâm, nguyên Tư lênh Liên khu IV: Ủy viên
Lê Nam Thắng, nguyên Tư lệnh Liên khu IV: Ủy viên
PGS.TS. Nguyễn Trọng Phúc, Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng: Ủy viên
PGS.TS. Trình Mưu, Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng: Ủy viên

TẬP THỂ TÁC GIẢ

Chủ biên:   PGS. TS. Trình Mưu
Chương I:   TS. Khổng Đức Thiêm
Chương II:   PGS.TS. Nguyễn Trọng Phúc
         ThS. Nguyễn Xuân Ớt
Chương III:   PGS. Lê Mậu Hân
         TS. Vũ Quang Hiển
Chương IV:   TS.; Phùng Đức Thắng
         Ths. Nguyễn Kim Vỹ
Chương V:   PGS.TS. Trình Mưu
         ThS. Trần Trọng Thơ
Chương VI:   GS.TS. Trịnh Nhu
« Sửa lần cuối: 18 Tháng Bảy, 2020, 12:03:51 pm gửi bởi Giangtvx » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #1 vào lúc: 08 Tháng Mười Hai, 2015, 08:49:54 pm »

LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Sau khi xem xét đề nghị và nghe ý kiến các đồng chí lão thành cách mạng, tháng 6-1998, Bộ Chính trị đồng ý cho tiến hành nghiên cứu và viết lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân, dân một số liên khu và cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ.

Căn cứ ý kiến chỉ đạo của bộ Chính trị, ngày 7-8-1998, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 689/QĐ-TTg giao nhiệm vụ cho các cơ quan khoa học và các cơ quan chức năng phối hợp nghiên cứu, bố trí kinh phí để thực hiện các công trình biên soạn lịch sử đã được Bộ Chính trị quyết định.

Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945-1954) được Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường giao cho PGS.TS. Trình Mưu làm chủ nhiệm, cơ quan chủ trì là Viện Lịch sử Đảng trực thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tham gia chỉ đạo và biên soạn công trình còn có các đồng chí lão thành cách mạng nguyên là những nhà lãnh đạo của Liên khu IV và một số nhà khoa học.

Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, do yêu cầu chỉ đạo thống nhất trong cả nước, tháng 10-1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã cho lập một loạt chiến khu, trong đó có Chiến khu IV. Ngày 25-1-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh đổi các khu để thành lập các liên khu. Liên khu IV lúc này bao gồm sáu tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên. Trước đó, tháng 11-1946, Trung ương cho giải thể Xứ ủy Trung Bộ để lập Khu ủy IV và Khu ủy V, sau khi thành lập Liên khu IV thì Liên khu ủy IV cũng được thành lập để lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến, kiến quốc ở vùng đất này.

Là dải đất dài và hẹp gồm sáu tỉnh Bắc Trung Bộ, từ vùng núi hiểm trở Tam Điệp đến đèo Hải Vân, Liên khu IV có vị trí chiến lược hết sức quan trọng, nơi địa linh nhân kiệt, nhân dân có tinh thần yêu nước và cách mạng rất quật cường, được xem như tiềm năng to lớn đặc biệt của dải đất này.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân Liên khu IV dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng bộ Liên khu từ lúc khởi sự đã cách đây gần 60 năm và kết thúc cũng gần 50 năm. Ở tầm quốc gia, cuộc chiến đấu của quân và dân Liên khu IV trên những nét lớn đã được phản ánh trong các bộ sử lớn như Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ở tầm địa phương, cả sáu tỉnh trong liên khu đều đã viết lịch sử đảng bộ, có nơi đã viết cả lịch sử các ngành, các đoàn thể, cũng như thông sử.

Nhưng Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945-1954) được xuất bản lần này là công trình thông sử được nghiên cứu và biên soạn công phu, nghiêm túc phản ánh một cách toàn diện, hệ thống cuộc kháng chiến thần thành của quân và dân Liên khu IV trên tất cả các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, văn nghệ, giáo dục, an ninh, làm nghĩa vụ quốc tế.

Trong cuốn sách này, các tác giả không chỉ trình bày về hoạt động quân sự mà còn trình bày một cách toàn diện trên tất cả các mặt của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ đầy gian khổ hy sinh và thắng lợi vẻ vang như nó đã diễn ra. Trong các chương của tập sách đều nêu bật âm mưu, thủ đoạn của địch, chủ trương và cách thức tiến hành kháng chiến của quân và dân Liên khu IV, từ chiến trường Bình - Trị - Thiên khói lửa đến vai trò của hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh, những đóng góp của quân và dân Liên khu IV với chiến trường cả nước và giúp đỡ cách mạng Lào. Từ hiện thực lịch sử hào hùng và oanh liệt, các tác giả bước đầu rút ra những kinh nghiệm của vùng đất này góp phần bổ sung vào kho tàng lý luận về cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, về chiến tranh cách mạng của Đảng. Cuốn sách cũng dành một số trang thích đáng để trình bày luận giải những khuyết điểm, thiếu sót trong quá trình chỉ đạo, điều hành sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của Đảng bộ và chính quyền Liên khu IV.

Đây là một công trình lịch sử quý góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho cán bộ, nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, đồng thời là tài liệu tham khảo có giá trị cho việc nghiên cứu, giảng dạy lịch sử trong các cơ quan nghiên cứu và nhà trường.

Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.

                                                                                                   
Tháng 01 năm 2003
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #2 vào lúc: 08 Tháng Mười Hai, 2015, 08:59:57 pm »

LỜI GIỚI THIỆU

Trong lịch sử đấu tranh của dân tộc Việt Nam, Liên khu IV là nơi khởi nguồn nhiều phong trào yêu nước chống phong kiến và ngoại xâm, là hậu cứ và chiến trường trực tiếp của các phòng trào chống Pháp thời cận, hiện đại. Khi Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh tiếp thụ và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam thì cơ sở đảng sớm ra đời và phát triển rộng khắp các địa phương trong liên khu. Nghệ An, Hà Tĩnh đã trở thành ngọn cờ đầu trong cao trào cách mạng ở Đông Dương những năm 1930-1931.

Ngay sau khi ta giành chính quyền, với ý đồ trở lại xâm lược Việt Nam thực dân Pháp đã cho biệt kích nhảy dù xuống tây bắc Huế và tiến đánh Napê (Hà Tĩnh), mưu toan chiếm đường số 1 và số 9, lập phòng tuyến Đà Nẵng - Đông Hà - Savanakhẹt chia cắt ngang bán đảo Đông Dương, để từ đó đánh rộng ra các tỉnh bắc Liên khu IV, nối liền Nam - Bắc Việt Nam với Trung Lào.

Với truyền thống cách mạng kiên cường, quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập vừa mới giành được, nhân dân các dân tộc liên khu IV đã kề vai sát cánh dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền cách mạng nhất từ đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp. Bằng mọi thứ vũ khí có trong tay với tinh thần tự lực tự cường, quân và dân Bình - Trị - Thiên đã phát triển chiến tranh du kích, giành dân, giữ đất, phá tề, diệt địch, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, nhất là chiến trường chính. Ở Thanh - Nghệ - Tĩnh, quân và dân ra sức thi đua xây dựng hậu phương vững mạnh về mọi mặt, chi viện trực tiếp cho chiến trường chính và chiến trường Bình - Trị - Thiên, Trung Lào, góp phần đánh thắng chủ nghĩa thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.

Để ghi lại những hy sinh và đóng góp lớn lao của đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc Liên khu IV trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Viện Lịch sử Đảng thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945-1954). Là một trong những người trực tiếp tham gia và giữ những trọng trách trong đảng bộ và chính quyền suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Liên khu IV, theo dõi và góp ý kiến với tập thể tác giả trong quá trình nghiên cứu, tôi thấy đây là một công trình khoa học công phu, nghiêm túc. Cuốn sách đã phản ánh trung thực cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của quân và dân Liên khu IV về các mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh, liên minh chiến đấu với Lào... Những ưu điểm và cả khuyết điểm, sai lầm trong cuộc kháng chiến của địa phương cũng được tập thể tác giả phản ánh một cách khách quan. Tôi tin rằng cuốn sách sẽ là tài liệu quý không những đối với các nhà khoa học mà còn là món ăn tinh thần bổ ích đối với đông đảo cán bộ, nhân dân và thế hệ trẻ trong Liên khu IV và cả nước.

Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.

Hà Nội, tháng 12 năm 2002
HOÀNG ANH
Nguyên Bí thư Liên khu ủy,
                                                                                   
Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu IV
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #3 vào lúc: 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:04:42 pm »

Chương 1

LIÊN KHU IV MIỀN ĐẤT, CON NGƯỜI
TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ

I. VỊ THẾ CHIẾN LƯỢC

Sau Cách mạng tháng Tám, nhiều đơn vị quân sự - hành chính cấp của nhà nước Việt Nam mới đã ra đời, nhằm thích ứng với mọi tình huống và diễn biến của chiến tranh. Tháng 10-1945, chiến khu IV gồm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh (Thanh - Nghệ - Tĩnh), Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên (Bình - Trị - Thiên) được thành lập. Về hệ thống Đảng, tháng 11-1946, Xứ ủy Trung Bộ được giải thể để lập ra Khu ủy IV và Khu ủy V; đồng chí Hoàng Quốc Việt được cử làm Bí thư Khu ủy IV. Qua hơn một năm thực tiễn kháng chiến, ngày 25-1-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 120/SL hợp nhất các khu và thành lập các liên khu. Khu IV đổi thành Liên khu IV (bao gồm cả phân khu Bình - Trị - Thiên).

Liên khu IV được hợp nên từ vùng đất Ái Châu (Thanh Hóa), Hoan Châu (Nghệ An, Hà Tĩnh), Ô Châu (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên) trong lịch sử. Đây là khu vực nổi tiếng đất thiêng người giỏi (Ái Châu), nơi thành đồng ao nóng, then khóa của các triều (Hoan Châu), núi cao biển rộng thực hiểm yếu (Ô Châu). Kéo dài 642 km từ đèo Tam Điệp đến đèo Hải Vân, Liên khu IV là vùng tự nhiên phân hóa rất sâu sắc theo hướng từ nam ra bắc, đông sang tây và theo chiều thẳng đứng của các hợp phần tự nhiên trong hệ thống các bồn lưu vực tạo ra sự đa dạng về tài nguyên (dự trữ rừng phong phú, ven biển nhiều đầm phá, có hai ngư trường lớn, giàu khoáng sản). Toàn bộ khu vực có 644 km bờ biển, 76.000km2 thềm lục địa, 1.182 km đường biên giới Việt - Lào, tổng diện tích 50.062 km2 với 3/4 là núi rừng, 70 vạn ha đất canh tác, địa thế dài và hẹp về phía nam (rộng nhất 207km, hẹp nhất 46,5km), có nhiều dãy núi đá chắn ngang từ tây sang đông như đèo Tam Điệp, đèo Ngang, đèo Lý Hòa, đèo Hải Vân. Thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt phân bổ đều khắp vùng lãnh thổ kéo dài trên 4 độ vĩ tuyến với núi đồi là chủ yếu; đồng bằng càng đi xuống càng thu nhỏ. Các điều kiện khí hậu thay đổi đột ngột do các ảnh hưởng của các loại địa hình.

Liên khu IV chia thành hai khu vực: Thanh - Nghệ - Tĩnh với trung tâm là hai thành phố Vinh và Thanh Hóa; Bình - Trị - Thiên với Huế là trung tâm. Đèo Ngang là phân giới thiên nhiên của hai khu vực ấy.

Thanh - Nghệ - Tĩnh thuộc khu vực chuyển tiếp của Bắc Trung Bộ, có diện tích 33.573 km2. Núi non ở Thanh Hóa mang nét đặc trưng của Tây Bác bởi những dãy đá vôi xen kẽ đá phiến. Phía nam sông Mã và phía tây dọc biên giới Việt - Lào hiểm trở hơn với nhiều đỉnh núi có độ cao trung bình (Bù Binh 1.291m, Bù Chó 1.563m), bị chia cắt bởi mạng sông, suối dày đặc.

Vùng núi Nghệ - Tĩnh chạy dài thành một dãy liên tục, bắt đầu từ hữu ngạn sông Cả về đến Hoành Sơn. Từ độ cao 800 m trở lên, núi được phủ kín bởi các khu rừng dọc Pu Lai Long - Rào Cỏ, có ngọn cao đến 2.711m. Lại có nhánh núi đâm về đồng bằng với các dãy lẻ từ Cửa Hội đến Ba Đồn. Khu vực này, núi đồi còn lan rộng ra phía đồng bằng chạy song song với bờ biển, chia cắt thành từng khối riêng rẽ, sườn trơ sỏi đá với những bậc thềm phù sa cổ hoặc các đồi đất đỏ badan.

Đồng bằng Thanh - Nghệ - Tĩnh có diện tích 62.000 ha, riêng Thanh Hóa chiếm gần một nửa lại mang nhiều dáng vẻ của châu thổ sông Hồng, được phù sa sông Mã, sông Chu bồi đắp. Đồng bằng Nghệ - Tĩnh được hợp lại bởi nhiều mảnh nhỏ do vụng biển bị bồi lấp hoặc phù sa các sông Cả, Ngàn Sâu, Ngàn Phố tạo nên, rộng nhất là Diễn Châu và vùng duyên hải Vinh. Tuy không phì nhiêu bằng châu thổ sông Hồng và đồng bằng Nam Bộ, nhưng đây vẫn là địa bàn cư trú của đông đảo cư dân và mật độ dân cư cao, cường độ sử dụng đất đai lớn, trình độ thâm canh tiến bộ. Các cửa sông trở thành nơi ngư dân xuất phát để ra vùng lộng hoặc khơi xa đánh cá và các hải sản khác. Nhiều đảo ven bờ như Hòn Nẹ, Hòn Nôm, Hòn Mê (Thanh Hóa), Hòn Ngự, Hòn Mắt (Nghệ An), Hòn Chim (Hà Tĩnh) có vai trò lớn đối với ngư nghiệp.

Khí hậu nóng và ẩm tạo điều kiện cho các khu rừng nhiệt đới trong khu vực phát triển, sản ra các loại lim, gụ, sến, táu, lát hoa tốt nhất Đông Dương. Thú rừng thì đa dạng với voi, hổ, linh trưởng, gà lôi lam, nhất là ở phía tây Nghệ - Tĩnh.

Tài nguyên khoáng sản khá phong phú và đa dạng. Về kim loại có crômít Cổ Định (Thanh Hóa), thiếc ở Quỳ Hợp (Nghệ An), titan dạng sa khoáng ven biển Hà Tĩnh. Mỏ vàng xuất hiện ở hầu hết các tỉnh. Mỏ sắt Thạch Khê (Hà Tĩnh) cùng các khoáng sản khác như ăngtimoan, đồng, chì, mănggan, êmênhít, than, phốtphát... tạo ra những triển vọng cho các ngành công nghiệp phát triển. Các khoáng sản phi kim loại - ngoài đá vôi, đá hoa, đá xây dựng còn đá quý với trữ lượng rubi khá lớn ở Quỳ Châu (Nghệ An).

Bình - Trị - Thiên là lãnh thổ duy nhất ở Việt Nam có những con đường ngắn nhất nối các đường hàng hải ở biển Đông với các tuyến giao thông thủy bộ ở Đông Nam Á lục địa; là đầu cầu và những điểm gắn kết các đường quốc lộ nối liền các tỉnh miền Trung với Tây Nguyên, Lào, Campuchia và qua các nước này đến với Thái Lan và các nước Đông Nam Á. Sau khi có con đường giao lưu quốc tế nối liền con đường xuyên Á từ Thái Lan qua Lào đến Đông Hà theo quốc lộ 9 gặp quốc lộ 1, sức hút của nó đã giúp cho Quảng Bình thoát khỏi thế cô lập.

Với vùng núi đá vôi Kẻ Bàng phân bố trên một diện tích rộng chừng 10.000 km2, địa hình phía tây Quảng Bình hầu như không có sông suối hay một mặt phẳng nào. Đây là khu vực 94% diện tích là rừng nguyên sinh, nhiều hang động đã được tìm thấy với độ dài hàng trăm kilômét. Có tới hơn 600 loài thực vật (lim, mun, huỳnh...) với những cây chò vài trăm tuổi, cây gùa đường kính 5m và cao tới 70m. Lại có tới trên 60 loài thú quý (voọc, gấu, hổ, sao la, mang lớn, gà lôi lam). Hàng năm khu vực này nhận được một lượng mưa tới 2.500 - 3.000 mm, chảy ngầm vào khối núi theo những vết nứt nẻ, hòa tan đá vôi và đục rỗng khối núi từ bên trong, tạo nên nhiều hang động ngầm nổi tiếng như động Phong Nha được công nhận là đẹp nhất thế giới và đang được đề nghị công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Phía nam dãy núi đá vôi Kẻ Bàng là một vùng đồi núi thấp chạy từ biên giới Việt - Lào đến sát biển, khiến cho dải đồng bằng bị thu hẹp, đất đai thắt lại bề ngang có chỗ chỉ còn chừng 47-50 km, tạo ra đoạn xung yếu nhất về mặt chiến lược vì các con đường khi vượt qua dốc Ba Rền, U Bò và Khe ngang đều như dựng đứng trước các khối núi không rộng nhưng khá hiểm trở. Trong sơn phận Quảng Trị - Thừa Thiên, có nhiều khối núi đỉnh nhọn, sườn dốc (Voi Mẹp 1.701m, Động Ngài 1.774m, Núi Mang 1.708m) nằm phía sau Bạch Mã. Hai bên mạch núi có những dãy thấp hơn chạy song song, độ cao khi đến gần đồng bằng chỉ còn 300-400m.

Đồng bằng trong khu vực bao gồm các dải phù sa cổ, phù sa mới ven các thung lũng, đồng bằng các cửa sông và các trảng cát. Diện tích đất trồng lúa ở Quảng Bình bị thu hẹp dần do các cồn cát di động ven biển. Cồn cát thường kề bên mép nước biển, bờ rời, bề mặt trơ trọi, quanh năm chịu tác động của gió thổi với tốc độ khá lớn nên chuyển dịch nhanh vào lục địa khiến cho nước nguồn ngày một cạn kiệt, cây trồng bị chết, nhiều làng mạc buộc phải di dời.

Đồng bằng Quảng Trị rất hẹp, kéo dài tới 60 km ven biển, diện tích vào khoảng 5.000 ha. Đất trồng trọt ở địa phương chủ yếu dựa vào các đồi badan từ Cửa Tùng vào Gio Linh, Cam Lộ, Lao Bảo. Đồng bằng Thừa Thiên rộng chừng 9.000 ha do phù sa sông Hương bồi đắp và các đầm phá tạo nên, dài tới 70km, mở ra một vùng rộng tới 20.000 ha.

Dãy Trường Sơn Bắc đột ngột chấm dứt ở phía nam Thừa Thiên bằng một dải núi cao tới 1.000m, đâm thẳng ra biển, kết thúc bằng bán đảo Sơn Trà nằm ở phía đông Hải Vân. Rừng ở đây kéo dài từ bờ biển Đông đến tận biên giới phía tây, phủ kín các đỉnh Bạch Mã (1.444m), Bà Nà (1.467m) bằng thảm thực vật rừng mưa nhiệt đới ẩm. Sản phẩm kinh tế quan trọng của các tỉnh có từ các hoạt động lâm, nông, ngư nghiệp (cao su, hồ tiêu, trầm hương, gỗ tròn, tôm ca(1)).

Tài nguyên khoáng sản của Bình - Trị - Thiên cũng khá phong phú với đá vôi (Quảng Bình), đá hoa (Thừa Thiên), cao lanh, cát thủy tinh, sắt, pirít, ăngtimoan, nước khoáng (Quảng Trị).


(1) Lê Quý Đôn trong sách Phủ biên tạp lục cho biết ở châu Bắc Bố Chính có tới 75 xã sản xuất nhân sâm, yến sào, mật ong, trầm hương, gỗ mun. Phương pháp canh tác vườn rừng (lâm viên) khá phổ biến, nhất là ở tổng Bái Trời nổi tiếng với các vườn dầu sơn, hồ tiêu và trầu không. Vùng Thuận Hóa trồng nhiều ý dĩ (bo bo), vừng (mè), dứa (thơm), na (mãng cầu), chuối bụt, xoài, mít. Lại có các loại khoai sáp đường, khoai đầu hùm, khoai gừng, khoai nưa nổi tiếng. Cau ở đây bốn mùa đều có, mềm non mà ngọt. Dương Văn An trong sách Ô Châu cận lục còn ghi nhận thêm nhiều sản vật quý như hương bạch thủy trần, trà lưới xẻ (tước thiệt). Đặc biệt có loại chiếu hoa dệt bằng mây có 2 màu hồng nhạt và vàng, gối hoa làm bằng mây trắng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #4 vào lúc: 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:06:18 pm »

Nhìn một cách tổng thể phạm vi toàn Liên khu IV, điều kiện tự nhiên và cấu tạo địa hình đã hình thành ba vùng chiến lược kinh tế và quốc phòng rất quan trọng như sau:

- Vùng rừng núi mà thế mạnh nhất là lâm - nông nghiệp, địa bàn hiểm yếu về quốc phòng, đã từng xuất hiện những căn cứ địa ở Sa Nam (Nam Đàn - Nghệ An), Lam Sơn (Thanh Hóa), Giăng Màn (Hương Khê - Hà Tĩnh), Thủy Ba, Cùa và đặc biệt là Ba Lòng (Quảng Trị) trong cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân địa phương(1).

- Vùng trung du bán sơn địa: địa thế rộng ở phía bắc, hẹp dần ở phía nam, có nhiều sông ngòi chia cắt, địa hình đồi núi xen kẽ thung lũng và ruộng bậc thang, giữ vai trò căn cứ hậu phương chiến lượng và hậu phương chiến dịch cho các hướng chiến trường.

- Vùng đồng bằng và ven biển: dân cư đông đúc, tập trung nhân tài vật lực, đầu mối giao thông thủy bộ quan trọng, tuyến phòng thủ bờ biển chống tập kích chiến lược bằng không quân, hải quân và các cuộc đổ bộ bằng đường biển.

Vùng rừng núi sẽ trở thành bức tường thành ngăn cách sự thông thương giữa hai nước Việt - Lào nếu không có những đứt gãy tạo nên những đèo tương đối thấp như đèo Mụ Giạ ở cực nam dãy Giăng Màn có quốc lộ 15 nối Tân Ấp với Ba Na Phào (Lào, đèo Keo Nưa nối liền Long Đại sang thượng nguồn và thị trấn Xê Đôn; đèo Lao Bảo có quốc lộ 9 nối Thà Khẹc - Sê Pôn với Hướng Hóa, Khe Sanh, Cam Lộ, Đông Hà - những con đường ra biển ngắn nhất của Lào.

Chính vì những lẽ trên, mạng lưới giao thông của Liên khu IV có giá trị rất lớn đối với hoạt động kinh tế và quốc phòng. Tuyến đường sắt xuyên Việt chạy qua địa bàn dài 619km, mở ra 60 nhà ga lớn nhỏ, có nhiều đoạn băng qua hầm ở khu vực đèo núi hiểm trở Minh Cầm, Lệ Sơn (Quảng Bình). Quốc lộ 1 chạy dọc ven biển và vùng đông dân cư, vượt qua các đèo cao như Đèo Ngang, Lý Hòa, Phước Tượng, Phú Gia và nhiều cầu phà nổi tiếng ở Hàm Rồng, Bến Thủy, Quán Hàu và sông Gianh. Đường số 217 từ Đồng Tâm (Thanh Hóa) tới Na Mèo nối với Bắc Lào. Đường số 7 từ ngã ba Diễn Châu (Nghệ An) lên Nặm Cắn sang đường số 13. Đường số 8 từ ngã ba Bái Vọt qua Hương Sơn (Hà Tĩnh) lên Na Pê - Lạc Sao. Đường 12 từ Thanh Lạng (Tuyên Hóa) vươn tới Cổng Trời lên Ba Na Phào bên Lào. Cảng biển Đà Nẵng nằm ở phía nam Liên khu IV. Con đường chiến lược số 14 nối liền quốc lộ 1, cách Huế về phía nam khoảng 20 km, xuyên qua phía tây Quảng Nam chạy thẳng lên Tây Nguyên.

Liên khu IV có hàng chục hệ thống sông lớn nhỏ, độ khoáng nghèo, hàm lượng các chất hữu cơ không lớn, ít biển đổi theo thời gian.

Hệ thống sông Mã chảy trên địa bàn Thanh Hóa 242 km, tạo ra một lực vực rộng tới 9.000 km2, có các phụ lưu như sông Chu, sông Bưởi, sông Luồng, sông Âm và sông Lò. Tới châu thổ, sông Mã chia làm ba chi lưu để đổ ra biển: sông Lèn ở Cửa Sung (Hà Trung), sông Lạch Trường ở cửa cùng tên và sông Lạch Triều ở Cửa Hới (Hậu Lộc).

Hệ thống kênh nhà Lê được đào đào từ thế kỷ thứ X, nối liền sông Mã, sông Chu với nhiều sông khác, trước kia là mạng đường thủy quan trọng ở địa phương và nghề nông.

Hệ thống sông Cả có tới 151 sông suối đổ vào, các chi lưu chính là sông Hiếu, Ngàn Sâu, Ngàn Phố, Ngàn Trươi, Hoàng Ma. Dòng chính sông Cả - còn gọi là sông Lam do hai nguồn Nậm Non và Nậm Mô hợp thành. Từ Cửa Rào đổ xuống, thung lũng sông mở rộng, lòng sông nằm trong lòng mảng cũ, khiến cho cửa sông vừa sâu vừa rộng.

Sông ngòi ở Quảng Bình vừa ngắn và dốc do hàng trăm suối ngòi tạo nên các sông Ròn, sông Gianh, sông Lý Hòa, sông Dinh và sông Nhật Lệ... đi lại chỉ thuận tiện ở phía hạ lưu.

Quảng Trị có ba hệ thống sông phân bố đều từ bắc vào nam: sông Hiền Lương, sông Thạch Hãn và sông Ô Lâu. Các sông ở Thừa Thiên đều ngắn, chỉ thuận tiện cho việc thông thương trong tỉnh, trong vùng và đáng kể hơn cả là sông Hương.

Hệ thống sông ngòi của Liên khu IV tuy dày đặc nhưng ngắn. Có tới 200 sông suối dài trên 10 km, độ dốc lớn, nhiều thác ghềnh. Xàlan và tàu nhỏ trọng tải 50-70 tấn vào sâu trên sông Lam 70 km, sông Mã 89 km, sông Gianh 62 km, sông Nhật Lệ 42 km, sông Thạch Hãn 20 km, sông Hương 34 km.


(1) Ba Lòng là một thung lũng nằm ở thượng nguồn sông Thạch Hãn, phía tây Triệu Hải, kéo dài từ bắc Động Bương đến làng An, chiều dài khoảng 15km, rộng 1km, xung quanh bao bọc bởi núi cao. Căn cứ này cách thành phố Huế 80km về phía tây bắc và thị xã Đồng Hới 150 km về phía nam. Với vị trí như vậy, việc giao lưu giữa căn cứ và các tỉnh xung quanh thuận lợi. Đặc biệt Ba Lòng cách thị xã Quảng Trị chừng 10 km về phía tây và Đông Hà 20 km về phía tây nam. Vị trí này tạo ra bàn đạp để xuất quân về xây dựng lực lượng ở đồng bằng, liên hệ với chiến khu Dương Hòa (Thừa Thiên) và khu vực Thanh - Nghệ - Tĩnh.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #5 vào lúc: 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:06:57 pm »

Bờ biển Liên khu IV có nhiều đầm phá, cửa biển đóng vai trò đầu mối giao thông. Vùng biển do chịu ảnh hưởng trực tiếp của hệ thống hoàn lưu xoáy thuận của dòng chảy nước mặt vịnh Bắc Bộ nên luôn tồn tại dòng vận chuyển ven bờ từ bắc xuống nam. Tỉnh nào trong liên khu cũng có biển, vì vậy, sự tương tác giữa biển và lục địa thể kiện khá rõ trong khí hậu, chế độ thủy văn, điều kiện sinh thái. Mùa nóng ở đây nắng gay gắt cùng với gió tây hanh khô. Mùa lạnh thường bị rét đậm kèm theo mưa dầm. Các á miền khí hậu Bình - Trị - Thiên và Thanh - Nghệ - Tĩnh là hệ quả của sự phân hóa sâu sắc về địa hình. Trong khi các tỉnh phía bắc chế độ mưa lũ từ tháng 5 và 6 đến 10 tháng 11 thì các tỉnh phía nam từ tháng 8 tháng 9 kéo dài tới tháng 1 tháng 12. Nắng lắm, mưa nhiều, nền nhiệt cao, đã gây ra muôn vàn khó khăn cho các hoạt động kinh tế - quốc phòng.

Trải dài từ 16o10 - 20o30 vĩ bắc, 103o50 - 108o10 kinh đông, Liên khu IV có vị trí chiến lược quan trọng. Điều kiện tự nhiên, địa hình phức tạp, núi rừng hiểm trở tạo nên thế thiên hiểm trong phòng thủ. Núi non đồ sộ, sông ngòi nhiều mà ngắn, dốc tạo ra thế chia cắt chiến trường bất lợi cho cả đôi bên. Điều kiện khí hậu cũng góp phần không nhỏ vào sự thành bại và cho cả những tính toán trước mắt và lâu dài. Nếu toàn bộ miền Trung được ví như cái đòn gánh, gánh hai đầu hai thúng gạo Bắc Bộ và Nam Bộ thì Liên khu IV là nửa cái đòn gánh ấy, hai đầu quan hệ khăng khít với Liên khu III và Liên khu V - mà ở đó có Huế là trung tâm, Quảng Trị nắm giữ giao thông huyết mạch của Đông Dương, Quảng Bình là bình phong án ngữ cổ họng bắc - nam còn Thanh - Nghệ - Tĩnh có đường 6 góc xiên; đường 7 đường 8 và đường 12 thẳng đứng từ Lào về.

Sự phân hóa cao từ bắc vào nam, từ đông sang tây của tự nhiên Liên khu IV thể hiện rõ nét trong điều kiện địa chất, địa hình; sự chia cắt của các hoành sơn, tiền đề của việc hình thành các vùng tự nhiên kinh tế. Mặt khác, sự phân hóa đông tây bắn liền với hiện trạng địa hình cao dần từ ven biển qua đồng bằng lên vùng đồi núi và núi cao ở miền tây, giống như mái nhà nghiêng về biển đông gần trùng đường ranh giới với Lào, làm ảnh hưởng trực tiếp đến chế độ thủy văn, đến hệ thống sông ngắn chảy từ tây qua đông, sự phân bố các loại đất, các hệ thực vật, các hệ sinh thái.

Mặc dù điều kiện thiên nhiên rất khắc nghiệt, nhưng con người đã tới địa bàn các tỉnh tụ cư, sinh sống từ thời tối cổ. Những công cụ bằng đá của người nguyên thủy có niên đại vài chục vạn năm thuộc sơ kỳ đồ đá cũ đã tìm thấy ở núi Đọ, núi Nuông, núi Quan Yên (Thanh Hóa) và những dấu tích hóa thạch ở hang Thẩm Òm (Nghệ An) khẳng định nhận định trên.

Dấu tích của nền văn hóa đá cuội cũng được tìm thấy ở Thanh Hóa (hang Húi Một), Nghệ An (Đồi Rạng, Đồi Dũng), Hà Tĩnh (Sơn Kim), Quảng Trị (Cùa), Thừa Thiên (Dương Xuân Thượng).

Văn hóa Hòa Bình bắt nguồn từ nền văn hóa đá cuội khi công cụ đã có bước tiến bộ, phạm vi cư trú mở rộng khắp vùng núi đá vôi Cẩm Thủy, Thạch Thành, Bá Thước, Ngọc Lặc (Thanh Hóa), Con Cuông, Tân Kỳ (Nghệ An) có niên đại cách ngày nay hàng vạn năm.

Văn hóa Bắc Sơn nảy sinh từ lòng văn hóa Hòa Bình, đồ đá cuội đã được mài, tạo nên bước chuyển sang thời kỳ đồ đá mới, để lại nhiều dấu vết ở các cồn sò điệp Đa Bút (Thanh Hóa), Quỳnh Văn (Nghệ An), Bàu Tró (Quảng Bình) hoặc các hang động Thẩm Mé Muông, Thẩm Phong, Thẩm Kê Pang, Nà Thẩm, Thẩm Tiên ở phía tây Thanh - Nghệ và Hang Rào, Khe Tong, Minh Cầm ở phía tây Bình - Trị - Thiên. Công cụ tìm thấy gồm các loại rìu đá (tứ giác, có vai). Cư dân đã lấy sản xuất nông nghiệp làm hoạt động kinh tế chủ yếu.

Dần dần, các bộ lạc bắt đầu tiến vào thời kỳ kim khí, để lại nhiều dấu tích ở vùng ven biển Hậu Lộc, Nga Sơn (Thanh Hóa), Đền Đồi (Nghệ An), tồn tại vào khoảng nửa đầu thiên niên kỷ thứ II trước công nguyên.

Rực rỡ nhất là giai đoạn Văn hóa Đông Sơn - nền văn hóa mang tên một địa điểm khảo cổ học thời đại đồng thau phát hiện ở Thanh Hóa, có khoảng cách về thời gian tới nay từ 2.300 - 2.800 năm. Con người thời kỳ này đã sử dụng rìu đồng để khai phá đất hoang, liềm đồng để gặt lúa, lưỡi cày đồng để lật đất. Ngoài làm ruộng còn có thêm nghề làm đá, làm gốm, sơn quét, đan lát và đồ mộc. Nhà nước Văn Lang của các vua Hùng đã ra đời trên nền tảng kinh tế đó.

Di vật tiêu biểu của nền văn hóa Đông Sơn là trống đồng, tìm thấy nhiều ở Thanh - Nghệ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #6 vào lúc: 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:07:46 pm »

Lịch sử và quá trình khai phá đất đai trong vùng đã tạo cho cư dân ở đây có nhiều nét riêng biệt so với các dân cư các khu vực khác. Tỉnh nào cũng có đồng bào dân tộc thiểu số mặc dù người Kinh vẫn chiếm tỷ lệ trên 90%. Thanh Hóa có dân tộc Thái, Mường, Dao, Thổ, Lào; Nghệ - Tĩnh có Thái, Mông, Khơ Mú, Ơ Đu; Bình - Trị - Thiên có Bru, Vân Kiều, Cà Tu, Tà Vi, Chứt.

Đặc điểm chung của các cư dân sống ở Liên khu IV là phong phú về sắc tộc, phân bố dân cư đa dạng về tập quán canh tác, truyền thống văn hóa và trình độ văn minh. Sau người Kinh, có người Mường ở Thanh Hóa, người Thái ở Thanh - Nghệ và người Bru - Vân Kiều ở Bình - Trị - Thiên. Dân tộc ít người nhất, kể cả đối với toàn quốc là dân tộc Ơ Đu cư trú ở huyện Tương Dương (Nghệ An).

Những kết quả nghiên cứu cho thấy các dân tộc đang sinh sống và cư trú ở đây có trình độ văn minh không giống nhau. Có những dân tộc ngày nay không thua kém người Kinh như Mường, Thái ở Thanh - Nghệ, trong khi đó có một số dân tộc đang sống trong tình trạng lạc hậu như người Chứt với nhóm người Rục ở Quảng Bình, vẫn còn cư ngụ dưới các mái đá tự nhiên và dùng vỏ cây làm khố để che thân và đang có nguy cơ bị xóa sổ nếu nhà nước khóng sớm có chính sách thích hợp.

Mỗi dân tộc thiểu số có bản sắc độc đáo góp phần tạo nên cộng đồng các dân tộc một cuộc sống phong phú và đa dạng. Họ đều cần cù lao động, có tinh thần yêu nước, đoàn kết và anh dũng chống giặc ngoại xâm.

Từ xa xưa trong lịch sử, nhân dân Liên khu IV đã rèn đúc cho mình một ý chí kiên cường bất khuất, quên mình, xả thân vì nghĩa lớn. Mảnh đất này luôn luôn là điểm tựa, nơi cung cấp nhân tài, vật lực cho các cuộc nổi dậy, các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Triệu Thị Trinh đã từng dùng núi Nưa (Thanh Hóa) làm căn cứ dụng binh. Mai Thúc Loan lập đại bản doanh ở Vệ Sơn, đắp lũy, xây thành Vạn An (Nam Đàn) dọc theo sông Lam để làm hậu cứ tấn công ra Bắc, đánh chiếm Tống Bình (Hà Nội), tự xưng là Mai Hắc Đế. Trong những năm đầu của sự nghiệp khôi phục lại nền độc lập cho đất nước, vùng Thanh - Nghệ đã trở thành hậu cứ để Ngô Quyền tiến ra Bạch Đằng đánh tan đội quân Nam Hán. Từ đây trở đi, cả khu vực Ái Châu, Hoan Châu trở thành trọng trấn của quốc gia, kho dự trữ về người và của cho sự nghiệp giữ nước và dựng nước lâu dài.

Trong thế kỷ XIII, đứng trước cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên của dân tộc, Thanh - Nghệ - Tĩnh đã trở thành hậu phương lớn, chặn đánh Toa Đô. Danh tướng Hoàng Tá Thốn đã lập công lớn.

Đầu thế kỷ XV, các thủ lĩnh Đặng Dung - Nguyễn Cảnh Chân đã lập con cháu lập con cháu nhà Trần tổ chức cuộc kháng chiến chống lại nhà Minh. Các ông đã chọn vùng La Sơn (Hà Tĩnh) làm căn cứ. Năm 1418, Lê Lợi - Nguyễn Trãi dựng cờ khởi nghĩa tại Lam Sơn (Thanh Hóa), trải 10 năm nếm mật nằm gai đã làm nên trận Bồ Đằng như sấm vang chớp giật, trận Trà Lân như trúc chẻ tre tan rồi kéo quân ra Bắc, làm nên chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang lịch sử, quét sạch quân Minh ra khỏi bờ cõi, giành lại độc lập cho đất nước.

Bước sang thế kỷ XVIII, khi người anh hùng áo vải cờ đào là Quang Trung trên đường tiến ra Thăng Long, khi đi qua Nghệ - Tĩnh nhận được sự hưởng ứng của nhiều sĩ phu như Nguyễn Thiếp, Phan Huy Ích và các võ tướng Dương Văn Tào, Hồ Phi Chấn, đã cho xây dựng dưới chân núi Quyết và Kỳ Lân tòa Phượng hoàng trung đô để làm quốc đô sau này, tập kết quân ở Thanh Hóa, chuẩn bị cho trận quyết chiến tiêu diệt quân Thanh.

Sau khi kết thúc một bước cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp đặt Trung Kỳ nằm trong chế độ bảo hộ, bộ máy cai trị mang tính chất song hành hoặc lưỡng thể. Theo đó, triều đình Huế trên cũng có vua, dưới là các tổ chức quan lại phụ tá như Hội đồng phụ chánh, Viện cơ mật, Lục bộ (năm 1939 khi Bảo Đại ở Pháp về cải tổ thành bảy bộ: Lại, Tài chính, Hình, Lễ, Binh, Công, Hộ), Viện Đô sát, Phủ Tôn Nhân, còn hệ thống cai trị của Pháp có Khâm sứ với các cơ quan công sở giúp việc về thương mại, canh nông, giáo dục, giao thông...

Đối với các cấp tỉnh thì đứng đầu tỉnh lớn (Thanh Hóa, Nghệ An) có Tổng đốc phụ trách chung, Bố chính phụ trách việc hộ thuế khóa, án sát đặc trách việc hình tư pháp. Đứng đầu tỉnh vừa (Hà Tĩnh) có Tuần vũ (còn gọi là Tuần phủ), Bố chánh, án sát. Tỉnh nhỏ như Quảng Trị, Quảng Bình có Tuần vũ, án sát. Riêng tỉnh Thừa Thiên lại là Phủ Doãn, Phù Thừa.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #7 vào lúc: 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:11:28 pm »

Thực dân Pháp đã thực hiện một chính sách vơ vét, bóc lọt triệt để các địa phương nằm trong chế độ bảo hộ. Thanh Hóa là một tỉnh đất rộng người đông, giàu tài nguyên, nên quy mô và tốc độ khai thác ngày càng lớn. Từ 1896 đến 1925, chúng đã cho xây đập Bái Thượng trên sông Chu với 100km kênh chính và phụ, 2.265 km chi giang và tiểu câu để tưới cho 5 vạn hécta ruộng thuộc vùng sông Chu, sông Mã. Hằng năm, chúng thu hàng vạn tấn gạo cho quân đội, xuất khẩu; tước đoạt 24.000 ha ruộng để lập đồn điền và sân bay. Dựa vào thế thực dân, nhiều địa chủ chiếm đoạt ruộng đất lập ra các ấp trại ở Đông Sơn, Nông Cống, Quảng Xương. Người Pháp độc chiếm khai thác 35 khu mỏ: kẽm Quan Hóa, Như Xuân; crômít ở Cổ Định (1909), đồng Lương Sơn, chì Điền Lư (1911), phốt phát Vĩnh Lộc, Hà Trung, sắt ở Đông Sơn, Quảng Xương (1926). Để phục vụ cho việc khai thác kể trên, chúng xây dựng cầu Hàm Rồng (1901), rồi mở các tuyến đường từ thị xã đi Hồi Xuân (Quan Hóa), Kim Tân (Thạch Thành), Chợ Châu (Ngọc Lặc), Bái Thượng (Thọ Xuân), Chuối (Nông Cống), Cầu Kênh (Nga Sơn), Chợ Phủ (Hậu Lộc) và thị trấn Sầm Sơn(1).

Ở Nghệ An, chỉ riêng ở Nghĩa Đàn, tính đến năm 1923, thực dân Pháp đã cướp 15.498 ha, lập nên 10 đồn điền Oante, Lapicơ, Xanta, Marôthơ, Sattơ, Bơtruynơtơ, Maicanh, Galiê, Máttông, Tôma).

Đối với Hà Tĩnh, thực dân Pháp cũng cướp đoạt nhiều ruộng đất để lập nên 19 đồn điền như Sông Con của Pherây (Feray), Hà Tân - Hà Thượng của Boócđê (Bordet), Voi Bổ của Hội nông nghiệp Bắc Trung Kỳ (SANA - Société agricole du Nord - Annam) ở Hương Sơn, và đồn điền ở Kỳ Anh của Cuđúc (Coudoux), có tên như Xiđê chiếm tới 300 mẫu đất ven biển Nghi Xuân trồng phi lao thu lợi. Các đồn điền chủ yếu trồng cà phê, lúa, ngô, khoai, vừng, đậu, chè. Bọn địa chủ chiếm đoạt ruộng đất của nông dân khá nhiều. Riêng Cẩm Xuyên có tới 139 địa chủ sở hữu 3.386 ha ruộng đất. Ở Đức Thọ, Hoàng Cao Khải, Lê Văn Khuê cướp nhiều ruộng đất để xây dinh thự hoặc lập ra làng riêng(2).

Thực dân Pháp chỉ có một số đồn điền nhỏ ở Quảng Bình. Riêng ở Quảng Trị, chúng cướp tới 6.878 ha chia thành 10 đồn điền (La ran, Locca, Raune, Poi land) để trồng cây công nghiệp và chăn nuôi dọc theo đường số 9 - Hướng Hóa. Một mình Loisy chiếm 250 mẫu ruộng và 300 mẫu đất ở Vĩnh Linh. Nhiều quan lại người Việt, như Nguyễn Hữu Bài, ỷ thế dựa vào Pháp chiếm cả một vùng rừng núi từ nam sông Thạch Hãn đến sông Ô Lâu để thu thuế lâm thổ sản. Vua Bảo Đại cũng chiếm một vùng rất rộng ở phía tây Quảng Trị, từ bờ bắc sông Thạch Hãn đến Đông Hà - Cam Lộ làm nơi săn bắn. Hằng năm người dân trong vùng phải bỏ ra từ 10-15 ngày công làm đường ô tô, chặt cây rừng, phạt cỏ tranh để ông vua này săn bắn(3).

Trong khi ấy, thực dân Pháp không chú trọng nhiều đến việc mở mang công kỹ nghệ ở khu vực Bắc Trung Bộ mặc dù đây là khu vực giàu khoáng sản, sẵn nhân công. Tại Thanh Hóa, chỉ có nhà máy xẻ gỗ và diêm ở Hàm Rồng, thu hút 500 công nhân. Năm 1927, nhà tư sản Hoàng Văn Ngọc mở nhà máy đèn thành phố Thanh Hóa với 2 máy phát điện. Các thị xã Hà Tĩnh, Đồng Hới, Quảng Trị cũng chỉ có nhà máy đèn, nhà máy nước và ở Huế có thêm xưởng vôi Long Thọ, Công ty kỹ nghệ và thương mại Trung Kỳ (SICA) lập năm 1007 có nhà máy nấu cất rượu ở Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên.

Người Pháp tập trung đầu tư nhiều vào thành phố Vinh (Nghệ An), không chỉ ở chỗ Vinh trở thành thành phố cấp III sớm nhất trong khu vực (10-12-1927), so với thành phố Thanh Hóa (31-5-1929), thành phố Huế (12-12-1929) mà còn vì những tiện ích do vị thế và điều kiện địa lý đem lại.

Thành phố Vinh nằm trên sông Lam, có quốc lộ số 1 và đường sắt xuyên Việt chạy qua, cách thành phố Thanh Hóa 138 km về phía bắc và thị xã Hà Tĩnh 49 km về phía nam. Năm 1898, Vinh chỉ là một thị xã nhỏ bé thành lập theo đạo dụ của Thành Thái, gồm khu vực thành cổ Nghệ An và khu phố dân cư ngoài Cửa Nam. Vào các năm 1914 và 1917, bên cạnh nó có thêm thị xã Bến Thủy và thị xã Trường Thi.

Ngày 10-12-1927, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định hợp nhất ba thị xã trên, lập ra thành phố Vinh - Bến Thủy với diện tích 20 km2 gồm 10 phố bao gồm 19.811 người (18.960 người Việt, 340 người Pháp, 492 người Hoa, 21 người Ấn)(4) do Công sứ Nghệ An kiêm chức Đốc lý thành phố quản lý.


(1) Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa, t.1 (1930 - 1954), tr. 28-31.
(2) Lịch sử Hà Tĩnh, t.1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.394, 395.
(3) Lịch sử Đảng bộ Quảng Trị, t.1 (1930 - 1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.31-32.
(4) Thanh Nghệ Tĩnh tân văn, số 142, (7-4-1933).
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #8 vào lúc: 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:13:18 pm »

Để chuẩn bị cho ra đời của trung tâm lớn nhất Bắc Trung Kỳ này, năm 1893 thực dân Pháp cho làm đường Vinh - Cửa Rào - Trấn Ninh; năm 1913 làm đường Vinh - Cửa Hội - Cửa Lò. Từ năm 1917, giới tư bản Pháp đã dự tính: “Vinh - Bến Thủy sẽ là một thành phố có nhiều triển vọng. Đây là cái chìa khóa của xứ Lào vì có hai con đường chính nối liền Lào với Bến Thủy; đường Vinh đi sang Trấn Ninh qua Cửa Rào, đường Vinh sang Mê Công qua Khăm Muộn là tỉnh giàu có của xứ Lào. Sau này có thêm con đường thứ ba mở vào phía nam đèo Mụ Giạ qua Lào và lưu vực sông Sê Ban Phai - Lào là một xứ nuôi gia súc đặc biệt”(1). “Bến Thủy có đầy đủ đường giao thông các mặt và tất cả đều thông về cảng. Hai tỉnh quan trọng này có trên một triệu rưỡi dân cũng ở tập trung xung quanh đây. Ngoài ra hai tỉnh của xứ Lào là Khăm Muộn và Trấn Ninh cũng dùng cảng Bến Thủy làm nơi giao xuất hàng hóa cuối cùng. Trước hết, chúng ta cần phải xem xét những sản vật sẵn có ở đây để xuất cảng như than đá, kẽm, chì, gỗ và các thứ lâm sản khác như cà phê, cam, chè, quả cây, gạo, ngô và da súc vật”.

Chính vì lẽ đó, từ năm 1918, kênh Sắt - Thanh Hóa được nạo vét, cảng Bến Thủy được mở rộng để mỗi năm có thể thu hút được 350 tàu Pháp, Nhật, Mã Lai, Ấn Độ, Trung Quốc ra vào ăn hàng.

Tính đến năm 1926, thành phố có hàng chục nhà máy lớn nhỏ, đáng kể nhất là: Nhà máy sửa chữa xe lửa Trường Thi thu hút trên 1.000 công nhân; Nhà máy ôtô Samanal (300 công nhân), Nhà máy rượu Vinh (300 công nhân); Nhà máy cưa Bến Thủy (300 công nhân); Nhà máy cưa Thái Hợp (120 công nhân).

Tập đoàn tư bản có thế lực nhất là SFAI (Société Forestière et des Allumettes de L’Indochine - Công ty rừng và diêm Đông Dương) vừa sản xuất diêm, khai thác gỗ và các lâm sản quý để xuất khẩu, vừa kinh doanh hàng nhập khẩu, mở đồn điền Phủ Quỳ (1.500 tá điền và công nhân). Công ty này thành lập năm 1904, đặt trụ sở ở Bến Thủy, có Nhà máy diêm ở Bến Thủy (750 công nhân), Nhà máy điện ở Vinh, số vốn tăng từ 1,6 triệu frăng (1904) lên 2,276 triệu (1922), 4,552 triệu (1924) và 9,104 triệu (1925).

Ngoài ra, trên địa bàn thành phố còn có tới sáu công ty thương mại lớn của Pháp ở Đông Dương như Công ty Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, Liên hiệp thương mại Đông Dương và 27 hãng buôn lớn khác có trụ sở, chi điếm ở Vinh - Bến Thủy. Tư bản Hoa, Ấn nắm giữ nhiều ngành công nghệ và thương mại. Tại Cửa Rào, Công ty Logiou bao thầu toàn bộ việc buôn bán các thứ hàng xuất nhập khẩu về vải sợi, gia súc.

Thành phố Vinh - Bến Thủy còn được coi là một trung tâm để quảng bá nền văn minh phương Tây tại khu vực Bắc Trung Kỳ. Năm 1912, Trường cao đẳng tiểu học hệ Pháp - Việt, tức trường Quốc học Vinh được thành lập để thu nhận học sinh bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình. Về cấp tiểu học mở thêm hai trường Cao Xuân Dục và Nguyễn Trường Tộ.

Đối với thành phố Huế, vị trí và vai trò lại hoàn toàn khác, trước hết vì đây vừa là thủ đô của nền quân chủ phong kiến nhà Nguyễn, vừa là căn cứ chỉ đạo chính trị của thực dân Pháp về mọi lĩnh vực ở Trung Kỳ bên cạnh vị thế trung tâm chính trị và kinh tế của Thừa Thiên. Trải qua các triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị (1802-1847), Huế thực sự hưng thịnh với thành quách, cung điện, dinh thự, lăng tẩm nguy nga. Cuối triều Tự Đức, trải qua tình trạng tứ nguyệt tam vươngcác Hòa ước Harmand (1883), Hòa ước Patenô (1884), Huế mất dần danh nghĩa trung tâm chính trị, do bị chia sẻ cho Sài Gòn và Hà Nội. Nhưng Huế vẫn giữ vai trò kinh đô của nhà Nguyễn, nơi đặt tòa Khâm sứ Trung Kỳ và Sở mật thám của Pháp. Ngoài bốn nhà lao Hộ Thành, Thừa Phủ, Mang Cá (cơ quan phòng nhì Pháp) và Tòa Khâm, thực dân Pháp còn lập thêm hai căng an trí La Hi và Phú Bài; ba trại tập trung và quản thúc ở Phong Điền, Phú Lộc và Quảng Điền.

Tháng 10-1896, Quốc gia học đường tức trường Quốc học Huế được thành lập trên nền của dinh Thủy sư xưa. Đến năm 1914, trường được xây dựng bằng gạch ngói kiên cố và từ năm 1936 có tên gọi là Collège Khải Định; rồi Lycée Khải Định. Lúc đầu, muốn vào học phải là các hoàng tử, con hoàng thân quốc thích, học sinh quốc tử giám, các vị tân khoa (tiến sĩ, phó bảng) chuẩn bị ra làm quan như Tổn Thất Bảng, Hồ Đắc Hàm, Đào Nguyên Phổ, Phạm Liệu, Nguyễn Đình Hiến,…. Đến niên khóa 1936-1937 ban Cao đẳng tiểu học chuyển thành trường Trung học Khải Định (Lycée Khải Định) có đủ hai ban tú tài I và tú tài II cho cả Trung Kỳ, ngoài các giáo sư người Pháp còn quy tụ được nhiều giáo sư trung học ở Pháp về danh tiếng sánh ngang trường Bưởi ở Hà Nội và trường Pétrus Ký Sài Gòn: Phạm Đình Ái, Nguyễn Thúc Hào, Nguyễn Dương Đôn, Nguyễn Thiện Lâu, Nguyễn Huy Bảo…

Liên khu IV là nơi có đông đảo đồng bào theo đạo Thiên Cháu sinh sống. Thành phố Huế còn là một trong những trung tâm của đạo Thiên chúa ở nước ta. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng bào theo đại Thiên Chúa ở Liên khu IV đã có những đóng góp to lớn, cùng quân và dân Liên khu đánh thắng âm mưu chia rẽ lương giáo của địch, không để một số phần tử bị thực dân Pháp mua chuộc đội lốt tôn giáo kích động chống lại sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của dân tộc.

Dưới chế độ thuộc địa, cùng với những biến đổi về kinh tế - văn hóa, các mối quan hệ xã hội ở Liên khu IV cũng có nhiều chuyển dịch. Đã xuất hiện thêm những nông dân bị bần cùng hóa, phụ thuộc nhiều vào giai cấp địa chủ đang tăng dần với sự bao che dung dưỡng của chính quyền Pháp, của nhà thờ đạo Thiên Chúa. Trong khu vực đồng bằng và lưu vực các con sông lớn, dân cư tập trung với một mật độ khá cao, nhất là ở Thanh - Nghệ - Tĩnh không thua kém gì châu thổ đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ. Từ Bình - Trị - Thiên trở vào, trừ một vài huyện Quảng Trạch, Lệ Thủy (Quảng Bình), Phú Vang, Quảng Điền, Hương Trà (Thừa Thiên), còn lại dân cư thưa thớt như khu vực rừng núi phía tây Thanh - Nghệ - Tĩnh.


(1) Eveil Economique de L’Indochine (Sự thức tỉnh kinh tế của xứ Đông Dương, số ngày 3-7 và 27-11-1917) theo Lịch sử Đảng bộ Nghệ An, tr.26-27.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #9 vào lúc: 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:19:46 pm »

Quen sống trong môi trường thiên nhiên khắc nghiệt nên người dân Liên khu IV không sợ gian khố, bất khuất trung kiên, năng động sáng tạo. Hạn hán, bão tố, ngập lụt có thể tàn phá xóm làng, cướp đi các thành quả lao động, nhưng không thể làm cho họ rời xa ruộng đồng, làng mạc. Ở vùng núi, các dân tộc luôn gắn mình với nương rẫy dù là người Tà Ôi ở Hướng Hóa, người Pa Cô và Cơ Tu ở A Lưới hay Bru - Vân Kiều ở Gio Linh, Cam Lộ.

Giai cấp địa chủ ở Liên khu IV tuy có thế lực ở địa phương nhưng không thuộc loại giầu có. Ở miền núi phía tây, nhất là Thanh - Nghệ, chế độ lang đạo phìa tạo còn tồn tại trong xã hội người Mường, người Thái, nhưng cũng rất ít người trở thành địa chủ, phú nông. Có thể một vài nơi vẫn còn hình thức bóc lột theo lối phục dịch hoặc cống nạp. Một số xã thuộc Nghĩa Đàn, Con Cuông (Nghệ An), Ngọc Lặc, Như Xuân (Thanh Hóa), lang đạo đã biết đến hình thức bóc lột tô, nhưng không phổ biến. Theo Y. Henry trong Economic agricole de l’Indochine (Kinh tế nông nghiệp Đông Dương) thì tình hình dân số, mật độ dân số, diện tích ruộng đất và sở hữu ruộng đất vào năm 1931 ở Liên khu IV như sau:



Theo số liệu trên, dân số toàn Liên khu IV vào năm 1931 vào khoảng 2,456 triệu người (theo Thông kê hằng năm Đông Dương, năm 1936 toàn Liên khu IV có 2,687 triệu người) - tức là chỉ hơn dân số Nghệ An vào thời điểm 1-4-1999 (2,258 triệu) và thua xa Thanh Hóa cùng thời điểm này (3,467 triệu).

Về vấn đề chủ sở hữu ruộng đất cho thấy có từ 99,2% (Hà Tĩnh) đến 96% (Quảng Bình) số hộ có dưới 5 mẫu ruộng, trong khi tỷ lệ này ở Nam Bộ là 71%. Số chủ đất trực tiếp canh tác trong toàn liên khu cũng tương đương với số liệu trên (94,4%).

Như vậy là vùng đất Liên khu IV vốn khắc nghiệt bởi điều kiện tự nhiên nhưng nhờ bàn tay và khối óc của con người đã thay đổi hoàn toàn. Núi cao, rừng thẳm, sông sâu đã trở thành thế thiên hiểm vô cùng lợi hại trong cuộc chiến tranh chống xâm lăng. Cả một vùng biên giới dài 1.162 km giữa Liên khu IV với Lào đã phát huy vị thế chiến lược của mình khi phong trào cách mạng hai nước nương tựa, giúp đỡ lẫn nhau và chính thực dân Pháp cũng lợi dụng thế hiểm yếu đố phá hoại sự nghiệp đấu tranh của nhân dân Lào - Việt.

Nhưng thiên nhiên chỉ là một yếu tố tạo nên vị thế chiến lược của Liên khu IV. Sự góp mặt của con người do trí tuệ, công sức và máu xương của tất cả các thế hệ, các giai tầng xã hội mới thực sự đem lại giá trị lớn lao cho vị thế chiến lược của liên khu.

Lịch sử đã chứng minh điều đó. Đây là vùng đất mà con người đã từng sáng tạo ra nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng, xây dựng nên một truyền thống hiếu học hiếm có, sản sinh được một đội ngũ nhân tài, nơi tích lũy nguồn nhân lực - chiến binh dồi dào. Nếu lòng yêu nước tha thiết đã tạo ra nhiều anh hùng dân tộc thì mặt bằng học vấn cao đã sản sinh ra Lê Văn Hưu, Nguyễn Du cùng bao nhân tài khác. Ngay dưới thời Pháp thuộc, vùng đất này đã xuất hiện những nhà cách mạng kiệt xuất Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh. Hai trường quốc học ở Huế và Vinh trở thành những lò đào tạo nhân tài không chỉ cho các lĩnh vực mà còn cung cấp cho cách mạng nhiều chiến sĩ cộng sản kiên cường. Nguồn tài nguyên nhân lực trí tuệ thực sự quý báu đó mới chính là nhân tố tạo nên vị thế chiến lược đặc biệt. Nó còn tạo ra ngay trong lòng Hoàng tộc nhà Nguyễn với Hàm Nghi dám đứng dậy làm vụ biến ở kinh thành, với Thành Thái giàu ý thức dân tộc tự chủ và Duy Tân sẵn sàng đi với quần chúng để khôi phục lại chủ quyền quốc gia. Ngay cả giáo dân như Nguyễn Trường Tộ, con rể bậc đại thần như Nguyễn Lộ Trạch, quan lại cao cấp như Tôn Thất Thuyết cũng không quên tìm tòi kế sách để cho đất nước mau chóng tự cường.

Các yếu tố thiên nhiên - con người đã đan quyện với nhau làm ra vị thế chiến lược của Liên khu IV, tạo nên một thể kinh tế - xã hội - quân sự thống nhất. Nó đã phát huy cao độ vai trò, vị trí này trong tất cả các giai đoạn cách mạng của dân tộc. Đó là một tài sản hết sức quý giá, cần được nhân lên và phát huy. Vị thế chiến lược quan trọng nhất, tài nguyên đáng giá nhất ở đây vẫn là tài nguyên nhân lực, tài nguyên chất xám để cả khu vực cùng tiến công vào đói nghèo, vào thiên nhiên khắc nghiệt. Đó cũng chính là nguyên nhân cho mọi thắng lợi mà địa phương đã giành được trong suốt mấy chục năm dài đấu tranh cách mạng và đưa sự nghiệp kháng chiến đến bến bờ của thắng lợi và vinh quang.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM