Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 12:09:12 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.  (Đọc 56623 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #40 vào lúc: 16 Tháng Chín, 2015, 10:38:30 pm »

(tiếp)

Trong khi các quân khí viên treo bom, tôi với Nadia và các hoa tiêu của chúng tôi một lần nữa xác định rõ trình tự hoạt động trên mục tiêu, thống nhất về chế độ bay, quy định gián cách giữa các máy bay lớn hơn thông thường khi tiến vào ném bom. Bằng gián cách lớn, chúng tôi dự kiến đánh lạc hướng kẻ thù và bảo vệ mình tránh tai nạn. Bạn không bao giờ biết chuyện gì có thể xảy ra trên tuyến đường bay. Do đó, với chiếc máy bay đầu tiên, và thứ hai, thứ ba, việc có thêm một phút rưỡi đến hai phút sẽ không thừa, để nếu cần thiết, sẽ quan sát được tốt hơn, đánh giá tình hình hiện tại và đưa ra quyết định đúng đắn.

Chúng tôi sẽ phải ném bom phi trường của kẻ thù ở khu vực Balaklava. Chúng tôi cất cánh lên không trung trước khi màn đêm buông xuống. Tuy nhiên, lần đầu tiên cất cánh với một tải trọng như vậy từ một khu vực núi đá không bằng phẳng trong ánh sáng ban ngày sẽ thuận tiện hơn và an toàn hơn. Do đó, chúng tôi dự kiến sẽ bay với tốc độ thấp hơn để băng qua tiền duyên trước khi đêm đến thay cho hoàng hôn.


Các hoa tiêu tính toán đường bay

Tôi và Katya xuất phát đầu tiên. Động cơ gầm lên và máy bay từ từ di chuyển ra khỏi vị trí. Để đề phòng, tôi hơi kéo dài quãng đường chạy đà và chỉ khi đạt được tốc độ đáng kể mới khẽ kéo cần lái về phía mình. Chiếc U-2 ngoan ngoãn và nhẹ nhàng tách khỏi mặt đất.

Tôi thở phào nhẹ nhõm: không quá tải. Nhưng máy bay phản ứng thế nào khi leo cao? Cần lên cao ít nhất 800 mét. Tôi chăm chú lắng nghe động cơ làm việc. Trong lúc này, tất cả mọi thứ bình thường, kim đồng hồ đo độ cao dịch chuyển đều đặn trên vòng tròn.

Khối núi tối sẫm từ từ trôi về phía máy bay. Chẳng mấy đến đường tiền duyên. Tôi cúi xuống qua mép buồng lái, nhìn đăm đăm vào những đường nét lờ mờ của mặt đất, và chỉ bất giác nhận thấy rằng trời còn khá sáng. Có chuyện gì vậy? Có phải chúng tôi tính nhầm? Nhìn vào đồng hồ, tôi hiểu ra mọi thứ. Mải suy nghĩ, tôi quên mất chế độ vận tốc bay quy định đã được chúng tôi thông qua, và thế là tôi đã vi phạm biểu đồ bay. Kết quả, cạnh trước biểu đồ sẽ cắt qua vào lúc hoàng hôn, như thế, chúng tôi phải đến mục tiêu ngay trước khi bóng đêm hoàn toàn ập xuống. Đây là điều xấu - máy bay có thể bị phát hiện trước thời hạn. Nhưng bây giờ không còn làm thế nào khác được.

Giảm nhỏ động cơ, tôi đưa máy bay hạ độ cao. Một suy nghĩ lóe lên trong óc: "Chỉ mong đưa được máy bay đến ranh giới của sân bay Balaklava!» Ryabova, như thể đoán được tâm trạng của tôi, không hiểu sao thì thầm rằng còn năm phút nữa mới đến giờ ném bom!.
Những giây phút ấy kéo dài lâu một cách đáng ngạc nhiên. Đường băng CHC đã hiện ra. Chưa thấy sự di chuyển trên đó. Hay chúng đã phát hiện ra chúng tôi và bây giờ ẩn nấp và chờ đợi cho đến khi chúng tôi ở trên các họng pháo của chúng? Cố gắng giữ bình tĩnh, tôi hỏi hoa tiêu xem có thấy rõ mục tiêu không.


Giải phóng Sevastopol

- Sang phải một chút! - Katya chỉ huy. - Ở rìa cánh đồng có gì đó lấp loáng. Trông giống như máy bay tiêm kích.
Vài giây khổ sở trôi qua. Đột nhiên, các đèn chiếu bật sáng, một màn hỏa lực như bão táp bủa vây chúng tôi.
Có lẽ do bất ngờ, bản thân tôi làm lắc máy bay, nhưng không hiểu sao tôi có cảm giác Ryabova đã ném bom. Tôi lập tức lượn vòng và giảm độ cao.
- Cậu điên à?! - Katya kêu lên. - Quay lại!
- Để làm gì? - Tôi hỏi. - Cậu cắt bom rồi cơ mà.
- Không phải thế. Toàn bộ bom vẫn dưới cánh máy bay.
Sau khi lượn đủ một vòng tròn, tôi tiến vào mục tiêu một lần nữa. Đạn cao xạ tiếp tục nổ ran. Tôi cố gắng thực hiện thao tác chống pháo phòng không và cơ động máy bay theo hình rắn lượn, ngoặt phải rồi ngoặt trái. Máy bay vẫn vâng lời, mặc dù khi tác động, bánh lái phản ứng không nhanh như trước. Thì chúng đây, những 300 kg cơ mà... Có vẻ như chúng không đoạt của chiếc máy bay nhiều như vậy - tất cả chỉ một phần nhỏ của một giây, nhưng những khoảnh khắc ấy quý giá làm sao!
Dây thần kinh của tôi căng thẳng đến mức giới hạn. Và tôi muốn hét lên với hoa tiêu: "Nhanh lên! Sao cậu cứ trì hoãn mãi!" Nhưng Katya không vội vàng. Tôi biết cô ấy sẽ không ném một quả bom nào khi chưa ngắm kỹ.

Những vệt đạn lửa đủ màu sắc ngày càng tiến gần hơn. Một trong những vệt đạn đó sượt qua ngay trước cánh quạt. Theo bản năng tôi bóp cần lái đến phát đau. Nhưng tiếng bom nổ vẫn chưa vang lên. Và sau một lúc nữa máy bay rung mạnh. Trong máy đàm thoại vang lên giọng Ryabova:
- Đã ném xong toàn bộ bom. Thoát ly được rồi.
Câu cuối cùng tôi hiểu ngay ý nghĩa trước khi nghe hết: vụ nổ trên mặt đất đã át tiếng nói. Theo sức nổ có thể đoán được rằng, Katya cắt bom đồng loạt tất cả một lần. Tôi như cất được trái núi đè nặng trên vai mình: cuộc thí nghiệm đã thành công.


Balaklava hòa bình...

Bây giờ là việc Popova: xét theo thời gian cô đã phải có mặt trên tuyến tiếp cận. Tôi ngoái lại, chờ đợi ánh lửa vụ nổ bùng lên. Mãi vẫn không thấy. Xuyên vào bóng tối bằng ánh sáng màu xanh nhạt, một vài dàn đèn chiếu mò mẫm khoảng không trên đầu sân bay. Sau đó đèn tắt, còn Nadia vẫn chưa xuất đầu lộ diện.
- Liệu có gì xảy ra với họ không? Cậu nghĩ sao, Katya?
- Chúng ta đừng vội kết luận - Ryabova trả lời tôi. - Chúng ta đi đến mục tiêu trước thời hạn, còn họ có thể bị chậm.
Và như để khẳng định lời nói của cô, đằng sau chúng tôi, bóng đêm đen một lần nữa bị xé toạc bởi các chùm đèn chiếu PK, súng cao xạ nổ vang rền. Và tiếp sau chúng, vòm trời bỗng sáng rực bởi ánh chớp của các vụ nổ.

Popova tiếp đất mười phút sau chúng tôi.
- Cừ lắm, các cô gái, - thiếu tá Rachkevich đón chúng tôi. - Tôi chân thành chúc mừng. Các cô hãy tính rằng, sau chuyến bay của các cô, thay vì một chúng ta có hai trung đoàn nữ KQ U-2.

Cùng đêm ấy, nhiều kíp bay đã bay đi ném bom với tải trọng bom tăng cường. Kể từ đó cho đến khi chiến tranh kết thúc, chúng tôi treo dưới cánh máy bay không dưới 300 kg bom, và có những trường hợp đã mang đến 400 kg. Và không có chuyện gì xảy ra, động cơ vẫn kéo tốt. Tất nhiên, máy bay sẽ hao mòn vì chuyện đó nhanh hơn một chút. Nhưng các cú đánh của chúng tôi xuống đầu kẻ thù sẽ mạnh hơn hẳn. Và điều đó mới là điều chủ yếu trong bảng thống kê cuối cùng.

* * *

Tháng Năm năm Bốn mươi Tư...
Tháng Năm - tháng mùa xuân của tình yêu và hoa, thời gian mà thiên nhiên tỉnh giấc sau một mùa đông dài. Tại Crimea, tất cả đang phủ màu xanh mướt và đặc biệt đơm hoa mãnh liệt. Trong những đêm mùa xuân thơm nồng nàn chúng tôi bay đến Sevastopol để ném bom xuống đầu kẻ thù.



Mũi Khersones mùa hè năm 1942. Thương binh Soviet tập đoàn quân độc lập miền Duyên hải bị bỏ lại trong chiến dịch di tản khỏi Sevastopol...

Bọn Hitler kéo về mảnh đất Sevastopol nhiều thiết bị quân sự, bao gồm cả pháo PK. Chúng có công sự cố thủ vững chắc, nằm sâu trong các hầm bê tông. Nhổ chúng ra khỏi chỗ rất khó khăn: kẻ thù bị ép về phía biển, bám chặt từng mét đất Crimean, đặc biệt tại mũi Khersones. Nhưng bọn phát xít Quốc xã không thể cứu vãn dù trên đất liền hoặc trên biển. Sevastopol đã trả giá với chúng bằng nỗi đau lâu dài của mình.

Tại mũi Khersones, nơi năm xưa những người bảo vệ cuối cùng của thành phố từng chiến đấu, quân Đức dồn về rất nhiều. Chúng không có nơi nào để rút lui. Đằng sau là biển ...

* * *

Trận chiến Crimea sắp kết thúc. Kể từ cuối tháng Tư, trung đoàn đóng quân tại Chebotarka nằm cách hai cây số về phía đông thành phố Saki. Từ đó chúng tôi bay đi kết liễu kẻ thù tại Sevastopol, trong khu vực Balaklava và cổng Bajdar, mũi Khersones. Ở đây, bọn Hitler vẫn còn ba sân bay được sử dụng để sơ tán khẩn cấp qua đường biển các trang thiết bị và sinh lực. Để tăng sức mạnh các đòn đánh của mình, lực lượng không quân của chúng ta bắt đầu áp dụng trong khu vực này của mặt trận một hệ thống mới xử lý các mục tiêu của kẻ thù - bay thành nhiều tầng. Điều này cho phép giáng đòn tập trung hơn và nặng nề hơn cho kẻ địch.

Nhưng bay thành nhiều tầng cao đòi hỏi các hoa tiêu và nữ phi công phải có sự chăm chú đặc biệt, các tính toán chính xác. Để ngăn ngừa va chạm trên không, chúng tôi bay với các đèn thân bật sáng, và chỉ tắt chúng khi vào tiếp cận mục tiêu. Và bất chấp sự phức tạp ngày càng tăng của công việc, trên đoạn phòng thủ của kẻ thù, đang bão hòa các phương tiện phòng không dày đặc, trong quá trình chiến đấu giải phóng Sevastopol, toàn trung đoàn không bị mất bất kỳ phi hành đoàn nào.

Về tải trọng, các cô gái duy trì trong thời kỳ đó, thuyết phục nhất là nói bằng ngôn ngữ cô đọng của những con số: trong thời gian chiến đấu ở thành phố-anh hùng trung đoàn đã thực hiện 1.147 phi vụ chiến đấu, trung bình 150 chuyến bay trong một đêm.

Trong những ngày khó quên ấy, số phận đã cho tôi một cuộc gặp bất ngờ thú vị. Tôi thường nhớ về các bạn bè tại câu lạc bộ HK, đôi khi có được từ họ một số tin tức ít ỏi, biết rằng có ai đó đang ở mặt trận của chúng tôi, ngay bên cạnh tôi. Nhưng cho đến bây giờ tôi chưa từng gặp được một ai trên ngã ba đường của những con đường mặt trận. Và tôi mong làm sao, dù chỉ một thoáng, nhìn thấy một khuôn mặt quen thuộc, cảm nhận được cái bắt tay siết chặt của một người bạn cũ, nghe từ người ấy một vài lời!

Một lần, khi trở về sau một phi vụ chiến đấu thường lệ, và nhân tiện các quân khí viên đang khắc phục một số trục trặc, tôi trèo ra khỏi buồng lái để duỗi đôi chân tê cứng của tôi một chút.

Ui chao, thật khỏe khoắn biết bao khi dưới chân bạn là mặt đất rắn chắc! Đặc biệt là nếu trước đó trong suốt ba giờ bạn chỉ làm độc một việc là cất cánh, cơ động dưới lưới lửa của các xạ thủ cao xạ kẻ thù, hạ cánh rồi lại cất cánh. Tôi khoan khoái duỗi tay duỗi chân, làm một vài bước và đột nhiên nghe thấy giọng trực ban:
- Chechneva - về SCH, gặp trung đoàn trưởng!
Thông thường trong đêm chiến đấu không bao giờ người ta làm các nữ phi công lo ngại bởi những lệnh gọi như vậy. Lòng lo sợ, tôi chạy đến sở chỉ huy.
- Không cần, thoải mái đi, thoải mái đi - Thiếu tá Bershanskaya chặn tôi lại, khi thấy tôi đứng nghiêm theo tư thế "nghiêm" và muốn báo cáo. - Chuyện hoàn toàn cá nhân. Cô có khách đến thăm đây.

Mỉm cười bí ẩn, chị ấy bước sang một bên, và xuất hiện trước mặt tôi - ôi làm sao tôi có thể nghĩ ra được! - Huấn luyện viên đầu tiên của tôi. Tôi choáng váng trong niềm vui bất ngờ, và có lẽ đã đứng yên đến một phút miệng há ra, không thốt lên nổi một lời.
- Nào, xin chào - tôi nghe giọng anh nói - Xin chào, đồng chí thượng úy cận vệ!
- Anh Misha! - bất giác tôi buột miệng kêu lên. - Mikhail Pavlovich!
Duzhnov bước về phía tôi, và chúng tôi hồi lâu im lặng và mỉm cười bắt tay nhau. Thế là điều tôi mơ ước đã xảy ra. Tạo hóa tỏ ra hào phóng với tôi hơn là tôi có thể mong đợi, nó mang lại cho tôi không chỉ một người đồng chí, mà còn là một người bạn, một giáo viên được yêu quý và một nhà giáo dục.

Duzhnov vẫn như vậy, cân đối, dáng người thẳng, quần áo chỉnh tề và thậm chí cạo râu ria nhẵn nhụi. Chiến tranh và sự bất tiện của tiền tuyến không làm thay đổi thói quen của anh. Tôi đã nhìn thấy anh lần đầu tiên như thế cách đây sáu năm trên sân bay của Osoaviakhim, nay lại gặp anh hệt như vậy trên tiền tuyến, nơi mà không có chỗ để tắm rửa cho đúng cách.
- Làm sao mà anh có mặt được ở đây? - Cuối cùng tôi đã tìm lại được tiếng nói của mình.
- Thế còn cô?   
- Em ở trung đoàn của Bershanskaya.
- Thế đấy, chúng ta là hàng xóm. Trung đoàn của chúng tôi cũng thuộc quân số sư đoàn không quân cận vệ 2. Thật không ngờ lại được gặp học trò của mình ở ngay bên tường thành Sevastopol, và trong một đêm chiến trận nóng bỏng thế này.
- Nghĩa là anh cũng bay trên máy bay U-2? Nhưng thế đấy, chiến đấu bên cạnh nhau mà không biết về nhau.
Duzhnov giang hai tay:
- Chuyện gì cũng có thể xảy ra. Và thú thật, tôi vẫn cứ tin chắc rằng cô đang ở bên không quân tiêm kích. Cô còn nhớ các kế hoạch của mình không?
- Không kết quả, Mikhail Pavlovich. Raskova thuyết phục, khuyên em sang với các phi công ném bom đêm.
- Cô có hối hận không?
- Có lẽ cũng có chút hối tiếc. Thế còn anh?
- Cũng có một chút.
Và cả hai chúng tôi bật cười, hoàn toàn hiểu nhau. Cuộc gặp gỡ của chúng tôi kéo dài không quá năm phút. Tôi vội vã ra bay chuyến tiếp theo. Duzhnov cũng đang chờ máy bay.

Mikhail Pavlovich đột nhiên xuất hiện tại nơi đóng quân của chúng tôi - anh bay với phi đội của mình đi bổ sung dự trữ bom mà trung đoàn của anh thời gian đó vừa hết.
- Chechneva, ra máy bay! - một ai đó hét lên. Chúng tôi ra khỏi SCH.
- Nào, Marina - lần đầu tiên bỗng Duzhnov gọi tôi bằng tên - Chúc em thành công. Có thể chúng ta sẽ gặp lại nhau trong một hoàn cảnh khác.
- Tại sao lại là "có thể"?
Duzhnov dừng lại và nói khẽ:
- Chiến tranh vẫn tiếp diễn... Em còn nhớ Matznev không?
- Anatoly Sergeyevich? - Trái tim tôi thắt lại vì một linh tính.
- Đúng. Bọn anh đã chiến đấu cùng nhau. Anh còn sống sót, nhưng anh ấy đã hy sinh ở Stalingrad. Thế đấy, chuyện ấy biết lúc nào sẽ xảy ra!
Duzhnov lần nữa siết chặt tay tôi, quay đi và bước nhanh vào đêm tối. Tôi đứng lại một lúc, lắng nghe âm thanh những bước chân sải rộng của anh dần xa và chậm rãi đi ra máy bay.

Cuộc gặp gỡ bất ngờ này mang lại cho tôi cả niềm vui và nỗi buồn. Tin về cái chết của Matznev làm mờ niềm vui của tôi, nhưng không thể hoàn toàn lấy khỏi trái tim tôi một niềm xúc cảm lớn lao, không diễn tả được bằng lời, đó là lòng biết ơn đối với số phận đã cho tôi cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng dễ chịu này.

Một tuần nữa trôi qua, và cuối cùng điều chờ đợi từ lâu đã thành sự thật. Quân đội Liên Xô hoàn toàn giải phóng Crimea khỏi bọn cặn bã phát xít.


...Và hai năm sau: mũi Khersones tháng Năm năm 1944, nơi chấm hết với tàn quân Đức tập đoàn quân dã chiến 17 trong Chiến dịch giải phóng Crimea.

Bọn Hitler điên rồ đã mất phương hướng hoàn toàn. Một trong những chiếc máy bay của chúng bay sát đầu ngọn cây trên đầu tuyến xuất phát của chúng tôi tại Chebotarka, lao từ bên này sang bên kia và hạ cánh trên sân bay của trung đoàn nam không quân hàng xóm với chúng tôi. Tàn quân của các sư đoàn địch, trong cơn co giật trước cái chết, bám chặt vào mũi Khersones, đã bị tiêu diệt hoàn toàn tại đây. Bầu trời thanh bình lại xanh biếc trên bán đảo Crimea, những tràng đại bác và những loạt bom nổ không còn át tiếng sóng vỗ bờ.
Nhà thơ đại tá Aleksandr Kudryashov nói một cách tuyệt vời về những ngày tháng ấy:

Lại mùa xuân. Cây dương Crimea
Đập nhịp bồi hồi trong từng thớ lá.
Sevastopol đón chào quân ta,
Nhận nhau qua đôi cánh ngôi sao.
Trong phút thiêng liêng, đất trời ngây ngất,
Tháng Năm trên mặt đất, tháng Năm trong tim.
Đây bờ Nam Crimea êm ả!
Phiếu nghỉ hãy phát cho tất cả chúng ta.


Buổi sáng ngày 12 tháng Năm là một buổi sáng đẹp trời đầy nắng. Chúng tôi đưa máy bay về sân đậu, còn bản thân thì tắm rửa sạch sẽ, chỉnh đốn lại mình. Mọi người hy vọng trung đoàn sẽ được nghỉ ít nhất một tuần. Hầu hết chúng tôi lần đầu tiên đến Crimea, và các cô gái mơ ước được đi tắm biển, tham quan các địa điểm đẹp như tranh vẽ trên bờ biển phía nam. Cùng với các bạn gái tôi đi ra bãi biển. Chim hải âu kêu thấu tâm can. Không trung và nước biển hòa cùng màu xanh, giống như một bức tranh màu nước. Không thể tin được rằng ở đâu đó chiến tranh đang tiếp tục.

Nhưng chúng tôi chưa được nghỉ ngơi. Ước mơ của chúng tôi chưa được thỏa mãn. Hai ngày sau chúng tôi nhận được lệnh: bay ngay tới Phương diện quân Bêlarút 2, tới tập đoàn quân không quân 4.

Sáng ngày 15 tháng 5 trung đoàn cất cánh từ sân bay Chebotarka, tập hợp đội hình theo từng phi đội, lấy hướng phương bắc. Trong khi lượn vòng, tôi nhìn ra biển, biển đang được sưởi ấm dưới ánh mặt trời. Biển đang tiếp tục cuộc trò chuyện bất tận với bờ và không mệt mỏi lướt những làn sóng thêu ren lộng lẫy vào bờ.

Nào, xin chào tạm biệt. Không, hẹn gặp lại, Biển Đen! Cho đến khi gặp lại nhau lần này, dẫu bị dày vò, nhưng Crimea vẫn tuyệt đẹp như xưa! Tôi tin - chúng ta sẽ gặp lại nhau. Chúng tôi sẽ trở lại với bờ biển xanh như ngọc của người, nhưng không phải như những người lính. Và tôi nghĩ rằng những bờ bãi của người sẽ không bao giờ còn bị khuấy động bởi tiếng gầm rú của một cuộc chiến tranh mới.
.........
« Sửa lần cuối: 17 Tháng Chín, 2015, 10:19:40 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #41 vào lúc: 17 Tháng Chín, 2015, 04:58:30 pm »

(tiếp)

Phía trước là nước Đức

Những chiếc U-2 của chúng tôi bay xa và xa hơn nữa về phương bắc. Bầu trời trên đầu chúng tôi đã sạch bóng máy bay phát xít. Phía dưới là mảnh đất quê hương đầy thương tích.

Những cánh đồng vô tận của Ukraine dần dần được thay thế bằng những cánh rừng thấp và nhỏ, ngày càng mở rộng ra, trở nên dày đặc hơn, cây cối cao hơn và cuối cùng chuyển thành những cánh rừng thực sự, hùng vĩ, bạt ngàn không có hồi kết.

Belorussia! Từ đây đến Moskva thật xa - hàng trăm cây số, nhưng thiên nhiên Belarus có gì đó nhắc nhớ đến Moskva ruột thịt của tôi. Cũng những hàng bạch dương lá xoăn tươi tắn, những cây phong như được chạm trổ tinh vi, những cây sồi hùng tráng, giống như ở vùng ngoại ô Moskva, yên tĩnh, lấp lánh vẻ đẹp tươi vui thân thiện.


Chiều tối Po-2 bay đến sân bay "nhảy cóc"

Mảnh đất Belarus thời điểm đó vẫn còn đang nằm dưới ách phát xít.
Các bạn đồng đội cùng trung đoàn quê gốc Belarus đặc biệt lo lắng: hoa tiêu và bí thư chi bộ đảng phi đội Polina Gelman, hoa tiêu Asya Pinchuk, kỹ thuật viên hàng không Anna Kirilenko. Khép mình, ủ rũ là đại úy cận vệ Zinaida Gorman: bọn chiếm đóng Đức bắn chết cha mẹ chị, còn bé trai sáu tuổi bị chúng chôn sống trong lòng đất.

Chúng tôi tiếp đất tại Sesche. Chúng tôi nhìn quanh mà không thấy một ngôi nhà nhỏ hoặc một lều chứa cỏ cho gia súc nào. Chỉ có những khóm rừng bạch dương thân ái lắc cành, như thể vui mừng đón chúng tôi. Xung quanh những khóm rừng đó cảnh tượng với chúng tôi thật không bình thường. Chúng tôi đã quen với những ngọn núi, với biển, ở đây bao quanh chúng tôi là những cánh đồng bằng phẳng và rừng rậm.

Trung đoàn của chúng tôi nằm trong đội hình sư đoàn KQ ném bom đêm 325.
Chúng tôi nhanh chóng xây dựng nơi ăn nghỉ tại một khu rừng bạch dương, xung quanh sân bay mọc lên cả một thị trấn những căn nhà âm.

Tuy nhiên, chúng tôi không kịp thích nghi được với Sesche - phải bay tới một địa điểm khác, tới làng Pustynka, ngôi làng có cái tên phản ánh cực kỳ chính xác thực tế. Sau cuộc chạy trốn của bọn phát xít Hitler, xung quanh nó trông giống như một sa mạc.

Toàn bộ trung đoàn chúng tôi không thể bố trí đủ ở Pustynka. Hai phi đội (của Dina Nikulina và của tôi) được triển khai tại khu rừng gần đó. Tất cả sẽ chẳng có chuyện gì, nếu lũ muỗi không gây rắc rối cho chúng tôi sống yên. Để tìm kiếm sự trốn tránh khỏi chúng, chúng tôi chuyển đến ở trong một tu viện cũ.

Ba tuần đầu tiên, trung đoàn chỉ làm công tác chuẩn bị thật kỹ lưỡng cho các trận chiến trong điều kiện mới. Sau Kuban và Crimea, ở đây có nhiều điều bất thường đối với các tổ bay. Tại đó  chúng tôi quen với các điểm tham chiếu chính xác và rõ ràng: núi, biển, các điểm dân cư lớn. Ở đây mọi thứ rất đơn điệu, mặc dù địa hình vẫn đủ loại: bãi cát, rừng, đầm lầy. Định hướng vào ban đêm trở nên khó khăn hơn nhiều. Và khó khăn này cần phải được khắc phục.

Đội ngũ nhân viên kỹ thuật dưới sự lãnh đạo của kỹ sư trung đoàn Sofia Ozerkova, các kỹ sư Nadezhda Strelkova và Clavdia Ilyushina chuẩn bị sơn sửa lại những chiếc máy bay, đã bị quần tơi tả tại Crimea.

Tổ chức đảng và đoàn Komsomol của trung đoàn, dẫn đầu là bí thư đảng ủy Maria Runt và bí thư đoàn Komsomol Aleksandra Khoroshilova, tiến hành một khối lượng công tác giáo dục lớn lao về việc chuẩn bị tinh thần cho đội ngũ quân nhân bước vào các trận chiến sắp tới.

Trong khi đó các sự kiện quan trọng đang chín muồi. Đêm 23 tháng 6 năm 1944 bộ đội PDQ Belorussia 2 chuyển sang tấn công. Sau khi vượt sông Pronya, họ đã phá vỡ tuyến phòng thủ được tổ chức kiên cố của quân thù, dựng lên nhằm bảo vệ hướng Mogilev. Nhiệm vụ của trung đoàn chúng tôi là tham gia màn hỏa lực chuẩn bị của không quân, chế áp các hỏa điểm trên dải phòng ngự chính của kẻ thù, và liên tục ném bom bó chặt các hành động của kẻ thù, tạo điều kiện cho bộ đội PDQ đột phá thành công.


E.D.Bershanskaya trong cabin trước Po-2

Ban đêm, tại tuyến xuất phát chúng tôi giương Lá Cờ Cận vệ. Một cuộc mít tinh diễn ra. Trung đoàn trưởng thiếu tá cận vệ E.D.Bershanskaya cổ vũ các quân nhân hãy mang Lá Cờ chiến đấu của chúng tôi một cách vẻ vang đi qua mảnh đất Belarus, đánh bại kẻ thù theo phong cách Cận vệ, cũng như chúng tôi từng đánh bại chúng ở Terek, Kuban, trên bán đảo Taman và Crimea.

Theo kế hoạch sử dụng lực lượng chiến đấu, trung đoàn của chúng tôi tiêu diệt quân đội Hitler trong khu vực Pereloga. Theo quyết định của trung đoàn trưởng, các kíp bay hoạt động đơn chiếc từ độ cao 700-750 mét với vòng ngoặt bên phải phía trên mục tiêu. Đòn tấn công đầu tiên bằng các máy bay của cả trung đoàn diễn ra vào đêm 23 tháng 6. Các phi vụ tiếp theo được sắp xếp với tính toán tác động liên tục lên mục tiêu với gián cách thời gian xuất kích máy bay không hơn hai-ba phút. Tuyến đường bay sẽ là ngắn nhất: điểm xuất phát - mục tiêu. Đêm đó, theo số liệu của các kíp bay trung đoàn chúng tôi, tại Pereloga xảy ra 9 ổ phát cháy và 13 vụ nổ lớn.

Và khi quân đội Liên Xô mở rộng đột phá, tiến nhanh về phía trước, chúng tôi ném bom các đoàn xe rút lui của bọn phát xít trên các con đường, tại các bến phà và các nhà ga đường sắt.

Tại Belarus chúng tôi phải hoạt động trong các điều kiện mới. Chúng tôi chờ đợi sẽ gặp ở đây, như ở Crimea, sức chống trả mạnh mẽ của không quân tiêm kích của kẻ thù và pháo phòng không của chúng. Nhưng hóa ra không có cả hai. Không phải vì bọn Đức quốc xã thiếu khí tài trang bị. Đơn giản chỉ vì tốc độ tấn công của quân đội Liên Xô rất nhanh chóng và bọn Đức rút lui vội vã đến múc chúng không có cơ hội xây dựng hệ thống phòng không có tổ chức. Dù sao, trong vòng một tháng chiến đấu, những chiếc U-2 của chúng tôi chưa lần nào rơi vào lưới lửa pháo phòng không thực sự. Trong ý nghĩa này, tình hình hiện nay không làm ta rút ra được bất cứ sự so sánh nào với tình hình mà chúng tôi phải hành động trước kia.

Nhưng ở Belarus có những khó khăn của nó. Bắt đầu từ chuyện, vào ban đêm, những khu rừng rậm và thiếu những mốc định hướng dễ nhìn ra nào đó đã gây khó khăn lớn cho việc quan sát trực quan và tìm kiếm các mục tiêu. Còn các bãi trống để bay! Các bãi ít nhiều phù hợp hầu như không có, phải tìm kiếm chúng rất khó khăn. Và khi tính rằng chúng tôi không ở lại đâu lâu hơn ba ngày, thì thậm chí một người không biết gì cũng thấy rõ rằng sự bất tiện này là một yếu tố rất quan trọng.

Nhưng dù thế nào, chúng tôi vẫn bay, tìm kiếm kẻ thù và ném quà của mình xuống đầu chúng. Chúng tôi làm việc căng thẳng, thực hiện nhiều phi vụ mỗi đêm. Khi ở gần Minsk, quân đội của chúng ta lùa vào nồi hầm 30 sư đoàn phát xít, các chuyến bay ban ngày bổ sung thêm cho các chuyến bay hằng đêm. Bây giờ chúng tôi tiến hành bay trinh sát, tìm kiếm các nhóm quân của bọn Đức quốc xã rải rác trong rừng rậm, còn sau đó thường tự mình tham gia vào việc tiêu diệt chúng.

Tốc độ tấn công của quân đội Xô Viết rất cao. Từ 23 Tháng Sáu đến 30 tháng 7 năm 1944, quân ta tiến về phía tây khoảng vài trăm km với những trận đánh liên tục.

Trong quá trình chiến dịch tấn công, trung đoàn chúng tôi phải di chuyển nơi đóng quân mười lần. Để đảm bảo sự không ngừng nghỉ của các hoạt động chiến đấu của trung đoàn, các đội tiền tiêu của nó phải đi trước đến các điểm đóng quân mới. Các nữ phi công giàu kinh nghiệm và các hoa tiêu đã bay tìm kiếm và xác định các khu vực thích hợp. Trong thời gian này, có bốn trường hợp khi ban ngày bay tìm kiếm các địa điểm đặt căn cứ, các phi hành đoàn đã phát hiện các nhóm lính phát xít Đức Quốc xã, tàn quân của những đơn vị bị đánh tan. Các hoa tiêu dùng pháo hiệu hoặc hướng bay chỉ dẫn cho các đơn vị mặt đất biết vị trí các nhóm đó và giúp đỡ bắt chúng làm tù binh.

Ngày 10 tháng 7, chúng tôi được giao nhiệm vụ: tiêu diệt trong thời gian ban ngày một nhóm Hitler trong khu rừng phía đông điểm dân cư Borki. Cho đến lúc bấy giờ, chúng tôi chưa bao giờ phải ném bom kẻ thù giữa ban ngày từ chiếc máy bay bằng gỗ dán Po-2 (*) bé nhỏ của chúng tôi. Nhưng phi hành đoàn đã đương đầu thành công với thử thách mới này đối với chúng tôi. Nhóm quân phát xít lớn lang thang trong rừng đã hoàn toàn bị các đơn vị mặt đất tiêu diệt với sự giúp đỡ của các máy bay của chúng tôi.

Vào thời điểm đó, trung đoàn nữ KQ nói chung thường thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu khác nhau: phá hủy cầu phà của kẻ thù, tiêu diệt sinh lực của chúng ở những nơi chúng tập trung, ném bom các con đường giao thông, không cho các đoàn xe của bọn Đức đang rút lui di chuyển, tiến hành trinh sát phát hiện các toán quân địch ẩn náu rải rác trong rừng.

Trung đoàn phó Serafima Amosova cùng với hoa tiêu của trung đoàn Larissa Rozanova một lần đã thiết lập kỷ lục độc đáo: trong một chuyến bay phát hiện bảy đội quân phát xít. Phi hành đoàn Nadezhda Popova cùng hoa tiêu Evgenia Glamazdina bất ngờ phát hiện một nhóm quân Hitler quân số lên đến một trăm người. Hoa tiêu đã dùng pháo hiệu hướng dẫn các đơn vị mặt đất tiến tới chỗ kẻ địch và giúp bắt chúng làm tù binh. Những chuyến bay tương tự được gần như tất cả các phi công và hoa tiêu giàu kinh nghiệm thực hiện.

Phải nói rằng, trong thời kỳ các trận đánh ở Belarus, chúng tôi có nhiều bận bịu không phải ở trên không mà là trên mặt đất. Chẳn hạn, chúng tôi không thành công trong việc thu xếp sinh hoạt của mình dẫu chỉ ở dạng sơ khai. Trong một vùng đất bị hủy hoại, bị bọn phát xít thiêu cháy thành tro bụi, không thể nói đến, thậm chí chỉ là về những tiện nghi tối thiểu. Do thường xuyên di chuyển, việc xây dựng cơ bản không thể đủ thời gian. Mái nhà đối với chúng tôi thường chính là cánh máy bay của chính chúng tôi. Dưới những đôi cánh chúng tôi trú mưa, ngủ, nghỉ ngơi. Ngay cả ban tham mưu trung đoàn cũng đặt giữa trời. Chỉ trong trường hợp trời mưa liên tục, người ta mới dựng lên một căn lều lớn. Và không có gì, chúng tôi vẫn vững vàng chịu đựng. Bất chấp mọi điều, tâm trạng chúng tôi luôn luôn tốt.

(*): Từ 1944, để vinh danh nhà thiết kế máy bay N.N.Polykarpov, máy bay U-2 được đổi tên thành Po-2.
.........
« Sửa lần cuối: 19 Tháng Chín, 2015, 12:13:46 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #42 vào lúc: 18 Tháng Chín, 2015, 12:00:30 am »

(tiếp)

Điều duy nhất làm chúng tôi chán nản và tra tấn các dây thần kinh - đó là sân bãi cất cánh. Chúng thường quá nhỏ đến mức cất cánh và hạ cánh phải tiến hành trên cùng một đường băng. Nhưng điều đó sẽ vẫn ổn, hãy kiếm một sân đủ chiều dài. Và trong thực tế, việc tìm được một điều như thế quả là một sự hành hạ đúng nghĩa đen. Bạn bay, thường là vậy, và xung quanh chỉ toàn rừng rậm, đầm lầy, sông ngòi. Thoáng thấy một khoảng trống đâu đây, và những chỗ ấy, như ta thường nói, đếm trên đầu ngón tay.

Đây là một chỗ như thế gần làng Novoelnya mà chúng tôi sục sạo-tìm kiếm mãi. Tốt hơn nữa thì không có, chúng tôi chọn chỗ lớn nhất cả đám, và nó suýt nữa trở thành một cái bẫy đối với chúng tôi. Hạ cánh rồi mà không thể cất cánh - quá ít chỗ để chạy đà và khu trống đó thực sự bị rừng bóp nghẹt. Bay lên rồi lại bay lên, nhưng chạm vào cây. Phải làm gì? Bứt đầu bứt tóc hồi lâu, cho đến khi ai đó đề nghị sử dụng các nguyên tắc của súng cao su. Chúng tôi quyết định thử. Lăn máy bay ra tuyến xuất phát, nữ phi công khởi động máy, một vài người tóm chặt cánh dưới máy bay. Khi động cơ đã chạy hết công suất, theo khẩu lệnh mọi người chạy tản sang hai bên. Được giải thoát khỏi lực ghìm giữ nó, chiếc Po-2 lao về phía trước và gần như tách đất mà không chạy đà. Nhưng rừng ngay bên cạnh. có vướng cây hay không? Chúng tôi nín thở đứng tim theo dõi, xem chiếc máy bay động cơ đang hú lồng lên, từ từ bay lên trời thế nào, và khi cuối cùng giữa các bánh xe và tán rừng xuất hiện một khoảng trời màu xanh, các cô gái mới thở phào nhẹ nhõm. Tất nhiên, sau đó chúng tôi phải đi tìm một sân bay mới.


Quân khí viên M.Yurodieva lắp ngòi cho bom

Chúng tôi đứng chân lâu hơn một chút trong ngôi làng lớn Novosady, ngôi làng chìm sâu trong các khu vườn. Giữa hai dãy nhà là một con đường rộng trải dài. Chúng tôi sử dụng ngay nó làm đường băng, mà không có phải làm gì quá phức tạp. Máy bay nổ máy khởi động dưới những tán cây, cọ đuôi vào dãy bờ rào.

Đó là một thời gian không yên ổn. Bọn Hitler, còn sống sót sau khi bị đánh tan, ẩn nấp trong các khu rừng xung quanh. Một số nhóm ngoan ngoãn đầu hàng, trong khi những nhóm khác, gồm những tên Đức quốc xã cứng đầu, cố gắng bằng mọi giá luồn lách tìm về phía quân của chúng. Đây là những tên rất nguy hiểm, và chúng tôi luôn phải cảnh giác. Súng máy và tiểu liên luôn được giữ ở tư thế sẵn sàng. Vào ban đêm, chúng tôi đặt các đội cảnh vệ tăng cường canh gác. Chúng tôi ngủ ở cạnh máy bay, sẵn sàng cất cánh lên không từ lần báo động đầu tiên.

Không phải không có cảnh khôi hài xảy ra. Một lần, vào đêm khuya tất cả những người không phải bay giật mình vì một tiếng rống kinh hoàng của chú heo. Đơn giản là ban đêm những chú heo thường không la hét. Nghĩa là chúng bị kinh động, và nhiều khả năng - bọn Hiler đói.
Các cô gái đứng bật dậy, nắm lấy vũ khí.
- Chạy nhanh giúp lũ heo đi! - Một người nào đó hét lên trong bóng tối. - Nếu không chúng ta sẽ không có thức ăn!

Một trận bắn nhau bùng lên. Đâu đó ở bìa làng súng máy nổ tành tạch, pháo hiệu vút lên bầu trời. Bọn phát xít Đức quốc xã - đúng là chúng - bị buộc phải cuốn gói về chỗ chúng mà không kiếm chác được gì.

Chẳng mấy chốc tất cả lắng xuống, và các cô gái không phải trực nằm xuống nghỉ ngơi. Tôi cũng ngồi ghé tạm xuống. Chỉ vừa mới bắt đầu thiếp đi, sự yên lặng đã bị phá vỡ bởi một phát súng. Một lần nữa, tất cả lại nhốn nháo, nắm lấy vũ khí. Nhưng lần này là báo động giả. Hóa ra bị tiếng ồn và cuộc bắn nhau làm cho lo sợ, con bê non của ai đó lồng lên chạy khỏi chuồng của nó trong vườn và lang thang ở đó cho đến khi tới gần người gác. Người đó hoảng sợ và đã bắn.

Sáng hôm sau, mười lăm chiến sĩ thuộc tiểu đoàn phục vụ phi trường, trang bị tiểu liên và lựu đạn ra bờ sông trinh sát. Qua khoảng nửa giờ từ phía sông vẳng lại tiếng chạm súng bắn nhau rất rõ. Chiến sĩ liên lạc chạy lại báo cáo rằng đã tìm thấy một nhóm quân Đức lớn, và do đó cần sự giúp đỡ của chúng tôi.


Katya Piskareva, huấn luyện viên CLBHK Kalinin trước chiến tranh. Tốt nghiệp lớp HLV bay Trường Hàng không Kherson năm 19 tuổi, là một trong những phi công xuất sắc nhất trung đoàn, có thể bay mà không cần hoa tiêu. Biên đội trưởng, đã thực hiện hơn 800 phi vụ chiến đấu thành công trong chiến tranh nhưng không được phong tặng danh hiệu AHLX.

Sáu máy bay lập tức cất cánh lên không trung. Nạp đầy bom, chúng lượn một vòng tròn trên đầu làng Novosady và bay về hướng một khu rừng lớn, nơi nghe thấy tiếng súng bắn nhau. Chỉ huy nhóm này là Serafima Amosova, bay sau chị là Dina Nikulina, Katya Piskareva, Raia Aronova, Tanya Makarova và Ira Sebrova. Các kíp bay còn lại ở trên sân bay trong tư thế sẵn sàng chiến đấu hoàn toàn. Từ một ngọn đồi nhỏ ở bìa làng, chúng tôi nhìn thấy rất rõ những trái bom tách khỏi máy bay, lao xuống đầu bọn Đức quốc xã, đang cố thủ trong cánh rừng.

Chuyến bay thứ hai không còn cần thiết. Nửa giờ sau tất cả chấm dứt - kẻ thù đã giương cờ trắng. Những chiếc máy bay nhỏ của chúng tôi thích ứng tuyệt vời với những nhiệm vụ của các máy bay ném bom ban ngày. Hơn hai trăm tên phát xít Đức quốc xã đầu hàng. Chúng đi thành một hàng lộn xộn qua làng, ngạc nhiên nhìn các cô gái trong bộ quân phục.

Lại có một trường hợp thế này. Chuyện xảy ra gần Krasnyi Bor. Máy bay do kỹ thuật viên trung úy Galya Pilipenko bảo dưỡng, khi thực hiện nhiệm vụ đã bị trúng đạn và hư hại nghiêm trọng, các nhân viên PARM (xưởng sửa chữa máy bay lưu động) phải khôi phục lại nó. Trung đoàn đã đi về phía tây. Trên bìa rừng chỉ còn lại "bảy người dũng cảm" với duy nhất một khẩu súng trường. Công việc tiến triển một cách nhanh chóng. Nhưng trong rừng quanh nơi đậu máy bay, kẻ thù lảng vảng. Vào ban đêm Galya dùng khẩu súng trường bắn để xua đuổi bọn phát xít Đức. Ba ngày trôi qua lặng lẽ, nhưng đến ngày thứ tư trên một con đường rừng hiện ra một nhóm quân Đức. Tên đi trước cầm một cây gậy trên đó có miếng vải trắng.

Để đề phòng, Pilipenko đã ra lệnh cho bọn Đức không được đến gần và cử đại diện ra để đàm phán. Kẻ đại diện này hóa ra lại là một người phiên dịch. Xưng tên mình, anh ta giải thích rằng trong nhóm của họ có tàn quân của một bộ tham mưu cầm đầu là một viên tướng.

Bọn Hitler bị tước khí giới và gửi tới điểm thu gom tù binh. Còn kỹ thuật viên trung úy Galya Pilipenko được đề nghị khen thưởng vì đã thể hiện lòng can đảm và sự bình tĩnh...

Một sự cố tương tự xảy ra ở điểm dân cư Mir, nơi một thời gian trung đoàn của chúng tôi đứng chân.

Một lần ban ngày tôi bay cặp với Serafima Amosova đi trinh sát tìm địa điểm sân bay mới. Chúng tôi giữ đội hình chặt chẽ và quan sát địa hình từ chiều cao bay là sát ngọn cây. Trong khu vực ga Negoreloye, phía tây nam Minsk, nơi mà bọn Đức quốc xã đã bị đánh đuổi, máy bay đã bị bắn.


Trung úy cận vệ AHLX Raisa Yermolayevna Aronova (1920-1982), hoa tiêu, cơ trưởng, trung đoàn nữ KQ cận vệ ném bom đêm 46 Taman. Nguyên sinh viên năm nhất Học viện Hàng không Moskva, 941 phi vụ chiến đấu.

"Ai bắn?" - Chúng tôi hoài nghi. Cẩn thận nhìn kỹ hơn chúng tôi thấy một nhóm quân Đức. Chúng bắn súng máy. Máy bay của Amosova bị bắn thủng cánh. Máy bay của tôi cũng bị thương. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, chúng tôi trở về căn cứ.

Sau sự cố này, trung đoàn phó đại úy Amosova khăng khăng đặt vấn đề với ban chỉ huy sư đoàn, cần trang bị súng máy cho tất cả các máy bay Po-2 của chúng tôi. Tình hình đòi hỏi như vậy. Và súng máy đã nhanh chóng được lắp trên tất cả các máy bay. Ngoài việc ném bom các mục tiêu, bây giờ chúng tôi cũng có thể bắn súng máy xuống mục tiêu nữa. Ban ngày súng máy có thể phục vụ tốt khi phát hiện các nhóm phát xít Đức  tản mát, còn lang thang trên đất chúng ta, cũng như khi gặp các máy bay tiêm kích của đối phương trên không.

Trong các trận chiến, trong cảnh phiêu bạt từ sân bay này sang sân bay kia, ngày tháng trôi đi nhanh chóng lúc nào không hay. Cuộc tấn công của quân đội Liên Xô phát triển ngày càng rộng. Ngày 16 tháng 7 bọn Đức quốc xã bị đánh bật khỏi Grodno, và ngay sau đó các đơn vị tiên phong của chúng ta đã đột phá tới vùng ngoại ô phía nam Bielostok, các trận đánh trên đường phố diễn ra trong phạm vi thành phố. Trung đoàn chuyển cứ đến sân bay ở Glavacha. Từ đó chúng tôi tiếp tục bay đi ném bom các bến phà của quân Đức qua sông Suprasl, con sông chảy cách vài km về phía bắc Belostok.


Năm 1944. Trung đoàn được trang bị súng máy.

Tại Belarus, có một thời gian dài chúng tôi đóng quân gần trung đoàn "Normandy - Neman" nổi tiếng. Chúng tôi thực sự ngưỡng mộ các phi công dũng cảm đã chiến đấu trên bầu trời nước Nga cho sự tự do của nước Pháp quê hương mình.

Sau chiến tranh, tôi thường hay gặp các phi công nổi tiếng người Pháp đã có những đóng góp xứng đáng vào việc đánh bại kẻ thù chung của chúng tôi. Với nhiều người trong số họ, tôi thực sự đã trở thành bạn bè. Và tôi thật thú vị khi đọc được trong cuốn sách "Normandy - Neman" của phi công người Pháp Francois de Joffre, người đã chiến đấu một thời gian bên cạnh chúng tôi, những dòng viết về trung đoàn của chúng tôi như sau:

... Trong lúc này mặt trận tương đối yên tĩnh. Vào các buổi tối, chúng tôi đọc, chúng tôi viết thư hoặc chơi bài. Trong một bầu trời không sao đen đặc hết lúc này đến lúc khác những chiếc máy bay đơn chiếc vô hình liên tục bay qua, tiếng gầm của chúng có thể nghe thấy rất lâu trong sự im lặng của trời đêm. Đó là những chiếc máy bay ném bom ban đêm hoặc những chiếc máy bay đi thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt.

Các nữ phi công Nga, hay "các nữ phù thủy đêm" như người Đức vẫn gọi họ, hằng đêm bay đi làm nhiệm vụ và không ngừng nhắc người ta nhớ về họ. Thiếu tá cận vệ Bershanskaya một phụ nữ tuổi ba mươi, chỉ huy trung đoàn của những "nữ phù thủy" quyến rũ này, những người bay trên những chiếc máy bay ném bom hạng nhẹ, được thiết kế để hoạt động ban đêm. Tại Sevastopol, Minsk, Warsaw, Gdansk - ở khắp mọi nơi, bất cứ đâu họ xuất hiện, sự can đảm của họ luôn làm tất cả các phi công nam khâm phục.

Người Pháp thường được biết đến là những người thích đùa và yêu phái đẹp. Khi tôi muốn trêu chọc đại úy Matras, tôi xin phép anh gửi lên cấp trên một báo cáo về việc xin bổ nhiệm tôi làm kỹ thuật viên cơ giới tại trung đoàn của các "nữ phù thủy đêm". Nhưng một lần sau câu chuyện tếu này khi trò đùa đó đã trở thành gần như một câu chuyện đùa cổ điển, anh điềm tĩnh trả lời:
- Để tôi yên, ngài nam tước. Ngày mai anh sẽ không có thời gian nghĩ đến các "nữ phù thủy" nữa đâu. Có lệnh sẵn sàng chiến đấu hoàn toàn, và tôi nghĩ rằng sẽ rất nóng bỏng...


* * *

Trong thời kỳ các trận đánh giải phóng Belarus, trung đoàn của chúng tôi đã thực hiện 1735 phi vụ và đã nhiều lần nhận được lời cảm ơn của Tổng tư lệnh tối cao. Các nhật lệnh của Tổng tư lệnh tối cao luôn được đọc trước hàng quân. Lần tập hợp đội ngũ cuối cùng của trung đoàn trên lãnh thổ Belarus được ấn định tại sân đậu ở Novoelnya. Chúng tôi tất cả đều đến với quân phục gọn gàng, là ủi thẳng nếp, những cổ áo trắng tinh, đeo đủ các loại huân, huy chương.

Marcel Lefèvre (1918-1944), một trong 4 AHLX của trung đoàn "Normandie_Niemen" trên chiếc Yak 9 của mình. Thượng úy phi đội trưởng, hy sinh ngày 5 tháng 6 năm 1944 tại quân y viện. Được truy tặng AHLX ngày 4 tháng 6 năm 1945. Thành tích: 105 phi vụ chiến đấu, 30 trận không chiến, bắn hạ 11 máy bay đối phương.

Cuộc chiến ở Belarus kết thúc. Bắt đầu công cuộc giải phóng Ba Lan. Bây giờ chúng ta đã ở trên ngưỡng cửa vào hang ổ của kẻ thù.

Trong tháng Tám năm Bốn mươi Tư, chúng tôi đóng quân tại khu vực Belostok. Ở đây một lần nữa diễn ra một cuộc gặp gỡ tình cờ với người phi công của trung đoàn cường kích, đã gặp tôi trong năm 42 khó khăn ở vùng Caucasus, khi tôi bay ban ngày với Olga Kliueva đi trinh sát tiền duyên. Tôi đã quên mất cuộc gặp gỡ xa xôi với chàng trung úy mắt xanh trong năm Bốn mươi Hai: bởi đã hai năm trôi qua. Nhưng khi chúng tôi nhìn thấy nhau tình cờ tại sân bay, chuyến bay kia và cuộc gặp gỡ lại hiển hiện trong tâm trí tôi rõ từng chi tiết.
- Cô biết đấy, - anh nói - Tôi đã vô cùng lo lắng về cô... Mà chúng ta thậm chí còn chưa thực sự làm quen. Hãy để tôi tự giới thiệu - Konstantin Davydov, phi đội trưởng thuộc trung đoàn cường kích.
- Nghĩa là chúng ta là đồng nghiệp!
- Đúng. Các đồng chí của tôi vẫn chăm chú theo dõi công việc của cô. Xin lỗi, chúng ta lại phải chia tay rồi. Tôi phải nhanh chóng đi làm nhiệm vụ. Mà có thể chúng ta sẽ còn gặp lại nhau.
- Trong cuộc sống bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra. Tôi chúc anh may mắn hạnh phúc, đồng chí thượng uý!

* * *
..........
« Sửa lần cuối: 19 Tháng Chín, 2015, 10:10:48 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #43 vào lúc: 18 Tháng Chín, 2015, 04:36:02 pm »

(tiếp)

Đánh bại bọn xâm lược Đức Quốc xã, quân đội Liên Xô tiến vào lãnh thổ Ba Lan. Dưới cánh máy bay hiện ra những tàn tích của các thành phố Ba Lan, các làng mạc và thôn ấp bị đốt cháy. Từ đống tro tàn và gạch vụn bóng đen của các ống khói lò thiêu vươn dài lên bầu trời. Trên các tuyến đường từ đông sang tây những đoàn người kiệt sức lê bước. Nhiều người dắt những chiếc xe kéo tay. Người thì kéo lê va li đồ đạc sơ sài của họ trên lưng. Đó là người dân các làng thôn Ba Lan, bị bọn Đức quốc xã đuổi ra khỏi nhà đi làm nô lệ, nay trở về nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Mọi người vội vã về nhà để bắt đầu xây dựng một cuộc sống mới.

Trong tháng Tám, cuộc tiến công vũ bão của quân đội Liên Xô được thay thế bởi một thời gian tạm lắng tạm thời trước khi bắt đầu các trận chiến mới. Các đon vị của chúng ta nỗ lực chuẩn bị cho nó. Kẻ thù không ngồi yên nhàn rỗi: chúng điên cuồng tạo ra một tuyến phòng thủ dọc theo các con sông Visla, Bober, Bug, Narev.


Bia đề trên mộ tại Ba Lan của T.Makarova và V.Belik

Tại PDQ Belorussia 2 chỉ diễn ra các trận đánh cục bộ. Còn đối với chúng tôi, các pilot-bay đêm, đó là một giai đoạn làm việc căng thẳng. Mỗi đêm chúng tôi tấn công bọn Đức quốc xã trên tuyến đầu, ngăn chúng làm các công tác phòng thủ, quấy rối quân đội của chúng, làm gián đoạn giấc ngủ và thời gian nghỉ ngơi của chúng.

Điều kiện hoạt động của chúng tôi đến lúc đó đã trở nên phức tạp hơn. Sau khi ổn định mặt trận, bọn Đức xây dựng một hệ thống phòng không quan trọng. Các địa điểm đầu mối như Ostroleka, Makuw, bến phà qua sông phía đông bắc Łomża, Ciechanow, Noselsk, được bảo vệ bởi ít nhất năm dàn đèn chiếu PK, còn tổng thể thì dọc theo toàn bộ đường chiến tuyến tiếp xúc trải dài cả một chuỗi các cụm đèn chiếu và phương tiện PK. Ngoài ra, kẻ thù bắt đầu sử dụng KQTK chống lại chúng tôi.

Chúng tôi gặp tiêm kích phát xít nhiều hơn cả là trong các khu vực Łomża, Ostrolenka. Po-2 của chúng tôi không có pháo cũng chẳng có lưng bọc thép bảo vệ phi hành đoàn tránh đạn. Tuy nhiên, các "cánh én" vẫn liên tục gây nhiều thiệt hại cho kẻ thù. Bọn Hitler vẫn săn lùng từng chiếc máy bay bé nhỏ làm bằng ván ép của chúng tôi như trước.

Trong một đêm đen tối tháng Tám, chúng tôi nhận nhiệm vụ ném bom nơi tập trung khí tài trang thiết bị và quân lính của bọn Hitler trong khu vực Łomża và Ostrolenka. Sẽ phải bay xa sân bay chính, tới khu vực được tăng cường phòng thủ rất mạnh, nơi như chúng tôi biết, bọn Đức đã tập trung một số lượng lớn các khẩu đội cao xạ.

Tanya Makarova và Vera Belik bay tới mục tiêu đầu tiên. Năm phút sau là Nadezhda Popova với hoa tiêu Zhenya Glamazdina. Nadia Popova đã kể lại sự việc Tanya Makarova và Vera Belik hy sinh thế nào. Máy bay tiêm kích phát xít đã đuổi kịp họ khi các cô gái đang trở về căn cứ của mình. Có vẻ đạn bắn trúng thùng dầu: ngay sau khi đạn pháo nổ, chiếc máy bay bốc cháy của Tanya Makarova lao vút lên cao. Tanya dũng cảm chiến đấu với ngọn lửa, cố gắng dập tắt nó, nhưng vô ích. Sau đó, chiếc máy bay bị lửa bao phủ lao xuống đất như hòn đá.

Cái chết của Tanya Makarova và Vera Belik là tổn thất lớn với tất cả chúng tôi. Chúng tôi đã mất đi những đồng nghiệp tuyệt vời và một trong những kíp bay ưu tú nhất.

Chúng tôi chôn các bạn gái trong khu vườn thuộc điền trang một địa chủ. Một lần nữa, lại một huyệt mộ trong đất đen, một gò đất nhỏ trên huyệt mộ, một tràng súng nổ gửi lời chào vĩnh biệt. Lần đầu tiên mảnh đất nước ngoài xa lạ tiếp nhận di thể của các nữ phi công chúng tôi.

Một vài ngày sau, tiêm kích kẻ thù lại bắn trúng máy bay của Katya Olejnik. Phi công và hoa tiêu Olga Yakovleva bị thương. Chiếc máy bay mà cánh đuôi đứng chỉ còn lại khung xương, được người nữ phi công đã bị thương lái về sân bay của mình với một nỗ lực khủng khiếp.

Tôi cũng đã bị tiêm kích địch thử thách bằng cuộc tấn công ban đêm. Thời gian này người ta bổ nhiệm Sasha Akimova làm hoa tiêu phi đội tôi thay cho Ekaterina Ryabova. Là người Moskva, nữ sinh viên ĐH Sư phạm, cô đến trung đoàn ngay thời kỳ hình thành ban đầu của nó. Một năm là kỹ thuật viên trưởng về vũ khí của phi đội, sau đó vừa chiến đấu vừa học chuyển loại sang hoa tiêu. Là người ham đọc, tính tình kiên nghị, rất dày dạn trong chiến đấu, Sasha làm tôi thích ngay lập tức. Đáng tiếc là phải chia tay với Ryabova giàu kinh nghiệm, nhưng tôi quen với cô hoa tiêu mới rất nhanh.


Aleksandra Fyodorovna Akimova (1922-2012), đại úy cận vệ, phi công quân sự, hoa tiêu trung đoàn nữ KQ cận vệ ném bom đêm 46 Ta-man, đã thực hiện 715 phi vụ chiến đấu. Sau chiến tranh giải ngũ. PTS Khoa học Lịch sử, giảng dạy tại Học viện Hàng không Moskva. Do giấy tờ đề nghị phong AHLX thất lạc tại Moskva, năm mươi năm sau Thế chiến 2, bà và đồng đội cùng trung đoàn Tanya Sumarokova mới được phong tặng danh hiệu AH nước Nga.

Đêm đó chúng tôi đi ném bom các vị trí của bọn Đức Quốc xã ở khu vực Ostrolenka. Như mọi khi, sau khi những quả bom đầu tiên ném xuống, đèn chiếu làm việc ngay, pháo cao xạ lên tiếng, hỏa lực của chúng rất mạnh. Chùm sáng của các dàn đèn chiếu hồi lâu không buông tha chiếc Po-2 của chúng tôi, nhưng chúng tôi vẫn thoát ra thành công.

Kim đồng hồ đo độ cao chỉ con số "600". Tôi tăng thêm vòng quay. Thông qua những đám mây hiếm hoi, mặt trăng tỏa sáng. Tầm nhìn tốt, và tôi nghĩ rằng cảnh giác không phải là thừa. Cái chết của Tanya Makarova và Vera Belik vẫn còn mới nguyên trong trí nhớ. Tôi yêu cầu Akimova, thường xuyên quan sát phía sau.

Chúng tôi bay năm phút yên ổn. Chiến tuyến đã nằm sau khá xa, và có vẻ chuyến bay sẽ kết thúc một cách an toàn. Đột nhiên xung quanh chúng tôi lóe lên một vệt đạn lửa, và cao hơn một chút, lệch một chút bên sườn thoáng qua bóng một máy bay tiêm kích của đối phương. Tôi nhìn thấy nó đang vòng trở lại để một lần nữa lao vào công kích.

Phải làm gì? Độ cao hiện không lớn, giảm nữa sẽ nguy hiểm. Nhưng đó là cách duy nhất. Tôi đột ngột đổi hướng và siết chặt cần lái. Khi cách mặt đất còn hai trăm năm mươi mét, tên Hitler lại vượt qua chúng tôi và một tràng đạn dài chẻ vào cánh và thân máy bay. Vào giây cuối cùng tôi kịp tránh được, và tràng đạn tiếp theo bay sượt qua. Chỉ khi đến mặt đất còn khoảng một trăm mét, tôi mới cải bằng máy bay. Bây giờ thì không nguy hiểm nữa - màu sơn xanh lục đậm của chiếc Po-2 hòa nhập với màu nền chung của mặt đất.

Các cuộc tấn công ngày càng tăng của tiêm kích quân thù đối với những chiếc máy bay di chuyển chậm chạp của chúng tôi làm ban chỉ huy lo ngại. Và để bằng cách nào đó bảo vệ phi công và hoa tiêu trong trường hợp xảy ra tai nạn, người ta cấm chúng tôi bay không mang dù. Bất đắc dĩ, chúng tôi phải đồng ý với cải tiến này. Tuy nhiên, đó là sự kiện hợp lý và rất kịp thời, chúng ta sẽ hiểu được điều này rất sớm.

Từ Kurovo trung đoàn chuyển đến ấp Daleko. Chúng tôi thiết lập một sân cất-hạ cánh gần đó, lấy một dinh thự lớn của một địa chủ chạy trốn làm nơi ở. Chúng tôi ở đây một thời gian khá dài.

Tới lúc này thời tiết chuyển xấu cùng cực, bắt đầu một thời kỳ mưa lớn và sương mù. Mây đen màu chì không ngớt bò từ phía tây tới thành từng đoàn từng lũ, đổ tràn làn xuống những dòng nước lạnh mà không có nó mặt đất cũng đã đủ chua loét. Mây thấp, thường trải ra trên mặt đất chỉ 50-70 mét. Trong điều kiện bình thường, các chuyến bay phải được dừng lại ngay lập tức. Nhưng chiến tranh là chiến tranh, và mặc dù hầu như không có tầm nhìn, chúng tôi vẫn tiếp tục làm việc.

Tại Ba Lan, lần đầu tiên chúng tôi phải ném bom mù sau mây. Đó là vào giữa tháng 10 năm 1944. Chúng tôi đang hoạt đọng trong khu vực Makow và Modlin.

Run lên vì ẩm ướt và lạnh, tôi và Sasha Akimova ngồi trong buồng lái chờ tín hiệu cất cánh. Chúi mũi vào cổ áo bộ đồ bay ấm áp và co chân lại, tôi ngủ gà ngủ gật. Thỉnh thoảng, để không thiếp đi, tôi cố mở mắt, nhìn chằm chằm một phút vào bóng đêm tối mịt, tìm kiếm những đường nét mơ hồ của các máy bay bên cạnh, và một lần nữa rơi vào sự ru ngủ ngọt ngào.

Gió của Đại Tây Dương, giận dữ và cắn xé, quét qua toàn thể châu Âu, tiêu tán sự ấm áp của đại dương trên đường đi, rú rít trên các thanh giằng và dây cáp, đu đưa cánh máy bay, thỉnh thoảng rỏ xuống lớp vải chúc bâu kéo căng những giọt lớn. "Boom-boom ..!" - vang lên trong tai tôi trong cơn mơ ngủ, và lập tức át tất cả các âm thanh ấy là một tiếng huýt chói tai, một tiếng tru. "U-uu! Xâ-ấu cho nha-à ngư-ươi, xâ-ấu lắ-ăm!"- dường như gió đang khiển trách. "Thây kệ, - tôi nghĩ. - Nó cứ dọa chúng ta. Mình đã thấy khối chuyện tồi tệ hơn rồi".

Đột nhiên, ai đó đẩy vai tôi. Tôi giật mình và uể oải quay lại.
- Chuyện gì?
- Người ta kêu cậu lên gặp thiếu tá cận vệ Bershanskaya - tôi nghe giọng Akimova. - Cậu sao vậy, ngủ à?
- Ôi trời.

Run lên vì lạnh, tôi leo lên cánh và cùng với Sasha đi đến sở chỉ huy.
Trong một căn hầm nửa nổi nửa chìm có trần cao, thắp sáng bởi một bóng đèn lờ mờ, một vài người đã tụ tập. Ngoài ban chỉ huy trung đoàn, ở đây toàn các cựu chiến binh Dina Nikulina, Maria Smirnova, Nadezhda Popova, Seraphima Amosova, Irina Sebrova, Olga Sanfirova nhiều hoa tiêu.

Bershanskaya báo cáo tóm tắt tình hình, cho chúng tôi biết nhiệm vụ. Sau một lúc dừng ngắn, chị nói thêm:
- Điều kiện thời tiết cực kỳ khó khăn. Mây thấp. Hạ xuống dưới mây để ném bom từ độ cao đó rất nguy hiểm - mảnh bom có thể làm hỏng ngay máy bay của mình. Còn nếu bay cao hơn mây - sẽ không nhìn thấy mục tiêu. Vì vậy, chúng tôi quyết định tham vấn với các đồng chí. Làm thế nào đây, các đồng chí sĩ quan?

Một khoảng lặng dài. Tất cả suy nghĩ. Trong thực tế, đâu là lối thoát? Đối với các chuyến bay mù, và đặc biệt là đối với các vụ ném bom mù, máy bay của chúng tôi không thích hợp. Đúng, chúng ta phải hành động trong sương mù, nhưng hồi đó, thậm chí khi tầm nhìn cực kỳ khủng khiếp, nhưng bằng cách nào đó ta vẫn nhìn được mốc định hướng, điều đó cho ta khả năng đưa máy bay đến được mục tiêu. Còn bây giờ ta phải làm gì?

Chúng tôi nhìn nhau chờ đợi.
- Sao đây, các cựu chiến binh, hay là thuốc súng trong túi thuốc cạn rồi? - Rachkevich nói đùa. - Phải chăng chúng ta không thể thực hiện mệnh lệnh?
Đáp lại là một tiếng xì xào kìm nén vẻ bất mãn.
- Thế thì các cô tìm một lối thoát đi chứ. Các cô đều là các chỉ huy, ai cũng dạn dày kinh nghiệm, chiến đấu không phải năm đầu tiên nữa rồi, khả năng của bản thân mình và máy bay của mình đều đã biết rõ cả. Hãy đề xuất và chúng ta sẽ thảo luận, sẽ cân nhắc, - cứ xem kỹ đi, rồi sẽ tìm ra giải pháp đúng.
- Vâng, nhưng tìm gì mới được chứ? - bối rối Akimova nói. - Xưa nay nó vẫn thế mà. Phải làm việc từ dưới mây thôi.
- Để chết cả máy bay lẫn con người à? - trung đoàn trưởng hỏi.
- Tại sao cứ nhất định phải chết? - tất cả ồ lên nói cùng một lúc.
- Thế chúng ta chưa từng ném bom ở độ cao thấp sao? Taman này, Crimea này?
- Ở đó lại là chuyện khác, - tham mưu trưởng trung đoàn Irina Rakobolskaya nhận xét.
- Tại sao? Bom khác à, hay gì nữa?
- Bom vẫn thế, người, máy bay vẫn thế, nhưng những trường hợp như vậy có thể tính trên đầu ngón tay. Và độ cao, theo như tôi nhớ, lớn hơn đấy, mảnh bom không văng tới được. Sóng nổ tới được máy bay, còn với mảnh thì góc nâng lại lớn. Ở độ cao của trần mây như hiện giờ, tác động của mảnh bom không tránh được đâu.
Cuộc tranh cãi bùng lên. Cuối cùng, chúng tôi quyết định phải hành động thế này: bay tiếp cận mục tiêu dưới trần mây thấp, sau đó chui lên vào trong mây và ném bom từ đó với định hướng tính theo thời gian.

Và đây chúng tôi đã cất cánh lên không trung. Tôi hơi khó ở trong người. Sasha Akimova xác định được tình trạng của tôi theo giọng nói khi tôi nói với cô ấy qua máy đàm thoại.
- Đừng lo lắng - cô trấn an. - Điểm chuẩn kiểm tra của chúng ta đáng tin cậy, không trượt đâu. Mục tiêu thì quen rồi, đường tới đó đã được các hoa tiêu kiểm tra tính đến từng giây, vậy nên trong các tính toán chúng ta không thể sai được. Mà nếu có điều gì, chúng ta sẽ lộn xuống dưới mây quan sát một lần nữa.
- Được thôi, - tôi nói.
- Chỉ cần giữ đúng tốc độ. Tớ sẽ ráng thả bom trúng đích, - hoa tiêu nói với tôi.
Khoảng mười lăm phút trôi qua, ở dưới dòng sông Narew lờ mờ phản chiếu, dòng sông chia trận tuyến giữa quân đội Liên Xô và bọn phát xít Đức Quốc xã. Đây là điểm chuẩn của chúng tôi: mục tiêu đã rất gần. Tôi lái máy bay chui vào trong mây và bắt đầu lấy độ cao. Hơi lạnh và ẩm ướt vỗ ngay vào mặt, như thể từ một hầm sâu.
- Công việc thế nào Sasha?
- Hãy sẵn sàng, còn chưa đến một phút nữa.
Động cơ nổ ầm ầm đều đặn, tiếng nổ hơi khàn hơn bình thường. Bóng tối nhớp nháp trườn tới chúng tôi một cách vô hình, rỏ xuống mặt những giọt lạnh. Những giọt nước ấy từ từ lăn trên má, chui xuống cổ áo và xua nhưng cơn sởn da gà chạy khắp cơ thể, làm ta run rẩy và rùng mình. Tôi càu nhàu bực bội, rủa thầm thời tiết xấu. Akimova dường như nghe được tôi đang lẩm bẩm.
- Cậu sao thế?
- Ôi trời. Nước rỏ giọt rơi vào trong cổ áo. Nào, mục tiêu còn xa chúng ta không?
- Ta đang tiếp cận rồi. Tớ sẽ quăng những trái bom đầu tiên ngay đây.
Vài giây sau, máy bay lắc nhẹ. Vô tình tôi nghiêng người qua một bên và cảnh giác đề phòng. Những âm thanh bị bóp nghẹt của vụ nổ xuyên qua những đám mây dày vẳng đến tai chúng tôi.
- Cần phải nhìn xuống dưới xem sao. Nếu đèn chiếu phòng không bật sáng lên, nghĩa là bom đã rơi trúng, có thể ném nốt số bom còn lại, - hoa tiêu truyền đạt.
- Thế nếu không?
- Khi đó, phải lộn xuống dưới rìa mây thấp và lặp lại thao tác cơ động một lần nữa.
Nhưng không cần thiết lặp lại sự cơ động nữa. Quét phía dưới chúng tôi là ánh phản xạ của các chùm đèn chiếu PK, súng cao xạ thi nhau nổ đùng đùng. Tuyệt! Như vậy, bom của chúng tôi đã đánh trúng mục tiêu. Nếu không, kẻ thù không khai hỏa một lưới lửa dày đặc như vậy, mà sẽ chờ đợi thời gian thích hợp hơn. Chiếc máy bay lại đảo nhẹ - những quả bom còn lại tách khỏi cánh bay lao xuống.
Vụ ném bom mù đầu tiên từ trong mây đã thành công, và từ đó chúng tôi bắt đầu áp dụng phương pháp này thường xuyên.

* * *
...........
« Sửa lần cuối: 20 Tháng Chín, 2015, 02:10:17 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #44 vào lúc: 20 Tháng Chín, 2015, 06:42:41 pm »

(tiếp)

Chiếc Po-2 nhỏ bé không cho bọn quốc xã được yên. Trong bất kỳ thời tiết nào, ngay cả khi không thích hợp nhất, chúng tôi luôn xuất hiện trên đầu quân địch ở các độ cao thấp và ném bom chúng.


Các nữ phi công và hoa tiêu của trung đoàn. Kuban, tháng 7 năm 1943. Từ trái sang phải, hàng ngồi: phi công Anya Vysotskaya, PV ảnh tạp chí "Ngọn lửa nhỏ" Boris Tseitlin, hoa tiêu Irina Kashirina, phi đội trưởng Marina Chechneva; hàng đứng: hoa tiêu và sĩ quan tùy tùng phi đội Maria Olkhovskaya và hoa tiêu biên đội Olga Klyueva. Vài ngày trước cái chết của Anya và Irina.

Mỗi lần xuất kích chiến đấu đòi hỏi các cô gái phải nỗ lực rất lớn, chuẩn bị chu đáo và sau đó bình giá các phi vụ đã thực hiện, thể hiển sáng kiến hợp lý, sự cẩn trọng không ngừng và lòng dũng cảm quên mình. Đôi khi một phi hành đoàn này hoặc phi hành đoàn kia lâm vào một tình huống vô vọng, nhưng ý chí chiến thắng, lòng can đảm và kỹ năng của phi công và hoa tiêu giúp chúng tôi trở thành người chiến thắng.

Suốt cả Tháng Mười trôi đi trong những trận giao tranh ác liệt diễn ra ở phía tây bắc Warsaw, và công việc làm chúng tôi tối mày tối mặt. Còn trong tháng Mười Một, chúng tôi bay ít và nói thẳng thắn thì chúng tôi rất vui, vì cuối cùng, lần đầu tiên chúng tôi có cơ hội nghỉ ngơi chút ít, chỉnh đốn bản thân, hoàn toàn quên mình trong những thú vui nhỏ bé hàng ngày, mà đã bị tước mất ở mặt trận. Trung đoàn vẫn đóng quân ở ấp Daleko. Trong một thái ấp lớn của địa chủ, không gian đủ cho tất cả, và chúng tôi thậm chí còn sắp xếp cuộc sống một cách thoải mái tiện nghi. Các cô gái với tính cần kiệm vốn có của họ đã cố gắng làm những điều tốt nhất có thể để tổ chức cuộc sống của mình.

Nhưng, tất nhiên, chúng tôi không thiếu việc để ăn chơi ngồi rồi. Trong tháng Mười, chúng tôi thường xuyên tổ chức các hội nghị, tiến hành bồi dưỡng cho đội ngũ chỉ huy, khôi phục hoạt động nhóm của mình. Nói chung, đó là một khoảng thời gian dành cho học tập-kiểu gia đình, như các cô gái hóm hỉnh của trung đoàn thường gọi.


Trái: phi đội trưởng phi đội 2 Olga Sanfirova (1917-1944), dân tộc Tatar, đại úy cận vệ, trung đoàn nữ KQ ném bom đêm 46 Ta-man. Nhập ngũ tháng 12 năm 1941, trước khi nhập ngũ đã có 1500 giờ bay. Tốt nghiệp lớp 9 và CLB Hàng không Kolomna Moskva. Là huấn luyện viên phi đội huấn luyện 78 thuộc Cục HKDD Tây Sibir. Tốt nghiệp Trường phi công quân sự Bataisk. Theo lệnh động viên của TU Đoàn Komsomol toàn Liên bang, 5 phi công nữ của phi đội 78 trong đó có Olga Sanfirova đã được phái đến thuộc quyền thiếu tá Marina Raskova, khi đó đang là người chịu trách nhiệm tổ chức thành lập các đơn vị nữ không quân. Tại Trường HKQS Engels, trong một lần huấn luyện bay theo hành trình, Sanfirova kèm phi công Zoya Parfenova, máy bay bay dưới lưới điện cao thế, vướng dây bị cháy. Tòa án tại Engels kết án Olga Sanfirova 10 năm tù. Trung đoàn bay đi chiến đấu mà không có Sanfirova. BCH trung đoàn viết thư cho Hiệu trưởng Trường HKQS Engels đề nghị giúp đỡ đưa Olga Sanfirova trở lại trung đoàn và sẽ chuộc tội trong chiến đấu. Đề nghị được chấp nhận, vì vậy Olga Sanfirova chỉ bay trở lại trung đoàn khi trung đoàn đang đóng quân tại Olghinskaya vào mùa hè năm 1942. Olga Sanfirova hy sinh ngày 13 tháng 12 năm 1944, cho đến khi hy sinh đã hoàn thành 630 phi vụ chiến đấu. Được truy tặng danh hiệu AHLX ngày 23 tháng 2 năm 1945.
Phải: tượng đài kỷ niệm nữ phi công Olga Aleksandrovna Sanfirova tại Samara.


Một tháng sau, quân đội Liên Xô tái triển khai các hoạt động quân sự tích cực. Kẻ thù chống lại quyết liệt, cố gắng trụ lại trên tuyến sông Narew và không cho chúng ta tiến vào đất Phổ. Nhưng làm sao ngăn chặn nổi một trận tuyết lở từ sườn núi dốc đổ xuống? ..

Mọi người đều thấy: nước Đức phát xít đang trong cơn hấp hối cuối cùng, nỗ lực thêm ít nữa - chủ nghĩa phát xít sẽ chấm hết. Và mặc dù đối với nhiều người trong chúng tôi, trận đánh này sẽ là trận chiến cuối cùng, không phải ai cũng sống được đến giây phút hạnh phúc khi phát súng cuối cùng thôi gầm thét, nhưng những người lính Xô Viết sẽ mang lại hòa bình cho vùng đất bị chiến tranh tàn phá...

Đêm 13 tháng 12, chúng tôi làm việc trong khu vực Noselsk. Tôi cất cánh tiếp sau phi hành đoàn của Olga Sanfirova, tôi gặp chị tại tuyến xuất phát, khi các quân khí viên đang treo bom. Olga vội vã tới chỗ máy bay, vừa đi vừa nhai một chiếc bánh sandwich.
- Công việc thế nào, Marinka? - chị gọi tôi. - Sasha Akimova thế nào? Hài lòng với hoa tiêu mới không?
- Tất nhiên. Sao chị hỏi thế?
- Hỏi thế thôi. Hôm nay tâm trạng tớ đang vui.
- Chị vui chuyện gì đấy?
- Đoán xem nào.
- Để em tìm thời gian giải đố đã.
- Nào, thế để tớ nói cho cậu biết nhé. Chúng mình ở mặt trận đã bao lâu? Hai năm, thậm chí hơn một chút. Bao nhiêu trận đánh đã trải qua? Nhiều lắm. Và trận này là trận cuối cùng và trận chiến quyết định của chúng ta. Tớ đã suy nghĩ biết bao nhiêu về nó, và bây giờ đã sống được đến khi nó diễn ra. Cậu biết đấy, đã sống sót! Đó là tất cả. Cũng là lý do tại sao tớ vui. Bây giờ cậu hiểu rồi chứ, Marinka?

<a href="http://www.youtube.com/watch?v=cdMjWdriiBk" target="_blank">http://www.youtube.com/watch?v=cdMjWdriiBk</a>
Trích đoạn phim "Những nữ phù thủy đêm trên bầu trời" (1981) của nữ đạo diễn Anh hùng Liên Xô, cựu phi công trung đoàn nữ KQ cận vệ ném bom đêm Ta-man 46 Evgenya Zhigulenko. Bài hát trong phim của nhạc sĩ Evgeny Krylatov dựa trên lời của Evgeny Evtushenko:
Когда вы песни на земле поете
Тихонечко вам небо подпоет
Погибшие за Родину в полете
Мы вечно продолжаем наш полет

Мы вовсе не тени безмолвные
Мы ветер и крик журавлей..
Погибшие в небе за Родину
Становятся небом над ней

Мы дышим согревая птичьи гнезда
Баюкаем детей в полночный час
Вам кажется, что с неба светят звезды
А это мы с небес глядим на вас..

Мы вовсе не тени безмолвные
Мы ветер и крик журавлей..
Погибшие в небе за Родину
Становятся небом над ней

Мы стали небом стали облаками
И видя сверху наш двадцатый век
К вам тихо прикасаемся руками
И думаете вы что это снег..

Мы дышим согревая птичьи гнезда
Баюкаем детей в полночный час
Вам кажется, что с неба светят звезды
А это мы с небес глядим на вас..

Мы вовсе не тени безмолвные
Мы ветер и крик журавлей..
Погибшие в небе за Родину
Становятся небом над ней


Olga đẩy nhẹ vai tôi và chạy đến máy bay. Tôi nhìn theo mỉm cười với chị ấy, và bản thân tôi cũng bắt đầu cảm thấy niềm vui vì nhận thức được rằng chiến tranh đang thực sự đi đến hồi kết thúc, chẳng bao lâu cuộc sống sẽ chiến thắng cái chết.
Nhưng cái chết còn đến thăm chúng tôi, và ngay trong đêm ấy.

Cắt bom xong, phi đội trưởng đại úy Sanfirova bay về sân bay. Trên đường tiền duyên máy bay rơi vào lưới lửa cao xạ một lần nữa. Đạn pháo bắn trúng thùng nhiên liệu, và máy bay bùng cháy. Nhưng Olga ngoan cường lái chiếc Po-2 về lãnh địa quân mình. Ngọn lửa đã trùm lên cánh, len đến cabin. Khi còn đang trên đường chiến tuyến phía gần quân mình hơn, Sanfirova ra lệnh cho hoa tiêu Rufa Gasheva phải rời máy bay. Các cô gái nhảy ra và tiếp đất an toàn bằng dù, nhưng trên mặt đất Olya Sanfirova đã vấp phải mìn chống bộ binh của quân ta. Mìn nổ xé đứt chân chị, phá toang sườn phải. Đưa được về trung đoàn thì Olga đã chết.

Theo yêu cầu của các bạn gái người ta quyết định chôn Olya ở Grodno. Khi vĩnh biệt người quá cố, lần đầu tiên tôi đã bật khóc nức nở, không sao kìm nén được nước mắt của mình. Tôi không thể nào quên cuộc gặp gỡ cuối cùng của chúng tôi, khuôn mặt vui tươi của Olya, niềm tin của chị vào hạnh phúc của mình mà chị ấy bày tỏ một cách đầy tình người như vậy...


Mộ tập thể tại Grodno, Belarus và tấm biển đề có tên Olga Sanfirova.

* * *

Đêm sang ngày 21 tháng 12 các binh đoàn của phương diện quân đã chọc thủng tuyến phòng thủ của đối phương và vượt sông Narev. Trung đoàn thời gian này làm việc với một cường độ cao chưa từng thấy. Thời gian đó chúng tôi cất cánh bay lên từ sân bay chính và sân bay "nhảy cóc" nằm trong cự ly bắn phá của pháo binh từ các trận địa của quân Đức. Một sự mất cảnh giác dù nhỏ nhất - chúng tôi có thể bị lộ ngay. Nhưng kẻ thù vẫn không phát hiện được sân bay, thậm chí từ trên không - chúng tôi đã ngụy trang như vậy đấy.

Đường băng được chiếu sáng chỉ bằng ba đèn "con dơi". Các kỹ thuật viên và quân khí viên khi tiếp nhiên liệu cho máy bay phải làm mù, hoàn toàn không thắp đèn. Hai hoặc ba phút, và chiếc máy bay đã trở lại bầu trời. Thiếu tá Bershanskaya chỉ huy các chuyến bay từ sân bay cơ bản, còn Seraphima Amosova tổ chức công việc chính xác một cách tuyệt với từ sân bay "nhảy cóc". Trong suốt thời gian ở đây, không xảy ra bất kỳ một vụ tai nạn hoặc sự cố nào, cũng không có trường hợp khẩn cấp nào. Các kíp bay thực hiện đến 16-17 phi vụ.

Các phi đội trưởng Nadia Popova, Maria Smirnova, Dina Nikulina và tôi đã cất cánh đi làm nhiệm vụ đến 18 lần.

Liên quan đến tất cả những chuyện ấy tôi muốn nói một lời tốt đẹp về "các nữ chủ nhân của số phận chúng tôi", về các cô gái đã chuẩn bị cho chiến thắng của chúng tôi, về các trợ lý trung thành của chúng tôi, mà mọi việc về chung cuộc đều phụ thuộc vào sự cống hiến quên mình của họ.

Nói các kỹ sư, các kỹ thuật viên trưởng, các cơ giới viên, các quân khí viên, các thợ điện, kỹ thuật viên dụng cụ hàng không của chúng tôi đã không tiếc công sức - nghĩa là hầu như chẳng nói gì. Tất cả mọi thứ phụ thuộc vào công việc của họ: cả hành vi của máy bay trong không trung, cả việc chiếc máy bay bị thương và hư hỏng sẽ có thể trở lại đội ngũ nhanh hay chậm, cả số lượng các phi vụ của mỗi kíp bay một đêm, có nghĩa là hiệu quả của các cuộc tấn công của chúng tôi xuống đầu kẻ thù.


Các kỹ thuật viên trưởng các phi đội: M.Schelkanova, Z.Radina, V.Dmitrienko

Kỹ sư trưởng của trung đoàn Sofia Ivanovna Ozerkova khi hình thành đơn vị nữ không quân là một trong những người có mặt đầu tiên.

Và từ khi khởi đầu chiến sự, "học viện" của chúng tôi đã làm việc ngay. Thông qua khóa học của "học viện", các cô gái quân khí viên đã trở thành các kỹ thuật viên và cơ khí viên, họ được đào tạo lại thành hoa tiêu, còn hoa tiêu - thành phi công. Các giáo viên của "học viện" - các nhà chỉ huy, các hoa tiêu, các kỹ thuật viên trưởng các phi đội, và lẽ dĩ nhiên, kỹ sư trưởng Sophia Ozerkova - họ dạy những người mới mà không tách rời khỏi hoạt động chiến đấu.

Và còn biết bao nhiêu điều quan tâm, lo lắng của chính bản thân Ozerkova!
Chị chịu trách nhiệm đối với mỗi máy bay, chịu trách nhiệm về độ tin cậy trong hoạt động của nó ở mỗi chuyến bay, về việc các máy bay hư hại trong chiến đấu quay về đội ngũ nhanh nhất, chịu trách nhiệm về mỗi cơ khí viên và kỹ thuật viên, về sự đúng đắn trong tổ chức công việc của toàn bộ đội ngũ nhân viên kỹ thuật. Trong quá khứ, người sĩ quan chỉ huy chuyên nghiệp của Hồng quân, Sofia Ivanovna, tại thời điểm thành lập trung đoàn, đã có sau lưng mười năm phục vụ tại Trường Hàng không Irkutsk. Là con người nghiêm khắc và có đòi hỏi cao, chị yêu cầu cấp dưới của mình phải có trách nhiệm cao đối với công việc được giao.


Các nữ kỹ thuật viên và quân khí viên

Mà gánh nặng của chị thì ngày càng lớn lên.
Các phi công, hoa tiêu, kỹ thuật viên, quân khí viên kinh ngạc trước lòng can đảm, tính kiên nghị, ý thức cao về nhiệm vụ vốn có của kỹ sư trưởng của chúng tôi. Ban ngày Ozerkova tiến hành kiểm tra kỹ thuật, phúc tra công việc đã thực hiện, dạy những người mới đến. Còn vào ban đêm - cho máy bay đi làm nhiệm vụ chiến đấu và nhất thiết đón chúng về. Chị là một nữ vận động viên xuất sắc, không chỉ là một thành viên không thể thiếu của tất cả các cuộc tranh tài thể thao, mà còn phụ trách huấn luyện điều lệnh đội ngũ...
Năm 1943, kỹ sư trưởng của trung đoàn Sofia Ozerkova nhận được huân chương đầu tiên.
Và chị đã dạy dỗ được những chuyên gia tuyệt vời!

Lấy ví dụ các nhân viên quân giới. Công việc của họ khó khăn và tỉ mỉ, đặc biệt là vào ban đêm, ở điều kiện một sân bay tối, khi thực hiện các thao tác nguy hiểm nhất bằng cách mò mẫm. Và ở đây các cô gái của chúng tôi đạt đến đỉnh cao. Lydia Gogina, Tatiana Maslennikova, Maria Marina, Zinaida Vishneva, Anna Sherstneva và nhiều người khác trong bóng tối, dựa theo kíp nổ xác định loại ngòi nổ. Và để xác định khóa giá treo bom mở hay đóng, họ chỉ cần chạm vào nó là đủ.

Một trong những điều kiện quan trọng nhất trong công việc của các thợ quân giới - tốc độ. Chiếc máy bay không được đậu ở vạch xuất phát thừa bất cứ một phút nào. Điều này các cô gái cũng tự hiểu rất rõ. Nếu trước đây nạp các loại vật chất trang bị cho máy bay mất 30 phút, thì sau này phục vụ một chiếc máy bay chỉ mất khoảng 6-7 phút. Còn với các bậc thầy về các loại vũ khí trang bị là Maria Logacheva và Zinaida Vishneva, họ xử lý công việc quan trọng này trong 3 phút.

Với sự vô cùng biết ơn, tôi nhớ đến người bạn tuyệt vời của tôi Vera Mamepko. Trong suốt cuộc chiến tranh, cô mơ ước trở thành một hoa tiêu. Mamepko không trở thành hoa tiêu, nhưng cô ấy lại là một kỹ thuật viên máy bay tuyệt vời.

Hoặc lấy ví dụ, kỹ sư trung đoàn chuyên về thiết bị chuyên dụng Clavdia Ilyushina. Được bổ nhiệm thuộc quyền của chị có các kỹ thuật viên Polya Ulyanova, Vera Bondarenko, Olga Golubeva và Tonya Pavlova. Hai cô gái đầu tiên được chuẩn bị tốt và ngay lập tức trở thành các kỹ thuật viên dụng cụ hàng không chuyên dụng. Olya Golubeva và Tonya Pavlova phải chuyển sang làm thợ điện, mặc dù việc giới thiệu công việc tương lai cho họ chỉ áng chừng.


Các nữ quân khí viên làm việc

Việc dạy và học với các cô gái phải bắt đầu từ đầu. Ilyushina đã không tiếc chút nào dù đó là nỗ lực hay thời gian, và lao động không trôi qua vô ích - các cấp dưới của chị đã trở thành các chuyên gia trong lĩnh vực của họ. Chiếc máy bay của chúng tôi rất bé nhỏ, và tất cả chúng tôi thực sự muốn đối xử với nó với thái độ tôn trọng tuyệt đối. Có lẽ đó chính là lý do các thợ điện và thợ dụng cụ của Ilyushina cố gắng trang bị cho các "cánh én" tất cả các cải tiến kỹ thuật của thời đó. Trước hết họ đi hệ thống dây điện trên máy bay. Sau đó trên một số chiếc họ lắp đặt các thiết bị chụp ảnh. Sau nữa, họ bắt đầu áp dụng các điện đài cỡ nhỏ gọn phục vụ thông tin liên lạc ở các cự ly ngắn và trinh sát thời tiết. Để Po-2 hạ cánh đêm, trong các chuyến bay huấn luyện kỹ sư Ilyushina đã trang bị các đèn dưới cánh thay vì dùng đèn pha một cách rất thích hợp.

Trong một bức thư tôi nhận được những năm sau chiến tranh, Clavdia Ilyushina gợi nhớ lại một trong những đêm tháng Mười Hai năm 1944, khi trung đoàn thực hiện đến 324 phi vụ chiến đấu. Ca ngợi các nữ phi công và hoa tiêu, Ilyushina chỉ đề cập rất khiêm tốn đến công việc của các cấp dưới của mình. Tuy nhiên, mỗi cô gái-quân khí viên chỉ trong một đêm đã treo cho mỗi máy bay không ít hơn ba tấn bom! Hãy suy nghĩ về con số này, hỡi bạn đọc, nó đã hùng hồn nói lên rất nhiều vấn đề.

Công việc của các chuyên gia phục vụ mặt đất của chúng tôi nếu chỉ nhìn lần đầu tiên và thoáng qua thì không có vẻ gì quá quan trọng. Song chúng tôi, các nữ phi công, luôn luôn đánh giá cao công việc của họ và rất trân quý tình bạn với họ. Sau hết, chính là nhờ có họ, những con người làm việc vất vả, khiêm tốn và không biết mệt mỏi, mà chúng tôi mới có được tất cả những thành công của mình.

* * *
...........
« Sửa lần cuối: 22 Tháng Chín, 2015, 12:00:17 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #45 vào lúc: 22 Tháng Chín, 2015, 10:26:47 pm »

(tiếp)

Sau khi đánh chiếm được bàn đạp và củng cố chỗ đứng trên bờ phía tây sông Narew, quân ta bắt đầu chuẩn bị cho cuộc công phá cuối cùng và quyết định các thành trì Đông Phổ.

Lần này thời gian nghỉ giữa chừng rất ngắn. Cuộc tấn công bất ngờ của quân đội Đức quốc xã tại Ardennes đã làm cho quân đội Mỹ và quân đội Anh bàng hoàng. Các đồng minh của chúng ta khi đó đã cầu khẩn giúp đỡ, và ngày 12 tháng 1 năm 1945, các cỗ đại bác của Liên Xô lại một lần nữa lên tiếng trên toàn bộ các mặt trận từ Baltic đến Carpath. Bộ tư lệnh phát xít buộc phải tạm ngừng hoạt động tấn công trên mặt trận phía Tây và ném quân của chúng về phía đông.


Sư đoàn trưởng trao huân chương cho hoa tiêu N.Reutskaya. Năm 1944

Các binh đoàn của PDQ Belorussia 2 đã bắt đầu các hoạt động tích cực một ngày sau các mặt trận khác. Đêm ngày 14 tháng 1, trung đoàn của chúng tôi làm việc trong khu vực Zhabichina. Trần mây thấp và sương mù làm cho việc ngắm và ném bom các mục tiêu trở nên rất khó khăn, nhưng chúng tôi vẫn biết cách chế áp thành công nhiều hỏa điểm của kẻ thù và gây ra những vụ nổ rất lớn.

Các cuộc ném bom ban ngày nhanh chóng được bổ sung thêm cho các cuộc ném bom đêm. Chúng không bắt buộc. Đơn giản là từ sư đoàn người ta gửi điện xuống yêu cầu cho một danh sách các phi công muốn bay ban ngày. Tất nhiên, tất cả các kíp bay lập tức đồng ý ngay. Chúng tôi bắt đầu bay cả ngày lẫn đêm, chuyển đạn dược cho các đơn vị mặt đất đã đột phá quá xa về phía trước.

Đó là khi những kinh nghiệm của trận chiến giải phóng Kerch tỏ ra hữu ích biết bao! Chỉ có điều là bây giờ, nhiệm vụ của chúng tôi không giống như trước, nghĩa là chuyển hàng đến những nơi được cho biết trước, mà phải tìm kiếm các đơn vị của mình trước đã. Bay làm nhiệm vụ này phải bay khá thấp, dưới hỏa lực súng máy-súng bộ binh cá nhân dữ dội của kẻ thù. Việc hạ cánh thường phải thực hiện trong các điều kiện bất ngờ nhất, và đôi khi không thể tin được.


Thượng úy cận vệ, AHLX, nữ phi công Zoya Ivanovna Parfyonova (1920-1993), phi đội phó trung đoàn nữ KQ ném bom đêm cận vệ 46 Ta-man: 739 phi vụ chiến đấu. Nữ AHLX duy nhất của CH tự trị Chuvash. Học hết lớp 7, tốt nghiệp nữ y tá và CLBHK. Trước chiến tranh làm huấn luyện viên bay tại CLBHK Alatyr, CH tự trị Chuvash thuộc CHXVLB Nga. Nhập ngũ tháng 10/1941. Tốt nghiệp trường HKQS Engels. Sau chiến tranh giải ngũ năm 1945, làm quản lý một rạp chiếu phim.

Người đầu tiên gặp nạn khi đó là chỉ huy phó phi đội Zoya Parfenova. Ngày 29 Tháng 1 năm 1945, trung đoàn được lệnh bốc chuyển đạn dược đến Kresin cho bộ đội mặt đất bằng cách hạ cánh tại địa điểm này trong một khu vực sân đáp rất hạn chế.

Thời tiết thậm chí chỉ còn nước khóc: mây 10 độ, còn trần mây từ 100-150 mét. Thêm vào đó là tuyết rơi dữ dội. Tầm nhìn xấu đến mức mặt đất hầu như không nhìn thấy được.

Zoya Parfenova bay thực hiện sứ mệnh này đầu tiên. Công việc sẽ không phải dễ dàng: chiến tuyến mặt trận trong khu vực này không rõ ràng, có nguy cơ bất ngờ ở trên đầu của bọn Đức quốc xã.

Khi bay gần đường chiến tuyến giả định, Zoya phát hiện ra một điểm tập trung quân đang bắt đầu bắn lên chiếc Po-2 của cô. Tuyết rơi không ngừng đóng băng trên nắp che buồng lái. Việc định hướng trở nên phức tạp. Mà Zoya thì bay một mình không có hoa tiêu. Vừa lái máy bay vừa đồng thời theo dõi các mốc định hướng trong các điều kiện thời tiết bất lợi như thế là rất khó khăn. Nhưng chuyến bay vẫn tiếp tục.

Điểm dân cư Basskenhof hiện ra. Zoya nhìn thấy những chiếc xe tăng và bộ binh di chuyển trên mặt đất, và giảm độ cao, tìm một nơi hạ cánh cho thuận tiện. Xuống thêm một chút, người nữ phi công, vô cùng kinh hoàng khi phân biệt được những đường sọc thập tự sơn đen trên các xe tăng. Đó là xe tăng của bọn phát xít quốc xã. Như có một luồng điện chạy qua cơ thể cô. "Giá mà mình mang bom tới đây, nhưng phải nhiều hơn!" - Parfenova nghĩ mà phát sốt. Nhưng dưới cánh máy bay và trong buồng lái phía sau máy bay chỉ toàn các hòm đạn. Cho máy bay vòng gấp, Zoya lái nó về phía đông. Nhưng bọn Đức quốc xã nhận ra những ngôi sao màu đỏ trên đôi cánh của chiếc Po-2. Những tràng súng máy vãi đạn vào cánh và thân máy bay. Đạn nổ như đám mây bao phủ buồng lái phi công. Zoya cảm thấy đau nhói ở đùi phải. Cần phải thoát ly nhanh hơn nữa.

Người nữ phi công bị thương đã tìm được sức mạnh để tiếp tục tìm kiếm. Đạn pháo mà cô giao đến nơi đã giúp ích rất nhiều cho các pháo thủ của chúng ta.

Thời gian này trung đoàn của chúng tôi đang xử lý các vị trí của quân thù ở Nasielsk, Nowy Dwor, Plonsk-Góra, Vorovitsami, Plotsk cũng như đánh phá các bến phà ở Graudenz và Nozenburg. Trong mười ngày chúng tôi hoạt động ở đó, những chiếc Po-2 đã chế áp 16 trận địa pháo binh, phá hủy nhiều hỏa điểm súng máy và súng cối, nhiều kho đạn, gây ra 10 vụ cháy và hơn 30 vụ nổ lớn.

Cuộc tấn công của quân đội Liên Xô đã diễn ra thành công. Vào mười ngày cuối tháng, họ đã tiến đến biên giới Đông Phổ. Trung đoàn dời căn cứ đến Bursch, gần Mlawa, và từ đó vào đầu tháng hai - chuyển đến Sharlottenverder ngay trên lãnh thổ nước Đức.


Đông Phổ: sân bay Đức sau khi bị máy bay Soviet ném bom

Đã thành sự thật những gì mà chúng tôi từng nghĩ về nó suốt những năm tháng ấy, vì nó mà chúng tôi chịu đựng gánh nặng của cuộc chiến tranh, không tiếc mạng sống. Đằng sau là mảnh đất quê hương bị giày xéo - những ngôi làng, những thành phố bị kẻ thù tàn phá và đốt cháy, ngôi mộ của những người đã ngã xuống trong trận chiến. Trái tim của chúng tôi tràn đầy tức giận. Nhưng trong ngực những người lính sôi sục hận thù với bọn phát xít Đức quốc xã, mà không phải với những người dân bình thường của nước Đức. Bước chân vào lãnh thổ của kẻ thù, chúng tôi không nuôi dưỡng sự ác ý đối với người dân Đức. Chúng tôi, những người Soviet, rất xa lạ với những bản năng của loài cầm thú.

Chúng tôi háo hức sớm kết thúc chiến tranh và vì vậy mà đánh kẻ thù còn quyết liệt hơn nữa. Nếu đôi khi thường dân cũng vướng tên rơi đạn lạc, nếu các ngôi làng bốc cháy và các ngôi nhà bị sụp đổ, thì chúng tôi không có lỗi về chuyện đó. Chúng tôi không phải là người đầu tiên giương kiếm lên, nhưng chúng tôi sẽ là những người cuối cùng hạ kiếm xuống. Và điều ấy càng xảy ra sớm hơn thì càng tốt: sẽ ít nạn nhân hơn, sẽ ít tàn phá hơn.

Chúng tôi không định làm gì xấu cho người dân Đức. Nhưng cũng không dễ dàng khi phải tự đấu tranh với những cảm xúc không hay liên quan đến những năm tháng đau thương thử thách.


Dân Đức di tản khỏi Đông Phổ tại cảng Pillau ngày 26 tháng Giêng năm 1944.

Bản thân tôi đã trải qua điều tương tự. Điều đó xảy ra gần Graudenz. Ngôi làng mà chúng tôi đóng gần đó trống rỗng, cũng giống như nhiều ngôi làng khác chúng tôi gặp trên đường. Vào làng chỉ vì tò mò, tôi tạt vào sân ngôi nhà đầu tiên mình gặp. Cho rằng cửa đóng, tôi kéo cánh cửa về phía mình một cách hoàn toàn máy móc. Chúng tôi đã được cảnh báo rằng việc đi một mình là nguy hiểm, vì đã có các cuộc tấn công vào sĩ quan và binh sĩ Liên Xô. Tuy nhiên luôn mạnh hơn bản năng tự bảo vệ là sự xấu hổ vì sự hèn nhát và bạc nhược bất ngờ. Tôi kiên quyết bước qua ngưỡng cửa vào nhà.

Điều đầu tiên tôi nhìn thấy là một chiếc bàn phủ khăn trải bàn giản dị nhưng sạch sẽ có  những lời chúc thêu theo truyền thống kiểu Đức. Không dừng lâu ở đó, tôi nhìn quanh căn phòng. Tính ngăn nắp của nó thật hoàn hảo. Tôi cảm giác như thể người chủ nhà vừa dọn dẹp xong, và bây giờ đang đi đâu đó ra ngoài một thời gian ngắn mà thôi. Đột nhiên trong góc có tiếng sột soạt. Theo bản năng tôi đặt tay lên bao súng lục, quay ngoắt lại.

Một người phụ nữ trung niên nép vào tường, choàng tay ôm một cậu bé và một cô bé. Nhận thấy cử chỉ của tôi, bà ta ghì chặt lấy những đứa trẻ và mặt tái bệch như xác chết. Sau đó, bà ta ối lên một tiếng khẽ và sửng sốt:
- Oh, mein Goth! Madam!
Bọn trẻ gầy gò, mặt trắng bệch, sợ hãi nhìn chằm chằm vào tôi bằng những cặp mắt bé nhỏ. Đứa này cố gắng trốn vào sau đứa kia, chúng nép chặt vào người mẹ. Khi nhìn vào cùng người phụ nữ và những đứa trẻ của bà ta, nhìn cảnh tượng sạch sẽ, nhưng tội nghiệp mà không cần nói cũng thấy rõ rằng tôi đang ở trong ngôi nhà của một người nghèo. Tôi đột nhiên cảm thấy thương cảm theo kiểu tình người cho một người phụ nữ nước ngoài không có lỗi trong chuyện gì, đang nhẫn nhục cam chịu về mình những cú đánh ập xuống đầu bà ta vì những năm dài đằng đẵng, từ lúc chữ thập ngoặc màu đen trở thành biểu tượng của quê hương mình.

Tôi muốn bằng cách nào đó trấn an người nữ chủ nhân của ngôi nhà, làm điều gì đó dễ chịu cho bà ta và những đứa trẻ. Không phải tôi chiến đấu với họ, không phải họ đốt nhà tôi hồi tháng 7 năm bốn mươi mốt. Tôi thò tay vào túi, nơi có một thanh sô cô la nhỏ, và ... không rút nó ra. Đúng giây phút ấy tôi như bị điện giật: Zina Gorman! Trươc tâm tưởng tôi hiện lên khuôn mặt buồn đau của người bạn gái. Làm sao có thể quên bi kịch của cô ấy: cái chết của cha mẹ cô bị bọn phát xít xử bắn, số phận bi thảm của đứa con trai cô ấy, bị chôn sống trong lòng đất ... Ai biết được, có thể trong số những tên súc vật đã làm cái việc ác ôn này có ông chủ của ngôi nhà, đang mặc quân phục lính Hitler, và là cha của những đứa trẻ kia. Có lẽ ông ta không bấm cò súng, nhưng bản chất sự việc không thay đổi. Chúng dùng đạn chì với chúng ta, còn tôi... Quay ngoắt ra, tôi chạy trên đường phố mà không thể bình tĩnh lại trên suốt quãng đường về sân bay. Những cảm xúc trái ngược, mâu thuẫn nhất tràn ngập lòng tôi. Mọi thứ phức tạp hơn nhiều so với những suy tính một vài tháng trước, khi chúng tôi chiến đấu với kẻ thù ngay trên mảnh đất của mình ... Từ đâu mà tôi sinh ra tính hai mặt này - sự căm thù, lòng thương hại? Hay vì tôi đã mệt mỏi vì cuộc chiến và con người phụ nữ trong tôi đã cất tiếng? Hay vì không thể chỉ có căm thù, căm thù đến vô cùng vô tận? Có lẽ điều thứ hai đúng hơn. Con người được tạo ra để yêu cuộc sống, để tô điểm cho trái đất, tạo dựng cái đẹp trên đó. Và dù con người có bị chiến tranh làm cho cay đắng và đau buồn như thế nào, người ta không bao giờ quên sứ mệnh của mình. Chúng ta lại càng như thế - chúng ta là những con người Soviet, con người của đạo đức mới và quan điểm mới. Nỗi đau đớn bi thảm xảy ra với chúng ta, có lẽ tàn khốc hơn với bất cứ ai khác, và chúng tôi biết căm thù sự tệ hại này cho đến khi qua đời. Nhưng chúng tôi vẫn sẵn sàng hơn với việc lắng nghe các xung động trong sáng của trái tim mình, vì chúng tôi yêu mến con người và tin vào nó.

* * *
........
« Sửa lần cuối: 24 Tháng Chín, 2015, 12:15:06 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #46 vào lúc: 24 Tháng Chín, 2015, 10:43:20 pm »

(tiếp)

Nửa sau tháng Hai tới đúng lúc chúng tôi đóng ở thị trấn nhỏ Slupa. Mùa xuân chỉ vừa bén gót từ các bờ biển xa xôi của Đại Tây Dương. Hơi thở mùa xuân đã có thể cảm nhận được ở đây.

Băng tan đột ngột. Sân bay lầy lội đến mức sát xi máy bay mắc kẹt trong nền đất và các động cơ không đủ lực để đưa máy bay tách đất. Chúng tôi phải dùng đôi tay của mình kéo chúng. Thường thì bạn kéo được máy bay một lúc, nhưng chỉ phút sau nó lại ngập xuống bùn lầy.


Klavdia Ilyushina, kỹ sư phụ trách trang bị hàng không chuyên dụng của trung đoàn

Cần phải áp dụng một biện pháp nào đó. Theo đề nghị của thiếu tá Bershanskaya và đại úy kỹ sư Ozerkova người ta quyết định xây dựng đường băng lát gỗ. Cường độ của các phi vụ tất nhiên đã giảm, nhưng điều tốt đẹp là trung đoàn lại hoạt động được.

Cùng với băng tan là thời tiết xấu. Lúc thì hàng ngày và đêm liền mưa phùn gieo hạt không biết chán, lúc thì tuyết mỏng và nhớp nháp rắc mãi. Chúng tôi phải bay ngay dưới rìa mây trên độ cao 400-500 mét. Mà trong hoàn cảnh như vậy, những chiếc Po-2 tốc độ thấp có bị súng máy cỡ nòng lớn bắn hạ cũng không có gì không xứng đáng. Dù sao thì chúng tôi cũng đã bị chúng quần bám một cách triệt để. Những chiếc máy bay khá thường xuyên thực hiện phi vụ quay về với những đôi cánh thủng tơi tả. Các kỹ thuật viên vá víu chúng một cách vội vàng; kết quả là đôi cánh của nhiều chiếc máy bay chẳng mấy mà trông giống như tấm mền cũ mòn.

Nhưng đó là điểm đặc trưng. Dù cho khó khăn đến đâu, các cô gái của chúng tôi vẫn lạc quan, và không mất đi cảm giác hài hước. Tôi nhớ khi tôi và Sasha Akimova trở về sau một phi vụ nguy hiểm. Mà có thể chúng tôi đã không quay về được - cánh của máy bay dày đặc lỗ đạn đến nỗi chúng tôi lấy làm lạ, tại sao không có viên đạn nào rơi trúng động cơ, hoặc trúng hoa tiêu hay nữ phi công. Phải tưởng tượng xem trạng thái của phi hành đoàn ra sao sau một cú đảo lộn như vậy! Trong khi đó, Sasha vẫn còn đủ bình tĩnh để đùa cợt sau khi cô xem xét kỹ lưỡng "cánh én" của chúng tôi và thăm khám từng lỗ thủng trên đôi cánh của nó. Cuối cùng, cả hai chúng tôi đi đến kết luận rằng thoát ra khỏi hoàn cảnh khó khăn là may mắn lắm rồi, một khi không phải căng kéo lại cánh máy bay. Ở chiến dịch này trong trung đoàn chúng tôi, điều đáng sợ hơn bất cứ điều gì trên thế giới đó là: phi công và hoa tiêu lâm vào cảnh "kỵ sĩ không có ngựa", buộc phải ăn không ngồi rồi.


Năm nữ phù thủy đêm tại miền Đông Pomeranie năm 1945. Trái sang phải: hoa tiêu phi đội Katya Ryabova, biên đội trưởng Raisa Yushchina, hoa tiêu Mira Paromova, và các phi đội trưởng Nadezhda (Nadya) Popova và Marina Chechneva.

Chẳng bao lâu sau, một lần tôi và Akimova gần như rơi vào một hoàn cảnh khó chịu. Lần đó chúng tôi ném bom các vị trí quân Đức trong khu vực Neuenburg. Mây dày đặc không cho phép lên cao trên 400 mét. Gió từng cơn giật rất mạnh, tuyết đóng tảng lớn và dính trên nắp chắn gió buồng lái. Mặt đất rất khó quan sát.
- Thời tiết ơi là thời tiết, không hiểu nó là cái kiểu gì! - suốt dọc đường Sasha càu nhàu. - Bây giờ ra lệnh định hướng thế nào đây?
- Không hề gì, - tôi an ủi - bọn phát xít sẽ giúp đỡ. Chúng không bỏ qua chúng ta đâu. Chỉ cần chúng bắt đầu bắn súng máy - thế là cậu có điểm tham chiếu ngay.

Thực tế thì kẻ thù đã đón chúng tôi từ khi chúng tôi còn đang trên đường tiếp cận mục tiêu bằng màn hỏa lực của súng máy hạng nặng.
- Toàn những mốc định hướng tốt nhỉ - Akimova giận dữ rủa. - Tớ thà tự mình tìm mục tiêu còn hơn phải dùng đến cái thứ gậy chỉ đường thế này.


Hoa tiêu phi đội A.Akimova, người nhận danh hiệu Anh hùng 50 năm sau chiến tranh, khi Liên Xô đã sụp đổ.

Cuộc bắn phá thật sự mạnh mẽ. Trong tiếng ồn của động cơ, tất nhiên tôi không thể nghe thấy tiếng khô đanh của những tràng súng máy đang xé vải chúc bâu cánh máy bay tanh tách, nhưng linh cảm nhạy bén qua năm tháng chiến tranh cho phép xác định không nhầm lẫn những khoảnh khắc này. Một vài viên đạn sượt qua trúng nắp chắn gió buồng lái hoa tiêu, và trên đó xuất hiện vết nứt. Rồi trong máy đàm thoại, tôi nghe tiếng Sasha.
- Ôi, chết tiệt - cô nguyền rủa ai đó.
- Cậu sao thế? - tôi hỏi.
- Máy đo cao hỏng rồi, hoàn toàn tê liệt!

Để thoát khỏi màn đạn, tôi lái chiếc máy bay vào trong mây, và một phút sau lại chui ra. Và thật đúng lúc. Ngay bên dưới chúng tôi, hiện ra rõ mồn một trên nền tuyết sẫm, một dãy chiến hào trải ra quanh co như một dải băng đen.

Akimova cắt bom rồi cho hướng về sân bay của mình. Lần đó chúng tôi trở về an toàn. Nhưng tại sân bay, sau khi kiểm tra máy bay của chúng tôi, kỹ thuật viên trưởng của phi đội Masha Shchelkanova lắc đầu:
- Xem chúng làm gì các bạn này... cả hai cánh máy bay không có lần này cũng đã vá chằng vá đụp, bây giờ thì còn chỗ sống nào nữa đây.
- Thế không căng kéo lại được à? - Sasha Akimova hoảng sợ.
- Xem nào ... Có thể, lần này còn được.
Và lần này thì trót lọt...

* * *

Ngày tháng bay đi trong các trận đánh nóng bỏng mà không ai hay. Đến cuối tháng Hai, PDQ Belorussia 2 đã tiến xa đến mức chẳng còn mấy mà tới bờ biển Baltic.


Tướng K.A.Vershinin và các Anh hùng Liên Xô của trung đoàn. Năm 1945.

Đúng thời điểm này có tin vui đến với trung đoàn. Chín nữ phi công và hoa tiêu ưu tú nhất của chúng tôi - Nadezhda Popova, Rufina Gasheva, Ekaterina Ryabova, Irina Sebrova, Natalia Meklin và Evgenya Zhigulenko - được trao tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô. Olga Sanfirova, Vera Belik và Tatiana Makarova đã được truy tặng danh hiệu quân sự cao quý này. Bây giờ trung đoàn đã có mười bốn Anh hùng. Ngoài ra, một nhóm đông các cô gái được tặng thưởng nhiều loại huân huy chương. Sasha Akimova và tôi được trao tặng Huân chương Cờ Đỏ...

Tôi rất yêu thơ ca và nhiều năm trước đây từng chép lại cho mình những câu thơ của Vladimir Karpeko "Con đường dưới bầu trời" (*). Chúng làm tôi rung động:

... Chúng tôi đi qua mười lăm, hai mươi,
Hàng trăm rồi hàng ngàn bước.
Và bầu trời đu đưa mệt mỏi
Trên những đầu lưỡi lê của chúng tôi...
Theo các ngôi sao, theo các mặt trời,
Chúng tôi đi gót giẫm trong mây...
Ngôi sao của ai kia ngôi sao chợt rụng,
Trong đại đội bỗng thiếu một tay lê...
"Thế là hết - con đường kết thúc ...", -
Thoáng qua đầu người lính đang cơn mê.
Anh im bặt khi anh còn chưa hiểu
Con đường này nào có kết thúc đâu.
Anh im bặt, anh còn chưa kịp biết
Người người đi hối hả bước theo nhau,
Bước đi, bước đi, bầu trời sa hấp hối
Kịp xốc lên trên đầu những ngọn lê...



V.K.Karpeko. Năm 1945.

Mỗi người chúng tôi trong những ngày đó đã trải qua điều tương tự như vậy. Mệt mỏi muốn chết vì những đêm mất ngủ, mất đi những người bạn gái trong các trận đánh, bất chấp mọi thứ, ngày và đêm chúng tôi vẫn ném bom kẻ thù. Cái chết rình rập chúng tôi trong mỗi chuyến bay. Nhưng chúng tôi biết: chẳng bao lâu sẽ chiến thắng và không muốn nghĩ về cái chết...

Trung đoàn bay vào Đông Phổ.
Thường dân đã được chính quyền Đức sơ tán vào sâu nội địa nước Đức. Điều đó được thực hiện một cách vội vàng đến mức những người chủ bỏ lại ngôi nhà của họ mà không kịp mang theo ngay cả những vật dụng cần thiết nhất.


Nguyên soái K.K.Rokossovsky trong lễ duyệt binh Chiến thắng

Buổi tối ngày 08 tháng 3, chúng tôi tập trung tại nhà hát của thị trấn Phổ Tuchola. Đích thân tư lệnh phương diện quân, Nguyên soái Rokossovsky đến trao các tặng thưởng của chính phủ. Chúng tôi vô cùng hồi hộp chờ đợi gặp mặt vị chỉ huy quân sự danh tiếng, hồi hộp đến nỗi không biết làm sao kiềm chế được mình. Nhưng hóa ra nguyên soái là một người đàn ông rất quyến rũ. Ông cư xử với các quân nhân của trung đoàn rất chân tình và giản dị, làm mọi người thấy ấm áp và hạnh phúc tuyệt vời. Buổi tối là một thành công vang dội, nó còn lưu lại trong ký ức rất lâu.

Ghế bành được thu dọn ra khỏi gian hội trường, thay vào đó người ta bày bàn đặt các món ăn nhẹ. Chúng tôi hồi hộp chờ đợi các vị khách cấp cao. Khi cuối cùng nguyên soái xuất hiện trong hội trường, đi kèm có một số tướng lĩnh, trong số đó có tư lệnh tập đoàn quân KQ 4 K.A.Vershinin, các cô gái cuống quýt cả lên. Có vẻ như ngay cả Konstantin Konstantinovich cũng bối rối, đặc biệt là khi sự im lặng đột ngột nổ tung bởi những tràng pháo tay như sấm rền bão giật. Ông quay sang Bershanskaya và nói điều gì đó. Evdokia Davydovna dang hai tay ra để phân trần cho nguyên soái biết rằng, điều ấy không phụ thuộc vào chị. Chúng tôi vỗ tay còn to hơn nữa, để nhấn mạnh sự kính trọng của mình đối với vị chỉ huy lừng lẫy.
Nguyên soái mỉm cười, chọn thời cơ thích hợp, cất giọng nói thật lớn:
- Ô hô! Các cô đều đeo đầy huân chương cả rồi.


Shura Khoroshilova bí thư đoàn TNCS trung đoàn

Konstantin Konstantinovich đích thân trao các tặng thưởng. Ông bắt tay tất cả mọi người, chúc đạt được những chiến công tiếp theo. Sau đó, bí thư Đoàn Komsomol trung đoàn Aleksandra Khoroshilova lên bục. Nguyên soái trao cho cô ấy Bằng Khen của Trung ương Đoàn Komsomol toàn Liên bang trao tặng chi đoàn Komsomol trung đoàn. Có lẽ đó là sự ngạc nhiên bất ngờ nhất và dễ chịu nhất đối với chúng ta. Chúng tôi lại vỗ tay hồi lâu mà không để cho Khoroshilova nói xong lời cảm ơn. Mặc dù vào thời điểm này hầu hết chúng tôi đã trở thành những người cộng sản, nhưng theo độ tuổi, chúng tôi chưa hết tuổi đoàn viên. Nhiều thứ gắn chúng tôi với đoàn Komsomol. Trong hàng ngũ của Đoàn, chúng tôi đã qua lần đầu thử lửa, đã trưởng thành, trở thành những người lính thực thụ. Vì vậy Bằng Khen của TU Đoàn Komsomol được chúng tôi tiếp nhận như một phần thưởng cho tất cả chúng tôi, những người Cộng sản trẻ tuổi. Vì thế chúng tôi vỗ tay hoan hô Khoroshilova nồng nhiệt khi cô ấy, sau khi nói lời cảm ơn Ủy ban Trung ương Đoàn TNCS toàn Liên bang, đã tuyên bố rằng chúng tôi sẽ trân trọng mang giải thưởng cao quý này đến tận Berlin.

* * *

(*): Vladimir Kirilovich Karpeko (1922-1993), nhà thơ Nga Soviet, sinh tại Ukraina trong một gia đình nhân viên đường sắt. Có bố bị đàn áp năm 1937. Mẹ đưa cả gia đình sang Belarus sinh sống. Học tại Học viện Giao thông đường sắt Leningrad. Kỹ sư vận tải đường sắt chưa tốt nghiệp, lính trinh sát trong Chiến tranh Vệ quốc 1941-1945, hội viên Hội Nhà văn Liên Xô. Sau chiến tranh đã làm nhiều nghề. Tốt nghiệp Trường Gorky. Giải thưởng A.Fadeyev (1981).


Дорога под небом

Короткой казалась дорога
Её ограничила мгла.
Тревога, тревога, тревога
В щербатых воронках жила.

Казалось, дорога кончалась
В пятнадцати с чем-то шагах...
А низкое нёбо качалось,
Качалось на наших штыках.

В тумане, от зарева рыжем,
Прожекторов меркли мечи,
И, к черепу череп, булыжник
Мерцал перед нами в ночи.

Прошли мы пятнадцать и двадцать,
И сотни, и тыщи шагов,
И нёбо устало качаться
На лезвиях наших штыков.

Не надо ни водки, ни хлеба -
Упасть и лежать на спине...
Привал. Но качается нёбо -
По нёбу идём на войне.

По звёздам идём и по солнцам,
Топча каблуком облака...
А чья-то звезда оборвётся,
И роте не хватит штыка.

И чья-то дорога короче,
Чем та, что осталась живым,
Чем та, что, быть может, пророчит
Такую ж судьбу остальным.

Такие же вихри косые
Могилы других заметут...
Но все Ярославны России
Надеются, плачут и ждут.

Надейтесь ... (О пулю споткнётся!)
И плачьте ... (Он рухнет ничком,
И горестно нёбо качнётся
Над этим последним штыком!)

"Дороге - конец... " - замирая,
Мелькнёт в голове у бойца.
Он так и затихнет, не зная,
Что нет у дороги конца.

Затихнет, не зная, что следом
Торопятся маршевики,
Шагают, упавшее нёбо
Успев подхватить на штыки.

.........
« Sửa lần cuối: 25 Tháng Chín, 2015, 11:31:38 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #47 vào lúc: 25 Tháng Chín, 2015, 10:04:02 am »

(tiếp)

Vào đầu tháng Ba, bọn Đức quốc xã rút lui về Danzig, sau khi dâng cho chúng ta các thành phố Preussisch, Stargard, Dirshau. Ngày 10 tháng 3, quân đội Liên Xô đã kéo đến sát Danzig và Gdynia, chiếm Tsopot, Olivts, Kolitken, qua đó cắt làm đôi một cụm quân lớn của kẻ thù.

Thời tiết vào lúc này đang trở xấu đột ngột. Gió ẩm mang theo mình sương mù và tuyết rơi nhiều. Nhưng các chuyến bay vẫn tiếp tục. Xuyên qua tuyết và gió những chiếc Po-2 nhỏ nhẹ của chúng tôi bay tới các mục tiêu của kẻ thù, và không có trường hợp nào các kíp bay quay trở lại sân bay mà không hoàn thành nhiệm vụ. Trong suốt giai đoạn, mặc dù điều kiện thời tiết bất lợi và bị bắn phá dữ dội từ mặt đất, trung đoàn không có tổn thất nào.

Chỉ có một lần Klavdia Serebryakova và Tosia Pavlova không quay trở lại sân bay. Họ bay cùng chúng tôi đi ném bom các mục tiêu quân sự trong khu vực Danzig. Thời tiết xấu khủng khiếp. Từ phi vụ đầu tiên đã thấy rõ ràng rằng, nhiệm vụ sẽ phải thực hiện trong các điều kiện vô cùng khó khăn. Hơn hai mươi điểm hỏa lực cùng chừng ấy dàn đèn chiếu nghênh đón mỗi máy bay Liên Xô. Cần phải vượt qua lưới lửa dày đặc và ánh sáng chói mắt người này, sau đó bẻ hướng sang khu vực phía tây bắc của thành phố. Người biên đội trưởng có ý chí mạnh mẽ tuyệt vời Klavdia Serebryakova cũng là nữ phi công xuất sắc đã cùng với hoa tiêu Tosia Pavlova lái máy bay đến đó một cách chính xác. Nhưng các cô gái đã không trở về sân bay. Tại trung đoàn mọi người chờ đợi họ đã nhiều ngày.

Trong khi còn tìm hiểu, dò hỏi, thời gian cứ thế trôi qua. Chúng tôi vẫn không ngừng lo lắng. Có lẽ chưa bao giờ chúng tôi đau đớn ưu phiền về những người bạn gái mất tích như thế. Và điều đó hoàn toàn dễ hiểu. Dù bất cứ lúc nào để mất các bạn đồng hành đều không dễ chịu gì, nhưng đặc biệt sẽ rất nặng nề khi ta đã thấy rõ những gánh nặng chủ yếu và khó khăn của chiến tranh đã được bỏ lại đằng sau và đâu đây đã nghe vang lên một từ thiêng liêng "hòa bình".


Thăm Klavdia Serebryakova trong quân y viện

Hai tuần dài trôi qua. Và chúng tôi không ngừng chờ đợi. Chờ đợi âm thầm, bướng bỉnh, mặc dù nhận thức rằng trên thực tế không có gì để hy vọng. Bỗng từ bộ tham mưu tập đoàn quân người ta thông báo xuống rằng các chiến sĩ bộ binh của chúng ta đã tìm thấy Pavlova và Serebryakova trên bờ đông sông Vistula, dưới đống mảnh xác máy bay, và các cô gái bị thương đang nằm trong quân y viện.
- Họ còn sống! - các đồng đội cùng trung đoàn hoan hỉ. - May mắn quá! Họ vẫn còn sống!
Mười bốn giờ đồng hồ, các cô gái mất máu, bị thương, nằm dưới đống mảnh xác máy bay và tuyết! Các bác sĩ đã đấu tranh rất, rất lâu để cứu lấy mạng sống của những người bạn gái chúng tôi. Họ quay trở lại đội ngũ sau nhiều tháng, khi chiến tranh đã kết thúc...

* * *

Ngày 12 tháng 3 năm 1945, tôi và Sasha Akimova được trao nhiệm vụ tìm địa điểm để chuyển căn cứ cho trung đoàn.

Trước khi màn đêm xuống còn khoảng hai giờ, trong thời gian đó có thể hoàn thành nhiệm vụ. Do đó, chúng tôi không chậm trễ, mặc dù thời tiết không thuận lợi cho chuyến bay. Trong khu vực Torun, khi đằng sau là một phần đường đáng kể đã đi qua, chúng tôi rơi vào lưới lửa cao xạ. Nhưng chúng tôi tiếp tục bay theo hướng Danzig. Và một lần nữa lại rơi vào lưới lửa phòng không.

Tuyết rơi ngày càng nhiều, và đột nhiên động cơ bắt đầu bị ngắt quãng. Xung quanh toàn rừng và đầm lầy, nhưng chúng tôi vẫn quyết định hạ cánh.
May thay, phía dưới lóe lên các đường viền của một ngôi nhà nhỏ. Tiếp đến là bức thành lũy của một khu rừng. Chúng tôi đáp xuống cách ngôi nhà không xa, và rút súng lục ra trước.

Chưa hết vài phút, đã nhìn thấy các em nhỏ chạy tới chỗ máy bay. Tôi và Sasha ngồi trong các buồng lái và hình dung ráo riết: chúng tôi đang ở vùng quân ta hay quân địch? Một người đàn ông trẻ sải bước vội vã sau đám trẻ em.
- Người mình, người mình! Đừng sợ - anh ta hét lên từ xa.
Chỉ khi đó chúng tôi mới nhìn ra trên tay áo người đàn ông tấm băng màu đỏ-trắng, mà thời đó những người yêu nước Ba Lan thường đeo.

Hoàng hôn thẫm đặc lại. Cả hai chúng tôi thấy khá lạnh. Người cứu chúng tôi tên là Stefan Zhonda. Chúng tôi lần lượt ở lại bên máy bay, mặc dù người ta đã cắt đặt một đội bảo vệ, đứng đầu là Stefan. "Cánh én" của chúng tôi, như ta vẫn gọi, đậu trong một vườn rau gần làng. Tại nhà của Stephan chúng tôi được nghe lời chào thân thiện với chúng tôi, được ăn ngon và được dành cho một góc ấm áp. Mẹ của anh ấy chăm sóc chúng tôi như chăm sóc những đứa con ruột thịt. Chúng tôi không thể hình dung rằng người Đức đang đóng quân cách làng này chỉ một vài cây số.

Sáng sớm tôi, Sasha, Stefan và đám trẻ con trong làng đã dùng những bó rơm để lát đường. Khi tất cả đã xong xuôi và sẵn sàng, tôi cùng Sasha, sau khi cảm ơn các trợ thủ tình nguyện của chúng tôi, leo lên cabin, tôi lấy ra một mảnh giấy và viết cho người bạn mới của chúng tôi một lá thư cảm ơn. Đưa cho anh ấy mảnh giấy, tôi hứa, nếu sống sót qua chiến tranh, tôi sẽ gửi cho Stefan thứ thuốc lá Nga tốt nhất...

Sasha Akimova nhớ rất rõ sự kiện ấy, còn tôi đã quên chi tiết chuyến bay này. Sau đó nhiều năm, tôi nhận được một lá thư từ Minsk:

Chị Marina Pavlovna kính mến! ..
Trung tá quân đội Ba Lan Stanislav Pilotinsky đã đến thăm chúng tôi. Đại úy phi công F.A. Levandyuk đã tiếp xúc với anh ấy để hỏi thăm những người Ba Lan, năm 1945 đã giúp đỡ cho anh khi anh bị bắn rơi trên lãnh thổ Ba Lan. Đồng chí Pilotinsky thực hiện lời yêu cầu, đồng chí đã nỗ lực rất lớn và tìm thấy những con người này. Tháng 8 năm 1963 tôi ở Ba Lan, và anh ấy cho tôi xem các tờ giấy ghi lời cảm ơn mà các phi công của chúng ta viết để tỏ lòng biết ơn các công dân Ba Lan đã giúp đỡ họ.
Trong số những giấy tờ này tôi nhìn thấy tờ giấy mà Chị viết hồi tháng 3 năm 1945...


Lá thư này của Boris Aleksandrovich Litsinsky gửi đến, tôi nhận được năm 1964, và ngay lập tức tôi đến gặp Aleksandra Akimova.

Người bạn gái của tôi còn nhớ Stephan rất rõ, cũng như cả lời hứa của chúng tôi.
Mảnh giấy của của chúng tôi làm cho các phóng viên Ba Lan quan tâm. Tôi được mời đến ban biên tập báo "Sao Đỏ" để gặp một phóng viên báo không quân Ba Lan, đại úy Karol Sheleng. Tôi kể cho anh nghe mọi điều tôi còn nhớ, và năn nỉ anh giúp tìm Stephan của chúng tôi. Sheleng hứa sẽ làm, và anh đã thực hiện lời hứa của mình. Trong hai bài báo xuất bản tại quê hương anh, người phóng viên mô tả chi tiết chuyến bay của chúng tôi. Còn ngày 11 tháng Mười Một năm 1965 trên tờ "Sao Đỏ" xuất hiện bài ký của anh có tựa đề "Người bạn của bạn đang sống ở Kościerzyna".

... Stephan là ai? Tôi quan tâm đến số phận của anh và xúc động với câu chuyện của phi hành đoàn của Marina Chechneva...
Cuối xuân năm nay, tôi đến Kościerzyna. Việc đầu tiên tôi làm là tiếp xúc với Edward Tomashevsky Chủ tịch Ban chấp hành Hội Hữu nghị Ba Lan- Liên Xô của huyện này. Người tiếp chuyện tôi, tiếc là chưa hề nghe được chuyện gì về Stefan Zhonda, nhưng toàn bộ câu chuyện này làm anh ấy quan tâm sâu sắc, và chúng tôi đồng hành cùng nhau trên con đường đi tiếp.
May mắn làm sao, chiếc xe hơi mắc kẹt trên đường, trước khi đi được hết năm km đến đích. Không biết bằng cách nào mà chúng tôi cũng đến được hồ nước, và cuối cùng chúng tôi đã tìm thấy ngôi nhà của Zhonda.
Cả gia đình anh ấy tiếp chúng tôi - vợ anh, sáu đứa trẻ con anh và các bậc cha mẹ già. Bản thân Stefan đang ở trong thành phố. Các trang chủ tò mò ngắm chúng tôi khi họ quan tâm đến mục đích chuyến thăm.
Họ, những người trong gia đình, có nghe nói về những nữ phi công đã hạ cánh ở đây vào năm 1945 hay không?
Còn phải nói! Đó là những ngày tự do đầu tiên. Ngày 08 tháng 3, quân đội Liên Xô chiếm lại Kościerzyna, ba ngày sau đó Stephan đeo lên cánh tay chiếc băng màu đỏ và trắng và đến trực tại đồn công an nhân dân. Đúng lúc đó, chiếc máy bay sơn ngôi sao đỏ tiếp đất trên cánh đồng.
Trong khi chúng tôi đang nói chuyện thì vợ của Stephan bận rộn trong căn phòng bên cạnh, và sau đó trao cho tôi hai mảnh giấy. Chúng được viết bằng tiếng Nga:
"Chúng tôi, các phi công, thượng úy Chechneva và trung úy Akimova, phải hạ cánh bắt buộc. Stefan Zhonda đã giúp đỡ cho chúng tôi rất nhiều, anh đã chân thành chăm sóc chúng tôi và tính toán trước tất cả những thứ cần thiết. Chúng tôi rất biết ơn Stephan Zhonda, một người Ba Lan trung thực.
Thượng uý Chechneva.
Trung úy Akimova".
Trên tấm bìa này còn dán một trang giấy khác.
"... cám ơn Stefan Zhonda vì anh và em trai của anh đã giúp che giấu chúng tôi trước mắt bọn Đức và bọn cảnh binh. Anh mang cho chúng tôi thức ăn, mặc dù luôn có nguy cơ bị quân Đức xử bắn..." Câu văn chưa được hoàn thành. Mảnh giấy đã bị xé. Tuy nhiên còn giữ được hai chữ ký, một trong số đó khá cầu kỳ - Dyachenko. Những chữ tiếp theo nói lên rằng người viết những dòng này là các phi công Xô viết...
Và gia đình của Stephan biết gì về họ?
...Trong một đêm tháng 11 năm 1944, có tiếng người gõ vào cửa sổ. Ðó là hai phi công Liên Xô bị bắn hạ trong một cuộc không chiến gần Tczew. Stefan đón họ như những người thân. Bởi vì bọn Đức sống bên cạnh, nên anh quyết định giấu các sĩ quan Xô Viết đi xa hơn và ở nơi đáng tin cậy hơn. Cùng với em trai của mình, anh giấu họ trong một hầm trú ẩn nằm ở phía bên kia hồ. Gia đình Zhonda chăm sóc các phi công Nga cho đến khi quân đội Xô Viết tới. Gia đình đã tiếp tế cho họ bánh mì, sữa và mọi thứ có ở trong nhà...
Hai trang giấy xé ra từ sổ tay. Chúng nói về các sự kiện khác nhau, và đồng thời nói lên cùng một điều: về những tình cảm con người lớn lao của các đồng bào của tôi đối với những người anh em-giải phóng của họ - những con người Xô Viết.


Nhiều năm qua, tôi đã gặp lại Stephan Zhonda. Nhận lời mời của các bạn Ba Lan, tôi đã đến thăm vài ngày ở Gdansk. Từ những phút đầu tiên khi tôi đến, chúng tôi không hề rời Stefan. Anh vẫn sống tại ngôi làng nơi mà năm bốn mươi lăm xa xôi anh đã giúp đỡ tôi với Sasha Akimova. Chúng tôi lang thang hồi lâu qua khắp nơi, đi cùng với gần như toàn thể dân làng, bồi hồi nhớ lại quá khứ. Hai mươi hai năm, tôi đã hoàn thành lời hứa được đưa ra trong những ngày tháng 3 năm 1945. Từ bản thân mình và từ Aleksandra Akimova, tôi không chỉ mang đến thứ thuốc lá Nga đã hứa, mà còn quà tặng cho sáu người con của Stephan, cho gia đình và bạn bè của anh, và quan trọng nhất là chuyển đến con người yêu nước Ba Lan này lòng biết ơn lớn lao. Cùng với các món quà lưu niệm, tôi đã trao cho Stephan Zhonda bằng chứng nhận của Ủy ban Cựu chiến binh Liên Xô.

* * *
.......
« Sửa lần cuối: 27 Tháng Chín, 2015, 02:08:03 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #48 vào lúc: 27 Tháng Chín, 2015, 12:05:20 am »

(tiếp)

Từ cuối tháng Ba đến giữa tháng Tư trung đoàn chủ yếu hoạt động ở nồi hầm Danzig và hướng Stettin. Sự đóng góp tích cực của trung đoàn vào các trận đánh giành thành phố Kezlin được ghi nhận bằng tấm Huân chương Suvorov hạng III. Tin vui đến với chúng tôi, khi trung đoàn đã chuyển quân đến Buchholz, nằm ở phía tây bắc Berlin. Chúng tôi chào mừng sự kiện này ở đây, và kết thúc chiến tranh.


Quân Đức tại Kurlandia tung cờ trắng

Những chiếc kim đồng hồ đếm ngược thời gian đế chế của Hitler, đã nhích gần đến vạch cuối cùng không sao lay chuyển được. Lá Cờ Chiến Thắng đã vút cao trên Reichstag. Berlin đã sụp đổ, các đơn vị bảo vệ nó đã hạ vũ khí. Mặt trận của lực lượng vũ trang Hitler đã bị cắt đứt.

Trong những ngày này chúng tôi phải tiêu diệt nốt cụm quân đội phát xít trên bờ biển Baltic tại cảng Swinemünde.

Kẻ thù tập trung tại đây một số lượng lớn binh sĩ và trang thiết bị. Những tên lính Hitler còn sống sót chưa bị tiêu diệt được vội vã dồn lên những con tàu vận tải để thoát bằng đường biển đến phía các đồng minh của chúng ta.

Ngày và đêm, máy bay Liên Xô liên tục ném bom cảng. Trên đầu thành phố không phút nào ngớt những loạt đại bác, tiếng nổ khô đanh như điên cuồng của súng máy phòng không cỡ nòng lớn. Những trái bom, ném từ máy bay, ngày và đêm lao xuống vun vút, làm bốc lên những cột nước màu chì của biển Baltic, xay thành bột các công trình bê tông cốt thép của cảng.


Năm 1945 trên bầu trời Swinemünde, nơi tập trung người tị nạn Đức đến từ Đông Phổ trong chiến dịch di tản "Hannibal" tránh Hồng quân LX của chính quyền Đức Quốc xã. Ngày 12 tháng 3 năm 1945, vào buổi trưa, 671 pháo đài bay của Tập đoàn KQ 8 thuộc LLKQ chiến lược Hoa Kỳ, xuất phát từ đất Anh, đã không kích thành phố, thả xuống 1436 tấn bom, giết chết khoảng 10 ngàn người. Hồng quân chiếm thành phố vào đêm ngày 4 sang ngày 5 tháng 5 năm 1945. Tại đây còn tàu sân bay "Bá tước Zeppelin" chưa hoàn thành của Hải quân Đức Quốc xã neo đậu và đã bị quân Đức phá hỏng để không cho LX sử dụng.

Trận ném bom Swinemunde là phi vụ chiến đấu thứ 810 của tôi. Trong suốt chuyến bay không xảy ra bất cứ điều gì đặc biệt, nhưng tôi nhớ nó đến suốt đời.

Tôi bay đến mục tiêu cùng với hoa tiêu phi đội Tanya Sumarokova một cách yên ổn. Phía dưới hiện ra lờ mờ những hình khối lớn tối sẫm của những con tàu đậu tại bến. Triều xuống nước ánh lên mờ đục. Đâu đó ở phía đông bầu trời lúc lúc lại bùng cháy bởi các vụ nổ: đó là bộ đội của phương diện quân Pribantic 1 đang tiêu diệt tàn quân của cụm quân Đông Phổ trên bán đảo Kurlandia. Ở đó những trái bom đang phát nổ, chỉ có điều chúng mạnh hơn bom của chúng tôi. Đó là công việc của các đồng đội cùng vũ khí của chúng tôi - các nữ phi công của trung đoàn máy bay ném bom bổ nhào cận vệ Borisov số 125 huân chương Suvorov và huân chương Kutuzov, mang tên tuổi vinh quang của M.M.Raskova.


Tanya Sumarokova trong thời gian chiến tranh. Phi vụ cuối cùng của T.Sumarokova và M.Chechneva ném bom cảng Swinemunde diễn ra ngày 5 tháng 5 năm 1945.

Chiếc máy bay, như mọi khi, hơi chao đảo khi những "món quà" 50 kg, nhồi đầy chất nổ tách khỏi cánh máy bay. Và đột nhiên tôi nghĩ rằng những trái bom mà Tanya và tôi vừa ném xuống có thể là những trái bom cuối cùng.

Có một sự trùng hợp ngẫu nhiên đã xảy ra. Các chuyến bay đêm tiếp theo không có. Đêm thứ hai và thứ ba chúng tôi cũng ở trên mặt đất. Nhưng đêm thứ ba, chao ôi, có lẽ đó lại là đêm bão táp nhất trong số hàng trăm đêm chúng tôi đã trải qua ở mặt trận.

Trong dinh thự của một địa chủ, nơi trung đoàn đóng quân, mọi người đã ngủ từ lâu. Đột nhiên gian phòng bắt đầu bị khuấy động. Tôi chưa kịp tỉnh giấc, thì người trực ban trung đoàn, kỹ thuật viên trưởng của phi đội Rimma Prudnikova lao vào phòng ngủ.
- Các cô gái! - Cô gào lên hết cỡ. - Chiến thắng! Hòa bình! Dậy ngay! Dậy!

Rima chạy từ giường này sang giường khác, giật phắt chăn khỏi những người đang còn ngủ, quấy rối các cô gái, và như thể say sưa vì hạnh phúc, cô hét lên phấn khích:
- Hòa bình! Hòa bình! Chiến thắng! Chi-i-ế-n th-ắ-ắng!


Các chỉ huy trung đoàn nhận nhiệm vụ chiến đấu ngày 20 tháng 4 năm 1945

Lúc đầu chúng tôi sửng sốt vì bất ngờ. Trong một vài giây, sự im lặng chết người bao trùm tất cả, rồi sau đó mọi thứ vỡ òa, từ mọi phía mọi nơi có thể, có vẻ như trong điền trang này mọi người đã hóa điên. Để hoàn tất sự kiện, trong sân dinh thự bỗng có tiếng đạn bắn lên trời nổ ran, ai đó đã bắn pháo hiệu, và bầu trời tháng Năm đầy sao nổ tung trong những chùm lửa đỏ, xanh lục và trắng. Không phải trong giấc mơ nữa rồi, đó là điều chắc chắn.

Chỉ đến buổi sáng các cô gái mới bình tĩnh lại một chút, giải tán về các phòng. Nhưng không ai ngủ. Mọi người quá xúc động, nằm mở to đôi mắt hoặc trao đổi khẽ khàng hoặc lặng im đắm chìm vào những suy nghĩ của mình.

Cả tôi nữa cũng không thể ngủ. Tôi vùng dậy, khoác lên vai chiếc áo ca-pot và đi ra ngoài. Trời đất vô cùng tĩnh lặng, như chỉ xảy ra vào lúc sớm mai. Và sau cảnh nhộn nhạo, tiếng ồn ào, la hét cách đây chưa lâu, sự im lặng dường như còn dày dặn hơn.


Con sên trời trên đầu Reichstag

Cách đó không xa, phía sau một bờ rào bị hỏng, khu vườn bao bọc trong màn sương mù phơn phớt ánh xanh lơ đang ngủ. Bên phải khu vườn, lấp lánh ánh nhựa asphalt ướt nước phủ mặt đường ô tô, nhưng ở lề đường, một chiếc xe ngựa vận tải bị lật đổ ngược, hếch càng lên trời giống như những nòng pháo.

Bầu trời đã nhạt dần, những ngôi sao không còn quá lấp lánh. Hừng đông đã đến. Hừng đông của ngày hòa bình đầu tiên. Theo lẽ thường, rạng đông đến từ nơi đó, nơi đất mẹ ruột thịt của tôi.

Tôi nhìn ngắm hồi lâu, nhìn phương đông đang ửng hồng, xem bình minh ngày càng tươi sáng hơn. Cuối cùng, mặt trời tròn đầy như chiếc đĩa lóe lên sau đồng cỏ, trải những tia sáng của nó về mọi hướng. Chúng xuyên qua sương mù dày đặc, gieo những hạt kim cương lên lá cỏ phủ sương tháng Năm long lanh. Ngày hòa bình đầu tiên đã đến, và mặt trời vồn vã chào đón nó.


Trung đoàn trưởng E.D.Bershanskaya tháng 5 năm 1945 tại Berlin. Cổng Brandenburg.

Tuyệt vời biết bao - hòa bình, tĩnh lặng! Chúng đang hiển hiện xung quanh tôi. Tôi dường như cảm nhận được chúng qua xúc giác, cảm thấy chúng bằng từng sợi tơ của tâm hồn. Tôi say sưa quan sát trong buổi sáng không thể quên này, lắng tai thật khẽ trong sự im lặng của nó, sợ khuấy động, ngắm xem rạng đông đang từ phía đông lan tới. Và nó đang lan xa hơn, xa mãi, quét sạch bóng đêm khỏi bộ mặt châu Âu, mang vào ngôi nhà và trái tim của mọi người sự tĩnh lặng được chờ đợi từ lâu. Bị bọn phát xít Đức quốc xã xua đuổi, nay sự tĩnh lặng dẫu sao cũng đã trở lại khu vực này. Nó đã trở lại ngay khi những người lính Liên Xô bắt những cỗ đại bác từng lên tiếng ở phương Tây câm bặt.

Vậy là, đã chấm dứt thời chiến tranh gian khổ, cuộc sống yên bình thường ngày đã đến. Chẳng bao lâu sau trung đoàn được chuyển tới Alt-Reza - một thị trấn nghỉ mát gần Neubrandenburg. Hồ nước tuyệt đẹp, bến thuyền, khu vườn lớn rợp bóng mát - tất cả mọi thứ ở đây phục vụ cho việc nghỉ ngơi. Hơn một tháng chúng tôi chỉ ăn, ngủ, dạo chơi bách bộ, tổ chức các sự kiện thể thao, tham gia các buổi biểu diễn văn nghệ nghiệp dư.


Chặng đường chiến đấu của trung đoàn. Sơ đồ của cựu TMT trung đoàn Irina Rakobolskaya.

Tại đây Nguyên soái Liên Xô Rokossovsky một lần nữa đến thăm chúng tôi. Ông có mặt dự  buổi lễ kỷ niệm ba năm trung đoàn chúng tôi ra mặt trận.

Vài ngày sau chúng tôi bay về Moskva để chuẩn bị cho cuộc diễu hành trên không đầu tiên sau chiến tranh. Sự kiện này có thể coi là hoàn tất trang cuối cùng biên niên sử của trung đoàn nữ không quân cận vệ 46 Taman huân chương Cờ Đỏ và huân chương Suvorov hạng III.

Ngày 9 tháng 10 năm 1945, trung đoàn tổ chức cuộc họp đảng sau cùng. Thời điểm để chia tay với các bạn gái sắp đến. Chúng tôi đã tổng kết hoạt động chiến đấu của mình. Trong ba năm trên tiền tuyến, các nữ phi công trung đoàn đã bay 23.672 phi vụ chiến đấu, ném xuống đầu kẻ thù gần 3 triệu kg bom. Kết quả, theo số liệu chưa đầy đủ, đã phá hủy và làm hư hỏng 17 phà lớn, 9 đoàn tàu hỏa, 26 kho đạn dược và nhiên liệu, 176 xe ô tô, 86 hỏa điểm, gây ra 811 đám cháy, ghi nhận 1092 vụ nổ lớn.

Nhưng đó không phải là tất cả. Bắt đầu cuộc chiến tranh khi còn rất trẻ, khi ra khỏi cuộc chiến chúng tôi đã lớn lên, đã là những con người trưởng thành. Cuộc chiến tranh tôi luyện chúng tôi không chỉ về thể chất mà còn cả tinh thần. Đến cuối thời gian ở mặt trận, hầu như tất cả các cô gái đã trở thành những người Cộng sản. Trong ba năm chiến đấu, có 180 người đã gia nhập đảng. Toàn bộ quân nhân của trung đoàn được tặng thưởng các loại huân huy chương, 23 người trở thành các Anh hùng Liên Xô.


Trước Lễ Duyệt binh Chiến thắng năm 1945. Phải sang trái: Е.Zhigulenko, М.Smirnova, Е.D.Bershanskaya,  Е.Nikulina, S.Аmosova, N.Popova, М.Chechneva, N.Meklin, I.Sebrova, R.Gasheva

Một tháng sau, với một cuộc họp mặt nhỏ sau cuộc họp đảng bộ, trung đoàn được lệnh giải tán. Chúng tôi buồn bã chia tay nhau. Chiến tranh gắn bó chúng tôi bằng những sợi dây tình bạn bền chặt. Suốt những năm tháng qua chúng tôi đã sống như một gia đình, chia sẻ cả niềm vui và nỗi đau. Và vì thế trong tâm trí chúng tôi không thể tin rằng, từ giờ trở đi con đường của chúng tôi, số phận của chúng tôi sẽ mỗi người mỗi ngả.

Nhưng biết làm sao, thực tế là thế và cần phải là như thế. Chính chúng tôi bước vào chiến tranh là để hòa bình toàn thắng trên mặt đất, để con người trở lại với lao động sáng tạo, lấy lưỡi cày thay cho thanh kiếm. Dẫu sao trái tim vẫn thắt lại khi nghĩ đến sự gần gụi vừa mới đây sẽ trở thành quá khứ xa xôi, rằng không còn nữa trung đoàn ném bom cận vệ số 46, không còn nữa những đêm cháy sém bởi đạn thù bắn xối xả điên cuồng, bị cắt vụn bởi những chùm đèn chiếu phòng không.

Trong lồng ngực bỗng quặn lên một cảm giác nghẹn ngào buồn bã vì biết rằng không còn nữa các phi công, hoa tiêu, kỹ thuật viên, quân khí viên, không còn nữa một tập thể chiến đấu, được thống nhất bởi kỷ luật quân sự và nhiệm vụ, có hơn hai trăm cô gái khác nhau, và mỗi người trong số họ - có cuộc sống riêng, mối quan tâm riêng của mình. Chúng tôi hiểu rõ: số phận sẽ phân tán chúng tôi đi khắp đất nước, thời gian sẽ mang lại những mối lo toan mới, năm tháng ngoài mặt trận sẽ chỉ còn lại những kỷ niệm. Nhưng được bao lâu? Chúng tôi muốn nó là mãi mãi. Và do đó, khi chia tay, chúng tôi thề không quên quá khứ, và cùng với nó, tình đồng đội tiền tuyến của chúng tôi, hẹn tất cả sẽ gặp gỡ nhau trong những ngày nhất định. Và chúng tôi đã giữ lời hứa.

* * *
.........
« Sửa lần cuối: 28 Tháng Chín, 2015, 06:39:23 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #49 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2015, 12:43:59 am »

(tiếp)

Dẫu sao chúng tôi vẫn là những người hạnh phúc!

Mỗi người có lẽ đều quen thuộc với cảm giác khi bạn mong đợi mãi một sự kiện lớn, đáng vui mừng và rồi cuối cùng nó cũng đã đến. Nhưng hóa ra ở đây, các qui luật của tồn tại cũng tác động một cách nghiệt ngã: sau hạnh phúc sự đau đớn trong phiền muộn lại đến.

Chiến tranh đã qua. Trung đoàn của chúng tôi giải tán tháng 11 năm 1945.
Chia tay tại thành phố Ba Lan Schweidnitz, tất cả chúng tôi ôm nhau khóc, không ngượng ngùng vì những dòng lệ. Bởi đã tan rã cái thậm chí còn hơn cả một gia đình - tình đồng đội tiền tuyến thiêng liêng đối với mỗi con người.

Các bạn gái của tôi bắt đầu dành nhiều thời gian hơn cho cuộc sống cá nhân của mình: đi lấy chồng, trở lại với các lớp học đang dang dở, đi vào các nhà máy, xí nghiệp, đến với các công trình xây dựng.


Lại về với giảng đường MGU, các cựu sinh viên khoa Toán-Cơ ĐH Tổng hợp Quốc gia Moskva, trái sang phải: А.Zubkova, Е.Pasko, I.Rakobolskaya, Е.Ryabova

Tôi có ước mơ được bay trên bầu trời hòa bình, trở lại với các hoạt động thể thao.

Vào lúc đó, tình yêu lớn đã đến với tôi. Tháng Mười Một tôi kết hôn với Konstantin Davydov - phi đội trưởng cường kích, Anh hùng Liên Xô.

Cùng với trung đoàn của mình, anh đã trải qua một con đường chiến đấu khó khăn. Anh tham gia bảo vệ Leningrad và Stalingrad. Người phi công cường kích Davydov xuất hiện trên những tàn tích của Smolensk chịu nhiều đau khổ, trên các thành phố vùng Caucasus, Belarus, Ba Lan và Đức. Vào Ngày Chiến thắng trong sổ bay của Kostya Davydov đã có 170 phi vụ cường kích chiến đấu.

Tôi đã kể rằng cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với Kostya diễn ra vào tháng Tám năm 1942. Sau đó, chúng tôi gặp lại nhau một lần nữa tại sân bay tiền tuyến năm 1944. Sau này, khi trung đoàn của chúng tôi được chuyển đến nghỉ ngơi một thời gian ngắn ở Alt-Reza, trung đoàn của Davydov đóng quân cách đó chỉ 50 km. Kostya với bạn bè của anh thường đến chơi chỗ chúng tôi, và chúng tôi đã kết bạn thân thiết. Sau đó, tôi cùng các cô gái bay về Moskva tham gia cuộc duyệt binh đầu tiên sau chiến tranh. Trong vòng hai tháng ở Moskva, tôi nhận được từ đại úy Konstantin Davydov sáu mươi bức thư. Ở đây, như ta vẫn nói, có cái đáng để mà suy nghĩ.

Từ Moskva, chúng tôi trở lại trên những chiếc máy bay vận tải và hạ cánh xuống thành phố Ba Lan Liegnitz, nơi trung đoàn mà Kostya phục vụ vừa chuyển quân đến.

Chẳng bao lâu sau, tôi được triệu lên gặp trung đoàn trưởng của chúng tôi, và ở đây, ở chỗ Bershanskaya, tôi nhìn thấy người bạn trai của tôi. Kostya đề nghị Evdokia Davydovna đồng ý cho cuộc hôn nhân của chúng tôi...


Kostya Davydov và con gái bé bỏng Valya

Cuối tháng, chúng tôi kết hôn. Tôi ở lại phục vụ trong trung đoàn cường kích tại Cụm quân Bắc quân đội Soviet tại Ba Lan. Kostya tiếp tục chỉ huy một phi đội, còn tôi thực hiện các chuyến bay khác nhau theo nhiệm vụ mà ban chỉ huy giao.

Tôi không thể tưởng tượng cuộc sống bên ngoài ngành hàng không ngay cả khi chuẩn bị làm người mẹ. Tháng 8 năm 1946, con gái chúng tôi ra đời. Nhưng bốn tháng sau, tôi đã trở lại với hoạt động bay.

Sau chiến tranh, tôi đã có cơ hội bay ba năm trên bầu trời Ba Lan hòa bình. Năm 1948, tôi và Kostya trở về Tổ quốc và được phân công làm việc tại DOSAAF. Chúng tôi mơ ước tiếp tục hoạt động bay luôn luôn bên nhau, cùng nhau.

Tôi còn nhớ mãi ngày chúng tôi đến Tushino. Tiếp cả hai chúng tôi là một trong những Anh hùng Liên Xô đầu tiên trung tướng Nikolai Petrovich Kamanin. Chúng tôi trước đấy đã từng được nghe về con người tuyệt vời này, được đọc rất nhiều về ông, nhưng chưa được nhìn thấy đích danh ông ấy.

Cuộc nói chuyện với N.P.Kamanin đã quyết định vận mệnh tương lai của chúng tôi: ông đề nghị chúng tôi làm việc ở Câu lạc bộ hàng không Trung ương mang tên V.P.Chkalov. Cuộc gặp gỡ này tạo một ấn tượng không thể phai mờ cho tôi và chồng tôi. Sau đó tôi còn may mắn được trò chuyện nhiều với Nikolai Petrovich, người đối với tôi vẫn là một con người bước ra từ huyền thoại.


AHLX, thiếu tướng KQ N.P.Kamanin (1909-1982) tư lệnh quân đoàn KQ cường kích 5 PDQ Ukraina 1 và con trai là binh nhất Arkady Nikolayevich Kamanin (1928-1947) phi công phi đội liên lạc độc lập 423 thuộc BTM quân đoàn, trong buồng lái một chiếc U-2. Năm 1943. Sau chiến tranh thượng tướng KQ N.P.Kamanin là Tham mưu phó KQLX phụ trách huấn luyện chiến đấu. Là người tổ chức và huấn luyện các nhà du hành vũ trụ đầu tiên của Liên Xô.

Tuổi trẻ của Nikolai Kamanin thật kỳ diệu. Khi còn là đoàn viên Komsomol, ông đã tham gia với tư cách biên đội trưởng biên đội máy bay đi giải cứu đoàn thám hiểm của Otto Yulyevich Schmidt. Trả lời phỏng vấn các phóng viên trong những ngày đó, người phi công trẻ ngượng ngùng nhún vai: "Tôi không có tiểu sử. Tiểu sử của tôi chỉ mới bắt đầu..." Và anh đã trở thành nhà tiên tri. Bây giờ chúng ta đã biết tướng Kamanin có những đóng góp đáng kể thế nào vào chiến thắng của chúng ta trong những năm chiến tranh, ông đã đào tạo biết bao nhiêu phi công xuất sắc trong những ngày tháng hòa bình, ngay cả ngày hôm nay ông cũng vẫn là một ví dụ vô cùng cao cả về tinh thần phụng sự Tổ quốc - là người thầy, người giáo dục "những công dân đầu tiên của Vũ trụ".

Không có gì ngạc nhiên khi Nikolai Petrovich được tất cả mọi người yêu mến, dẫu người ta chỉ một lần may mắn được tiếp xúc với ông...

Và tôi lại ngồi đây trong CLBHK Trung ương, từ mái nhà này tôi đã ra mặt trận. Nhiều nước đã chảy qua dưới cầu kể từ dạo đó. Hầu hết các đồng nghiệp lớn tuổi hơn của tôi, những người mà tôi đã cùng làm việc ở đây, đã kết tình thân với họ, đã bị cuộc chiến tranh này mang đi mãi mãi.

Trong một ngày tháng Bảy năm 48, khi tôi cùng Konstantin đang làm quen với sân bay của câu lạc bộ, ở đây diễn ra một cuộc huấn luyện diễu hành trên không. Tại sân bay từ sáng đến tối các phi công, vận động viên tàu lượn, vận động viên nhảy dù chau chuốt kỹ năng của họ. Năm chiếc máy bay thể thao do các nữ phi công điều khiển lập tức cất cánh lên bầu trời. Họ thực hiện các bài biểu diễn thuật lái cao cấp đặc biệt chính xác và đẹp mắt. Tôi sẽ phải học, học nữa, học hỏi những người đã làm chủ được các máy bay kiểu mới và thuật lái biểu diễn nhóm. Và tôi rất vui lòng sẵn sàng để được làm điều đó, chỉ cần được tiếp tục bay.

Các cô gái hạ cánh và lăn bánh đến bãi đậu. Tôi không thể kìm được mình, đi đến chỗ họ bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình. Hóa ra đó là Anna Bodryagina, Zoya Postnikova, Maria Drigo, Anna Shmelkova, Vera Dubrovina. Bộ năm này trong những năm chiến tranh là các phi công-huấn luyện viên trong trường phi công hải quân. Mọi người chào hỏi tôi rất nồng nhiệt.
- Nào, - Anya Bodryagina nói - trung đoàn của chúng ta đã có mặt. Chúng ta hãy bay cùng với nhau.

Các kiện tường thể thao công huân Liên Xô Anya Bodryagina (1918-1999) và Yakov Forostenko (1911-)

Tại câu lạc bộ HK tôi gặp được các bậc thầy xuất sắc của nghề bay Yakov Forostenko, Nikolai Golovanov, Piotr Zakhudalin và nhiều người khác. Sự quan tâm của họ, sự ủng hộ và tư vấn  của họ giúp tôi vững tin vào bản thân. Tôi lao vào việc, không tiếc sức lực, và công việc trôi chảy: một năm sau, tôi được giao nhiệm vụ đứng đầu đội bay biểu diễn thuật lái cao cấp nữ tại cuộc diễu hành trên không ở Tushino.

Năm 1949 bắt đầu một cách may mắn cho tôi và Kostya. Cả hai được làm những điều mình yêu thích, sống trong sự hòa hợp hoàn hảo, Valya bé bỏng của chúng tôi lớn lên khỏe mạnh, ngoan ngoãn. Dường như không có gì báo hiệu tai họa. Thế mà nó vẫn cứ len lỏi vào gia đình tôi.

Cuộc diễu hành trên không năm 1949 diễn ra xuất sắc. Nó cho thấy rằng sau khi được khôi phục hoạt động trở lại, một lần nữa các CLBHK lại trở thành các trung tâm thể thao hàng không của đông đảo quần chúng, như thời kỳ trước chiến tranh. Có lẽ ở đây, đóng một vai trò tương đối quan trọng là việc những người đang làm công tác huấn luyện các vận động viên ngành hàng không bây giờ là những người mà sau vai họ có kinh nghiệm của cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại...

Chẳng bao lâu sau chúng tôi bắt đầu nhào lộn trên không trong đội hình các cặp đôi, thao luyện tiết mục tiếp theo cho chương trình kỷ niệm Ngày Hạm đội Hàng không. Konstantin Davydov giai đoạn này được bổ nhiệm làm đội phó đội nhào lộn trên không gồm 25 chiếc Yak-18. Tiết mục này luôn nhận được sự đánh giá cao nhất của các chuyên gia và được khán giả đón nhận rất hân hoan. 25 máy bay được chia thành ba nhóm, tám chiếc mỗi nhóm. Một Yak-18 dùng làm dự bị. Từ sân bay chúng cất cánh bay lên tám chiếc một, nhóm này sau nhóm kia. Trên không các nhóm chuyển đội hình thành hàng dọc.

Họ bay bám dính đuôi nhau trên độ cao 1100-1200 m với chênh cao chiếc nọ so với chiếc kế khoảng một-một mét rưỡi. Đội hình 24 máy bay này sẽ thực hiện thuật lái: ba vòng thòng lọng xiên (thòng lọng Shoviar), đảo cánh lật máy bay, lượn vòng nghiêng và xoắn ốc đến 50 mét. Sau khi hoàn thành bài biểu diễn, các máy bay thoát ly ở độ cao sát ngọn cây. Trong quá trình biểu diễn thuật lái cần phải duy trì đội hình một cách chính xác. Chúng tôi đã tập luyện rất nhiều và thậm chí đã đi dã ngoại cắm trại tại một trong những sân bay ở ngoại ô. Ở đây, trong giai đoạn đầu hình thành nhóm, Kostya bay rất nhiều, trau chuốt kỹ thuật lái của từng phi công. Kostya đã rất bền bỉ dẻo dai. Sau khi hoàn thành 12-15 lần nhào lộn, anh không bao giờ phàn nàn về sự mệt mỏi.


Virazh (Turn) trên Yak-3

Konstantin Davydov đã làm việc nhiều để mài giũa thuật lái nhào lộn nhóm 24 máy bay. Đội trưởng chỉ huy nhóm này là phi công-vận động viên nổi tiếng Yakov Danilovich Forostenko. Kostya đã kết bạn thân thiết với anh ấy, kiên nhẫn học được từ Forostenko kỹ năng nhào lộn. Vào ngày diễu hành, tiết mục này nhận được sự đánh giá cao nhất.
Kostya đã làm việc như vậy. Tôi cố gắng để không tụt hậu xa anh. Mỗi chuyến bay dường như cho tôi thêm sức mạnh.

Thể thao sẽ không còn là thể thao, nếu bạn không phấn đấu đạt những thành tích mới. Ngay sau cuộc diễu hành Yakov Danilovich Forostenko bắt đầu chuẩn bị cho tôi và Anna Bodryagina luyện tập nhằm thiết lập các kỷ lục trên máy bay Yak-18.

Ngày 06 tháng 9 năm 1949 công tác chuẩn bị cho chuyến bay cuối cùng cũng đã hoàn tất. Chính Forostenko quyết định bản thân anh sẽ là người bay đầu tiên để thiết lập kỷ lục. Sau 1.000 km theo vòng tròn kín (Moskva - Smolensk - Oriol - Moskva), Yakov Danilovich không chỉ phá kỷ lục toàn Liên bang, mà còn cả kỷ lục thế giới. Tốc độ trung bình của chiếc Yak-18 của anh đã vượt trên 223 km mỗi giờ.

Tôi sẽ phải thiết lập kỷ lục tốc độ trên hình tam giác kín 500 km: Moskva - Vyazma - Serpukhov - Moskva.

Chuyến bay diễn ra suôn sẻ, không có sự cố. Trong số những người ra đón tôi tại sân bay Moskva, trước hết tôi nhìn thấy Kostya, Anya Bodryagina và huấn luyện viên tuyệt vời của tôi Yakov Forostenko. Chồng tôi và người bạn gái mỉm cười hân hoan chào đón tôi. Theo nét mặt của huấn luyện viên, tôi hiểu ra rằng mọi việc đều diễn ra tốt đẹp, và đã báo cáo chi tiết về chuyến bay với một tâm hồn thanh thản.

Một vài ngày sau đó, một ủy ban thể thao, sau khi xử lý dữ liệu của các khí áp ký, ước tính tốc độ trung bình của chuyến bay của tôi tương đương với 244 km mỗi giờ. Trong bảng kê các kỷ lục lần đầu tiên xuất hiện một kỷ lục theo kiểu mới của các máy bay thể thao. Đó là thắng lợi chung của chúng tôi, chiến thắng của CLBHK Trung ương mang tên V.P.Chkalov.

Sau chuyến bay kỷ lục thì cuối cùng chúng tôi đã chứng tỏ chắc chắn rằng Yak-18 thiết kế của Yakovlev - là một chiếc máy bay tuyệt vời, hoàn toàn thích hợp cho công tác lập kỷ lục thể thao. Chúng tôi tin tưởng rằng trên chiếc máy bay này các vận động viên thể thao hàng không sẽ làm Tổ quốc vui mừng với những thành tựu mới...

Bây giờ, khi tôi viết những dòng này, tôi cũng biết rõ những thành tựu của các vận động viên của chúng ta trong tất cả các dạng thể thao hàng không trong năm 1969. Chúng, tất nhiên, rất khó mang ra so sánh với các kết quả mà chúng tôi đạt được hai mươi năm trước. Tuy nhiên, một số thành tựu của chúng tôi những ngày đó là các kỷ lục đầu tiên sau chiến tranh, và vẫn xuất hiện trong bảng ghi các kỷ lục...

Vài ngày sau chuyến bay của tôi, chúng tôi tiễn Anna Bodryagina đi lập kỷ lục mới. Trên chiếc máy bay thể thao hạng nhẹ Yak-18, chị đã tăng tốc độ thành công lên 264 km mỗi giờ, đó là một thành tích mới đối với loại máy bay thể thao này.

Ngay sau khi thiết lập các kỷ lục trên, các nhân viên và vận động viên của câu lạc bộ hàng không của chúng tôi đã được gặp gỡ nhà thiết kế danh tiếng Aleksandr Sergeyevich Yakovlev. Theo yêu cầu của ông, chúng tôi đã bày tỏ quan điểm của mình về sự cải tiến hơn nữa thiết kế của các máy bay Yak-18 và Yak-11. Aleksandr Sergeyevich đã tính đến các mong muốn của chúng tôi. Sau này một chút trên các máy bay của ông, các kỷ lục mới được thiết lập gắn với tên tuổi của các phi công Nikolai Golovanov, Marya Drigo, Piotr Zakhudalin, Vladimir Markov. Một số kỷ lục thế giới do chính Yacov Forostenko thiết lập.

Theo sự hướng dẫn của huấn luyện viên, tôi bắt đầu chuẩn bị cho việc thiết lập kỷ lục độ cao chuyến bay trên máy bay thể thao Yak-11.

Các phi công Liên Xô đã có kinh nghiệm phong phú về các chuyến bay ở độ cao lớn. Họ là những người đầu tiên trên thế giới bắt đầu tấn công các tầng cao chóng mặt ngay sau khi đảng và chính phủ đặt ra mục tiêu bay xa hơn, nhanh hơn và cao hơn tất cả. Lời đầu tiên ở đây thuộc về phi công Liên Xô V.Kokkinaki, người từ tháng 11 năm 1935 đã đạt đến độ cao chưa từng có vào thời gian ấy - 14 575 mét.

Sau một thời gian, ông lên đến độ cao 12.816 mét trên chiếc máy bay mang tải trọng thương mại 500 kg. Các chuyến bay xuất sắc ở độ cao lớn với tải trọng lớn được thực hiện trong cùng thời gian này bởi các phi công nổi tiếng của chúng ta M.Alekseev, A.Yumashev, M.Nyuhtikov, M.Lipkin. Cho đến bây giờ người ta vẫn chưa vượt qua được kỷ lục thế giới về độ cao trên thủy phi cơ - 8864 mét, do Anh hùng Liên Xô Polina Osipenko thiết lập vào năm 1937.

Các chuyến bay ở độ cao lớn trên máy bay thể thao được quan tâm không ít. Nhờ Ya.D. Forostenko, sau khi chuẩn bị cẩn thận tôi đã thực hiện thành công chuyến bay ở độ cao lớn trên Yak-11 và vượt thêm được 1.000 mét so với kỷ lục thiết lập vào năm 1937 cũng trên loại máy bay thể thao này.

... Kostya, tôi và Anya Bodryagina không thể tách rời. Chúng tôi cùng nhau bay đi công tác, thường xuyên chia sẻ kinh nghiệm, xây dựng kế hoạch cho tương lai. Cả tôi và Kostya đều gắn bó nhiệt thành với cô gái khiêm tốn quyến rũ này. Anya thường ở nhà chúng tôi, chơi với con gái nhỏ của chúng tôi, cùng chúng tôi đi đến nhà hát, rạp chiếu phim, triển lãm, bảo tàng.

Anna Bodryagina trước đây làm việc tại công trường xây dựng đường tàu điện ngầm Moskva và cùng lúc học tập tại CLBHK của công trình xây dựng Metro. Năm 1938, sau khi kết thúc khóa học tại CLBHK một cách xuất sắc, chị được giữ lại làm phi công-huấn luyện viên. Trong chiến tranh, Anna đã đào tạo được hơn 70 phi công cho mặt trận. Xuất ngũ, chị đến CLBHK Trung ương và bắt đầu đào tạo các phi công-vận động viên.

Ngay trong tháng 9 năm 1949 tại cuộc tranh tài đầu tiên của các phi công DOSAAF toàn Liên bang, Anna Bodryagina đã đạt những kết quả tốt nhất trong tất cả các bài thi và chiếm ngôi đầu. Chị được trao danh hiệu vô địch về kỹ thuật lái trên các máy bay thể thao. Tại cuộc tranh tài lần thứ hai của các phi công DOSAAF toàn Liên bang, một lần nữa chị vượt lên trên tất cả các phi công nam giới tham gia và trở thành nhà vô địch quốc gia tuyệt đối trên máy bay thể thao năm 1950.
Năm 1949, tôi cùng Bodryagina đã làm chủ một cách thuần thục máy bay Yak-11 và thuật lái cao cấp trên máy bay này. Ngay sau đó chúng tôi cùng nhau tới trung tâm bay DOSAAF gần Kiev để học cách điều khiển các loại máy bay tiêm kích khác. Trong một thời gian ngắn, chúng tôi đã hoàn thành tốt đẹp toàn bộ chương trình học lái các máy bay Yak-3 và Yak-9 và làm chủ thuật lái cao cấp trên các máy bay đó. Hạnh phúc và vui vẻ, tôi cùng bạn gái trở lại Moskva. Các kỷ lục mới và công việc bay thú vị đang chờ đợi chúng tôi.

Tháng 10 năm 1949, một số phi công câu lạc bộ HK tới Leningrad để bay chuyển một nhóm lớn máy bay từ đó về. Trong số các phi công có ba chúng tôi: Kostya, Anna và tôi. Chúng tôi sống một vài ngày ở thành phố trên sông Neva. Chuyến bay về Moskva được lên kế hoạch vào ngày 28 tháng 10, mặc dù thời tiết rất tồi tệ. Bodryagina, tôi và ba phi công khác bay chuyển các máy bay Yak-11, còn Kostya được bổ nhiệm phó chỉ huy phụ trách công tác bay chuyển một nhóm máy bay thể thao khác. Với những khoảng gián cách thời gian xác định, các nhóm lấy hướng bay về Kalinin, nơi họ phải hạ cánh và nạp thêm nhiên liệu cho máy bay.

Lúc đầu, mọi thứ diễn ra tốt đẹp. Các máy bay Yak-11 của chúng tôi có tốc độ lớn hơn những chiếc máy bay thể thao và là những chiếc đầu tiên hạ cánh tại sân bay ở Kalinin.

Sau một thời gian các máy bay khác phải xuất hiện. Trong nhóm của Ya.D.Forostenko, mà Konstantin bay,  lúc đầu tất cả đều tốt đẹp. Tuy nhiên, tại khu vực ga Malaya Vishera, Kostya, đang ở độ cao 400-500 mét, phát tín hiệu rút khỏi đội hình để hạ cánh bắt buộc, và sau khi lượn vòng bẻ hướng ngược lại. Động cơ làm việc gián đoạn, máy bay mất tốc độ nhanh chóng. Kostya quyết định hạ cánh khẩn cấp gần ga đường sắt Cầu Mstinsky. Gần đó là một cánh đồng mà anh có thể hạ cánh, nhưng tại đó người ta đang chăn thả gia súc. Davydov lượn hai vòng, ra hiệu cho người chăn biết để dồn gia súc lại. Anh có thể sử dụng dù, nhưng không làm: anh muốn cứu máy bay. Trong vòng lượn thứ ba động cơ hoàn toàn ngừng làm việc. Chiếc máy bay không tới được bãi đáp mà đâm vào nền đường sắt.

Kostya vẫn còn sống khi người ta dừng chuyến tàu hỏa Leningrad - Moskva lại để đưa người phi công tới bệnh viện Malovisherskaya. Ba mươi phút sau, anh qua đời.
..........
« Sửa lần cuối: 29 Tháng Chín, 2015, 10:54:30 pm gửi bởi qtdc » Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM