Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 05:30:34 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954  (Đọc 55474 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #140 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2016, 07:32:44 pm »

Sau cuộc chiến đấu chống cuộc hành quân Camargue của địch, quân và dân Bình - Trị - Thiên vừa cố gắng phục hồi cơ sở, sửa chữa, khắc phục khuyết điểm, chấn chỉnh, kiện toàn tổ chức, vừa chống các cuộc càn quét của địch ở Linh Quang, Cam Thanh - Cam Giang, ở Duy - Hàm - Ninh, ở Quảng Thái, Phong Chương…, bảo vệ các căn cứ du kích. Trên cơ sở đó, cuối năm 1953, khi quân đội ta triển khai thế trận tiến công trong chiến cuộc đông xuân 1953-1954, quân và dân Bình - Trị - Thiên đã kịp thời phối hợp cùng bộ đội chủ lực vừa từ vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh vào thực hiện tiến công địch, phối hợp chặt chẽ với các chiến trường khác.

Với tư tưởng chỉ đạo là tác chiến song song với xây dựng lực lượng bộ đội địa phương và dân quân, du kích tập trung đánh phá giao thông, cầu đường trên đường số 1, số 9, đường sắt, chống càn, đẩy mạnh chiến tranh du kích ở đồng bằng, tiêu diệt, tiêu hao một bộ phận sinh lực địch, phối hợp với chiến trường chính, phong trào đấu tranh mọi mặt ở Bình - Trị - Thiên chuyển biến mạnh và tiến bộ rõ nét.

Ngày 22-12-1953, khi chiến dịch Trung Lào mở màn, lực lượng vũ trang địa phương đã phối hợp với Trung đoàn 18 đồng loạt nổ súng tiến công hệ thống chiếm đóng của địch ở hai huyện Vĩnh Linh và Gio Linh, tiêu diệt năm vị trí ở Sen Hạ, Chợ Do, Hà Tây, Đằng Đằng và Dốc Miếu. Chỉ trong một thời gian ngắn, bộ đội địa phương và dân quân du kích ba tỉnh đánh mạnh đường giao thông, phá sập nhiều cầu cống, lật nhào nhiều đoàn tàu quân sự của địch trên đường số 1, đường 9 va đường sắt. Các cuộc chống càn, phục kích địch của lực lượng vũ trang ba tỉnh thu được nhiều kết quả,. Ngày 28-12-1953, du kích xã Vĩnh Liêm (Vĩnh Linh) đánh chìm bốn canô địch. Từ ngày 28 đến ngày 30-12-1953,bộ đội địa phương và du kích Cửa Tùng đã anh dũng đánh trả trận càn quét lớn của địch vào Liêm Hóa, Quang Hóa, diệt 158 tên, phá hủy bốn canô địch. Những trận chống càn, tập kích, đánh phá giao thông trong những ngày cuối năm 1953 đạt kết quả cao, đưa tổng số địch bị tiêu diệt ở Bình - Trị - Thiên trong năm lên tới 9.394 tên, có sáu quan tư, bảy quan ba, 12 quan hai; đưa số trận chiến đấu lên 4.157 trận; đưa số lượng quân trang, quân dụng, vũ khí, phương tiện quân sự của địch bị phá hủy lên 12 đầu máy xe lửa, 100 toa tàu, 57 xe quân sự, thu được 409 khẩu súng các loại. Sự hoạt động mạnh của Bình - Trị - Thiên trước hết là Quảng Trị buộc địch phải tập trung cả sáu tiểu đoàn ứng chiến ở Đông Hà để phòng thủ đường giao thông chiến lược, đối phó với cuộc tiến công của ta trong vùng và sẵn sàng tiếp cứu cho Trung Lào.

Sang năm 1954, phát huy thắng lợi, kết hợp chặt chẽ với chiến dịch Trung Lào, quân và dân Bình - Trị - Thiên càng đẩy mạnh tiến công địch, nhất là đánh phá giao thông. Bằng những đòn tập kích táo bạo, bất ngờ, phối hợp chặt chẽ, bộ đội và du kích đã đánh sập hàng loạt cầu, cống, lật nhào nhiều đoàn tàu và xe quân sự, làm giao thông địch bị tắc nghẽn dài ngày. Trên mặt trận đường 9 Quảng Trị, từ ngày 1 đến ngày 20-1-1954, quân, dân đã phá sập 17 cầu đoạn từ Đông Hà đến Rào Quán. Ở Thừa Thiên, lực lượng vũ trang địa phương đã phá sập nhiều cầu trên đường số 1, lật nhào hai đoàn tàu quân sự của địch ở Lăng Cô, làm chết và bị thương 400 tên. Tính từ ngày 21-12-1953 đến ngày 20-2-1954, quân và dân Bình - Trị - Thiên đã phá sập 35 cầu cống, đánh đổ sáu đoàn tầu quân sự, phá hủy 18 xe cơ giới của địch.

Hoảng sợ trước sức đánh phá mạnh mẽ của quân ta, Bộ Chỉ huy quân Pháp ở Bắc Trung Bộ vội vã điều bốn tiểu đoàn cơ động ứng chiến lập nhiều vị trí mới trên đường số 1, đường 9, đường sắt để bảo vệ mạch máu giao thông. Bám giữ các tuyến giao thông, lực lượng địch ở đồng bằng bị suy yếu, sơ hở, tạo điều kiện cho ta đẩy mạnh chiến tranh du kích, tiêu hao, tiêu diệt kìm chân sinh lực địch, đẩy mạnh xây dựng cơ sở vùng tạm bị chiếm.

Giữa tháng 1-1954, địch dùng một tiểu đoàn cơ động ứng chiến càn quét vùng Cùa hòng ngăn chặn lực lượng vũ trang ta đang đánh mạnh ở đường 9, uy hiếp vùng chiến khu Ba Lòng ở Quảng Trị. Ngày 28-1-1954, Trung đoàn 18 đã chặn đánh địch tại Cùa, diệt 280 tên, đập tan âm mưu của địch. Phát triển thế tiến công, Trung đoàn 18 đã phối hợp với bộ đội địa phương và du kích hai huyện Cam Lộ và Hướng Hóa bao vây tập kích thành công bảy vị trí của địch trên đường 9 là Đầu Mầu, Mai Lĩnh, Vạng Kho, Rào Quán, Khe Sanh, Tà Cơn, Lao Bảo, buộc số địch còn lại phải tháo chạy. Ngày 20-2-1954, toàn huyện Hướng Hóa và một phần huyện Cam Lộ được giải phóng, tám vạn dân thoát khỏi thế kìm kẹp của địch. Với chiến thắng này, ta làm chủ một đoạn đường dài hơn 50 km, cắt đứt đường vận tải chiến lược của địch từ Đông Hà sang Trung Lào.

Hòa cùng với tiếng súng đánh địch trên đường 9, quân, dân Bình - Trị - Thiên thực hiện luồn sâu đánh địch ở đồng bằng giành lại các căn cứ bị địch chiếm đóng từ giữa năm 1953. Ngày 28-1-1954, đại đội 245 đã chiến đấu dũng cảm chặn đứng hai tiểu đoàn cơ giới yểm hộ càn quét xã Triệu Sơn (huyện Triệu Phong). Ngày 22-2-1954, lực lượng vũ trang Quảng Trị đã sử dụng các hình thức phục kích, tập kích đánh trả các cuộc càn quét của năm tiểu đoàn địch ở hai huyện đồng bằng Triệu - Hải, loại khỏi vòng chiến đấu 150 tên, giải thoát cho 50 cán bộ và 200 thanh niên bị địch bắt, thu nhiều vũ khí, buộc chúng phải rút chạy; phá tan âm mưu và hành động của địch bình định có trọng điểm vùng Cửa Việt, Cửa Tùng, vùng đồng bằng hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #141 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2016, 07:33:03 pm »

Ở Thừa Thiên, tiểu đoàn bộ tỉnh cũng bí mật luồn sâu vào vùng địch tạm chiếm tiến công địch. Ngày 6-2-1954, bằng lối đánh tập kích kết hợp với nhân mối bên trong, chỉ sau 15 phút chiến đấu, tiểu đoàn đã hạ được vị trí Niêm Phò. Trận Niêm Phò đã mở ra một lối đánh tập kích kết hợp với nhân mối trên chiến trường Bình - Trị - Thiên. Hai ngày sau, hai trung đội bộ đội địa phương lại tập kích vị trí Văn Thánh và hai lô cốt nằm trong vùng an toàn của địch, diệt nhiều tên.

Tại Quảng Bình, du kích đã đánh hai trận ở Cần Ngần và Mỹ Trung diệt hai trung đội địch.

Cuối tháng 2-1954, do địch rút ba tiểu đoàn cơ động ứng chiến, ba tiểu đoàn địa phương quân và khinh quân, 800 nghĩa dũng đoàn và nhân viên ngụy quyền vào Nam Trung Bộ chuẩn bị mở trận càn Atlante vào Liên khu V, lực lượng địch ở Bình - Trị - Thiên chỉ còn 18 tiểu đoàn chiếm đóng và bốn tiểu đoàn ứng chiến, trong đó chín tiểu đoàn đóng ở Thừa Thiên, năm tiểu đoàn đóng ở Quảng Trị và bốn tiểu đoàn chiếm đóng Quảng Bình, chiến tranh du kích có bước phát triển mới.

Trong khi lực lượng địch giảm xuống, bộ đội địa phương và dân quân, du kích Bình - Trị - Thiên được chấn chỉnh lại, được trang bị thêm 30 tấn lựu đạn, mìn, bộc phá từ Thanh - Nghệ - Tĩnh chuyển cho. Sau một thời gian chiến đấu, lực lượng vũ trang ba tỉnh có những tiến bộ mới về trình độ chiến thuật, kỹ thuật, vận dụng các hình thức tác chiến phong phú và đạt hiệu quả.

Với sức chiến đấu được tăng cường, ngay từ đầu tháng 3-1954, lực lượng vũ trang Quảng Bình đã vươn lên chống càn có kết quả ở Hoàn Phúc (9-3-1954), Thế Lộc, Quang Xá, Nguyệt Áng (11-3-1954). Các trận chống càn nhỏ ở Phong Quảng Triệu Hải cũng giành được nhiều thắng lợi. Lối đánh tập kích kết hợp với nhân mối phát triển mạnh ở Thừa Thiên rồi lan ra Quảng Bình.

Ngày 13-3-1954, khi quân ta nổ súng tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, Tỉnh ủy Thừa Thiên đã mở hội nghị bàn kế hoạch phối hợp với chiến trường chính. Hội nghị chủ trương đẩy mạnh đấu tranh vũ trang kết hợp chặt chẽ và nâng cao đấu tranh chính trị, đấu tranh kinh tế; tích cực chống càn quét dài ngày của địch, đánh mạnh giao thông, phá hoại đường Sịa - Phú Ốc và đường Sịa - Lai Hà; chống cướp lúa, chống phá hoại sản xuất, chống dồn làng, bắt lính, phát động rộng rãi phong trào vận động ngụy binh, làm tan rã hàng ngũ địch, đẩy mạnh phá tề, trừ gian. Chủ trương của hội nghị đã thúc đẩy hơn nữa phong trào chống càn diệt địch, phá hoại giao thông đang diễn ra sôi nổi trong tỉnh.

Để cuộc chiến đấu của quân và dân Bình - Trị - Thiên kịp thời phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ, Bộ Tư lệnh Liên khu IV, Bộ Tổng tư lệnh đã quan tâm chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động quân sự trên toàn liên khu. Ngày 15-3-1954, Bộ Tư lệnh Liên khu IV đã chỉ thị cho ba tỉnh đánh mạnh đường giao thông, tích cực chống càn quét, bắt lính. Tiếp đó, ngày 22-3-1954, Bộ Tổng tư lệnh gửi điện tới Bộ Tư lệnh Liên khu IV chỉ rõ những nhiệm vụ đối với Bình - Trị - Thiên là phải làm từ cơ sở thông suốt tư tưởng, phương châm, phải nhận rõ những hạn chế là phong trào chính trị ở vùng tạm bị chiếm (xã) còn yếu; phải nắm chắc và thấu triệt phương châm đẩy mạnh du kích chiến là phải tích cực chống càn quét, tiêu diệt sinh lực địch, phục vụ cho việc xây dựng cơ sở, củng cố căn cứ du kích và khu du kích; hết sức chú trọng và phát triển cơ sở du kích, củng cố bộ đội địa phương huyện và tăng cường hoạt động giúp cho du kích xã phát triển; hoạt động vũ trang phải chú trọng kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị, kinh tế, ngụy vận, chống bắt lính… để củng cố xây dựng lực lượng đảm bảo liên tục tác chiến.

Được sự chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ Tư lệnh liên khu, của các cấp ủy đảng chính quyền, phong trào chiến tranh du kích ở Bình - Trị - Thiên càng tiến triển mạnh mẽ, tiêu hao nhiều sinh lực địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng. Riêng ở Thừa Thiên, trong nửa cuối tháng 3-1954, theo lối đánh đặc công, lực lượng vũ trang địa phương đã tiêu diệt sáu vị trí và 12 lô cốt địch.

Cuối tháng 3 đầu tháng 4-1954, hưởng ứng “tuần lễ đánh mạnh” phối hợp với đợt hai chiến dịch Điện Biên Phủ do Liên khu ủy, Bộ Tư lệnh liên khu phát động, lực lượng vũ trang Quảng Bình, Thừa Thiên tổ chức nhiều trận tập kích vào các vị trí địch ở An Xá, Võ Xá, An Hòa (30-3), Kim Long (31-3)… khiến quân địch khốn đốn ngay trong vùng hậu phương của chúng. Đặc biệt trận đánh của lực lượng vũ trang Quảng Bình ở Võ Xá diệt hai trung đội địch, trận tập kích của bộ đội địa phương Thừa Thiên vào vị trí An Hòa tiêu diệt 200 tên làm chấn động dư luận thành phố Huế.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #142 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2016, 07:33:57 pm »

Đầu tháng 4-1954, địch lại rút thêm sáu tiểu đoàn quân ứng chiến và chiếm đóng Bình - Trị - Thiên đi tiếp viện cho chiến trường khác. Để bù đắp vào lỗ hổng lớn về quân số, chúng tăng cường bắt lính, xây dựng thêm hai tiểu đoàn ngụy quân, ba đại đội pháo. Nếu như ba tháng đầu năm 1954, địch bắt được 2.538 người vào lính thì từ tháng 3 đến tháng 6-1954, chúng bắt thêm được 5.130 người, trong đó có tới 519 phụ nữ và 100 thiếu niên. Ngoài ra, chúng còn điều thêm một tiểu đoàn Tabo đến chiến trường Bình - Trị - Thiên. Do đó, lực lượng địch ở Bình - Trị - Thiên vẫn còn tới 20 tiểu đoàn vừa giữ thế bình định vừa đối phó với ta trên mặt trận giao thông và để càn quét, cướp phá mùa màng, tiến công vào căn cứ du kích. Mặc dù rất cố gắng, địch vẫn không sao giải quyết được mâu thuẫn giữa phân tán và tập trung quân đang diễn ra gay gắt. Càng bắt lính, khả năng tác chiến của địch càng giảm sút, chúng càng vấp phải sự đấu tranh quyết liệt của nhân dân.

Trong thế quân địch lúng túng và bị động, ngày 16-4-1954,Thường vụ Liên khu ủy đã họp với các tỉnh ủy nhận định tình hình, đẩy mạnh các công tác phối hợp với dợt hai chiến dịch Điện Biên Phủ làm hậu thuẫn cho đấu tranh chính trị, phục vụ xây dựng cơ sở lâu dài. Hội nghị quyết định:

“- Đẩy mạnh mọi mặt công tác, chủ yếu là công tác quân sự, phát triển hình thức tập kích kết hợp với ngụy vận, cố tranh thủ hoạt động sâu vào vùng tạm bị chiếm, tích cực chống càn và tăng cường lãnh đạo chống càn nhỏ để phá kế hoạch bắt lính, cướp của của địch. Đẩy mạnh công tác ngụy vận, ra sức chống bắt lính nhằm phục vụ cho kế hoạch quân sự và công tác vận động chính trị, đồng thời bảo đảm xây dựng cơ sở lâu dài.

- Đẩy mạnh công tác vùng tạm bị chiếm, đặc biệt là các đô thị tạm bị chiếm, chủ yếu là tuyên truyền tranh thủ rộng rãi nhân dân vùng tạm bị chiếm tiến lên làm cho đông đảo quần chúng đồng tình với lập trường kháng chiến và ngoại giao của ta để đứng về phe kháng chiến, tin tưởng và ủng hộ Hồ Chủ tịch và Chính phủ ta, ủng hộ lập trường của ta trong Hội nghị Giơnevơ, đấu tranh đòi độc lập thống nhất và hòa bình thực sự, trên cơ sở đó xây dựng và phát triển cơ sở lâu dài.

- Đẩy mạnh xây dựng và phát triển cơ sở, phát triển cơ sở vùng tạm bị chiếm, khôi phục cơ sở ta ở vùng căn cứ bị địch đánh loang ra trong năm 1953, củng cố và phát triển cơ sở vùng du kích và căn cứ du kích, xây dựng cơ sở vùng mới giải phóng để tích cực củng cố vùng căn cứ, mở rộng khu du kích, đẩy mạnh công tác vùng tạm bị chiếm”(1).

Để thực hiện các công tác trên, Thường vụ Liên khu ủy IV yêu cầu các tỉnh ủy ở Bình - Trị - Thiên phải nhận rõ thuận lợi và yêu cầu cấp bách của tình hình mới để phát huy cao độ tinh thần kiên trung tích cực của cán bộ, quán triệt tư tưởng trường kỳ, gian khổ và sự ác liệt của cuộc chiến đấu sắp tới, phải theo dõi sát sao diễn biến của tình hình chung và tình hình địa phương để chỉ đạo kịp thời, tranh thủ được thời cơ, lãnh đạo phải đi sâu, phải có kế hoạch cụ thể cho từng mặt công tác.

Phổ biến nghị quyết tiếp tục thấu triệt phương châm “đánh chắc, tiến chắc” để giành toàn thắng cho chiến dịch Điện Biên Phủ của Bộ Chính trị (19-4-1954), điện số 114 của Ban Chấp hành Trung ương gửi Bình - Trị - Thiên, Thường vụ Liên khu ủy chỉ rõ: Quảng Bình, Thừa Thiên trong hoạt động đã có tiến bộ, song “Quảng Bình hoạt động chưa liên tục”, cần đẩy mạnh hoạt động du kích và bộ đội địa phương lên mạnh, đều, liên tục hơn nữa; Thừa Thiên cần chú ý việc phá hoại các kho đạn được, xăng dầu của địch, chú ý không ảnh hưởng đến cơ sở; Tỉnh ủy Quảng Trị cần chỉ đạo du kích bao vây các vị trí cô lập của địch, buộc địch phải tiếp tế bằng máy bay để phân tán lực lượng không quân của địch.

Những chỉ đạo, hướng dẫn đã mở ra và thúc đẩy cao trào đấu tranh mới ở Bình - Trị - Thiên. Đầu tháng 4-1954, Đại đội 9 bộ đội đặc công Liên khu IV vào hoạt động ở Quảng Bình. Với chiến thuật “đánh điểm nhỏ” và phương châm “đánh chắc thắng”, đơn vị đã liên tiếp tiêu diệt bốn lô cốt và một số vị trí của địch. Những trận đánh mở đầu thắng lợi của bộ đội đặc công đã góp phần tạo đà cho sự phát triển của hình thức tập kích địch của lực lượng vũ trang Bình - Trị - Thiên.

Bằng chiến thuật tập kích, bộ đội Quảng Bình tiếp tục tiêu diệt nhiều vị trí quan trọng của địch như Bình Phúc, Mỹ Phước (6-4), An Lạc, Thượng Phong, Thanh Xá Thượng, mở rộng khu du kích ở phía nam tỉnh. Ở Quảng Trị, giữa tháng 4-1954, Đại đội 8 của tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh phối hợp với lực lượng vũ trang Hướng Hóa vây ép vị trí Xuồi Muồi, buộc một đại đội địch ở đây phải ra hàng, nộp cho ta 106 súng. Ở đồng bằng, bộ đội đã luồn sâu tiêu diệt bảy vị trí, một lô cốt địch, bức địch rút khỏi vị trí Kim Giao (16-4), mở rộng khu du kích ở Triệu - Hải. Trung đội bộ đội huyện Hải Lăng đã cùng với dân quân xã Hải Bình chống càn thắng lợi, diệt 52 tên, giải thoát cho 200 thanh niên vừa bị địch bắt lính. Lực lượng du kích Vĩnh Linh còn phối hợp với lực lượng công an tiêu diệt 13 tên tề điệp gian ác ở các xã. Quân và dân huyện Gio Linh đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích, tiêu hao địch, làm thất bại âm mưu bình định của địch ở vùng Cửa Việt, Cửa Tùng.

Tại Thừa Thiên, bộ đội tiếp tục vào vùng địch hậu tiêu diệt một số đồn bốt và lô cốt của địch. Đặc biệt vào ngày 28-4-1954, bộ đội Thừa Thiên đã luồn sâu tập kích các đồn, lô cốt dọc tuyến sông Bồ từ Ưu Điềm đến Vân Trình nằm trong hệ thống chiếm đóng của địch ở ba xã Quảng Ninh, Quảng Hà, Quảng Đại (huyện Quảng Điền). Trận tập kích thắng lợi đã có tác dụng lớn đến xây dựng và phát triển khu du kích Ninh - Hòa, khôi phục căn cứ nhỏ Phong - Quang.

Cùng với sự tiến bộ của bộ đội tập trung, lực lượng dân quân, du kích cũng thu được nhiều kết quả trong độc lập chống càn, phát triển các hình thức chiến đấu, từ đặt địa lôi, bom mìn, cam bẫy… đến tập kích, bao vây, bức rút các vị trí địch. Nổi lên trong phong trào dân quân, du kích Bình - Trị - Thiên thời gian này là du kích Hương Thủy, Hài Thái, Lương Mai (Thừa Thiên), Vĩnh Hoàng, Diêu Sanh (Quảng Trị), Nhã Phương (Quảng Bình)…

Trên mặt trận đánh giao thông địch, quân và dân Bình - Trị - Thiên tiếp tục phục kích trên đường xe lửa và đường số 1, lật nhào đoàn tàu thứ 21 của địch, 76 xe vận tải, phá 10 cầu như cầu Đông Hà (Quảng Trị) cầu Nước Ngọt (Thừa Thiên), tiêu diệt ba đại đội địch.


(1) Báo cáo số 83 BC/LK4 về tình hình Trung Lào, Bình Trị Thiên và Thanh Hóa phục vụ tiền tuyến, Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #143 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2016, 07:35:27 pm »

Những cuộc tiến công của lực lượng vũ trang ta đã đánh mạnh vào tinh thần binh lính ngụy. Công tác ngụy vận đã lôi kéo đông đảo quần chúng tham gia càng làm sa sút ý chí ngụy quân, thúc đẩy một bộ phận binh lính phản chiến. Ngay ở thành phố Huế, lực lượng cách mạng đã rải ba vạn truyền đơn, viết 4.0000 khẩu hiệu, thành lập được 80 tổ gọi loa tuyên truyền, gửi 616 thư tay cho sĩ quan và binh lính ngụy kêu gọi họ sang hàng ngũ kháng chiến. Đặc biệt, trong tháng 1-1954, ta đã động viên được 421 gia đình ở Huế gọi chồng, con bỏ hàng ngũ địch trở về với gia đình. Trong tháng 4-1954, cán bộ binh vận ở Quảng Trị đã về các xã Húc Thượng, Húc Hạ vận động hương vệ nộp cho kháng chiến hàng trăm súng. Công tác ngụy vận của quân và dân Bình - Trị - Thiên đã góp phần làm dấy lên phong trào bỏ ngũ, phản chiến, làm binh biến trong hàng ngũ ngụy quân. Cuối năm 1953, đầu năm 1954, 560 ngụy binh ở Thừa Thiên, 230 ngụy binh ở Quảng Trị, 80 ngụy binh ở Quảng Bình rời bỏ hàng ngũ địch. Nhiều nơi binh lính địch chống lại lệnh điều động đi chiến trường khác, tiêu biểu là Tiểu đoàn 8 ngụy chống lệnh đi Lào, 120 lính ngụy ở Thanh Khê không chịu đi Bắc Bộ. Tiểu đoàn khinh quân phụ bổ 606 (bataillons légers supplétifs - viết tắt là BLS) không chịu ra trận… Ngày 15-2-1954, 150 lính ngụy ở Đại Lộc (Phú Lộc, Thừa Thiên) làm binh biến diệt đồn, mang 180 súng về với kháng chiến. Từ tháng 10-1953 đến tháng 2-1954, ở Bình - Trị - Thiên đã có 25 binh lính, sĩ quan ngụy phản chiến, sáu vụ binh lính ngụy làm nội ứng cho du kích diệt đồn, 11 vụ binh biến mang về cho du kích 300 khẩu súng, 18 bánh đạn. Trong ba tháng đầu năm 1954, có 1.840 ngụy binh giải ngũ và bỏ ngũ.

Cùng với vận động ngụy binh, phong trào chống bắt lính cũng diễn ra quyết liệt trong vòng địch tạm chiếm. Ngày 23-12-1953, nhân dân xã Thế Lộc (Quảng Điền) đấu tranh buộc địch phải thả 713 người trong tổng số 819 người chúng bắt đi lính. Tháng 12-1953, trước sức đấu tranh của nhân dân Vĩnh Linh địch chỉ giữ được 141 người trong số 599 người bị chúng bắt đi lính. Đầu năm 1954, 2.100 thanh niên Thừa Thiên Huế đã đấu tranh buộc địch phải thả 500 thanh niên bị chúng bắt đi lính.

Bên cạnh chống bắt lính, các cuộc đấu tranh chống dồn làng cũng diễn ra rất sôi nổi. Nổi bật nhất là cuộc đấu tranh của nhân dân thôn Viễn Trình (Thừa Thiên). Mặc dù bị địch khủng bố làm 10 người chết, 18 người bị thương, hầu hết bị đánh đập, nhân dân trong thôn vẫn kiên quyết đấu tranh buộc địch phải thay đổi nơi tập trung và cuối cùng phải cho trở về làng cũ.

Để hỗ trợ hơn nữa cho cuộc tiến công đông xuân 1953-1954, ngày 9-1954, Trung ương Đảng ra chỉ thị về công tác chống bắt lính, coi đó là một nhiệm vụ quan trọng bên cạnh nhiệm vụ tác chiến. Triển khai chỉ thị này, ngày 18-3-1954, Liên khu ủy IV ra chỉ thị đẩy mạnh công tác vận động binh lính địch và phong trào đấu tranh chống bắt lính, phá kế hoạch xây dựng ngụy quân của địch. Chỉ thị yêu cầu các cấp, ngành, đoàn thể phải đẩy mạnh công tác địch, ngụy vận, nhất là ngụy vận, ra sức tuyên truyền chiến thắng của ta trong hàng ngũ địch và các gia đình thân thuộc của ngụy binh, tuyên truyền cho binh lính địch thấy rõ chính sách khoan hồng của Chính phủ ta và âm mưu thâm độc, lừa bịp của giặc, giữ vững chính sách tù, hàng binh của đảng và chính phủ, kết hợp chặt chẽ việc giáo dục hàng binh với vận động binh lính địch và phát triển phong trào chống bắt lính, tích cực tổ chức và lãnh đạo nhân dân, nhất là thanh niên, phụ nữ chống giặc bắt lính, thực hiện khẩu hiệu: “Thà chết không đi lính cho giặc, thà chết không để chồng, cha, con, em đi lính cho giặc”(1). Tiếp đó, vào ngày 8-4-1954, trong chỉ thị về tuyên truyền chiến thắng ở Điện Biên Phủ, Liên khu ủy chỉ rõ: “đối với Bình - Trị - Thiên, lấy việc tuyên truyền chiến thắng để đẩy mạnh công tác địch vận và phong trào chống bắt lính”(2).

Dưới sự chỉ đạo của Liên khu ủy, công tác chống bắt lính trong vùng tạm chiếm tiến lên một bước mới. Không có cuộc bắt lính nào địch không gặp phải sự chống cự, phản đối quyết liệt của nhân dân. Nhiều cuộc đấu tranh chống bắt lính đã lôi kéo cả gia đình ngụy binh và binh lính địch tham gia vào cuộc đấu tranh ở Phú Thiên, nam Thừa Thiên, cuộc đấu tranh của 80 thanh niên ở Vân Đô (Đông Hà), cuộc đấu tranh của nhân dân xã Tây Trạch (Bố Trạch) buộc địch phải thả 280 thanh niên bị chúng bắt (5-1954). Trước khi chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc, tại Bình - Trị - Thiên, ngụy binh tan rã từng mảng lớn. Ở đồn Quán Hầu (Quảng Ninh) có 120 ngụy binh thì 70 người đòi giải ngũ; 30 sĩ quan và binh lính ngụy ở Diên Sanh đấu tranh đòi giải ngũ buộc địch phải chấp nhận; 20 ngụy binh ở An Môn (Quảng Trị)làm binh biến. Ở Thừa Thiên có cả trung đội ngụy bắt liên lạc với lực lượng kháng chiến, cơ sở nhân mối của ta phát triển rộng khắp trong các đồn địch. Công tác địch vận ở Bình - Trị - Thiên đã góp phần làm phá sản kế hoạch xây dựng ngụy quân của Navarre. Từ tháng 2-1954, trên phạm vi toàn quốc, địch chỉ bắt được số lính bằng 10% so với dự kiến, binh lính lại đào ngũ rất nhiều.

Trong khi lực lượng vũ trang đẩy mạnh tiến công địch, nhân dân vùng tự do, vùng du kích ra sức khắc phục khó khăn, tích cực ủng hộ kháng chiến. Cùng với du kích, nhân dân các thôn, làng đã phá hoại hàng nghìn mét đường, ngăn bước tiến của địch. Nhân dân Quảng Trị, Thừa Thiên còn phối hợp với nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh, nhân dân Liên khu V tiếp tế, chuyển gạo, đạn cho Tiểu đoàn 436 (Trung đoàn 101, Đại đoàn 325) xuống Hạ Lào tiến công địch. Vượt qua sự đánh phá của địch, sự bất lợi của thời tiết, nhân dân khắp nơi đã đoàn kết giúp dỡ nhau tăng gia sản xuất, tiết kiện, chặn đứng nạn đói. Trong vụ đông xuân 1953-1954, tỉnh Quảng Trị đã gieo trồng 23.000 mẫu lúa, 9596 mẫu màu, thu được 2.393 tấn thóc, hơn 3.000 tấn ngô, khoai, sắn kịp thời cung cấp lương thực cho nhu cầu trong tỉnh, giúp nhân dân Thừa Thiên khắc phục nạn đói lúc giáp hạt. Trong vụ chiếm 1954, tỉnh Quảng Bình đã tạm cấp 3.500 mẫu ruộng đất của Pháp và Việt gian, 1.000 mẫu vắng chủ cho nông dân cày cấy. Cũng trong vụ này, nông dân Quảng Bình đấu tranh đấu tranh với địa chủ đòi giảm tô, giảm tức, thu lại được 380 tấn thóc, 4.120 thúc khoai sắn, hơn hai triệu đồng tiền ngân hàng. Tính đến đầu tháng 7-1954, Quảng Bình đã góp được 2.650 tấn thóc thuế, Thừa Thiên nộp được 500 tấn. Những kết quả nói trên đã thể hiện rõ nét tinh thần vượt khó, quyết tâm kháng chiến thắng lợi của nhân dân ba tỉnh.


(1) Chỉ thị số 01/CT-LK4 của Liên khu IV (18-3-1954) , tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
(2) Chỉ thị số 3/CT-LK4 (8-4-1954) của Liên khu ủy IV, tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #144 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2016, 07:37:39 pm »

Ngày 7-5-1954, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi làm thay đổi cục diện chiến trường, mở ra những thuận lợi vô cùng to lớn cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta, đẩy quân đội Pháp vào thế thất bại hoàn toàn. Chiến thắng vĩ đại đó đã tác động sâu sắc đến chiến trường Bình - Trị - Thiên.

Nhằm đối phó với các đòn tiến công của ta, giữ nguyên hiện trạng, củng cố tinh thần binh lính đang hoang mang, đầu tháng 6-1954, địch điều hai binh đoàn số 10 và số 21 cùng hai tiểu đoàn pháo đến Bình - Trị - Thiên vừa để chấn chỉnh vừa thực hiện các cuộc càn quét. Lực lượng địch ở ba tỉnh có tới 17 tiểu đoàn cơ động. Lực lượng cơ động địch được điều chuyển liên tiếp, từ Huế ra Đông Hà, Quảng Bình rồi từ Quảng Bình vào Đông Hà, vào Huế. Đén ngày 5-7-1954, đại bộ phận quân địch rút vào Nam, chỉ còn Tiểu đoàn 27 bộ binh ngụy đóng tại Huế.

Với lực lượng cơ động được tăng cường, địch mở nhiều cuộc càn quét lớn, chớp nhoáng vào vùng tự do, vùng du kích ở Bình - Trị - Thiên. Từ ngày 6-t đến ngày 10-7-1954, địch tổ chức năm cuộc càn quét với lực lượng từ hai đến bốn tiểu đoàn vào vùng Bắc Quảng Trị (từ ngày 6 đến 10-6), Triệu Phong (15-6), Hải Lăng (26-6), Phong Quang (26-6 và 16-7). Khác với các cuộc hành quân của lực lượng lưu động chỉ nặng về phô trương thanh thế, lực lượng chiếm đóng của địch tổ chức nhiều cuộc biệt kích, phục kích, càn quét nhỏ ở vùng tạm bị chiếm, vùng du kích mới hình thành, nhất là vùng Đông Hà - Cửa Việt, dọc quốc lộ và đường sắt, vùng đồng bằng nam Thừa Thiên hòng củng cố hệ thống chiếm đóng, bảo vệ đường giao thông kết hợp với bắt lính. Để đối phó với các cuộc tập kích của lực lượng vũ trang Bình - Trị - Thiên, chúng rút bỏ một số đồn, bốt lẻ như Mai Xá (Quảng Trị), Thanh Hương, thôn II Hưng Hải (Thừa Thiên)…, đồng thời tăng cường công sự ở nhiều vị trí để tránh bị tiêu diệt. Cùng với các hoạt động quân sự, chúng tung luận điệu xuyên tạc chủ trương chính sách của Chính phủ ta. Chúng bắt nhân dân mít tinh, biểu tình ủng hộ Ngô Đình Diệm; tuyên truyền trong các nhà thờ, trong nhân dân rằng Ngô Đình Diệm là “chiến sĩ cách mạng”(!), “là người lập lại hòa bình” (!).

Tuy nhiên, trước chiến thắng của ta, tinh thần binh lính địch rất hoang mang. Cuối tháng 6 đầu tháng 7-1954, Tiểu đoàn 30 BVN bộ binh ngụy(1) khi di chuyển vào Nam đã có 150 người chạy sang hàng ngũ kháng chiến, 12 sĩ quan của Tiểu đoàn 611 BLS khinh quân phụ bổ ngụy(2) ở nam Thừa Thiên đã bỏ hàng ngũ địch về với kháng chiến; ngụy binh ở đồn Quý Lai không phản ứng gì khi ta thực hiện vũ trang tuyên truyền; một đại đội địch ở Quán Hầu ra hàng lực lượng kháng chiến; 18 tên tề ngụy ở Triệu Phong bắt liên lạc với ta xin đầu hàng. Từ ngày Hiệp định Giơnevơ được ký kết (21-7-1954) đến ngày ngừng bắn (1-8-1954) hàng ngũ ngụy binh tan rã mạnh. Ở Quảng Bình, hơn 1.600 binh lính địch bỏ về nhà, Tiểu đoàn 23 ngụy binh rã ngũ gần hết. Ở Thừa Thiên, Quảng Trị có gần 2.000 ngụy binh đào ngũ, làm binh biến mang vũ khí về với kháng chiến; đặc biệt, Tiểu đoàn 27 ngụy binh địch đào ngũ chỉ còn lại 52 tên, hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền rệu rã, nhất là sau khi có lệnh ngừng bắn, mọi hoạt động của chúng hầu như bị tê liệt.

Thắng lợi trên chiến trường Điện Biên Phủ và cả nước càng thúc đẩy quân va dân Bình - Trị - Thiên đẩy mạnh tiến công địch trên tất cả các mặt trận quân sự và đấu tranh chính trị.

Ngày 31-5 và ngày 6-6-1-954, du kích các huyện Cam Lộ, Gio Linh, Vĩnh Linh đã đánh trả hai cuộc càn của địch, diệt 350 tên địch, buộc chúng phải rút lui. Ngày 16 và 19-6, bộ đội địa phương và dân quân hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng đã kết hợp tác chiến với tuyên truyền địch vận, liên tiếp bẻ gẫy các đợt tiến công của nhiều tiểu đoàn địch, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 300 tên, buộc địch phải tháo chạy. Cùng với quân, dân Quảng Trị, từ 15-6 đến 15-7-1954, quân, dân Thừa Thiên tiêu diệt ba đoàn tàu địch. Bộ đội địa phương còn luồn sâu vào vùng địch tạm chiếm tiêu diệt một trung đội biệt kích địch ở Cầu Hai (2-6), diệt một trung đội địch ở Quán Ngang (ngày 3-7). Ngày 9-7-1954, du kích hai xã Phong Chương và Phong Dinh bám đánh quyết liệt ba tiểu đoàn địch, bẻ gẫy trận càn của chúng, diệt gần 100 tên. Từ ngày 21 đến ngày 31-7-1954, lợi dụng thời điểm chưa thi hành lệnh ngừng bắn, quân địch tổ chức ba trận càn vào Bích La, Triệu Phong, Vĩnh Lộc, song cả ba trận đều bị bộ đội và du kích ta chặn đánh, gây cho chúng nhiều thiệt hại, buộc phải rút lui. Phát huy thắng lợi, ngày 27-7-1954, Tiểu đoàn 229 Quảng Bình tập kích vị trí Thượng Phong, tiêu diệt gọn một đại đội địch. Trước ngày ngừng bắn, bộ đội địa phương và du kích Quảng Trị, Thừa Thiên đã đánh đổ sáu đoàn tàu địch.

Tuy nhiên, hoạt động quân sự của Bình - Trị - Thiên thời kỳ này cũng bộc lộ một số thiếu sót, bộ đội du kích bị thương vong nhiều. Ngày 26-6-1954, trong trận tập kích vào Trường Bia (Thừa Thiên), do bị lộ nên lực lượng ta thương vong tới 30 cán bộ, chiến sĩ; trong trận chống càn ở Phong Quang, ta bị thương 10 bộ đội địa phương, 10 du kích, bốn cán bộ trung đội, đại đội của huyện đội và xã đội. Ở Quảng Trị, trận tập kích vào Phú Tài (27-6) thương vong năm đồng chí, trong đó có một đại đội phó; trận tập kích Ba Bến (20-6) bị nhân mối làm phản lực lượng ta bị thương vong chín đồng chí; trong đó có một đại đội trưởng, một đại đội phó, một trung đội phó. Có những hạn chế trên đay là do cán bộ nhiều nơi hoặc không thấy tình hình chuyển biến để đẩy mạnh hoạt động, hoặc bị chi phối bởi tư tưởng ham ăn to, đánh lớn, chủ quan khinh địch. Ngoài ra, về chỉ đạo chiến thuật còn thiếu sự nhất trí giữa Bộ Tư lệnh và các địa phương làm cho cấp dưới lúng túng(3).


(1) BVN viết tắt từ tiếng Pháp - Bataillon du Vietnam: tiểu đoàn bộ binh Việt Nam.
(2) BLS viết tắt từ tiếng Pháp - Bataillon leger Supplétifs: tiểu đoàn khinh quân phụ bổ.
(3) Báo cáo tháng 7-1954 của Liên khu ủy IV số 45 BC/LK4 (ngày 26-7-1954) , tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #145 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2016, 07:38:55 pm »

Thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng về “Đẩy mạnh công tác vùng tạm bị chiếm”, “phát động phong trào đấu tranh chính trị rộng rãi làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta”, phong trào đấu tranh chính trị kết hợp với phong trào đấu tranh chống thuế, cướp mùa, chống khủng bố, dồn dân… diễn ra khắp nơi ở Bình - Trị - Thiên. Các cuộc đấu tranh chống âm mưu lừa bịp của địch trước vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương, đòi Pháp đình chiến… từ các hình thức như lẩn tránh, không chịu hô khẩu hiệu, không chịu lập kiến nghị ủng hộ bù nhìn, kiến nghị đòi Pháp đình chiến, ủng hộ lập trường của phái đoàn Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Giơnevơ… diễn ra ở các vùng đô thị và nông thôn tạm bị chiếm.

Tại Thừa Thiên, dưới sự lãnh đạo của tỉnh ủy, phong trào đấu tranh chống bắt lính, đòi chồng con trở về, đòi quyền lợi hằng ngày kết hợp với đòi hòa bình phát triển mạnh mẽ ở vùng tạm bị chiếm miền Bắc, vùng ven ngoại ô thành phố Huế. Ngày 6-6-1954, gần 1.000 nông dân xã Phong Chương (huyện Phong Điền) kéo lên huyện đường biểu tình đòi quyền lợi về ruộng đất, đòi giảm sưu thuế, rồi chuyển sang đòi đình chiến, chấm dứt chiến tranh. Ngày 17-6-1954, tại thành phố Huế, hơn 4.000 người đã tổ chức míttinh, giương cao khẩu hiệu “Hoan nghênh Hội nghị Giơnevơ giải quyết vấn đề hòa bình ở Đông Dương”, lập kiến nghị tố cáo âm mưu tàn bạo của địch, đòi Chính phủ Pháp thương lượng với Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Cuộc míttinh chuyển thành cuộc biểu tình tuần hành thu hút gần hai vạn người, cả cảnh sát, ngụy binh và lính Âu - Phi tham gia. Thắng lợi của cuộc míttinh, biểu tình tuần hành đã mở ra cao trào đấu tranh chính trị rộng lớn ở Bình - Trị - Thiên. Tiếp đó, vào ngày 20-6-1954, địch chủ trương dùng lực lượng giáo viên và học sinh trường Khải Định kết hợp với Nha Giáo dục thành phố Huế tổ chức cuộc biểu tình lớn ủng hộ Ngô Đình Diệm. Thành ủy Huế đã kịp thời lãnh đạo giáo viên, học sinh trường Khải Định biến cuộc biểu tình thành cuộc tuần hành “ủng hộ Chính phủ Hồ Chủ tịch”, đòi Chính phủ Pháp phải chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Tại Quảng Bình, sau cuộc đấu tranh của 231 gia đình ngụy binh ở Hoan Lao, đến đầu tháng 7-1954, toàn tỉnh có bốn cuộc đấu tranh đòi chồng, con kết hợp với đoài hòa bình diễn ra ở thị xã Đồng Hới và ba huyện lỵ Bố Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thủy.

Ở Quảng Trị, nhân dân nhiều nơi hăng hái đấu tranh chống bắt lính, chống cướp bóc, khủng bố; nhân dân Triệu Quang treo băng cờ, khẩu hiệu đòi hòa bình, nhân dân thị xã rải truyền đơn đòi chấm dứt chiến tranh.

Tuy nhiên, phong trào đấu tranh chính trị thời gian này cũng còn một số hạn chế. Phần lớn các cuộc đấu tranh còn mang tính tự phát, nhiều nơi xuất hiện tư tưởng phiêu lưu, mạo hiểm… gây tổn thất. Vào ngày 25-6, do vừa đấu tranh chính trị lại vừa chuẩn bị diệt đồn, đấu tranh lại nặng về chửi bới bù nhìn nên nhân dân Phong Điền bị địch khủng bố làm chết 34 người. Do tư tưởng nóng vội, Tỉnh ủy Quảng Bình dự định phát động phong trào gia đình ngụy binh đòi chồng, con kết hợp đòi hòa bình trên phạm vi toàn tỉnh vào ngày 1-7-1954, chủ trương trên đã không đạt kết quả.

Mặc dù còn có một số hạn chế, phong trào đấu tranh chính trị ở Bình - Trị - Thiên đã có vai trò quan trọng trong đẩy mạnh kháng chiến, hỗ trợ với tiến công quân sự, xây dựng cơ sở lâu dài. Đến cuối tháng 6-1954, cơ sở kháng chiến được gây dựng và phát triển ở những vùng trước đây khó khăn như vùng ngoại ô thành phố Huế, vùng Phú Phong, Phú Gia (nam Thừa Thiên), vùng dọc tuyến Đông Hà - Quảng Trị - Cửa Việt, vùng công giáo toàn tòng Cửa Tùng, vùng Võ Gia Ninh, Sao Nam (Quảng Bình)… Những cơ sở nói trên là những tiền đề quan trọng trong việc đấu tranh mới của nhân dân Bình - Trị - Thiên sau ngày ngừng bắn 1-8-1954. Bằng xương máu của 451 chiến sĩ vừa hy sinh, vừa bị thương, quân và dân Bình - Trị - Thiên đã góp phần xứng đáng vào cuộc tiến công chiến lược đông xuân 1953-1954. Bằng việc kết hợp các loại hình tác chiến, chống càn, phục kích, tập kích, công đồn, kết hợp chặt chẽ giữa bộ đội địa phương với dân quân, du kích, giữa lực lượng tại chỗ với lực lượng chủ lực cơ động tiến công địch trên tất cả các địa bàn rừng núi, trung du, đồng bằng ven đô thị, trên bộ, trên sông, trên cả ba vùng: vùng căn cứ du kích, vùng du kích và vùng tạm bị chiếm, kết hợp đấu tranh chính trị, binh vận với tiến công quân sự, quân và dân Bình - Trị - Thiên đã tiêu diệt, tiêu hao, làm tan rã ngụy binh, kìm chân một lực lượng lớn quân địch, hiệp đồng có hiệu quả với các đòn tiến công chiến lược ở Trung, Hạ Lào, đặc biệt với trận quyết chiến chiến lược ở Điện Biên Phủ. Chỉ tính từ đầu năm 1953 đến ngày ngừng bắn 1-8-1954, lực lượng vũ trang và nhân dân Bình - Trị - Thiên đã tiêu diệt 9.268 tên địch, làm tan rã 11.000 binh lính ngụy, phá hủy 28 đoàn tàu, 102 xe cơ giới vận tải, tiêu diệt, bức rút 86 lô cốt, vị trí, thu 1.576 súng các loại.

Bằng việc kết hợp chặt chẽ giữa tác chiến tiêu diệt sinh lực địch với xây dựng cơ sở, bảo vệ và phát triển các căn cứ du kích, vùng du kích, quân và dân ba tỉnh đã đạt được những kết quả cao trong tăng cường cơ sở kháng chiến, tạo những tiền đề quan trọng cho cuộc đấu tranh sau ngày đình chiến. Đến đầu tháng 7-1954, ở Quảng Bình có chín xã của huyện Tuyên Hóa, tám xã huyện Quảng Trạch là vùng tự do, 91 thôn căn du kích rộng 685 km2, 65 thôn du kích rộng 163 km2; ở Quảng Trị có 189 thôn, xóm căn cứ du kích rộng 1.032 km2, 66 thôn, 20 xóm du kích rộng 286,5 km2; ở Thừa Thiên có 81 thôn căn cứ du kích rộng 230 km2, 104 thôn du kích rộng 210km2.(1)

Thắng lợi to lớn của quân và dân Bình - Trị - Thiên cũng thể hiện sự lớn mạnh của lực lượng vũ trang ba tỉnh. Từ chiến trường ác liệt, nhiều kỹ thuật, chiến thuật mới ra đời như lối đánh đặc công, kết hợp nhấn mối địch vận… đạt hiệu quả cao, gây nên nỗi khiếp sợ cho quân địch, đồng thời đánh dấu sự phát triển về nghệ thuật tác chiến của lực lượng vũ trang liên khu.

Thắng lợi của chiến trường Bình - Trị - Thiên đã chứng minh sự đúng đắn trong lãnh đạo và chỉ đạo cuộc chiến tranh nhân dân của Liên khu ủy, các cấp ủy đảng và bộ Tư lệnh Liên khu IV. Khả năng tổ chức điều hành cuộc đấu tranh cách mạng, kết hợp chặt chẽ giữa ba thứ quân trong lực lượng vũ trang, giữa quân và dân, giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh kinh tế, chính trị và binh vận của cơ quan lãnh đạo kháng chiến Liên khu IV là nhân tố quyết định thắng lợi ở Bình - Trị - Thiên trong cuộc tổng giao chiến cuối cùng với quân đội viễn chinh Pháp.


(1) Báo cáo số 42 BC/LK4 của Ban Chấp hành Đảng bộ Liên khu IV (7-7-1954), tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #146 vào lúc: 27 Tháng Hai, 2016, 07:48:52 pm »

III. PHÁT HUY CAO NHẤT SỨC MẠNH HẬU PHƯƠNG,
CHI VIỆN CÁC CHIẾN TRƯỜNG

Trải qua bảy năm kháng chiến, vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh ngày càng thể hiện rõ vai trò to lớn của một căn cứ địa, một hậu phương trọng yếu của chiến tranh nhân dân. Tiềm năng về nhân tài, vật lực của ba tỉnh Bắc Trung Bộ được khơi dậy, nhân lên đồng thời với sự gia tăng đóng góp đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của cuộc kháng chiến đang ngày càng vươn lên cả tầm mức lẫn quy mô. Bước vào đông - xuân 1953-1954, cục diện mới của cuộc kháng chiến đặt ra những yêu cầu mới cho hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh. Nhân dân ba tỉnh lại gồng mình dốc toàn lực phục vụ các chiến trường, góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của toàn dân tộc.

Ở thời điểm nhân dân ta triển khai thế trận tiến công chiến lược đông - xuân, địa bàn ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh thể hiện rõ nét những thuận lợi và khó khăn của một vùng tự do đã có bảy năm xây dựng và chiến đấu, đang chuyển biến dưới những tác động của những chính sách mới của Đảng và Chính phủ.

Qua quá trình kháng chiến, hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh đã phát triển vững chắc và toàn diện. Trình độ tổ chức của bộ đội, dân quân, du kích ngày càng tiến bộ. Từ tháng 4-1953, các đơn vị bộ đội địa phương đã được tập trung chỉnh quân chính trị, nâng cao được tư tưởng, củng cố được lập trường. Tiếp đó, thực hiện nghị quyết của Tổng Quân ủy Trung ương về xây dựng lực lượng, Thanh - Nghệ - Tĩnh đã xây dựng thêm nhiều đơn vị mới. Trong các xã phát động quần chúng, lực lượng du kích được chỉnh đốn lại, cán bộ chỉ huy được tăng cường.

Nhờ tổ chức tăng gia sản xuất, tổ chức tương trợ, trưng vay của địa chủ, nhiều địa phương ở Thanh - Nghệ - Tĩnh đã vượt qua nạn đói lúc giáp hạt(2). Vụ chiêm 1953, năng suất lúa nhiều nơi tăng từ 15% đến 30% đã làm tăng sản lượng lương thực, giải tỏa được một phần khó khăn về đời sống, gây niềm phấn khởi trong nhân dân.

Thực hiện chủ trương của Đảng, từ tháng 5 đến tháng 10-1953, ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh đã tiến hành hai đợt giảm tô(2) ở 76 xã với hơn 50 vạn dân. Nhân dân ba tỉnh đã đấu tranh với 337 địa chủ và cường hào, thu được 3.091 tấn thóc quả thực. Trong đợt hai phát động quần chúng giảm tô, Thanh Hóa đã tịch thu của địa chủ cường hào gian ác hơn 1.680 mẫu chia cho nông dân nghèo. Việc thực hiện triệt để giảm tô đã đem lại một phần quyền lợi thiết thực cho nông dân, gây nên sự hứng khởi trong quần chúng, có sức thúc đẩy mọi người hăng say sản xuất, tin tưởng và phục vụ kháng chiến. Đây chính là động lực tinh thần lớn của quân và dân Thanh - Nghệ - Tĩnh trước khi bước vào cuộc chiến đấu cùng cả nước chống lại những nỗ lực cao nhất của kẻ thù.

Cùng với giảm tô, những địa phương có phát động quần chúng đã tiến hành chia lại xã, củng cố lại nông hội, điều chỉnh lại các ủy ban nhân dân, sắp xếp lại các bộ máy chỉ huy dân quân, du kích và công an. Công tác chỉnh đảng, cơ cấu lại các chi ủy cũng được tiến hành nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp cán bộ đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới(3). Những biến đổi này đã tạo điều kiện cho việc chỉ đạo và huy động quần chúng của các cấp bộ đảng, các cấp chính quyền được sâu sát hơn.

Tuy nhiên, bước vào đông - xuân 1953-1954, Thanh - Nghệ - Tĩnh cũng gặp phải những khó khăn lớn, cả khách quan và chủ quan.

Triển khai kế hoạch quân sự mới, giặc Pháp càng tăng cường đánh phá hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh. Chúng gia tăng các hoạt động gián điệp, tình báo, gây dựng, móc nối với các cơ sở phản động, lợi dụng tôn giáo, vũ trang cho thổ phỉ, đẩy mạnh tập kích, biệt kích kết hợp với dùng máy bay, tầu thủy bắn phá ác liệt vào ba tỉnh, nhất là các đường giao thông quốc lộ, tỉnh lộ, các công trình thủy lợi, các kho tàng, cơ quan… hòng phá hoại tiềm lực kháng chiến ở Thanh - Nghệ - Tĩnh, triệt phá khả năng cung cấp cho các chiến trường. Trên vùng biên giới Việt - Lào, các hoạt động của địch ngày càng táo tợn. Tháng 8-1953, chúng cho biệt kích gồm cả lính Pháp và ngụy Lào đột nhập vào giáo phận Kim Cương (huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh), Hương Quang (huyện Hương Khê, Hà Tĩnh) bắt nhân dân để moi tin tức. Tháng 10-1953, thực dân Pháp cho 200 tên nhảy dù xuống Mường Pao và 57 tên nhảy dù xuống Hồi Xuân, Phú Lệ (Thanh Hóa) để tiếp viện cho lực lượng phỉ còn sống sót ở đây. Các hoạt động quân sự của địch tập trung ở vùng biển Thanh - Nghệ - Tĩnh. Tháng 9-1953, địch dùng ba đại đội có máy bay, tầu chiến yểm trợ đột kích vào Nhượng Bạn (Hà Tĩnh). Ngày 15-10-1953, quân Pháp mở cuộc hành quân Hải Âu (Mouette) do đích thân tướng Cônhi (Cogny), Tư lệnh lục quân Bắc Bộ chỉ huy đánh vào Thanh Hóa. Cuộc hành quân chia làm hai cánh: một cánh do tướng Gin (Gilles) cầm đầy đánh tây nam Ninh Bình, một cánh do hải quân Pháp tiến hành, còn gọi là cuộc hành quân Con Bồ Nông (Pélican) ở vùng biển Thanh Hóa. Hàng không mẫu hạm Arômăngsơ (Aromanches) cùng nhiều tầu chiến, máy bay địch lảng vảng ngoài khơi. Ngày 16-10-1953, 500 tên địch đổ bộ lên bờ biển Thanh Hóa, một bộ phận biệt kích vào đốt phá Khoa Trường. Ở vùng tạm chiếm Nga Sơn (Thanh Hóa) quân địch tiến hành nhiều đợt củng cố vị trí chiếm đóng. Cũng từ đầu tháng 10-1953, quân Pháp đã tiến hành nhiều hoạt động chiến tranh tâm lý ở Thanh - Nghệ - Tĩnh. Máy bay địch thả giấy thông hành để dụ dỗ nhân dân bỏ kháng chiến trở về vùng tạm bị chiếm.


(1) Thời điểm giáp hạt ở Hà Tĩnh có hơn 30.000 nhân khẩu thiếu ăn; ở Thanh Hóa có 7.362 gia đình với 18.000 nhân khẩu trong 68 xã thiếu đói.
(2) Đợt một từ tháng 5 đến tháng 8-1945; đợt hai từ tháng 8 đến tháng 10-1953.
(3) Trong hai đợt giảm tô, tỉnh Thanh Hóa đã chia 38 xã đã phát động quần chúng thành 91 xã mới. Theo đó số chi ủy cũng tăng từ 401 lên 629.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #147 vào lúc: 27 Tháng Hai, 2016, 07:53:05 pm »

Sự đánh phá của kẻ thù đã gây ra cho Thanh - Nghệ - Tĩnh nhiều tổn thất về người và của. Từ đầu năm đến tháng 11-1953, ở Thanh - Nghệ - Tĩnh có 311 người bị địch giết hại, 392 người bị địch bắt, 766 nhà, 2166 thuyền bị đốt, ba cầu và đập ngăn cách kênh Mađa bị phá. Hai hệ thống nông giang lớn nhất Thanh - Nghệ - Tĩnh là hệ thống Bái Thượng (Thanh Hóa) và hệ thống Đô Lương (Nghệ An) bị đánh phá, không sử dụng được làm cho 125.000 mẫu ruộng thiếu nước tưới nghiêm trọng. Mặt khác, những động thái quân sự của kẻ thù cũng đặt Thanh - Nghệ - Tĩnh vào tình thế có thể bị tiến công bất cứ lúc nào.

Từ giữa năm 1953, địa bàn Thanh - Nghệ - Tĩnh đã có nhiều trận lụt lớn gây khó khăn cho sản xuất và đời sống nhân dân. Trận lụt ngày 15-6-1953 đã làm ngập 530 mẫu hoa mầu và lúa ở huyện Hưng Nguyên (Nghệ An), làm hỏng 1.125 mẫu ruộng làm muối ở Quỳnh Lưu (Nghệ An). Trận lụt ngày 15-8-1953 đã làm cho Thanh - Nghệ - Tĩnh hỏng 22.737 mẫu lúa, làm đổ 10.583 nhà, làm chết 23 người. Trận lụt ngày 20-9-1953 gây thiệt hại ở nhiều nơi ở hai huyện Hương Khê và Đức Thọ (Hà Tĩnh). Sự đánh phá của kẻ địch, thiên tai lụt lội và thái độ phản ứng của một bộ phận địa chủ đối với các chính sách thuế, chính sách ruộng đất của Đảng và Chính phủ đã làm cho một số lớn ruộng đất bị bỏ hoang. Phương tiện, công cụ sản xuất cũng thiếu nghiêm trọng. Ở Thanh Hóa, có vùng một con trâu phải cầy tới sáu mẫu. Bên cạnh đó, một lượng lao động khỏe mạnh, phần đông là thanh niên mang theo các phương tiện sản xuất đi dân công phục vụ các chiến trường(1) cũng làm giảm lực lượng sản xuất tại địa phương.

Đầu năm 1953, ở Thanh - Nghệ - Tĩnh diễn ra cuộc đấu tranh đem lại một số quyền lợi cho nhân dân, phát hiện và ngăn chặn kịp thời một số tổ chức phản động, song cũng phạm nhiều sai lầm gây nên tình trạng hoang mang trong nhân dân, làm cho quần chúng “nghi ngờ chính sách đúng đắn của Đảng”(2). Trước tình hình nhiều gia đình phải bán trâu, bò, tài sản để đóng thuế nông nghiệp, Hội nghị Thường vụ Liên khu ủy cũng nhận định có thể việc bình diện tích và sản lượng không sát, song các địa phương vẫn tiếp tục đưa diện tích, sản lượng lên cao để bảo đảm mức thuế trên giao. Theo sắc lệnh và điều lệ thuế nông nghiệp thì mức huy động thuế nông nghiệp hằng năm là 18% sản lượng, nhưng thực tế có địa phương huy động là 25%. Có nơi ở Hà Tĩnh, mặc dù mùa màng thấp kém, nhân dân vẫn phải đóng thuế đến 31% sản lượng. Việc thực hiện thuế công, thương cũng có một số lệch lạc không khuyến khích được nhân dân sản xuất. Những sai phạm trên đã làm cho một bộ phận trung nông, phú nông hoang mang sợ sệt, một số địa chủ bỏ sản xuất hoặc tìm cách chạy ra vùng địch(3). Công tác chỉnh đốn tổ chức cũng phạm phải sai lầm “làm cho sinh lực Đảng bị sút kém, nội bộ kém đoàn kết thống nhất”(4). Nhiều nơi có thái độ đối xử và sử dụng không đúng với những đồng chí xuất thân từ thành phẩn tiểu tư sản, trung nông, làm cho họ hoang mang, dao động. Nhiều đồng chí thuộc thành phần địa chủ bị đình chỉ sinh hoạt. Chỉ trong đợt hai phát động quần chúng giảm tô kết hợp với chỉnh đốn tổ chức, số đảng viên trong 38 xã phát động giảm tô ở Thanh Hóa giảm từ 7.406 đồng chí xuống còn 6.463 đồng chí(5), có 11 đảng viên bị đem ra đấu tố(6).

Những khó khăn khách quan và hạn chế sai lầm trong lãnh đạo trên đây có ảnh hưởng nhất định đối với Thanh - Nghệ - Tĩnh khi bước vào thực hiện những nhiệm vụ to lớn trong đông - xuân 1953-1954.

Chấp hành chỉ thị Tích cực phá âm mưu địch đánh ra vùng tự do của Bộ Chính trị, trên cơ sở phân tích những ưu khuyết trong công tác lãnh đạo và tình hình thực tiễn của liên khu, Hội nghị Liên khu ủy mở rộng (ngày 21-11-1953) đã xác định nhiệm vụ của ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh trong thời gian tới là:

“- Chấn chỉnh tổ chức lãnh đạo song song với giải quyết thông suốt tư tưởng cho các cấp bộ đảng và cán bộ các ngành, các cấp.

- Bảo đảm trang bị đủ vũ khí cho dân quân, du kích đánh giặc, tối thiểu là vũ khí thô sơ, tự tạo như bom, mìn, lựu đạn, hầm chông.

- Động viên toàn dân tích cực tham gia bảo vệ hậu phương gắn liền với phục vụ tiền tuyến và đẩy mạnh sản xuất”(7).


(1) Riêng chiến dịch Thượng Lào, Thanh Hóa và Nghệ An đã huy động hơn 36 vạn dân công và gần 6.000 xe đạp thồ phục vụ vận chuyển hàng hóa, lương thực cho bộ đội.
(2) Báo cáo số 146 BC/LK4 của Ban Chấp hành Đảng bộ Liên khu IV (27-12-1953).
(3) Ở Quảng Xương (Thanh Hóa) hai địa chủ Ứng Đình Ngọc và Tôn Thất Toại đã bỏ hoang 2.000 mẫu.
(4) Báo cáo số 146 BC/LK4 của Ban Chấp hành Đảng bộ Liên khu IV (27-12-1953).
(5), (6) Thống kê Tình hình chi bộ trước và sau phát động quần chúng ở Thanh Hóa của đoàn công tác quần chúng Trung ương ở Liên khu IV và Liên khu III (12-12-1953), tài liệu Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
(7) Quân khu IV: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Sđd, tr.334-335.
« Sửa lần cuối: 28 Tháng Hai, 2016, 07:52:54 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #148 vào lúc: 27 Tháng Hai, 2016, 07:55:06 pm »

Tiếp đó, tại Hội nghị lần thứ tư (từ 15 đến 21-12-1953), trong khi xác định nhiệm vụ chung của Liên khu, Liên khu ủy đã đặt nhiệm vụ phục vụ tiền tuyến lên công tác hàng đầu của Thanh - Nghệ - Tĩnh. Căn cứ vào Luật cải cách ruộng đất do Quốc hội thông qua (ngày 4-12-1953), bên cạnh chủ trương tiếp tục giảm tô, Liên khu ủy còn đặt nhiệm vụ cho Thanh - Nghệ - Tĩnh tranh thủ thời gian phát động quần chúng cải cách ruộng đất.

Những nhiệm vụ to lớn kể trên được quán triệt ở Hội nghị cán bộ đảng liên khu (ngày 15-2-1954), hội nghị cán bộ toàn Đảng bộ liên khu (từ ngày 20 đến ngày 27-2-1954)…, được phổ biến xuống các địa phương ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh.

Để giải quyết vấn đề cung cấp to lớn cho các đòn tiến công chiến lược trong đông - xuân 1953-1954, Trung ương Đảng vừa chủ trương khai thác hậu cần tại chỗ, vừa huy động nguồn lực từ các vùng tự do, vùng căn cứ địa. Theo quyết định của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Liên khu IV, chủ yếu là ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh, đảm trách cung cấp cho hai hướng chiến lược là Trung Lào và Điện Biên Phủ. Trong đó, Hà Tĩnh và một phần Nghệ An cung cấp cho chiến dịch Trung Lào, Thanh Hóa và một phần Nghệ An cung cấp cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Đây là vinh dự lớn lao, đồng thời là trách nhiệm nặng nề của quân và dân Thanh - Nghệ - Tĩnh. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ cung cấp cho các chiến dịch Tây Bắc (cuối 1952), Thượng Lào (giữa 1953) nguồn dự trữ của Liên khu IV đã gần như cạn kiệt. Cuối năm 1953 do lụt lớn xảy ra, vụ mùa bị thiệt hại nặng nề; đầu năm 1954, hạn hán kéo dài gây khó khăn cho sản xuất vụ chiêm. Thiên tai cùng với sự đánh phá của kẻ thù đã làm cho đời sống của nhân dân và cán bộ ở ba tỉnh gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Bên cạnh đó, Thanh - Nghệ - Tĩnh còn có trách nhiệm giúp đỡ cho quân và dân Bình - Trị - Thiên và viện trợ cho cách mạng Lào.

Mặc dù gặp nhiều khó khăn, các cấp bộ đảng, quân và dân Liên khu IV quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ Trung ương Đảng giao phó, dốc toàn lực phục vụ các chiến dịch.

Để công việc huy động sức người, sức của được thuận lợi, Hội nghị Ban Thường vụ Liên khu ủy họp từ ngày 29-9 đến 1-10-1953 đã quyết định thành lập Hội đồng cung cấp khu gồm các đồng chí: Cấp, Thái, La, Cưu, Học, Biên(1). Tỉnh Thanh Hóa, địa phương có tiềm lực kinh tế và con người mạnh nhất của liên khu được thành lập Hội đồng cung cấp riêng. Đến hội nghị cán bộ toàn Đảng bộ liên khu IV (từ 20 đến 27-2-1954), trong khi bàn về công tác cung cấp, liên khu đã chủ trương các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh xây dựng hội đồng cung cấp của từng tỉnh để mỗi địa phương có thể đảm bảo một hướng phục vụ.

Dưới sự chỉ đạo của Liên khu ủy, ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh gấp rút chuẩn bị một số lượng lớn lương thực, thực phẩm sẵn sàng ở các trạm tập kết để kịp thời phục vụ khi các chiến dịch diễn ra. Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh còn huy động hàng vạn dân công sửa chữa và mở thêm nhiều tuyến đường giao thông liên tỉnh và nội địa từng tỉnh; tu sửa cầu phà bảo đảm giao thông, tạo điều kiện thuận lợi cho vận chuyển người và hàng hóa. Năm 1953, Thanh Hóa đã sửa chữa hai đường giao thông chiến lược là đường Vạn Mai - Chuối và đường Trai Ngọc - Vĩnh Lộc, với chiều dài tổng cộng 200 km. Cuối năm 1953 đầu năm 1954, tỉnh Nghệ An đã huy động một số lượng lớn dân công mở đường 15A từ Đô lương (Cây Da Bu) qua Sen Sẻ lên Phủ Quỳ, qua Lâm La, đến Bãi Xăng ra tỉnh Thanh Hóa. Lực lượng dân công được tổ chức thành các đơn vị có cán bộ kỹ thuật đi kèm. Vượt qua nhiều khó khăn gian khổ, dân công Nghệ An đã hoàn thành vượt mực kế hoạch. Nhờ sự cố gắng của hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An, nhiều tuyến giao thông quan trọng như đường ôtô Vạn Mai - Như Xuân - Đô Lương - Nam Đàn; Kim Tân - Vĩnh Lộc… được thông suốt. Tỉnh Hà Tĩnh cũng huy động hàng vạn dân công để làm mới và tu sửa đường số 8, đường số 18, đường số 8, đường số 18, đường số 74, đường qua Truông Mèn, đường Linh Cảm, Tân Ấp… Bên cạnh đường bộ, các tuyến giao thông đường thủy cũng được khơi thông. Các tuyến đường thủy Thanh Hóa - Vinh; Vinh - Chu Lễ; Rác - Kỹ Anh… đã có tác dụng lớn trong thời kỳ này. Nhờ hệ thống đường thủy, bộ được tu sửa, làm mới mà giao thông trong nội hạt ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh được bảo đảm; đồng thời còn nối ba tỉnh với Liên khu III, với Bình - Trị - Thiên, với nước bạn Lào, tạo để nhân dân địa phương phát huy cao nhất các khả năng, hoàn thành nhiệm vụ cung ứng cho tiền tuyến.

Cùng với sự phát triển của mạng lưới giao thông, các phương tiện vận tải cũng được tăng cường mạnh mẽ. Đến cuối năm 1953, toàn liên khu có 10 xe ôtô; 488 xe trâu, bò; 320 xe gác, nhiều xe đạp thồ, xe cút kít… chủ yếu là ở Thanh - Nghệ - Tĩnh. Phần lớn các phương tiện trên đây đều thuộc các tổ chức vận tải(2). Mặc dù địch đánh phá mạnh, chính quyền lại chưa có chính sách khuyến khích tư nhân, song các phương tiện vận tải đường thủy cũng có sự phát triển đáng kể. Đến cuối năm 1953, toàn liên khu có 1.415 thuyền, 19 canô với trọng tải là 7.148 tấn được tập hợp trong các tổ chức vận tải; 549 thuyền và hai canô còn hoạt động riêng lẻ. Các phương tiện vận tải thủy có ưu điểm rõ rệt là tiết kiệm được nhân công và chi phí.


(1) Quyết nghị của Hội nghị Ban Thường vụ Liên khu ủy IV (từ 29-9- đến 1-10-1953) về thành lập Hội đồng cung cấp khu, số 87/LK4, tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
(2) Ở thời điểm cuối 1953, ở Thanh Hóa còn 212 xe trâu và ở Nghệ An còn 109 xe bò chưa vào tổ chức vận tải.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #149 vào lúc: 27 Tháng Hai, 2016, 07:57:19 pm »

Triển khai công tác cung ấp cho chiến dịch Thượng Lào, Liên khu ủy IV quyết định thành lập Ban cung cấp Mặt trận D (mặt trận Trung Lào) do đồng chí Nguyễn Văn Thân, Khu ủy viên phụ trách. Liên khu ủy cũng gấp rút huy động một số lượng lớn dân công nối liền con đường Vạn Mai đi Banaphào dài 550 km, trong đó có 50 km làm mới. Dưới sự chỉ đạo của Liên khu ủy, ba tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình đã huy động 54.075 người với 2.217 xe đạp thồ, chín xe ôtô, 1.429 thuyền cùng nhiều phương tiện vận chuyển khác lên đường phục vụ chiến dịch(1). Một hệ thống các trậm vận tải từ Nghệ An, Hà Tĩnh sang Lào được thiết lập.

Để bảo đảm công tác phục vụ và sinh hoạt, lực lượng dân công tham gia chiến dịch Trung Lào được biên chế như tổ chức quân sự, gồm các tổ ba người, tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn. Từ trung đội trở lên có các đảng viên hoặc quần chúng tích cực phụ trách. Các tổ chức đảng cũng được thành lập trong các đoàn dân công, do cấp ủy viên các địa phương đứng đầu. Tỉnh ủy Nghệ An còn cử đồng chí đại diện Tỉnh ủy, đại diện Hội đồng cung cấp mặt trận khu trực tiếp chỉ đạo lực lượng dân công hỏa tuyến Nghệ An theo bộ đội chiến đấu. Trong các đoàn dân công tham gia phục vụ chiến dịch Trung Lào còn có các công an viên làm công tác bảo vệ nội bộ. Các phương tiện và điều kiện sinh hoạt và phục vụ của dân công được chuẩn bị chu đáo như gạo ăn, thực phẩm, bao bì, bồ, thúng, quang gánh, bông băng, nhân viên cứu thương, trạm cấp cứu, các trạm ăn nghỉ dọc đường… Được sự quan tâm và tổ chức chỉ đạo chặt chẽ của các cấp ủy đảng, chính quyền, lực lượng dân công Nghệ - Tĩnh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cung cấp cho chiến dịch. Với quyết tâm cao, sau sáu tháng phục vụ, lực lượng dân công đã chuyển ra mặt trận 3.409 tấn gạo, 154 tấn muối, 2.102 con trâu, bò, cấp phát 50 tấn vũ khí đạn dược. Báo cáo sáu tháng đầu năm 1954 của Liên khu ủy IV ghi rõ: “Hà Tĩnh lần đầu tiên đóng vai trò chủ chốt của một chiến dịch đã bảo đảm được nhiệm vụ”(2).

Tiêu biểu cho sự đóng góp và vai trò quan trọng của dân công Nghệ - Tĩnh là sự hoạt động của 2.000 thanh niên xung phong đi theo các mũi hành quân của Đại đoàn 325. Lực lượng này đã thực hiện hai chức năng, vừa vận chuyển lương thực, thực phẩm, thuốc men, vũ khí cho bộ đội, vừa chuyển thương binh, liệt sĩ về sau, đồng thời còn thu hồi chiến lợi phẩm, thu dọn chiến trường. Cùng với bộ đội, dân công hỏa tuyến phải vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, nhiều người đã ngã xuống trong khi làm nhiệm vụ. Sau những chiến thắng vang dội ở đợt một, đầu năm 1954, Bộ Tư lệnh mặt trận Trung Lào quyết định mở cuộc tiến công phá vỡ tuyến phòng thủ đường 9 của địch. Để bảo đảm cung cấp cho đợt tiến công mới. Bộ Tư lệnh mặt trận đã sử dụng 1.200 thanh niên xung phong của Nghệ - Tĩnh phối hợp cùng với Tiểu đoàn 804 công binh của Đại đoàn 304 tổ chức thành 21 trạm vận chuyển trên đường 9 để kịp thời vận chuyển lương thực, thực phẩm, vũ khí cho bộ đội tác chiến. Lực lượng thanh niên xung phong Nghệ - Tĩnh đã tích cực tham gia, góp phần làm cho công tác chuẩn bị đảm bảo cung cấp nhanh chóng hoàn thành, tạo điều kiện cho bộ đội tiến công tiêu diệt địch theo kế hoạch.

Bằng công sức và cả xương máu, lực lượng dân công Nghệ - Tĩnh đã góp phần không nhỏ vào thắng lợi của chiến dịch Trung Lào. Trong gian khổ hy sinh, nổi lên nhiều đơn vị dân công tiêu biểu như C3, C6 Đức Thọ, C Mỹ Châu Thạch (Hà Tĩnh)… các cá nhân điển hình như Nguyễn Văn Hân, Nguyễn Văn Hữu, Nguyễn Thị Trúc (Đô Lương, Nghệ An)…

Không chỉ cung cấp cho chiến dịch Trung Lào, nhân dân Nghệ An - Hà Tĩnh còn phối hợp với nhân dân Quảng Trị, Thừa Thiên và nhân dân Liên khu V, tiếp tế, chuyển gạo, đạn cho Tiểu đoàn 436 thuộc Trung đoàn 101 Đại đoàn 325 xuống Hạ Lào tiến công địch. Thấm đẫm mồ hôi, công sức của nhân dân, những hạt gạo từ Nghệ An, Hà Tĩnh được chuyển qua một chặng đường dài tới 1.200 km để đến Atôpơ cung cấp cho bộ đội đánh địch ở Hạ Lào.

Trên hướng Điện Biên Phủ, nhân dân Thanh Hóa và Nghệ An đã huy động cao nhất nguồn lương thực và một số lượng lớn dân công phục vụ chiến trường. Để bảo đảm cung cấp được kịp thời, liên khu đã huy động lực lượng công binh đánh mìn, phá thác, khai thông đường thủy ngược sông Mã, đồng thời sửa chữa đường bộ cho ôtô và xe thồ vận chuyển thông suốt và bí mật.

Nhận lệnh hỏa tốc của Chính phủ, Tỉnh ủy Nghệ An đã nhanh chóng phát lệnh tổng động viên, huy động nhân dân miền bắc tỉnh dốc sức phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ. Đúng ngày mùng một Tết Nguyên đán Giáp Ngọ (tức ngày 3-2-1954) 32.000 dân công, trong đó có 2.000 dân công xe đạp thồ cùng hàng nghìn tân binh, thanh niên xung phong, công nhân kỹ thuật quân giới đã nô nức lên đường ra tiền tuyến. Thực hiện khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến”, “Tất cả để đánh thắng”, mọi ngành, mọi giời đều dồn sức cho Điện Biên Phủ. Có gia đình, cả cha con, dâu rể cùng ra tiền tuyến. Nhiều thiếu niên 15, 16 tuổi cũng hăng hái gia nhập thanh niên xung phong.


(1) Theo Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) , Sđd, t.2, tr.385.
- Theo Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh, t. I (1930-1954) Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, trong chiến dịch Trung Lào, tỉnh Hà Tĩnh đã huy động 56.000 người, trong đó 28.000 phục vụ trực tiếp trên đất Lào; 1.299 chiếc thuyền các loại, 294 xe đạp thồ.
- Theo Lịch sử Đảng bộ Nghệ An, t. I (1930-1954) Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, trong chiến dịch Trung Lào, tỉnh Nghệ An đã huy động hơn 20.000 dân công bộ, 1.500 dân công thồ, trong đó 20.000 dân công bộ đã theo đại đoàn 325 phục vụ hỏa tuyến.
(2) Báo cáo số 39 BC/LK4 (21-6-1954) của Ban Chấp hành Đảng bộ Liên khu IV, tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM