Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 17 Tháng Tư, 2024, 03:40:42 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.  (Đọc 56692 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« vào lúc: 09 Tháng Tám, 2015, 06:16:41 pm »

Anh hùng Liên Xô Marina Chechneva


Чечнева, Марина Павловна


(Hồi ức)

Nhà xuất bản Quân sự. Moskva 1976



Lời nhà xuất bản

Giống như nhiều đồng nghiệp của mình, Marina Pavlovna Chechneva (Марина Павловна Чечнева (15/8/1922 — 12 /1/1984)) đến với ngành hàng không theo phiếu đề cử của Đoàn Thanh niên Komsomol. Đối với bà và các bạn nữ của bà, những người say mê đôi cánh nghề bay của mình, mọi thứ trong cuộc sống gắn liền với bầu trời. Họ đã cống hiến tuổi trẻ và sự dịu dàng, tài năng và tài nghệ cho bầu trời ngoài mặt trận bị đóng đinh bởi những chùm đèn chiếu phòng không đầy hăm dọa, bị rạch thủng nhằng nhịt bởi những vệt lửa đạn. Tác giả kể về các bạn chiến đấu nữ của mình, về những người đã đến được với chiến thắng, và cả những người không trở về khi xuất kích thi hành nhiệm vụ, về số phận hậu chiến của các đồng đội. Các độc giả sẽ tiếp nhận với sự quan tâm đáng kể những trang kể về thời hậu chiến của M.Chechneva với công việc trong ngành hàng không thể thao. Cuốn sách này là một phiên bản làm mới lại của cuốn hồi ký của M.P.Chechneva "Máy bay bay vào trời đêm" («Самолеты уходят в ночь»), phát hành khoảng mười lăm năm trước đây (1961). Cuốn sách có thêm các sự kiện thú vị mới.

MỤC LỤC

Lời đầu của tác giả
Bi kịch trên đường cao tốc Khoroshev và ước mơ về bầu trời
Ngày từ đó bắt đầu tính đếm cuộc sống
Ngôi nhà trên phố Gorky
Buổi sáng ảm đạm
Thử thách
Mơ ước và chiến đấu
Trung đoàn trở thành trung đoàn cận vệ
Sống mãi trong ký ức của tôi
Ngay bên bờ Biển Đen
Xin chào Sevastopol
Phía trước là nước Đức
Dù sao chúng tôi vẫn là những người hạnh phúc
Chú thích
Danh sách ảnh minh họa


Lời đầu của tác giả

Một trong 23 nữ Anh hùng Liên Xô của trung đoàn nữ KQ ném bom đêm cận vệ số 46 Taman (nguyên là trung đoàn nữ KQ ném bom đêm hạng nhẹ số 588; trung đoàn KQ duy nhất toàn nữ từ phi công, nhân viên kỹ thuật, sĩ quan chỉ huy đến lính trơn): Đại úy cận vệ, Anh hùng Liên Xô (1946) M.P.Chechneva. Đến cuối Thế chiến 2 là phi đội trưởng một phi đội của trung đoàn nữ KQ ném bom đêm cận vệ số 46 Taman huân chương Cờ Đỏ Suvorov hạng III (thuộc sư đoàn KQ ném bom đêm 325, tập đoàn quân KQ 4, phương diện quân Belorussia 2). Tham gia Hồng quân tháng 2 năm 1942, tốt nghiệp trường đào tạo phi công quân sự. Tham chiến từ tháng 5 năm 1942 trên các mặt trận của Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Tham gia phòng thủ Kavkaz, giải phóng Kuban, Belorussia, Ba Lan. Trong thời gian chiến tranh đã thực hiện 810 phi vụ ném bom đối phương. Có chồng là Anh hùng Liên Xô, phi công cường kích Konstantin Davydov (1918-1949). Sau khi kết thúc chiến tranh, năm 1945 trung đoàn giải tán. Năm 1995 - 50 năm nữa sau khi chiến tranh chấm dứt, trung đoàn có thêm 2 nữ Anh hùng: 2 nữ Anh hùng nước Nga là các nữ hoa tiêu và hoa tiêu kiêm xạ thủ súng máy. Năm 2004 một nữ phi công nữa của trung đoàn là người Kazakh được tặng danh hiệu Anh hùng Cộng hòa Kazakhstan, đưa số Anh hùng của trung đoàn nữ không quân danh tiếng này lên con số 26.

Các ghi chép của tôi không dự định phải bao hàm đầy đủ các sự kiện, mặc dù tôi kể về thời kỳ mười tám năm của cuộc sống và đời phục vụ trong ngành hàng không, thời kỳ rất quan trọng đối với tôi. Trong những năm đó, số phận đã cho tôi một hạnh phúc hiếm có - được biết các nam phi công và nữ phi công xuất chúng.

Họ rất đông, những con người ấy, những tính cách và số phận khác nhau, nổi tiếng và không mấy ai biết, nhưng những kỷ niệm về họ đều thân thiết đối với tôi. Cũng như tôi, dẫn mỗi người vào bầu trời là giấc mơ được bay. Đồng thời cùng với nhiều người trong số họ, ba mươi sáu năm trước, tôi bước qua ngưỡng cửa thiêng liêng của câu lạc bộ hàng không, sau ngưỡng cửa ấy mở ra khoảng không vô biên, vẫy gọi và cuốn hút.

Khoảng xa xăm ấy kêu goi chúng tôi đến với nó không sao cưỡng lại được. Cùng với các bạn bè của mình, khi ấy tôi đã học làm chủ được những nguyên tắc cơ bản của nghề nghiệp không dễ dàng nhưng tuyệt đẹp của chúng tôi, chia sẻ niềm vui và nỗi buồn, lớn lên và trưởng thành, vượt qua những con đường khó khăn của chiến tranh.

Không bao giờ tôi quên được những con người này. Với tất cả những con người ấy - những con người nổi tiếng và cả những người chưa được biết tới - tôi xin dành tặng họ thành quả lao động khiêm tốn của mình.

M. Chechneva


Bi kịch trên đường cao tốc Khoroshev và ước mơ về bầu trời

Cho đến hôm nay, thứ tuyết trắng một cách không tự nhiên này vẫn đang hiển hiện trước mắt tôi. Và cái lạnh tê tái vẫn còn giữ nguyên. Cảm giác bị thiêu cháy như thể xuyên thấu vào tim.

Tôi cùng bọn trẻ đang ngỡ ngàng đứng trên một đống tuyết. Gió mùa đông thổi bốc tuyết lên thành những dòng xoáy nhỏ. Tuyết giá buốt kêu sào sạo đột ngột dưới chân những kẻ qua đường. Và tâm hồn trống rỗng buồn tẻ.
                                         
Một cậu bé, người đã nhìn thấy toàn bộ bằng đôi mắt của mình, không biết từ đâu mà biết được tất cả các chi tiết, cậu kể:
- Lúc đầu, ông ấy làm một vòng tròn trên sân bay. Giảm độ cao. Đưa máy bay vào hạ cánh. Tớ không biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng đột nhiên yên tĩnh: động cơ im bặt. Máy bay bắt đầu rơi thẳng vào ngôi nhà. Đấy khoảng ấy đấy. - Cậu bé giơ bàn tay đi găng tay hở ngón trỏ tòa nhà gần đó. - Ừ, ngôi nhà này ... chắc chắn nhà sẽ bị thổi bay. Thật kinh hoàng nếu chuyện đó xảy ra! Sau đó, ông ấy lộn nhào máy bay bằng cánh. Một tiếng nổ vang lên. Ngay ở đây, nơi chúng ta đang đứng.

Cậu bé giận dữ phẩy tay ...
Kể từ thời điểm xảy ra thảm họa đã hai ngày trôi qua, và cánh đồng bên cạnh đường cao tốc Khoroshevskoe (thời ấy tôi sống rất gần đó) đã được dọn dẹp. Tuyết và những cơn lốc thổi tuyết bay đã hoàn thành nốt công việc của con người. Nhưng chúng tôi không thể đi khỏi nơi khủng khiếp này, và chỉ sau đó, khi đã ở nhà, tôi mới cảm thấy đôi má mình tê cóng.

Tôi máy móc nhìn lên tấm lịch - ngày 17 tháng 12 năm 1938. Nghĩa là, tai họa xảy ra vào ngày 15.

Các chi tiết sau này mới được biết. Vào ngày hôm đó, Valery Pavlovich Chkalov cất cánh lên không trung trên chiếc máy bay chiến đấu I-180. Đó là chuyến bay đầu tiên của chiếc máy bay nguyên mẫu. Và đã xảy ra một điều không thể khắc phục. Hỏng động cơ. Máy bay không còn kiểm soát được bắt đầu rơi vào một ngôi nhà. Khi đó Chkalov đã dùng cái giá của cuộc đời mình để cứu hàng trăm người đang bị sự nguy hiểm chết chóc đe dọa ...

Có cần phải nói không, Chkalov là người thế nào với chúng tôi, những cậu bé và cô bé ngày ấy! Ai mà không nhớ những lời của ông: Tất cả cuộc sống của tôi cho đến hơi thở cuối cùng tôi sẽ hiến dâng cho sự nghiệp của chủ nghĩa xã hội ... Đó là hạnh phúc của tôi. Ai trong chúng tôi, khi theo dõi chuyến bay của ông, những chuyến bay được thế giới ngưỡng mộ, mà không mơ ước dù chỉ một chút thôi, chỉ một chút nhỏ nhất được giống như ông - người đàn ông đã trở thành huyền thoại ngay từ khi còn sống.

Kể từ hồi đó, nhiều năm tháng khó khăn không thể tưởng tượng đã trôi qua, nhưng sự cay đắng của mất mát này vẫn còn được cảm thấy cho đến tận hôm nay. Và mỗi lần, khi đi qua tấm bia kỷ niệm trên đó có ghi tên của ông, tôi lại nhớ đến tháng Mười Hai tuyết phủ năm 1938, những khuôn mặt u ám của con người, những tờ báo có bức chân dung người phi công vĩ đại viền băng tang.

Hàng ngàn hàng ngàn chàng thanh niên và các cô thanh nữ, mãi mãi gắn mình với hàng không, giao ước với Chkalov bằng số phận của mình. Bản thân cuộc đời của ông đã làm cho họ cao lên, đẹp hơn, tốt hơn, là một ví dụ đầy cảm hứng của sự nghiệp phục vụ Tổ quốc.

Chkalov là một con người trong sáng tuyệt vời. Hầu như tất cả những ai tung cánh lên bầu trời những năm ba mươi (thế kỷ 20 - ghi chú) sau khi ông hy sinh, họ đều đi con đường của ông, sống trong bầu không khí của sự quả cảm quên mình, điều không thể tưởng tượng được nếu không có các chuyến bay của ông.

Dù cách này hay cách khác, nhưng những giấc mơ đầu tiên về bầu trời ở tôi và các đồng nghiệp của tôi không thể tách rời khỏi tên ông.

Ngay từ thời chớm tuổi thanh niên tên của ông đã vang lên như tiếng gọi dẫn đường ...


Valery Chkalov cùng phi công Belyakov và các nhà lãnh đạo Liên Xô Stalin, Voroshilov, Kaganovich. Sân bay Shiolkovo ngày 10 tháng 8 năm 1936. Trích từ báo Pravda năm 1940. "Stalin. Nhân sinh nhật lần thứ 60". Các chi tiết của các sự kiện diễn ra trước vụ tai nạn hơn 2 năm sau (15/12/1938) trên mẫu thử nghiệm máy bay tiêm kích Polykarpov I-180 của Chkalov đến nay vẫn chưa thật sự rõ ràng.

* * *

- Em hãy đọc cho chúng tôi nghe, em Chechneva, "Bài ca về Chim Báo Bão". Thầy giáo đứng cạnh bàn của tôi. Mà tôi hoàn toàn quên, không thuộc. Sau rồi tôi cũng nhớ lại được. Tôi vui mừng lách ra một vài khổ.
- Không, Chechneva - thầy giáo ngắt lời. - Không thể đọc như vậy được. Đó là Gorky! Em hiểu không - Gorky!..

Và thầy tự mình tiếp tục. Trang trọng, đầy cảm hứng. Lớp học - im phăng phắc.
- "Hỡi bão tố! Bão sắp nổi lên rồi! .. "
Không biết làm thế nào mà tôi cũng rống lên:
- "Hỡi bão tố! Bão sắp nổi lên rồi! .. "
Cả lớp bật cười rộ. Tôi cảm thấy giận dỗi:
- Các cậu cười gì?! Tôi cũng muốn bay ... Tôi muốn bay như Chkalov.
Trận cười lại rộ lên lần nữa.
- Các em, các em không thể cười chuyện đó. - Giọng của thầy giáo trở nên nghiêm khắc. - Ước mơ phải được tôn trọng. - Thầy đi đến bên tôi: - Em có một giấc mơ đẹp, Marina! Chỉ có điều cần phải làm rất nhiều việc để thực hiện nó. Em có đủ sức mạnh? Đủ lòng kiên trì chứ?

* * *

Hồi ấy tôi làm việc trong nhóm mô hình máy bay. Thậm chí tôi đã xây dựng được một số mô hình thành công và cùng với các bạn trẻ khác tham gia cuộc thi do Nhà Thiếu nhi Moskva tổ chức. Và tất nhiên, bấy giờ vẫn còn che giấu, bí mật mơ ước "được bay, như Chkalov".

Gia đình tôi sống bên đường cao tốc Khoroshevskoye - gần sân bay Trung tâm. Ở đây chưa bao giờ ngớt tiếng động cơ gầm rú, những chiếc máy bay thoáng qua không trung, những chiếc bóng thám không được thả lên bầu trời, tán dù màu trắng nở bùng trong sắc thanh thiên. Cùng với các bạn nữ của mình, chúng tôi nhàn tản hồi lâu bên hàng rào phi trường.
Tôi vẫn chưa đầy mười lăm tuổi, khi xảy ra một sự kiện không thể nào quên - tôi được kết nạp vào Đoàn Komsomol.

Vào mùa thu cùng năm 1937, nói một cách hình ảnh, tôi đã thực hiện nỗ lực đầu tiên tách khỏi mặt đất: tôi đến câu lạc bộ hàng không huyện.
- Còn sớm ... - họ nói với tôi. - Em còn nhỏ quá. Vẫn còn đeo khăn quàng đỏ thiếu niên tiền phong. Chờ đi. Rồi chúng tôi sẽ nghĩ lại.
Ghé vào lần thứ hai, tôi năn nỉ giám đốc câu lạc bộ hàng không.
- Em hãy lớn lên thêm một chút nữa, rồi hãy đến đây. Chúng tôi sẽ xem em học tập thế nào. Chúng tôi không lấy người điểm kém.

Một năm trôi nhanh. Bây giờ tôi đi đến câu lạc bộ HK với giấy giới thiệu của BCH Đoàn Komsomol huyện. Bây giờ tôi không xin nữa - mà khăng khăng. Dưới hình thức ngoại lệ, người ta ghi tên tôi vào lớp lý thuyết tại ban phi công.

Niềm vui của mình tôi chia sẻ cùng cha.
- Cha muốn có con trai, nhưng mà không có ... chỉ có mình con, con gái ạ, mà tính cách con, cha thấy, rất rắn rỏi.
Mẹ giữ ý kiến khác:
- Nghề này không nữ tính. Hãy chọn bất kỳ công việc nào con thích, nhưng đừng bay.
- Điều đó đã được quyết định rồi, mẹ ơi. Rút lui bây giờ quá muộn!


Olga Shakhova (bên trái) và Valerya Khomyakova (1914-1942). Valerya Khomyakova (bên phải) là nữ phi công tiêm kích Soviet đầu tiên (trung đoàn nữ KQ tiêm kích 586 thuộc sư đoàn tiêm kích PK 144) sử dụng máy bay Yak-1 bắn rơi máy bay chiến đấu Đức: một chiếc Ju-88 vào đêm 24 tháng 9 năm 1942 tại Saratov. Hy sinh sau đó nửa tháng, đêm ngày 6 tháng 10 năm 1942 gần Saratov.

... Câu lạc bộ HK có biết bao con người tuyệt vời! Ví dụ, Valerya Khomyakova. Lần đầu tiên tôi gặp chị cuối tháng 12 năm 1938, trong một tòa nhà trên đường Mantulinskaya, nơi bố trí bộ phận học tập câu lạc bộ hàng không. Vào thời điểm đó chị đã được biết đến như một phi công-huấn luyện viên nổi tiếng. Tôi nhớ ánh hào quang của một ngày giá lạnh bên ngoài cửa sổ, hành lang dài bị các tia nắng mặt trời xuyên qua chia cắt, bụi phấn hoa nhảy múa. Đi dọc hành lang là một phụ nữ trẻ thân hình cao lớn và cân đối. Các vệt sáng lúc nằm trên khuôn mặt xinh đẹp của chị, lúc lại biến mất, và khi đó đôi mắt xám của người phụ nữ trở nên sâu sắc hơn, bí ẩn hơn. Ôm vai người bạn nữ phi công Olga Shakhova, Valeria say mê nói chuyện với chị ấy. Trông thấy các học viên bay, Khomyakova đi đến chỗ chúng tôi, làm quen, hỏi chuyện về việc học tập. Chị cư xủ giản dị, thân thiện, và cuộc trò chuyện của chúng tôi ngay lập tức trở nên thoải mái, thẳng thắn.

Người ta thường bố trí tại câu lạc bộ HK các cuộc gặp gỡ những phi công giàu kinh nghiệm dành cho các học viên bay. Sau khi làm quen với Khomyakova, chúng tôi mời chị ấy đến. Chị đồng ý. Buổi tối hôm đó, chúng tôi được nghe câu chuyện về cuộc đời của chị.

Valeria được sinh ra tháng Tám năm 1914. Chị trải qua thời thơ ấu ở Kolpino, gần Leningrad. Chị thừa hưởng tình yêu môn hóa học từ cha mình, một kỹ sư hóa. Chị say mê văn học. Còn mơ mộng thì ... Chị mơ ước về các chuyến bay, về bầu trời ...

Sau một khoảng thời gian bảy năm, khi đã tốt nghiệp trung cấp kỹ thuật, chị vào Viện Công nghệ hóa học Moskva mang tên Mendeleev. Đồng thời chị tham gia câu lạc bộ HK.

......
« Sửa lần cuối: 11 Tháng Tám, 2015, 01:45:52 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #1 vào lúc: 13 Tháng Tám, 2015, 12:53:51 am »

(tiếp)

Cùng với bằng tốt nghiệp, cô gái nhận việc làm tại nhà máy Dorogomilovsky. Sau ca làm việc, cô chạy đến một CLB HK quận Leningrad của thủ đô. Valeria yêu thích như nhau cả tàu lượn và máy bay. Nhưng để làm phi công, sau rốt cần phải là một vận động viên giỏi. Nhớ điều này, cô gái đi trượt tuyết trong khu rừng phủ đầy tuyết, trượt băng trên sân băng, chơi bóng chuyền nhiều, bơi lội, thao luyện nhảy dù. Và một lần chị cảm thấy: hàng không làm cho con người có nhiều quyền độc tôn. Và chị đã lựa chọn trở thành một phi công chuyên nghiệp.


Thòng lọng Nesterov. Thuật lái phức tạp lấy theo tên người sáng tạo ra nó Piotr Nikolaievich Nesterov (1887-1914), cũng là người lần đầu tiên áp dụng taran (không cố tình!) trong không chiến từ thời Thế chiến 1.

Phong cách trên bầu trời của Khomyakova đẹp đến nao lòng. Chúng tôi say mê theo dõi chị trình diễn vô cùng điêu luyện các động tác lượn vòng nghiêng, xoay thùng (thuật lái cao cấp quay đều máy bay quanh trục dọc của nó), xoắn ốc, xoắn thòng lọng Nesterov (thuật lái cao cấp bay theo đường cong khép kín trong mặt phẳng thẳng đứng) trong lễ diễu hành trên không trung nhân ngày Hàng không. Là một nữ phi công cao cấp, chị hoàn toàn làm chủ được tất cả các loại máy bay thể thao trước chiến tranh và bay trên chúng không chê vào đâu được.

Tháng 8 năm 1940 Valerya được trao huy hiệu danh dự của Osoaviakhim (Hiệp hội ủng hộ nền quốc phòng và xây dựng ngành hàng không và ngành hóa học). Vào thời đó chỉ có vài phi công có được phù hiệu như vậy.

Các giờ học lý thuyết tại câu lạc bộ kể từ những ngày đầu đã choán hết đầu óc tôi. Đâu phải bận tâm rằng không ngủ đủ giấc, rằng đôi chân đôi lúc muốn khuỵu xuống vì mỏi mệt. Thế hệ chúng tôi - xin các thế hệ khác đừng giận tôi - thực sự cuồng tín trong đức tin của mình, và luôn khát khao muốn ở trên tuyến đầu của các mặt trận quân sự cũng như hòa bình.


Kênh đào Moskva lấy nước sông Volga vào sông Moskva được chính quyền Soviet xây dựng trong thập kỷ 30 thế kỷ 20, cung cấp 60% nhu cầu nước sinh hoạt và công nghiệp cho Moskva. Bản đồ có đánh dấu các vị trí âu tàu, nhà máy thủy điện và các công trình trên sông khác. Kênh có chiều dài 128 km, mặt rộng 85 m, đáy rộng 45 m, sâu 5,5 m. Một phần lớn lao động là các trại viên GULAG. Năm 1997 đã xây dựng trên bờ kênh một cây thập tự tưởng niệm những người chết vì lao động quá sức trong quá trình xây dựng kênh đào (1932-1937) tại lối vào thành phố Dmitrov, nơi có trại cải tạo lao động cưỡng bức Dmitrov của OGPU-NKVD, được thành lập phục vụ cho việc xây dựng công trình vĩ đại này. Trong Thế chiến 2, công trình này còn dược sử dụng vào mục đích phòng thủ Moskva trong chiến dịch bảo vệ thủ đô 1941-1942. Theo kế hoạch của quân Đức, Moskva sẽ bị khép vây từ hướng bắc và nam. Tránh điều này, người ta đã xả nước từ kênh và các hồ chứa xuống đường tấn công từ hướng bắc của quân Đức.


Chứng nhận trả tự do trước thời hạn vì đã lao động tích cực trên công trình kênh đào Moskva-Volga của trại viên trại Dmitrov do NKVD cấp


Các lãnh đạo OGPU-NKVD Henrik Yagoda và N.Filatov trên công trường xây dựng kênh đào Moskva-Volga, đi đằng sau Yagoda là N.Khrusev bí thư thứ nhất đảng bộ thành phố Moskva. Ngày 3 tháng 9 năm 1935.

Tính cách các đồng nghiệp của tôi được hình thành trong kế hoạch năm năm đầu tiên, tràn đầy chất lãng mạn và chủ nghĩa anh hùng. Đó cũng là lúc phủ kín đất nước là một rừng các công trình mới. Đó là lúc mọc lên các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, nhà máy điện mới, các tuyến đường sắt, các câu lạc bộ, trường học, sân vận động được xây dựng. Trước mắt tôi sông Moskva sôi sục làn sóng đầu tiên của nước sông Volga. Những năm ba mươi được đánh dấu không chỉ bằng những thành quả lao động chưa từng có. Các phi công, người lái khinh khí cầu, vận động viên nhảy dù, người lái tàu lượn của chúng tôi đã xác lập vinh quang cho Đất nước các Soviet như một cường quốc hàng không hạng nhất. Trên môi mọi người không bao giờ ngớt nhắc tên các anh hùng phi công Chkalov, Baydukov, Belyakov, Gromov, Kamanin, Lyapidevsky. Đôi khi chúng tôi thậm chí còn nghĩ rằng dường như chúng tôi đã cùng với các phi công cứu sống đoàn thám hiểm trên tàu Chelyuskin, thực hiện các chuyến bay đường dài, đặt các đường hàng không đầu tiên qua Bắc Cực.

"Những người cộng sản đang tấn công lên trời!" - Olga Bergholz đã viết về những năm tháng đó như thế.

Chúng tôi sống với tốc độ khẩn trương, vui tươi, gian khó. Buổi sáng thức dậy bằng hồi chuông báo thức. Sau đó - không một phút nghỉ ngơi: trường học, câu lạc bộ HK, công tác đoàn thanh niên Komsomol.

Cuộc sống kêu gọi ta tiến lên phía trước đầy uy lực. Đất nước tăng tốc, đua với thời gian. Không có gì ngạc nhiên khi Valentin Kataev đặt tên cho một trong những cuốn sách của ông là - "Thời gian, hãy tiến lên".


Olga Bergholz - "Tôi chưa bao giờ là anh hùng..." - "Nhật ký phong tỏa".

Ai trong chúng ta ở tuổi thiếu niên, khi con người hoàn toàn chìm trong mãnh lực của sự lãng mạn cao độ, mà không cố gắng sưu tầm trong album những vần thơ yêu thích hoặc viết những vần thơ riêng của mình? Tôi, cô học sinh lớp chín cũng có album này. Tôi cũng đã làm thơ. Một trong những bài thơ đó thậm chí còn được xuất bản trong tạp chí hàng không "Máy bay" năm 1939:

Tôi ước mơ được thành phi công
Trên đất nước tôi chan hòa hạnh phúc.
Cưỡi máy bay lên tầng cao chót vót
Đuổi bắt chim trời giữa sắc thanh thiên ...


Tất nhiên, tôi không trở thành nữ thi sĩ, và tôi cũng không mong muốn trở thành như vậy. Trong tâm trí tôi có mơ ước khác. Tôi mơ ước đến thời gian tôi sẽ điều khiển máy bay. Và bây giờ, ngoảnh nhìn quá khứ và suy nghĩ về hiện tại, tôi càng bị thuyết phục rằng cảm giác tốc độ, sự cần thiết của nó có sẵn trong mỗi chúng ta. Tốc độ - một hình thức nhận biết thế giới, mặc dù điều đó nghe có vẻ hơi khác thường. Nhưng thế giới thực tại, các hiện tượng của nó được nhận thức không trong trạng thái tĩnh và mà là trong chuyển động. Để nhận thức tốt hơn và đầy đủ hơn về cuộc sống cần tốc độ trong tất cả mọi điều: trong chuyển động, trong công việc, trong tư duy. Và không phải nhân loại từng phát triển rất chậm chạp cho đến trước thế kỷ XX hay sao, bởi tình hình kỹ thuật thời đó mà không có cơ hội đạt đến tốc độ nhanh hơn? Chuyến tàu hơi nước đầu tiên, xe hơi, máy bay xuất hiện trên thế giới không chỉ vì những tính toán lợi ích. Tăng tốc độ, con người dường như muốn thôi thúc dòng đời, và khi kiến thức của nó càng trở nên hoàn thiện hơn, nó sẽ càng khao khát nhận thức những điều bí ẩn nhanh hơn. Tốc độ nâng con người lên khỏi mặt đất, mở đường vào không gian vũ trụ. Đó là - thành tựu vĩ đại nhất của con người. Nó vẫy gọi tiến lên phía trước, mở ra những chân trời mới. Có phải vì vậy mà thời thơ ấu và niên thiếu người ta rất háo hức muốn hoàn thành dự định của mình nhanh hơn?

Những năm tháng học tập của tôi diễn ra tuần tự bình thường, còn tình hình thế giới giữa lúc đó đang sôi sục. Tại châu Âu, trong sự hỗn loạn của những cuộc tàn sát, trong ánh rực hồng của những đống lửa những bài ca phát xít rền vang, những lá cờ chữ thập ngoặc phấp phới. Tất cả những ai thông minh, trọng danh dự, mà nước Đức cống hiến cho thế giới, đã tìm nơi ẩn náu bên ngoài tổ quốc quê hương mình. Người dân nín thở sợ hãi chờ đợi kết cục. Chỉ có giai cấp công nhân, do những người Cộng sản lãnh đạo, dám dũng cảm chặn đường phát xít Đức. Tây Ban Nha chảy máu, đã chiến đấu một cách anh hùng. Tiếng nói của Jose Diaz và của Pasionaria bốc lửa vang lên trên các lục địa, kêu gọi tất cả những ai coi trọng hòa bình, đứng vào hàng ngũ những người bảo vệ nền cộng hòa.

Chiến tranh đã về trên ngưỡng cửa. Tất cả chúng tôi, đặc biệt những người đã tham gia quân đội và ngành hàng không, chúng tôi cảm được, hiểu được điều này ...

Chúng tôi học tập để nắm vững những điều cơ bản của ngành hàng không với tinh thần quyết liệt.

Trong bài giảng mở đầu, chủ nhiệm bộ môn dạy bay CLBHK Aleksandr Ivanovich Martynov giới thiệu chương trình với các học viên. Ở đây, trong bài giảng của ông, lần đầu tiên tôi nghe được những lời khó hiểu, nhưng vẫn hằng mong đợi: lý thuyết bay, điều khiển máy bay, dẫn đường hàng không, khí tượng học, từ chúng phả ra mùi bầu trời, khoảng không gian bao la, những tầng trời cao.

Từ lần gặp đầu tiên Martynov đã làm chúng tôi thích thú và ấn tượng đó vẫn còn được giữ lại suốt cuộc đời. Cùng với vô số học trò của ông, ông đã ra đi bảo vệ quê hương khỏi chủ nghĩa phát xít. Và ở đây, ở mặt trận, Aleksandr Ivanovich tìm được thời gian để theo dõi một cách thân thiết những thành công của các học trò mà ông từng dìu dắt, viết cho họ những lá thư của một người cha. Ông cũng viết cho cả tôi.

Chúng tôi vẫn thường xuyên gặp nhau cho đến cả ngày nay ...
Thời gian trôi qua thật nhanh. Sau khi vượt qua các kỳ thi đào tạo lý thuyết, các tiết thực hành trên sân tập mặt đất bắt đầu. Tôi được ghi danh vào biên đội của Anatoly Sergeyevich Matsnev, trong nhóm của huấn luyện viên Mikhail Pavlovich Duzhnov.

Người đoàn viên thanh niên Komsomol Mikhail Duzhnov không già hơn quá nhiều so với những người mình dạy dỗ. Cao, thân hình cân đối, thông minh, quên mình cống hiến cho sự nghiệp mình theo đuổi, về mọi mặt anh là hình mẫu của tất cả chúng tôi.

Tôi có những kỷ niệm đặc biệt gắn với cái tên Duzhnov. Có lẽ tôi sẽ không thành nữ phi công nếu không gặp anh. Quyết đoán, dũng cảm, biết cách hỗ trợ đồng đội kịp thời, anh đã giúp tôi hồi đó rất nhiều.

Trong câu lạc bộ HK có khá nhiều cô gái theo học, nhưng thái độ với họ của nhiều giảng viên nam, nói cho nhẹ bớt, là không nhiệt tình. Các HLV miễn cưỡng lấy phụ nữ vào nhóm của họ. Điều này thật ra cũng dễ hiểu. Phụ nữ chỉ mới bắt đầu đến với ngành hàng không. Không phải ai cũng tin rằng chúng tôi sẽ có thể làm việc ở đây ngang bằng với nam giới. Ví dụ về các nữ phi công nổi tiếng cũng chẳng thể nào thuyết phục được những người hoài nghi.

"Hàng không không phải là công việc của phụ nữ", - họ khẳng định, tìm mọi cách khuyên can phụ nữ đừng tham gia câu lạc bộ HK.


Tàu "Chelyutskin" do Đan Mạch đóng cho Liên Xô, đang đậu tại Leningrad năm 1933. Tàu bị kẹt băng khi thám hiểm Bắc Cực tháng 9 năm 1933, bị chìm tháng 2 năm 1934. Vị trí gặp nạn gần đảo Kolyuchin tại Biển Chukchi, trên đường tới eo biển Bering để về Vladivostok. Thủy thủ đoàn được các phi công Liên Xô và kỹ thuật viên hàng không Mỹ tìm cứu trong một chiến dịch dài ngày và rất khó khăn giữa biển băng Bắc Cực, bản thân phi công tìm cứu cũng gặp nạn. Các phi công Liên Xô tham gia tìm cứu được tặng danh hiệu AHLX, còn các kỹ thuật viên hàng không Mỹ được chính quyền Soviet tặng huân chương Lenin.

Người đầu tiên ủng hộ chúng tôi là Valerya Khomyakova. Chị kiên trì ủng hộ việc huấn luyện bay cho các cô gái, nói về sự cần thiết phải huy động phụ nữ vào ngành hàng không, rằng người phụ nữ trong đất nước xã hội chủ nghĩa của chính chúng ta, một phải có cơ hội, không phải bằng lời nói mà phải trên thực tế, khám phá tài năng thiên phú của họ. Cuộc sống đã khẳng định sự đúng đắn của Khomyakova. Trong những năm thử nghiệm khó khăn, các nữ phi công đã chứng minh rằng Tổ quốc đã không đặt niềm tin vào họ một cách vô vọng.

Từ những bước đầu tiên trong ngành hàng không, tôi luôn luôn cảm thấy bàn tay thân thiện của Lera Khomyakova, sự ủng hộ và chăm sóc của chị ấy, tôi biết rằng trong mọi trường hợp khó khăn, tôi đều được chị cho những lời khuyên và giúp đỡ. Khi tôi bắt đầu học tập ở câu lạc bộ HK, tôi mới vừa mười sáu. Tương tự như vậy là bạn gái tôi Galya Turabelidze. Chúng tôi được nhận như là một ngoại lệ, và cả hai đều rất sợ rằng đến mùa xuân, vì tuổi còn non mà chúng tôi chưa được phép thực hành bay. Tôi và Galka, tất nhiên, vội vã bổ đến Khomyakova. Chị hiểu ngay dù chỉ mới nói nửa câu, và hứa sẽ ủng hộ.

Sau đó, tôi nhận ra rằng những lo ngại của chúng tôi là không có căn cứ. Một lần chỉ huy biên đội Anatoly Sergeyevich Matsnev nói với tôi:
- Tôi biết không ít nữ phi công xuất sắc của câu lạc bộ HK chúng ta - Valerya Khomyakova, Olga Shakhova, Maria Kuznetsova. Họ không thua kém đàn ông chúng tôi trong các kỹ năng điều khiển máy bay. Thế nhưng ... không phải là việc của phụ nữ. Vậy đó...

Và ông kiên trì thuyết phục tôi lựa chọn nghề nghiệp khác. Nếu tôi nghe được những lời này từ một con người có nhiều hạn chế thì có lẽ tôi sẽ không để ý. Tuy nhiên, ông ấy, Anatoly Sergeyevich, không chỉ là một bậc thầy tài nghệ rất cao mà còn là một người chỉ huy tốt. Ông là một người thông minh, có học vấn toàn diện. Ý kiến của ông, lẽ tự nhiên, tôi không thể không lắng nghe. Và tôi nhận ra: sự nghi ngờ bắt đầu len lỏi vào tâm hồn tôi. Chuyện gì đây nếu ông ấy đúng và tôi đang lãng phí thời gian và sức lực của mình?

Một lần, không thể kìm được, tôi chia sẻ suy nghĩ với Duzhnov. Sau khi nghe xong, anh trầm ngâm một lúc rồi tự tin nói:
- Bình tĩnh nào, Marina. Tất cả những cái gì mới đều không ngay lập tức được tiếp nhận suôn sẻ trong đầu óc con người. Cần phải có thời gian. Còn Anatoly Sergeyevich thì chúng ta sẽ cố gắng thuyết phục.
Có lẽ đó chỉ là một sự tình cờ, nhưng Matsnev không còn nói chuyện với tôi về chủ đề này nữa...
.........
« Sửa lần cuối: 14 Tháng Tám, 2015, 10:16:45 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #2 vào lúc: 13 Tháng Tám, 2015, 07:44:39 pm »

(tiếp)

Ngày mà cuộc sống được đánh dấu bắt đầu từ đó

Từ một phía đưa tới sân bay những tiếng chim líu lo đầy ắp của khu rừng. Từ phía khác - là cánh đồng cỏ phủ kín hoa cúc với những mảnh sa khoáng đỏ của cỏ ba lá. Thật quyến rũ trong vẻ đẹp không chói lóa của mình, một mảnh đất miền Trung nước Nga.


Phong cảnh tiêu biểu miền nam cao nguyên Trung Nga (tỉnh Belgorod)

Sân bay của câu lạc bộ HK chúng tôi nằm ở làng Naberejnoi trên tuyến đường sắt Bắc. Vào mùa xuân và mùa hè, chúng tôi đến đó bằng xe lửa điện. Từ nhà ga Sokolovskaya đến sân bay chúng tôi đi bộ qua con sông nhỏ Klyazma và làng Naberejnoi. Chúng tôi báo cáo có mặt, thay quần áo và bước vào khởi động.

Khi bắt đầu kỳ nghỉ hè tại các nhà trường, học viện, chúng tôi chuyển sang các trại dã ngoại suốt cả mùa hè. Thanh niên nhà máy đến bay sau giờ làm việc.

Cuộc sống tại sân bay bắt đầu lúc mặt trời mọc và lắng xuống khi mặt trời lặn khuất sau đường chân trời. Công việc tối mắt tối mũi, nhưng chúng tôi không rên rỉ, chúng tôi đã kịp yêu mến bầu trời mất rồi.

Trước các chuyến bay chúng tôi hỗ trợ kỹ thuật viên Vasya Nikitin chuẩn bị máy bay, còn buổi tối cùng anh cọ rửa, dọn sạch, bơm đầy nhiên liệu, cố định máy bay vào các cọc vít xoắn, phủ bạt che đậy máy bay và chỉ sau đó mới đi về lều tắm rửa và chỉnh đốn trang phục. Một lát sau, hướng dẫn viên thực hiện bình giá, phân tích công việc của từng học viên, đặt nhiệm vụ cho ngày hôm sau.

Sau đó bạn có thể đi ăn tối. Sau đó nữa - xem phim, gặp các phi công giàu kinh nghiệm, nghe các bài giảng và thảo luận. Buổi sáng ngày mai trở lại với các chuyến bay.

Mỗi tuần một lần, chúng tôi được về nhà. Nếu ngày cho nghỉ trùng với chủ nhật, tôi cùng cha đi vào thành phố. Cha rất yêu mến đồi Lenin, và chúng tôi thường xuyên ở đó. Moskva khi ấy trải ra từ đường chim bay. Phía xa ta có thể nhìn thấy điện Kremlin, nắng mạ vàng mái vòm, còn những đường phố chạy tỏa ra như những tia mặt trời...

Tôi chia tay với cha tôi vô cùng miễn cưỡng. Tôi luôn thích thú và vui vẻ khi ở bên cha ...






Moskva 1938-1939. Công viên Văn hóa và Giải trí mang tên Gorky. Tượng "Cô gái với mái chèo" của họa sĩ kiêm điêu khắc gia Nga-Soviet danh tiếng I.D.Shadr (1887-1941), học trò của Auguste Rodin và Emile-Antoine Bourdelle ở Paris (1910–1911), và ở Rome (1911–1912), lúc đầu sáng tác theo phong cách Art Nouveau. "Cô gái với mái chèo" (1934-1936) được coi là mẫu mực của phong cách "Hiện thực XHCN" trong kiến trúc cảnh quan ngoài trời của Liên bang Soviet. Ảnh của PV báo TIME Harrison Forman. Tuy nhiên tác phẩm cũng bị một số trong giới nghề Soviet phê là thị hiếu tầm thường, vì vậy cuối cùng phải "mặc quần áo" và chuyển đến Luhansk. Tương truyền họa sĩ đã lấy nguyên mẫu của nữ sinh viên học viện thể dục thể thao Moskva Vera Voloshina (1919-1941).

Trong Thế chiến 2, Vera Voloshina gia nhập quân đội, thuộc quân số phòng trinh sát Bộ Tham mưu PDQ Miền Tây, thuộc các nhóm hoạt động ở vùng sau lưng địch như Zoia Kosmodemianskaya. Hy sinh ngày 21 tháng 11 năm 1941 cùng nhiều đồng đội trên đường trở về tại một vùng gần Moskva, sau một đợt luồn sâu vào hậu phương quân Đức. Năm 1994 được Chính quyền LB Nga truy tặng danh hiệu AH nước Nga.


* * *

Thời gian đầu tiên các giảng viên "giảng chay" cho chúng tôi toàn bộ chuyến bay trên mặt đất. Họ dạy cách ngồi đúng trong buồng lái, tiếp đến hành động phù hợp khi "cất cánh". Bài tập mỗi lần lại trở nên khó hơn.

Và rồi bắt đầu các chuyến bay làm quen. Lần đầu tiên sau khi cất cánh lên không trung, tôi rất hồi hộp vì nhìn thấy máy bay chạy đà và tách đất. Tôi hồi tâm lại khi lướt qua dưới cánh là những mái nhà màu đỏ của những ngôi làng nằm rải rác dọc theo sông. Một trạng thái sững sờ ngây ngất xâm chiếm tôi. Quên cả các hướng dẫn, tôi giơ tay lên trên tán che buồng lái. Dòng khí chặt căng từ cánh quạt hất cánh tay tôi về phía sau, đập vào rìa buồng lái. Tôi run sợ nhìn giáo viên hướng dẫn không hiểu anh ấy có nhìn thấy tất cả hay không. Có lẽ bản thân Duzhnov cũng từng cảm thấy một cái gì đó tương tự. Mỉm cười, anh đưa chiếc U-2 vào vòng ngoặt gấp, làm tôi nghẹt thở.

Những chuyến học bay và khóa huấn luyện bay đã bắt đầu như vậy. Đầu tiên là học làm chủ các bài tập đơn giản nhất, gọt giũa chuyến bay xoay quanh vòng lặp - cất cánh, triển khai, dựng tuyến, hạ cánh. Chúng tôi bay với giáo viên hướng dẫn. Anh ngồi cabin phía sau và thông qua thiết bị điều khiển kép anh sửa lỗi cho học viên. Với thời gian, các lỗi dần trở nên ít hơn.

Sau khi tin tưởng rằng tôi cũng đã học được "một hai điều" nào đó như anh nói, Duzhnov cho phép tôi tự bay. Đó là vào quãng tháng Tám năm 1939.

Chuyến bay đơn đầu tiên! Ai mà không đứng tim với một từ như thế! Khi Mikhail Pavlovich đến chỗ tôi sau khi xong một bài tập tuần tự, anh bảo tôi chuẩn bị cho lần thử sức đầu tiên, tôi chưa hiểu ngay.
- Một mình em bay, rõ không? - Anh phải nhắc lại.

* * *
Phi trường thức dậy sớm. Thông thường, vào ngày nghỉ tất cả đều đi Moskva. Trưởng nhóm Nikolai Gusev cảnh báo rằng lần này, chúng tôi phải qua đêm trong lán dã ngoại. Được biết - giáo viên hướng dẫn đã nêu tên một vài người cho phép bay đơn. Nhưng ai? Mọi người thầm hy vọng rằng sự lựa chọn sẽ rơi vào mình. Chủ nhật với tôi trôi qua như một giấc mơ. Cứ suy nghĩ mãi về ngày mai, tôi tưởng tượng Duzhnov sẽ đọc tên của tôi như thế nào, sẽ dẫn đến bên máy bay mà trên thân máy bay những giọt sương buổi sáng vẫn còn run rẩy, người phát lệnh sẽ vẫy lá cờ hiệu ra sao khi cho phép cất cánh ...

Không! Tốt hơn không nên suy nghĩ về nó nữa.
Buổi sáng trong ngày bay bỗng trở nên yên tĩnh và êm ái khác thường. Tôi thức dậy rất lâu trước khi báo thức và ra khỏi lều dã ngoại. Trên đồng cỏ dưới ánh mặt trời những giọt sương trĩu nặng tỏa sáng, báo trước một ngày ấm và khô ráo. Trên bề mặt phẳng lặng của dòng sông có những màn sương mù trải dài mỏng mảnh, và trong những khoảng sáng giữa chúng, ở phía bờ sông bên kia nhấp nhô những làn sóng cánh đồng lúa mạch đen. Tôi tưởng như nghe thấy một hồi chuông nhẹ nhõm của màu xanh cây lá...

Từ phía làng vẳng đến những giọng nói nghe không rõ như thể bị bóp nghẹt, làn khói cay cay lững lờ lan tỏa. Mặt sông vang động tiếng gậy vỗ quần áo ướt. Trên mặt đất một ngày mới đang lên.

Tôi tưởng tượng hôm nay mình sẽ vút lên khoảng không gian bao la mát mẻ của bầu trời như thế nào, khuấy động nó với tiếng gầm của động cơ và từ đỉnh trời cao sẽ nhìn xuống mặt đất trên đó ta đi, mặt đất nuôi dưỡng tôi lớn khôn và tôi sẽ vì nó, nếu cần thiết, không ngần ngại hiến dâng cả cuộc sống của mình. Tôi sẽ hiến dâng vì khoảnh khắc kỳ diệu nhất kia, hiến dâng cho buổi sáng hôm đó, vì sự tươi mát của nó, vì hồi chuông ngân đồng loạt êm ả của sóng lúa mạch xanh rì và tiếng hót của chim sơn ca, vì tất cả những điều đó hòa vào trong một từ ngắn, nhưng có sức hàm chứa lớn lao - Tổ quốc.

Ở chuyến bay đầu tiên thì Duzhnov, sau khi kiểm tra trực tiếp khí tài, đã tự mình bay trước... Chúng tôi biết anh muốn thử máy bay và đảm bảo tình trạng kỹ thuật của máy bay thật sự hoàn hảo. Anh làm vậy để cho các học viên ngay từ chuyến bay độc lập đầu tiên sẽ luôn luôn tin tưởng vào máy móc.


Đây là "én" của chúng tôi: Polykarpov Po-2 hay U-2 (1928). Tác phẩm của nhà thiết kế hàng không N.N.Polykarpov (1892-1944), vốn là một sinh viên trường dòng, cộng sự dưới quyền của Tổng công trình sư nổi tiếng I.I.Sikorsky (1889-1972), người di tản sang Mỹ sau CM tháng 10 Nga 1917. N.N.Polykarpov bị OGPU bắt năm 1929 và kết án tử hình. Sau đó được ưu ái cho vào "xà lim". Làm việc tại phòng thiết kế đặc biệt số 39 của OGPU-NKVD tại nhà tù Butyr, rồi chuyển đến nhà máy chế tạo máy bay Moskva số 39 mang tên V.R.Menjinsky. Được ân xá tháng 7 năm 1931. Được phục hồi hoàn toàn năm 1956, mười hai năm sau khi chết. Anh hùng Lao động XHCN năm 1940, giải thưởng Stalin các năm 1941, 1943. Từng được gọi là "ông vua tiêm kích" trong giới hàng không Soviet. Phòng thiết kế của Polykarpov sau khi ông chết do V.Chelomey lãnh đạo và chuyển sang nhiệm vụ thiết kế tên lửa hành trình.

Sau khi hạ cánh, hướng dẫn viên lăn chiếc U-2 ra vị trí xuất phát, bình tĩnh "rồ" động cơ một cách chắc chắn. Sau đó, anh trèo khỏi cabin, từ từ đi đến chỗ chúng tôi, chậm rãi đảo mắt nhìn tất cả, như thể kiểm tra sự kiên nhẫn và sức chịu đựng của chúng tôi.
- Nào, các bạn, - Mikhail Pavlovich cuối cùng cũng nói - hôm nay theo kế hoạch chúng ta có các chuyến bay đơn. Chúng ta bắt đầu với ai đây?
Duzhnov ngập ngừng, mắt chúng tôi chạm nhau.
- Chechneva, lên máy bay!

Hành động một cách thuần thục, nhưng không nhanh như trong các buổi tập, tôi leo vào buồng lái, thắt dây đai. Máy bay đã nằm trên tuyến chuẩn bị xuất phát. Duzhnov báo cáo với chỉ huy biên đội Matsnev rằng tôi đã sẵn sàng xuất phát.
- Trước chuyến bay đơn biên đội trưởng sẽ cùng cô hoàn thành hai vòng, - Mikhail Pavlovich giải thích. - Hãy bay như bay cùng tôi ... Bình tĩnh nhé, Chechneva. Mọi thứ sẽ ổn.
Tôi gật đầu.

Nói thì dễ - bình tĩnh. Khi cất cánh tất nhiên tôi xúc động, chỉ đến khi đã ở trong không trung tôi mới dần lấy lại sự tự tin của mình. Tất cả diễn ra như nó phải thế. Điều chính yếu - thực hiện tất cả các công đoạn bay sao cho đúng đắn và chính xác, như từng được dạy. Matsnev đã có thời thuyết phục tôi từ bỏ hàng không. Tôi không có quyền hạ nhục mình trước mặt ông ...

Sau khi hoàn thành hai vòng bay, tôi nín thở chờ đợi ý kiến Matsnev. Ông rời máy bay và ra hiệu để người ta đặt một bao cát vào vị trí huấn luyện viên nhằm giữ trọng tâm máy bay. Duzhnov mỉm cười, gật đầu chấp thuận với tôi. Anh chính thức tự mình cho phép tôi bay lên không trung, anh vừa đi vừa giữ vị trí sau mặt phẳng cánh dưới. Sau đó, anh đưa tay ra phía trước. Lệnh xuất phát đã ban ra.

Tăng vòng quay, động cơ chiếc U-2 gầm lên, máy bay tích lũy tốc độ rồi tách đất. Sau lưng tôi không còn ai, chỉ một mình tôi. Tôi và người bạn trung thành của tôi - một chiếc máy bay, một cựu chiến binh vinh quang, trong thế kỷ của mình đã đưa lên không trung không chỉ hàng trăm các cậu con trai và các cô con gái.

Tôi mỉm cười và thầm cầu khẩn: "Đừng chơi khăm tớ, cậu bạn của tớ ơi!" Đáp lại, động cơ gầm vang nhịp nhàng, và chiếc máy bay tuân phục ý chí của tôi đi vào vòng ngoặt.
Hai vòng - là mười bốn phút. Lăn máy bay ra khởi động, bản thân thì liên tục nhìn xuống nơi các chỉ huy và lãnh đạo đang đứng.

Họ đánh giá chuyến bay thế nào? Duzhnov vẫy tay và giơ ngón cái lên. Gánh nặng thế là được cất khỏi vai. Tôi tắt động cơ, chạy đến chỗ giảng viên và bằng một giọng nghẹn ngào báo cáo về việc thực hiện nhiệm vụ...

Trong những ngày tiếp theo chúng tôi hoàn thiện các yếu tố của chuyến bay theo vòng tròn, thao luyện trong không vực nhào lộn trên không. Đôi khi bay với tôi là Duzhnov. Vòng ngoặt nghiêng nhỏ, bay theo đường xoắn ốc, rắn bò, xoáy xuống theo hình mở nút chai, vòng lượn chiến đấu - tất cả dần dần được nắm vững.

Người ta nói rằng niềm đam mê với bầu trời - là niềm đam mê cao nhất. Có lẽ đúng là thế. Con người từng một làn trải qua niềm hạnh phúc của chuyến bay độc lập, sẽ không bao giờ thay đổi giấc mơ của mình. Tất nhiên, nếu từ trong trái tim mình - anh ta đã là phi công.


Xoay thùng, xoắn ốc thẳng đứng, lượn vòng nghênh chiến

Người ta đã viết nhiều về thiên bẩm và sự can đảm của các phi công. Không ai tranh cãi rằng sẽ không thể tưởng tượng được nghề này mà không có sự hy sinh quên mình và mạo hiểm. Nhưng bạn phải có tình yêu vô tận với bầu trời để vượt qua những thất bại và mất mát, nói một cách chân thành như Antoine de Saint-Exupery: "Không có gì mà hối tiếc. Tôi đã chơi - và đã thua. Nghề ngỗng của tôi là vậy. Và tôi vẫn luôn luôn hít thở làn gió tự do, gió của những khoảng không gian vô bờ".

Ông đã sử dụng từ "nghề ngỗng" này dường như có phần nào tự ty. Nhưng ông cũng có thể nói "nghề ngỗng của nhà thơ". Tất cả vấn đề nằm ở chỗ câu từ đó phát ra từ miệng ai.

Marina Raskova một lần đã nhận xét: "nghề của chúng tôi không tồi hơn cũng chẳng  tốt hơn so với bất kỳ nghề nào khác - nghề của người thợ thủ công mỹ nghệ kim hoàn, của người thợ nề, người thợ gieo giống. Chỉ có điều chúng tôi không thể sống mà không có bầu trời, và trong chuyện này có lẽ chúng tôi đã mắc bệnh nan y không sao chữa được".

Có thể thấy loài chim khao khát màu xanh thiên thanh như thế nào, và tôi hiểu Mikhail Vodopiyanov, con người đã làm rất nhiều điều cho Bắc Cực, khi ông viết trong một giây phút buồn rầu lên tấm ảnh cho một trong những người quen biết của tôi: "Thật tiếc là tôi không còn có thể bay đến Bắc Cực được nữa". `Ông không còn lái máy bay bay đến vùng lạnh giá này. Và nụ cười của ông trên bức ảnh có một gì chút tồi tội, như thể ông đang xin lỗi những người trú đông xa xôi, xin lỗi các thuyền trưởng, đang đi trên Biển Kara, xin lỗi các bạn bè, các hiệu thính viên vô tuyến điện của miền Chukotka đầy bão tuyết.

Sau khi thực hiện chuyến bay solo đầu tiên, tôi không thể tưởng tượng cuộc sống của tôi mà không có bầu trời, mà không có tầng trời cao gió hát và những đám mây bay vun vút...

Khi gần đây người ta hỏi Nikolai Kamanin: "Sự kiện nào là quan trọng nhất trong tiểu sử Komsomol của ông, sự nghiệp quan trọng nhất của ông ở Komsomol là gì" - ông ấy trả lời: "Ngày mà tôi lần đầu tiên tự mình lái máy bay. Ngày đó, theo ý kiến của bạn, có là - một sự kiện không? Đó là vào tháng 7 năm 1928. Còn trong hai mươi lăm năm, tôi đã tham gia thiên sử thi Chelyuskin".

Người phi công sẽ không bao giờ quên chuyến bay solo đầu tiên của mình. Từ ngày đó khởi đầu cuốn tiểu sử của anh ta.
........
« Sửa lần cuối: 14 Tháng Tám, 2015, 09:34:57 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #3 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2015, 09:37:19 pm »

(tiếp)

* * *

Rõ ràng, không phải tất cả mọi việc tôi làm đều tốt. Duzhnov có lần đã nói:
- Chương trình bay cho đến giờ em làm khá tốt. Nhưng với những động tác ngoặt nghiêng sâu thì vẫn còn gì đó chưa ngọt.



Bản thân tôi cảm thấy rằng dạng thuật lái này làm cho tôi gặp khó khăn, nói cách khác, chưa thành công. Lúc thì vi phạm góc nghiêng ngang quy định, lúc thì mất độ cao và bị tăng tốc độ. Sau khi bình giá chuyến bay, tôi lại một lần nữa bước lên máy bay với Duzhnov và lặp đi lặp lại trên mặt đất tất cả các công đoạn của động tác cơ động. Mikhail Pavlovich bằng giọng nói đều đều, bình tĩnh giải thích mũi của máy bay và tấm chắn nắng buồng lái cần phải ở tư thế nào so với đường chân trời khi máy bay ra khỏi tư thế lượn vòng nghiêng sâu. Và anh ra lệnh cất cánh.

Sự tự tin và kỹ năng mỗi ngày tăng thêm một chút.

... Mùa thu năm 1939 đã đến. Cỏ đã ngả vàng, sắc thắm đỏ đầu tiên đã lan đến khu rừng lân cận, những sợi tơ nhện óng ánh bạc lơ lửng trong không trung, đêm trở lạnh hơn, những ngôi sao chói sáng hơn trên bầu trời đêm đen đặc. Mùa hè đã qua, khóa học của tôi ở câu lạc bộ HK đã kết thúc. Tôi đã vượt qua các môn thi của kỳ thi tốt nghiệp với điểm xuất sắc. Xúc động, hạnh phúc, chúng tôi đứng lịm đi trong hàng ngũ, khi nghe lệnh phong danh hiệu phi công.

Nhưng niềm vui chen lẫn nỗi buồn. Gia đình tuyệt vời của chúng tôi đã bị chia tách. Victor Lyubvin, Vitaly Grachev, Nikolay Gusev, Vladimir Chalov, Nikolai Kosov và nhiều cậu trai trẻ khác đã chuyển sang trường phi công tiêm kích. Tôi cũng muốn đi sang cùng họ. Tôi nghĩ rằng tại Osoaviakhim không còn làm gì hơn được nữa, và chỉ có trường chuyên nghiệp quân sự mới có thể mở đường vào hàng không cỡ lớn. Nhưng người ta không tiếp nhận phụ nữ vào các trường quân sự. Tôi đi mà như người mất hồn, không biết phải làm gì tiếp theo.
- Nào, em sao vậy, Marinka, sứa thế cơ à? - Duzhnov khích tôi. - Những con đường cho em vào Osoaviakhim đã đóng đâu. Hãy học tiếp, nâng cao kỹ năng. Mọi thứ với em còn ở phía trước ...

Lễ tốt nghiệp được tổ chức buổi tối tại tòa nhà của đảng bộ quận Leningrad, đoàn Komsomol quận và ủy ban Soviet quận trên quảng trường Miusskaya, và một tuần sau đó tôi được Ivan Ivanovich Shcherbakov chỉ huy phi đội, sau này là Đại tá, Anh hùng Liên Xô triệu tập tới chỗ ông. Các học viên bay vô cùng yêu mến và kính trọng ông vì tài nghệ xuất chúng và sự tinh tế với mọi người và làm hết sức mình để bắt chước ông.

Shcherbakov một lần nữa chúc mừng tôi nhân dịp kết thúc khóa học ở câu lạc bộ HK và công bố quyết định của ban chỉ huy: tôi và bạn gái của tôi Galya Turabelidze được gửi đến trường hàng không Kherson của Osoaviakhim, đào tạo thành phi công-huấn luyện viên và hoa tiêu để làm việc trong các câu lạc bộ HK của đất nước.

Tại Kherson một sự rắc rối lớn đang đợi tôi: uỷ ban thẩm tra tư cách không bỏ qua tuổi của tôi - tôi chưa đủ mười tám tuổi.

Trở về Moskva, tôi lao đến CLBHK quận Leningrad. Một lần nữa, Duzhnov và Shcherbakov lại nói chuyện với tôi. Theo lời khuyên của họ, tôi ở lại câu lạc bộ HK, và sau đó một năm đồng thời với chứng nhận trưởng thành tôi nhận được bằng tốt nghiệp phi công-huấn luyện viên. Tuy nhiên, tại thời điểm đó tương lai hoàn toàn chưa rõ ràng với tôi.


Ngôi nhà trên phố Gorky

Dù sao tôi đã trở thành nữ phi công. Cái gì đã giúp tôi đạt được điều ấy? Sự bướng bỉnh của cá nhân? Nhưng có những giây phút tôi nghi ngờ sức mình. Hay sự kiên trì? Không phải lúc nào cũng đủ.

Và càng nghĩ, khi cố gắng trả lời bản thân mình, càng cẩn thận sắp xếp lại trong thâm tâm những tháng năm xa xăm ấy, một cái tên càng bền bỉ thầm nhắc cho ký ức của tôi - Raskova.


Marina Raskova, Paulina Osipenko, Valentina Grizodubova và chuyến bay "Tổ quốc" nổi tiếng năm 1938

Và bên cạnh chị là hai người khác - Grizodubova và Osipenko. Nếu không có ba người phụ nữ tuyệt vời này, có lẽ sẽ không sớm trôi vào quá khứ một số câu phương ngôn về gà mái và trí tuệ phụ nữ, sẽ không sớm biến đi những cái nhếch mép khỏi khuôn mặt những con người cứng nhắc hoài nghi, cho rằng phụ nữ và hàng không - đó là các khái niệm không tương hợp.

* * *

Tôi ngồi với Lida Maksakova trên bậu cửa sổ và nói những chuyện thân mật nhất. Tôi phàn nàn với người bạn gái về số phận.
- Thật là xấu hổ, Lida à ... Kết thúc khóa học phi công, nhưng kết thúc thế nào nào? Khasan thì không được tham gia. Khalkhin Gol tớ cũng không kịp ... Các bạn khác chiến đấu còn mình thì cứ học và học. Có vẻ như chuyện học hành sẽ chẳng bao giờ kết thúc.
- Sẽ kết thúc, Marinka à. Cậu sẽ tìm được cho cậu một công việc thú vị. Bây giờ, sau các chuyến bay của Grizodubova và Raskova, mọi thứ sẽ diễn ra dễ dàng hơn. Các cô gái gia nhập ngành hàng không mỗi ngày càng nhiều hơn. Tất cả đều mơ giấc mơ bầu trời.
- Đúng vậy ... giá tớ biết bây giờ Raskova sắp làm gì.
- Chuẩn bị cho các chuyến bay mới. Mà tại sao cậu quan tâm chuyện này?
- Tớ có thể nói, chỉ có điều tớ chỉ nói một cách nghiêm chỉnh giữa chúng mình thôi ... Tớ muốn trở thành phi công lái máy bay tiêm kích ... Tớ quyết định xin Marina Mikhaiovna giúp tớ.
- Theo tớ, đây không phải là một cuộc nói chuyện nghiêm túc. Phụ nữ mà vào trường quân sự người ta không nhận đâu. Cậu quá rõ điều ấy mà.


Valentina Stepanovna Grizodubova (1909-1993), đại tá KQ, con gái của nhà sáng chế máy bay và phi công Nga gốc Ukraina S.V.Grizodubov. Nữ phi công AHLX đầu tiên (1938), AH Lao động XHCN (1986). Chỉ huy trung đoàn KQ tầm xa 101 gồm đa phần là nam giới (sử dụng máy bay Li-2 tức Douglas DC-3 sản xuất tại Liên Xô dưới sự cho phép của Mỹ) trong Thế chiến 2 từ 1942-1943. Người lập rất nhiều kỷ lục thế giới của phi công nữ cùng các nữ phi công M.Raskova, P.Osipenko trong thập niên 30 thế kỷ 20. Đồng thời cũng là nữ chỉ huy có nhiều tai tiếng, từng xung đột với Tư lệnh KQ tầm xa Soviet A.E.Golovanov, bị Tư lệnh chê trách vì để đơn vị có kỷ luật quân nhân kém, xảy ra nhiều tai nạn ngoài chiến đấu. Sau chiến tranh làm việc trong các Viện nghiên cứu Hàng không.

- Tớ biết. Trước đây họ không nhận. Nhưng mọi thứ trong cuộc sống đang thay đổi. Trước đây, phụ nữ chưa hoàn thành được các chuyến bay anh hùng như vậy! Cái gì có thể đến sẽ đến - Tớ vẫn sẽ mạo hiểm.
Một vài ngày sau cuộc trò chuyện này, tôi buồn bã nhìn vào chiếc điện thoại. Và một lần thì tôi quyết định. Tôi quay ngay số điện thoại mong muốn.
- Marina Mikhailovna! Học viên câu lạc bộ HK Marina Chechneva, có làm phiền chị không. Tôi muốn ...
- Xin mời, hãy đến đây đi.
Raskova đọc địa chỉ của chị và giải thích cách làm thế nào nhanh chóng và dễ dàng đến được chỗ chị ấy.

Marina Mikhailovna sống trên phố Gorky, trong một ngôi nhà mà bây giờ có một cửa hàng bán quà tặng. Cô con gái Tatiana của chị hiện đang sống ở đây.

Như một con điên, tôi nhảy ra khỏi buồng điện thoại, phóng đến địa chỉ có tên vừa nghe. Đó là tháng mười hai, trời vô cùng giá buốt, nhưng tôi không cảm thấy lạnh. Nói chung tôi ít phản ứng với điều gì tại thời điểm đó. Những ánh đèn trên phố thoáng qua trong ánh hào quang cầu vồng, có thể nghe thấy những hồi chuông dồn của những đoàn xe điện, tiếng còi xe ô tô, tuyết lạo xạo dưới chân, người đi lại dọc theo những vỉa hè. Còn tôi chẳng quan tâm đến điều đó. Trong tai chỉ vang vang giọng nói của Raskova, trước mắt là khuôn mặt tươi cười quyến rũ của chị, đã quen thuộc qua những bức chân dung và phim thời sự.

Raskova tiếp tôi giản dị và niềm nở. Chị chăm chú lắng nghe lời nói không được khúc chiết cho lắm, vội vã và rối rắm của tôi. Và đôi khi cặp môi của chị chỉ hơi rung trong một nụ cười khó nhận ra. Tất nhiên khi ấy tôi đã không dẫn ra được bất kỳ lý do nghiêm túc nào ủng hộ cho quyết định của mình, nhưng có lẽ sự chân thành của tôi đã làm Raskova cảm động.
- Marina Mikhailovna! - tôi nồng nhiệt kết lời thú nhận của tôi. - Xin chị hãy giúp tôi trở thành phi công tiêm kích! Tôi xin thề sẽ không làm cho chị phải xấu mặt!

Chị im lặng một chút.
- Hãy nghe tôi và đừng lo lắng. Cảm giác tốc độ quen thuộc với mỗi phi công, và trước nó thật khó cưỡng lại. Con người luôn luôn phấn đấu tới những mục tiêu lớn hơn nữa. Đó là điều tốt. Ai mà không muốn, nếu anh dừng lại, không sớm thì muộn sẽ trở thành một gánh nặng vô ích ... còn giúp thì tôi, tiếc là không thể. Quy tắc xét tuyển vào các trường quân sự không thể vi phạm được. Ngoài ra, bạn đã mắc phải một nhầm lẫn rất lớn khi tin rằng bạn chỉ có thể đạt được những thành công lớn trong hàng không quân sự. Bởi lẽ bạn muốn bay không chỉ nhanh, mà còn phải tốt nữa đúng không?
- Tất nhiên ạ.
- Bạn có thể học bay tốt ngay ở CLBHK. Bây giờ chỗ của bạn là ở Osoaviakhim. - Marina Mikhailovna dừng lại, dường như suy nghĩ điều gì đó, và nói thêm: - Tình hình trên thế giới rất phức tạp. Bọn phát xít càng ngày càng láo xược. Chúng ta cần phải tăng cường quốc phòng. Hàng không đòi hỏi phải có rất nhiều biên chế bay. Bạn từng học làm phi công-huấn luyện viên. Một sự nghiệp rất quan trọng. Hãy cố gắng chuẩn bị càng nhiều càng tốt các học viên cho các trường chuyên nghiệp quân sự. Trong lúc này Osoaviakhim cần bạn hơn là quân đội. Tin tôi đi.

Tôi có thể phản đối gì chứ? Raskova đã tuyệt đối đúng. Nhưng tôi không vì thế mà trở nên dễ chịu hơn. Tôi cảm thấy rằng tất cả những giấc mơ của tôi đang sụp đổ, và tôi không thể giấu nổi sự thất vọng của mình.
- Nào-nào, ngẩng đầu lên, cô phi công tiêm kích! Ai thực sự muốn điều gì đó, người ấy sẽ nhất định đạt được điều mình muốn! - Raskova dịu dàng nhìn vào mắt tôi. - Chúc bạn thành công, Marina. - Chị siết chặt tay tôi, tiễn đến tận hành lang.

Suốt cuộc đời mình, tôi vẫn nhớ như in cuộc gặp gỡ, vẫn giữ mãi tình yêu dành cho người phụ nữ đặc biệt quyến rũ với đôi mắt buồn xuyên thấu tim này.

* * *

Năm 1939 trôi qua.
Một năm hạnh phúc đối với tôi. Hạnh phúc vì tôi còn trẻ, vì tôi đã biết đến bầu trời, bởi vì sống bên cạnh tôi trên đời còn có một con người như Marina Raskova, có nghĩa là có thể hy vọng một lần nữa, mặc dù có thể không phải sớm, được gặp lại chị ấy. Và thực sự sau một thời gian, tôi lại nhìn thấy Marina Mikhailovna.

Đó là mùa hè năm 1940. Tôi đang đi dọc theo phố Gorky, đột nhiên dòng người đi bộ đổ xô lên cầu. Mọi người vây quanh một chiếc xe hơi hạng nhẹ vừa dừng xe mở cửa. Raskova ngồi trong xe, mỉm cười bối rối.

Tôi mở to mắt nhìn chị và nghĩ "Chị ấy thật giản dị, dễ gần, thân thiện, thật tuyệt làm sao khi một người danh tiếng như vậy vẫn là chính mình!"

Tôi thuộc lòng tiểu sử của Marina Mikhailovna. Tôi biết rằng chị là một Muscovite gốc, rằng cha chị là một nhạc sĩ, và chị đã phát lộ tài năng âm nhạc từ rất sớm. Tôi còn biết thời thơ ấu Raskova đã trải qua một thảm kịch: một người lái mô tô đâm chết cha chị trên đường phố. Biết rằng chị đã học tại nhạc viện. Sau này tôi đọc được trong nhật ký của chị:

Giáo sư Strakhov - một người cực tốt. Âm nhạc đã trở thành môn học yêu thích của tôi. Tôi đã viết được chính tả âm nhạc tốt, hát xướng âm, nghiên cứu hòa âm và tiết tấu. Tôi phải nói rằng âm nhạc là một thuộc tính không thể thoát khỏi của trái tim tôi. Khi trái tim tôi thắt lại bởi thái độ không thân thiện và hình thức đối với tôi, âm nhạc đã làm giảm nó xuống mức tối thiểu ... Nhưng khi trái tim tôi được sưởi ấm bởi sự trìu mến, thì âm nhạc trong trái tim xuất hiện càng lúc càng nhiều hơn, và cuối cùng chiếm một trong những vị trí đầu tiên. Piotr Nikolaievich luôn trìu mến với tôi, khuyến khích tôi, luôn đồng cảm với tôi, thường âu yếm xoa đầu hoặc vỗ nhẹ vào vai, và tôi như sống lại.

Những người xung quanh và bạn bè dự đoán cho Marina Mikhailovna một sự nghiệp ca hát hoặc nghệ sĩ dương cầm. Chị cũng có thể trở thành một nhà sinh vật học, nhà hóa học, nhà sư phạm ... Những lĩnh vực kiến thức này chị quan tâm đến một cách nghiêm túc. Và rồi Marina Mikhailovna Raskova trở thành nữ phi công.

Ở nước ta, chưa từng có vào lúc ấy một cô gái nào mà không ngồi cả đêm đọc "Nhật ký một hoa tiêu" của Raskova.

Qua báo chí tất cả chúng tôi đã theo dõi chuyến bay của Grizodubova, Osipenko, Raskova. Nhưng có một điều - thông tin trên báo khô khan, cô đọng nhưng hoàn toàn khác - khi đó là câu chuyện của các thành viên chuyến bay. Tiện thể phải nói cho đến giờ này, tôi vẫn còn nhớ như in chuyện đó xảy ra như thế nào.

"Hôm nay phi hành đoàn gồm ba phi công - Valentina Stepanovna Grizodubova, Polina Denisovna Osipenko, Marina Mikhailovna Raskova - trên máy bay "Tổ quốc" bắt đầu chuyến bay thẳng Moskva - Viễn Đông" - chúng tôi nghe trên đài phát thanh sáng ngày 24 tháng 9 năm 1938.

Phi hành đoàn "Tổ quốc" sắp phá vỡ kỷ lục quốc tế về cự ly bay không ngừng nghỉ của nữ phi công trên đường bay thẳng. Và kỷ lục này đã bị phá vỡ.

Các nữ phi công đã hoàn thành nhiệm vụ của đảng và chính phủ. Họ đã hoàn thành mặc dù điều kiện thời tiết khắc nghiệt vô cùng đã đồng hành với "Tổ quốc" trong suốt chuyến bay.

Cả nước ngưỡng mộ lòng can đảm, sự điềm tĩnh và kỹ năng bay cao cường, mà Grizodubova, Osipenko, Raskova đã thể hiện trong những điều kiện khó khăn nhất. Họ đã chứng minh cho toàn thể thế giới thấy nữ phi công Xô viết có thể lập được những kỳ công gì, và là những người phụ nữ đầu tiên được trao tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô.

Ngày mùa thu đầy nắng tất cả Moskva dịch chuyển đến quảng trường Komsomol để đón các nữ anh hùng phi công, trở về từ vùng Viễn Đông bằng một chuyến tàu đặc biệt.

Vui mừng và hạnh phúc, tôi cũng ở trong đám đông ấy.
........
« Sửa lần cuối: 16 Tháng Tám, 2015, 06:40:15 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #4 vào lúc: 16 Tháng Tám, 2015, 06:41:40 pm »

(tiếp)

* * *

- Vậy, cậu đã ở nhà Raskova? - những người bạn gái vây quanh, sau khi nghe tôi tự hào tuyên bố về cuộc gặp gỡ với Marina Mikhailovna.
- Đúng.
- Nói chuyện lâu không? Chị ấy thế nào?
- Rất giản dị. Và chúng tôi nói chuyện rất lâu.
- Nói những chuyện gì?
- Về cuộc sống, về chuyện tớ mơ ước trở thành phi công quân sự ...
- Thế chị ấy bảo sao?
- Chị ấy khuyên hoàn thiện tiếp tay nghề ở Osoaviakhim.
- Dễ nghe thế! Đối với một nữ phi công nổi tiếng mọi thứ đơn giản quá ...
- Này, các cô gái ... Các cậu mà biết chị ấy đã trải qua một cuộc sống khó khăn thế nào! Chị từng học ở nhạc viện, là nhà hóa học, đã làm việc trong nhà máy. Chị đã kết hôn, có một con gái Tanya. Rồi phải bỏ việc. Sau đó, chị bắt đầu làm nữ nhân viên họa đồ trong phòng thí nghiệm dẫn đường hàng không... - Tôi nói một thôi một hồi. - Các cậu từng nghe người mà chị ấy làm việc cho là ai không? Belyakov đấy! Người mà cùng với Chkalov ấy! ..


Anh hùng Liên Xô M.M.Raskova (1912-1943).Gia nhập Hồng quân năm 1938, đồng thời cũng nằm trong biên chế NKVD, thượng úy ANQG. Nghề nghiệp chính hoa tiêu hàng không (tốt nghiệp Học viện HKDD Leningrad). Có công đề xuất và tổ chức thành lập 3 trung đoàn nữ KQ trong Thế chiến 2 (586, 587, 588), chiến đấu trên mặt trận Xô-Đức. Thiếu tá trung đoàn trưởng trung đoàn nữ KQ ném bom 587 sau này trở thành trung đoàn ném bom bổ nhào cận vệ số 125 mang tên Marina Raskova. Sau khi hy sinh tháng 1 năm 1943 trong một tai nạn do thời tiết xấu, được an táng theo nghi lễ quốc gia và bình tro thi hài được gắn ở chân tường điện Kremli trên Quảng trường Đỏ.

Và đột nhiên tôi chùn lại, lạy Chúa, nhỡ người ta nghĩ rằng tôi kiêu ngạo vì cuộc gặp gỡ như vậy!

Nhưng các bạn gái chẳng cho tôi im lặng.
- Hãy kể tiếp đi một khi cậu đã bắt đầu! Và tôi tiếp tục.
Marina Mikhailovna thích các phép tính hoa tiêu. Chẳng mấy chốc chị đã bắt đầu thực hiện chúng một cách nhanh chóng và chính xác. Trưởng phòng thí nghiệm Aleksandr Belyakov tin rằng Raskova sẽ trở thành một hoa tiêu xuất sắc, và giúp chị học nghề nghiệp mới.

Sau đó, việc học tập được tiến hành tại khoa tại chức của Viện Hàng không Leningrad. Rồi tới ngày Belyakov lấy Marina Mikhailovna tham gia chuyến bay đầu tiên ...

Raskova trở thành hoa tiêu. Ngoài ra, chị còn là giáo viên tại Học viện Không quân mang tên Giáo sư N.E.Zhukovsky. Về sau chị trở thành nữ thành viên tham gia một loạt chuyến bay đường xa, thiết lập nhiều kỷ lục, nhiều lần là nữ thành viên của các cuộc diễu hành trên không trên Quảng trường Đỏ.
- Phần còn lại, các cô gái ơi, các bạn biết cả rồi...

* * *

Tôi và nhiều đồng nghiệp của tôi nhớ tới Osoaviakhim với lòng biết ơn.
... Tôi có một bộ sưu tập nhỏ các huy hiệu, phù hiệu. Chúng được phát hành bởi các tổ chức xã hội khác nhau - hoặc là các biểu tượng của họ, hoặc là để vinh danh một sự kiện quan trọng. Trong số các phù hiệu có những phù hiệu, mà tôi luôn luôn khao khát chúng không sao kềm nổi. Tôi không chỉ muốn nhìn thấy chúng, mà còn muốn giữ chúng trong tay. Đó là các phù hiệu quốc phòng. Chúng đặc biệt thân thiết với tôi, rất nhiều thứ trong cuộc sống của tôi gắn liền với chúng.

Có một biểu tượng xưa-rất xưa. Tôi có lẽ còn chưa được sinh ra khi người ta mang nó. Đó là một ngôi sao đỏ với có hai cánh quạt máy bay bắt chéo trên đó, trải rộng sang hai bên là hai chiếc cánh bạc. Dười ngôi sao, trên một dải ruy băng màu thanh thiên khắc bốn chữ vàng - ODVF.



Đây là phù hiệu của Hiệp hội những người bạn của Hạm đội Hàng không (Общества друзей воздушного флота - ODVF) đầu tiên ở nước ta. Hiệp hội thành lập vào năm 1923, và dựa trên các khoản đóng góp tự nguyện của người lao động, mà nó xây dựng nên các phi đội hàng không Xô Viết đầu tiên: "Lenin", "Tối hậu thư", "Câu trả lời của chúng ta cho Chamberlain", "Câu trả lời cho Giáo Hoàng La Mã". Chỉ trong một năm 1925 riêng ODVF đã chuyển giao cho Hạm đội Hàng không Đỏ 140 máy bay quân sự, xây dựng 26 sân bay có nhà chứa máy bay.

Còn nép mình bên cạnh phù hiệu này là một phù hiệu rất đơn giản, dập bằng kim loại màu trắng. Trên đó có một chiếc phi cơ hai lớp cánh nhỏ với dòng chữ  đề "Aviakhim", dưới đó đề: "Các chuyến bay xa năm 1926". Phù hiệu này được phát hành kỷ niệm các chuyến bay xa hoành tráng thời đó theo tuyến Moskva - Bắc Kinh Xô trên các máy bay do Liên Xô thiết kế P-1, được trang bị các động cơ Liên Xô đầu tiên M-5.

Aviakhim - đó là một hiệp hội quốc phòng khác thành lập năm 1925 do sát nhập ODVF và Dobrokhim. Tôi không có phù hiệu của Dobrokhim và không biết liệu có tồn tại phù hiệu loại ấy hay không. Còn phù hiệu Aviakhim, thì đây - búa và liềm, trên đó là một chiếc cánh quạt máy bay và một bồn chứa hóa chất. Bên dưới có dòng chữ đề trên dải băng màu xanh da trời: "Aviakhim".



Ngày 23 tháng 1 năm 1927 ở nước ta đã thành lập Hiệp hội ủng hộ quốc phòng, xây dựng ngành hàng không và hóa học - Osoaviakhim.

Ai mà quên được chúng ta bắt đầu tấn công lên trời như thế nào trên các tàu lượn kém cỏi và các "giàn bay" cũ rích thu thập được bằng bàn tay của mình tại các xưởng của Osoaviakhim! Sau đó, khi Tổ quốc đặt vào tay thế hệ trẻ các cỗ máy tinh vi, thì bay đi trong các chuyến bay đầu tiên là các chàng trai và các cô gái với những tấm thẻ đoàn viên Komsomol trong túi áo ngực của bộ đồ bay. Họ cảm thấy rằng họ sắp có các trận chiến khốc liệt với kẻ thù tồi tệ nhất của nhân loại - chủ nghĩa phát xít. Chính vì thế mà các đường bay của V.Chkalov và M.Gromov, M.Vodopiyanov và I.Mazuruk, V.Grizodubova và Raskova vạch ngang dọc bầu trời trên hành tinh. Do đó mà chúng tôi, các cậu bé trai và các cô bé gái của ngày hôm qua, mới làm mưa làm gió các câu lạc bộ HK và các cơ sở đào tạo, nắm vững các chuyên ngành quốc phòng.

Kêu gọi chúng tôi đến với bầu trời không phải niềm khao khát vinh quang. Trong không trung đang tỏa mùi giông bão. Để đón tiếp nó xứng đáng, chúng ta muốn có những đôi cánh bay hùng mạnh và ý chí sắt đá. Và khi Victor Talalikhin thực hiện hành động taran, khi Nikolai Gastello lao chiếc máy bay bốc cháy của mình xuống đoàn xe phát xít - họ không nghĩ về sự bất tử. Trái tim ra lệnh cho họ như vậy! Vinh quang toàn dân tộc, bao trùm những cái tên A.Pokryshkin, I. Kozhedub, B.Safonov, tuyệt nhiên không phải là món quà của số phận. Nguồn gốc của nó nằm trong tuổi trẻ Komsomol của họ, trong lòng dũng cảm công dân, trong niềm tin tưởng đảng và đoàn Komsomol của họ.



Thông điệp của đại hội IX Đoàn Komsomol "các đoàn viên Komsomol, hãy lên máy bay!" vang lên với những người trẻ tuổi không chỉ như mệnh lệnh mà còn như tiếng nói của lương tâm.

Hàng ngàn đoàn viên Thanh niên Cộng Sản đã đến với CLBHK của Osoaviakhim, tới các đơn vị hàng không, các trường chuyên nghiệp hàng không, nhà máy sản xuất máy bay. Những người ban ngày đứng máy tiện máy phay, thi tối tối và các ngày nghỉ lại vội vã ra sân bay. Phù hiệu Osoaviakhim mà khi ấy chúng tôi nhìn thấy như thể tấm giấy thông hành đi vào ước mơ bay và nhân văn của chúng tôi.

Năm 1935 cả nước có 122 câu lạc bộ HK. Vào hàng không với phiếu đề cử của đoàn Komsomol, chính trên vai lớp thanh niên Komsomol được gọi nhập ngũ đó đặt gánh nặng chủ yếu của những trận không chiến của cuộc chiến tranh sắp xảy ra. Mà trước đó đã là Tây Ban Nha, Hồ Khasan, Khalkhin Gol. Ngay trong những trận chiến này, những người cộng sản và các đoàn viên Komsomol đã chứng minh lòng trung thành của họ với nghĩa vụ quốc tế, lòng can đảm và tài nghệ quân sự của mình.

Chỉ trong năm 1940 các CLBHK của Osoaviakhim đã đào tạo hàng chục ngàn phi công, nhân viên cơ giới hàng không thành các chuyên gia khác cho Không quân. Họ sắp phải đối mặt với các Ách của Goering và Richthofen. Và cả thế giới đã biết kết quả của cuộc chiến trên không chưa từng có trong lịch sử này.

Phối hợp chặt chẽ với các Đoàn thanh niên Lenin, Osoaviakhim trước chiến tranh đã làm được một công việc không nhỏ, góp phần chuẩn bị cho nhân dân đẩy lùi cuộc xâm lược phát xít. Các đoàn viên Komsomol và thanh niên ở các đơn vị quân đội, các đội du kích và các tiểu đoàn không quân tiêm kích lao vào một cao trào yêu nước chưa từng thấy. Hầu hết các chàng trai cô gái đã làm chủ vũ khí trang bị một cách xuất sắc.

Chỉ trong nửa cuối năm 1941 Osoaviakhim đã hoàn thành một cách vinh quang nhiệm vụ đào tạo trong các CLBHK 25.000 phi công và gửi 114.000 thanh niên được huấn luyện nhảy dù vào binh chủng đổ bộ đường không. Hàng trăm ngàn thành viên của hiệp hôi gia nhập quân đội, có chuyên môn xạ thủ súng máy, súng cối, lái xe ô tô, phi công, vận động viên nhảy dù, và đã chiến đấu không biết khiếp sợ trên các mặt trận. 273 thành viên của hiệp hội đã được trao tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô, hàng chục ngàn người được trao tặng các loại huân huy chương.

Lẽ nào không nên nhớ bằng một lời tốt đẹp đến một hiệp hội quốc phòng đã làm được nhiều việc như vậy cho đất nước ...

* * *

Không lâu trước chiến tranh, số phận của tôi bắt đầu được xác định. Sau khi kết thúc học tập ở trường phổ thông số 144 quận Leningrad, Moskva, tôi ở lại trường làm tổng phụ trách thiếu niên tiền phong theo quyết định của Quận đoàn Komsomol. Vừa làm việc, tôi vừa chuẩn bị vào học ở Viện Hàng không. Tôi vẫn sử dụng tất cả thời gian rảnh rỗi ở tại sân bay, như trước kia. Chỉ riêng điều này cũng gây ra sự phấn khích cho các em mà tôi bảo trợ.

Tôi đã rất hạnh phúc khi biết rằng có rất nhiều em thuộc trường chúng tôi đã quyết định  chắc chắn sẽ gắn bó cuộc sống của mình với ngành hàng không. Và các em mong muốn thực hiện điều đó. Nikolai Malinin và Piotr Arbatsky đã trở thành các phi công, Boris Ermolovich và Sergei Soldatov - các kỹ sư hàng không ...

Dù cho bao nhiêu năm tháng trôi qua, dù có những sự kiện hạnh phúc và vui vẻ như thế nào đã từng xảy ra trong cuộc sống, bạn sẽ luôn luôn nhớ lại thời tuổi trẻ Komsomol với sự xúc động và trìu mến. Nó như là - mối tình đầu. Và thậm chí còn hơn thế. Nó - chính là số phận của bạn, ước mơ có đôi cánh tung bay của bạn, và tất cả những gì tốt đẹp nhất có trong tâm hồn bạn.

Nét đặc trưng nào nổi bật nhất phân biệt những người đoàn viên thanh niên cộng sản thế hệ của tôi là gì? Nếu nói về điều chủ yếu, thì có lẽ là sự đấu tranh quên mình. Chúng tôi có chủ nghĩa lãng mạn của mình. Nhưng trong nó, như ở đâu đó nhà thơ Mikhail Svetlov đã tinh tế nhận thấy, có nhiều trách nhiệm hơn quyền hạn. Thời đại thế đấy. Không phải ngẫu nhiên chúng tôi coi họ là những người hạnh phúc, những người có cơ hội chiến đấu tại Khasan và Khalkhin Gol, những người chiến đấu trên bầu trời Tây Ban Nha, đào các đường tàu điện ngầm đầu tiên, những người giống như Chkalov hoặc Grizodubova, khai phá những con đường vô hình đầu tiên trên bầu trời. Những chiếc lán ở Magnitogorsk và Komsomolsk-na-Amur kích thích trí tưởng tượng của chúng tôi không ít hơn, so với các chuyến bay của các nhà du hành vũ trụ đối với giới trẻ ngày nay.


Polina Denisovna Osipenko (1907-1939), thiếu tá KQ, người Ụkraina, một trong ba nữ AHLX đầu tiên (1938), phi công thứ hai trong chuyến bay lịch sử Moskva-Viễn Đông trên máy bay "Tổ quốc" ANT-37 cùng M.M.Raskova và V.S.Grizodubova. Tự học lái U-2. Tốt nghiệp trường phi công quân sự Kachin năm 1933. Gia nhập Hồng quân năm 1932. Là phi công và chỉ huy biên đội tại các đơn vị KQ tiêm kích hiện dịch của LLKQ Hồng quân Công nông tại các QK Kharkov, Kiev và Moskva. Từng lập 4 kỷ lục thê giới về hàng không trên thủy phi cơ MP-1 vào năm 1937. Hy sinh trong tai nạn máy bay năm 1939 cùng Tổng thanh tra bay Hồng quân Công nông A.K.Serov. Bình tro thi hài được gắn ở chân tường điện Kremli trên Quảng trường Đỏ.


Chiếc máy bay lịch sử: Tupolev ANT-37 "Rodina"

Vâng, thế hệ của chúng tôi là thế đó. Và sau này nhà thơ Vasily Fedorov trong trường ca nổi tiếng "Tầng trời thứ bảy" đã nói về chúng tôi như sau:
Bay
Qua những năm ba mươi
Thời đại của động cơ lao vun vút.
Muốn chắp cánh bay lên
Đất nước của những chiếc xe trượt tuyết,
Đất nước của những chiếc xe ngựa kéo.
Những lời nói
"Theo gương Chkalov"
"Theo gương Gromov"
Bay ra từ đôi môi của chúng ta,
Khi cầm phiếu giới thiệu của quận đoàn thanh niên
Chúng tôi xuất hiện ở câu lạc bộ hàng không.
Người ta gõ nhịp chúng tôi,
Đo chúng tôi,
Người ta đặt chúng tôi lên cân.
Năm giác quan của chúng ta bác sĩ kiểm tra -
Kiểm tra lòng can đảm,
Sự tự chủ
Và sự sợ hãi ...

Tôi vẫn còn nhớ cho đến tận bây giờ lời tuyên bố của một trong những đồng nghiệp của tôi tại câu lạc bộ HK: "Từ chối tôi, các anh chị không có quyền. Tất cả cuộc sống của tôi, tôi đã sẵn sàng để trở thành một nữ phi công. Và thậm chí nếu các anh chị từ chối tôi, tôi vẫn sẽ trở thành như vậy". Cô bé mà cả đời mình "đã sẵn sàng trở thành nữ phi công" mới mười sáu tuổi. Cô bé ấy sau đó đã trở thành, vào năm bốn mươi mốt, không phải nữ phi công, mà là một nữ y tá. Và cô hy sinh gần Minsk. Nhưng có thể nào nói rằng cô gái ấy đã thay đổi giấc mơ của mình? Lẽ nào cuộc sống của cô ấy chưa phải đã được chắp cánh?!
Những tuyên bố như vậy có đến hàng ngàn.
.......
« Sửa lần cuối: 17 Tháng Tám, 2015, 10:17:20 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #5 vào lúc: 17 Tháng Tám, 2015, 11:57:38 pm »

(tiếp)

Buổi sáng ảm đạm

Ngoái nhìn lại những năm xa xôi ấy bây giờ, tôi như thể nhìn thấy qua màn sương khói một buổi sáng tháng Sáu không nóng bức, và hai con người với một chiếc va li nhỏ trên đường ô tô Leningrad. Người đàn ông có một vẻ gì đó di-gan. Ông có đôi mắt sáng, mái tóc đen dày, cử động nhanh nhẹn, giọng nói ngân vang. Bên cạnh ông, một cô gái, gần như còn là một cô bé, tóc cũng đen như một con quạ nhỏ, với đôi mắt lớn màu tối sẫm.
- Cha, chúng ta đi nhanh lên chứ - cô bé vội vã.
- Đừng vội, con gái cha ơi. Chúng ta vẫn kịp, - người đàn ông an ủi, nhưng vẫn rảo bước thêm. - Và điều quan trọng nhất, đừng quên: ngay khi đến nơi, hãy đánh điện về.
- Được rồi, cha.
- Nhìn kìa, Marinka! Cha đã hoàn toàn kiệt sức một mình. Dù con bây giờ có là nữ phi công thì với cha - con vẫn còn là một đứa trẻ ...

Có cần thiết phải giải thích rằng tôi và cha đang ở trên đường quốc lộ và đó là hôm trước chiến tranh? Cha tôi tiễn tôi đi nghỉ ở Crimea theo phiếu nghỉ dưỡng của đoàn Komsomol.

Chẳng mấy mà chúng tôi đã đến cửa nhà ga phi trường Trung tâm và sau khi trình vé, đi ra sân bay. Chiếc máy bay vận tải đối với tôi trông thật khổng lồ. Tôi tò mò đi quanh cỗ máy. Tất cả ở nó làm tôi sửng sốt. Quen với chiếc máy bay huấn luyện bé nhỏ U-2, mà bản thân mình đã bay và huấn luyện bay cho những người khác, nay đứng gần chiếc máy bay vận tải to lớn, tôi cảm thấy mình nhỏ bé và bất lực.

Chào tạm biệt với cha xong, tôi vào chỗ của mình trong khoang khách ...
Từ Simferopol nóng nực xe buýt đưa chúng tôi đến khu nghỉ mát "Krasnovka" ở Yalta. Đây là khu nghỉ mát của TU Đoàn Komsomol, nơi người ta gửi đến nghỉ ngơi các đoàn viên Komsomol được tặng thưởng vì hoàn thành xuất sắc công việc của họ.

Sau vài giờ nữa là sẽ gặp biển. Tôi từng đọc những câu chuyện về biển của Stanyukovich, nhàn tản hồi lâu bên các bức tranh của Aivazovsky, nhưng tôi chưa bao giờ được nhìn thấy biển.

Cuối cùng thì chiếc xe buýt, sau khi lượn ngoằn ngoèo như phải vậy trên con đường nhựa bị nung nóng, đã đến trạm dừng "Pereval". Phía dưới lấp lánh chói mắt một cái gì đó rất rộng lớn và tươi sáng. Rộng lớn và chói sáng đến mức đôi mắt phải nheo lại.

Chúng tôi đến Yalta trễ, lúc chiều tối và gần như ngay lập tức đi ngủ. Không có bức điện tín nào gửi cho cha mình, tất nhiên là thế, nhưng khi ngủ thiếp đi, tôi thầm hứa ngay buổi sáng sẽ chạy đến phòng điện báo.

Phi công bao giờ cũng dậy sớm. Tôi dậy đầu tiên, đi ra ban công. Gần bờ biển mọc đầy cây vân sam, những cành cây rậm rạp xòe ra trông rất ngoạn mục. Và trải dài đằng sau nó là biển. Chỉ có điều biển hoàn toàn không phải màu xanh thiên thanh. Sát bờ biển nước trong suốt và màu xanh lá cây, tiếp theo màu xanh lá cây chuyển thành màu xanh lam, sau đó biển nhuốm màu xanh thiên thanh, xanh biếc, chuyển màu tối, đen sầm lại và trên đường chân trời, biển một lần nữa trở nên trong sáng, gần như không thể phân biệt với bầu trời.


Yalta. Mặt trời lên trên Biển Đen.

Xung quanh tất cả thật tuyệt vời. Giữa màu xanh lá cây lấp lánh là những vệt đỏ của mái ngói. Sắc xanh biếc của biển, sắc xám, đỏ, sắc xanh diệp lục, trắng - ánh sáng và bóng tối tạo ra một loạt các màu sắc, thật khó để ta rời mắt khỏi. Và quan trọng nhất, tất cả các sắc và màu ấy đang hiển hiện sống động. Bầu trời sáng tươi lên, chuyển đỏ thắm, rung rinh sắc vàng, biển đáp lại bằng vô vàn các sắc màu phản chiếu. Màu sắc ánh sáng lung linh không sao nắm bắt được, đan xen hòa trộn, bỗng chốc rực sáng hơn, một tông màu này chuyển sang tông màu khác, rồi đột nhiên chùm tia chói mắt đầu tiên của mặt trời vụt lên từ biển như một ngọn đuốc rực lửa khổng lồ. Mặt đất trở nên hân hoan ấm áp. Từ những mái nhà, từ cây, cỏ một làn hơi mỏng mảnh bốc lên. Lũ chim thức dậy. Ở đâu vẳng đến tiếng chuông. Buổi sáng đang tới.

Không, biển không lừa dối tôi! Trong cuộc sống, thậm chí nó còn đẹp hơn trong những bài thơ hay trên tấm toan của họa sĩ!

Ban đêm tôi tỉnh giấc bởi một tiếng động khủng khiếp. Bên ngoài cửa sổ, một cơn bão lốc hoành hành, mưa như thác đổ. Buổi sáng trên bãi biển hoang vắng và ngổn ngang. Biển trông lạnh lẽo, ảm đạm, nhưng dẫu sao vẫn tuyệt đẹp. Tôi không nhớ tôi ngồi bao lâu bên bờ nước. Có thể là một hoặc hai giờ đồng hồ, cho đến khi tôi nhận thấy rằng trên bãi biển không có ai ngoài tôi. Tim tôi thắt lại vì một nỗi lo lắng mơ hồ. Tôi vội vã về viện điều dưỡng.

Chẳng hiểu gì, tôi lao vào phòng mình. Giường chưa dọn, các bạn gái của tôi tại viện điều dưỡng Valya Ponomareva và Tamara Konchukhidze đang bận rộn gần những chiếc va li.
- Có chuyện gì vậy? Các cậu định đi đâu?
- Sao thế, cậu rơi từ mặt trăng xuống à? Chiến tranh rồi ...

* * *

Chiến tranh - một từ ngắn và khủng khiếp. Nó lập tức thay đổi tất cả xung quanh. Các đồng nghiệp của tôi trở nên nghiêm nghị và già dặn lên. Trong một khoảnh khắc, dường như những màu sắc tươi sáng của thành phố ven biển diễm lệ nhạt nhòa hẳn. Thậm chí cả viện điều dưỡng tuyệt đẹp của chúng tôi trông cũng khó chịu và u ám.

Đến trưa, chúng tôi được biết: trước hết người ta ưu tiên gửi các công dân nam làm nghĩa vụ quân sự đi đến nơi cư trú thường xuyên. Còn trường hợp với chúng tôi, các cô gái, chẳng có ai biết. Trong khi đó đi khỏi Yalta lại không hề dễ dàng.

Tôi được khuyên là nên liên hệ với văn phòng quân sự địa phương. Tôi đã làm ngay. Tôi đến gặp ủy viên quân sự, nói rằng tôi là nữ phi công, và tôi muốn ra mặt trận. Người ủy viên quân sự ném cho tôi một cái nhìn hoài nghi và hỏi giấy tờ bay đâu. Tôi hiện tại không thể trình chúng ra: giấy tờ đều để ở Moskva. Nghe xong, người ủy viên quân sự nhìn tôi từ đầu đến chân, và đề nghị tôi không phải không có ác ý, rằng lần sau hãy đến khi tôi đã lớn hơn...


Thử thách

Chỉ đến đầu tháng 7 tôi mới có cơ hội trở về Moskva. Cha không đón tôi tại nhà ga. Nhật ký cha để lại trên bàn cho tôi biết ông làm việc hai ca liên tiếp và sẽ về muộn. Cha hốc hác, gầy hẳn đi. Chúng tôi không thể nói chuyện gì trong đêm đó. Tôi thừa nhận tôi đã quyết định ra mặt trận.

- Được rồi, con gái, bây giờ có lẽ không thể khác - cha nói chậm rãi. - Sẽ khó khăn cho cha, nhưng cha biết - không thể khác. Con người phải sống theo lương tâm của mình. Đó - là điều chủ yếu...

Tôi biết ơn cha nhường nào vì cha đã hiểu tôi và không thuyết phục tôi điều ngược lại. Buổi tối hôm đó, tôi nhận ra một lần nữa rằng: cha đối với tôi trước hết là một người bạn lớn ...

Tôi cùng với với các bạn gái yêu cầu quận đội quận Leningrad gửi chúng tôi ra mặt trận. Nhưng ở Moskva trong những tháng đầu chiến tranh, các nữ phi công-vận động viên trẻ, trước tất cả các tuyên bố và yêu cầu ghi tên vào quân đội hiện dịch, họ chỉ nhận được lời từ chối. Tuy nhiên, chúng tôi không nản và tiếp tục viết thư lên các cấp trên khác nhau.

Chúng tôi luôn ghé vào quận đoàn Komsomol, như ghé vào ngôi nhà ruột thịt của mình, bởi vì các bí thư quận đoàn Natasha Lebedeva, Sergey Kosovsky, Nicholai Abryutin hiểu và ủng hộ chúng tôi. Họ đã giúp tôi hồi đó. Quận đoàn cử tôi đến làm phi công-huấn luyện viên tại câu lạc bộ HK Trung ương mang tên V.P.Chkalov.

Lúc đó tôi vừa bước sang tuổi mười tám. Hàng ngàn hàng ngàn đồng nghiệp của tôi đã bước vào chiến tranh trong năm bốn mươi mốt. Nhiều người đã không trở về nhà. Điều đó xảy ra đã lâu lắm rồi.

Nhưng dù có bao nhiêu năm tháng trôi qua, dù có bao nhiêu cơn bão đã làm rung chuyển hành tinh, qua bao năm đằng đẵng, giống như ánh sáng từ các ngôi sao xa xăm, tiếng nói của họ sẽ đến được với những người đang sống. Tiếng nói vang lên trước các cuộc tấn công và nổ súng, trước đợt tiến quân cuối cùng vào hư không và bất tử.

Trong những phút căng thẳng tinh thần tột độ, mới phát lộ đến tận cùng sự thật về tính cách và bản chất, sự thật bóc trần khỏi tất cả những gì bề ngoài, phô trương và xác định không thương xót giá trị của con người trong cuộc sống, mức độ can đảm, lòng trung thành với lá cờ của con người.

Còn lại một mình đối diện với lương tâm của chính mình, tôi đã phải làm một sự lựa chọn giữa cái sống và cái chết. Và sự lựa chọn đã được thực hiện một cách chính xác. Người thủy thủ trong chiếc áo sọc thủy binh đẫm máu xông lên phía xe tăng với quả lựu đạn cuối cùng. Các phi công chọn taran hơn là nhảy dù. Người lính nhận ra bên cạnh mình tất cả đã hy sinh, anh ta nghiến răng lại, một mình tiến về phía kẻ thù.

Sau lưng một người là Sevastopol, còn người kia - Stalingrad, người thứ ba - cánh rừng nhỏ mùa thu buồn bã vô danh với những cây bạch dương khoác tấm ren màu trắng. Đằng sau họ là toàn bộ nước Nga, thiếu nó với người lính sẽ không có mặt trời, không có tình yêu, không có cả bản thân cuộc sống. Mà tuổi của các đồng nghiệp của tôi vẫn còn quá nhỏ, các loài chim vẫn lảnh lót trên bầu trời, những người thân yêu vẫn chờ đợi, và rực sáng dưới những ngôi sao lạnh giá là những rạng đông màu anh đào, và họ rất khát khao muốn sống ...

Và khi bạn bắt đầu suy nghĩ về cuộc sống, những suy nghĩ đầu tiên của bạn - là suy nghĩ về mẹ. Bởi xuất phát từ mẹ là tất cả những con đường chúng ta đi dưới ánh mặt trời và số phận của chúng ta. Mẹ dạy ta đi bước đầu tiên trong đời, chúng ta tin cậy tâm sự với mẹ những giấc mơ, sự lo lắng, băn khoăn của mình. Và không có hạnh phúc nào lớn hơn với mẹ bằng sự nhận thức rằng những đứa con của mẹ đã trở thành những con người vững vàng. Những đứa con như thế không phản lại bạn bè, không lay chuyển trong giờ phút thử thách, vững vàng trong bước chuyển tiếp khó khăn.

Đoàn viên Komsomol Kazmin viết cho mẹ mình từ mặt trận tháng 10 năm 1942: "Mẹ ơi, đừng lật những tờ in các cuốn sách cổ rỏ sáp, đừng đi tới chỗ ông Arkhip Naidenov, đừng tìm với ông những phép mầu của các thánh. Nghe con nói: chúng ta sẽ chiến thắng cái chết không vì chúng ta là bất khả chiến bại, chúng ta chiến thắng nó bởi vì chúng ta đang đấu tranh không chỉ cho cuộc sống của mình. Chúng con ra chiến trường để bảo vệ điều thiêng liêng nhất trong những gì thiêng liêng - Tổ quốc. Khi con nói ra từ ấy, con muốn quỳ xuống".

Tổ quốc - đó là bản thân bạn và nhân dân, và tất cả những gì bạn sống và bạn thở, cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Khái niệm ấy hàm chứa trong bản thân nó tất cả, bao trùm tất cả và rất thiêng liêng.

Con đường của người lính khó khăn dốc đứng và không phải lúc nào cũng đầy nắng. Ai từng trải qua Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, đều biết rõ. Ngoài mặt trận chúng tôi không biết ai trong chúng tôi sẽ sống sót đến ngày chiến thắng. Nhưng lại biết chắc rằng nước Nga sẽ sống mãi. Và đó là điều chủ yếu. Nếu không có đức tin này mỗi chúng tôi sẽ chẳng là gì, thiếu nó không thể đứng vững.

Tình yêu đối với Đất Mẹ của người Nga vẫn liên tục chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác. Không ngẫu nhiên mà những lời của Piotr Đệ Nhất trước trận chiến Poltava lại vô cùng thân thiết với chúng tôi ngày hôm nay: "Về Piotr các người hãy biết - đối với ông ấy cuộc sống không đắt giá, chỉ cốt sao cho nước Nga sống mãi". Mỗi một người trong chúng ta hoàn toàn có quyền lặp lại những lời nói này trong những ngày đó.

* * *

Tại Moskva, một tin tức chờ đợi tôi - CLBHK quận Leningrad đã sáp nhập với CLBHKTU mang tên Chkalov. Các chuyến bay huấn luyện tại Moskva bị cấm, việc chuẩn bị di chuyển tới Vladimirovka, gần Stalingrad, đã bắt đầu.

Không lâu trước khi đi, tôi đã cảm thấy trên bản thân mình cú ra đòn tàn nhẫn của chiến tranh. Ngày 22 Tháng Bảy năm 1941 một vài chiếc máy bay của bọn Đức Quốc xã đã đột nhập được vào thành phố. Một trong những trái bom đã ném trúng căn nhà của chúng tôi. Nó bùng cháy ngay trước mắt tôi, còn tôi chỉ còn biết đứng và nhìn lửa xung quanh rú rít.

Tôi ở trong trạng thái đó bao lâu - tôi không nhớ. Ngọn lửa dần dần tàn, chỉ các tàn tích của ngôi nhà còn bốc khói âm ỉ. Mọi người lặng lẽ như chiếc bóng, lang thang khắp tàn tích đám cháy. Bầu trời thắm rực lên, một ngày mới bắt đầu. Lần cuối cùng tôi ngoảnh nhìn vào nơi mà chỉ vài giờ trước đây còn là nhà mình và đi bộ dọc theo phố. Đột nhiên bàn tay lớn của ai đó nhẹ nhàng đặt xuống đầu tôi.
- Không có gì đâu, con gái yêu, - tôi nghe giọng nói của cha mình - phải cứng rắn lên. Chúng sẽ phải trả giá gấp hàng trăm lần vì tất cả những tội ác này...

Ngày 25 tháng 7 năm 1941, tôi chia tay với cha. Tôi đi đến nơi gần Stalingrad.
Nhìn vào đôi mắt vô cùng yêu quý, làm sao tôi có thể nghĩ rằng tôi sẽ thấy cha lần này là cuối cùng.
- Hãy chăm sóc bản thân, Marinochka nhé. Hãy nhớ rằng - cha chỉ có một mình con.
- Cám ơn cha yêu quý!
Cha con tôi ôm hôn nhau ...

* * *

Đất nước đứng lên vào trận chiến đấu sống còn. Mặt trận ở khắp mọi nơi, không chỉ ở tuyến đầu, mà còn ở cả phía sau. Người ta sống bằng chỉ một suy nghĩ, một ham muốn - làm tất cả mọi thứ để giành chiến thắng!

Mặt trận của tôi mở trên bầu trời gần Stalingrad. Ở đây họ giao cho tôi một nhóm các học viên và nói: "Đấy hãy dạy đi!"
.......
« Sửa lần cuối: 19 Tháng Tám, 2015, 02:01:02 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #6 vào lúc: 19 Tháng Tám, 2015, 02:01:40 pm »

(tiếp)

Trên sân bay tập trung rất nhiều phi công-vận động viên và phi công tàu lượn có tiếng cũng như chưa có tiếng. Ở đó, tôi gặp Valerya Khomyakova, Maria Kuznetsova, Olga Shakhova và các phi công-giáo viên hướng dẫn bay khác, đã quen biết tại câu lạc bộ HK Leningrad ở Moskva. Gia đình thân thiết của các phi công lại tụ hội, và điều đó giúp cho công việc. Tình bạn, sự hiểu biết, điều mà bất cứ giây phút nào ta cũng có thể tìm thấy ở bạn bè lời khuyên và sự giúp đỡ đã truyền cảm hứng, tiếp thêm sự tự tin, sức mạnh cho ta. Điều đó rất quan trọng!

Các học viên của tôi lớn tuổi hơn tôi nhiều. Điều này, tất nhiên, làm tôi lo lắng. Làm việc với các bạn bè đồng nghiệp là một chuyện, làm việc với người lớn tuổi hơn - là chuyện khác. Và tôi không thể khoe khoang kinh nghiệm huấn luyện.

Họa sỹ Vladimir Ivanovich Pereyaslavets (1918 - ...) và bức tranh "Không chiến. Một chọi 20". Trong Thế chiến 2 V.I.Pereyaslavets là phi công tiêm kích phi đội 1, trung đoàn tiêm kích 119, sư đoàn KQ 104, tập đoàn quân KQ 1 đóng tại Arkhangensk. Ngoài cùng bên phải là tranh "Việt Nam. Chị Bí thư Đoàn Thanh niên", họa sĩ sáng tác trong dịp sang Việt Nam năm 1966 và nằm trong sê-ri tranh "Trên đất nước Việt Nam anh hùng". Ông là họa sĩ của xưởng họa quân đội Soviet mang tên M.B.Grekov, trung tá KQ, nghệ sĩ nhân dân CHXHCNXV LB Nga. Năm 1941 họa sĩ tình nguyện rời Viện Nghệ thuật Quốc gia Moskva khi đang học năm thứ 4, xin vào học CLBHK Moskva mang tên V.P.Chkalov dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Marina Chechneva, sau đó còn học tiếp các khóa phi công quân sự khác nhau. Là phi công quân sự bay trình diễn diễu hành, diễu binh của quân đội Soviet cho đến 1956.

Học viên là những người thuộc các ngành nghề khác nhau, trong số họ thậm chí có cả các họa sĩ Victor Pribylovskiy, Vladimir Pereyaslavets, Nikolai Gorlov. Thời đó lần đầu tiên tôi va chạm sát sàn sạt với dân ngành nghệ thuật, và tôi phải thú nhận lúc đầu tôi đã xử sự với họ có một chút định kiến nào đó. Tôi nghĩ rằng các phi công chỉ có thể là những người khỏe mạnh, dẻo dai, muốn vậy người ta phải có năng khiếu, phải có một nhu cầu nào đó từ bên trong. Còn ở đây, một đằng là bảng màu và cây cọ vẽ, một đằng - máy bay; ở về một cực là công việc sáng tạo ra cái đẹp, cực kia - cái chết, sự hủy diệt. Có thể đồng thời làm cả hai không? Họ có đủ sức mạnh và lòng can đảm cho điều này hay không? Nhưng cuộc sống, luôn phức tạp hơn và đa dạng hơn những hình dung ngây thơ của tôi. Chỉ sau đó tôi mới hiểu ra rằng vấn đề không nằm ở nghề nghiệp và thị hiếu: càng những con người có tính tổ chức ít hơn, họ sẽ càng thấy nhiều hơn, biết và hiểu nhiều hơn, họ sẽ càng căm thù cái chết hơn, cũng như tất cả những gì ngăn cản họ sáng tạo và trang điểm cho mảnh đất nơi mà họ đang sống.

Tôi đã trở thành quen thuộc đối với các nghệ sĩ "của mình", dần dần rồi họ cũng quen thuộc với tôi, chúng tôi kết bạn bè. Họ đều là những con người dễ mến. Và nếu tôi dạy họ lái máy bay, họ cũng đã cho tôi biết rất nhiều điều hữu ích, tuyệt vời.

Trong toàn bộ những năm tháng chiến tranh, Pribylovskiy, Pereyaslavets, Gorlov đều ở mặt trận, còn sau chiến thắng, họ đã tốt nghiệp trường mỹ thuật quân đội mang tên Grekov. Cả ba người đều được trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân nước CHXHCN Soviet Liên bang Nga.

... Tại địa điểm gần Stalingrad chúng tôi đào tạo phi công cho quân đội. Bầu trời ở đây vẫn còn bình yên, mọi người chưa phải hồi hộp chờ đợi tiếng còi báo động rú lên. Dẫu sao bóng tối của chiến tranh đang dần dần rơi xuống trên bầu trời Volga.

Trong những ngày này, tôi kết tình bạn đặc biệt tốt với Valerya Khomyakova. Bất cứ khi nào tôi nhìn thấy trên sân bay hình dáng quen thuộc của chị, tôi cảm giác trên vai có sự đụng chạm của một bàn tay thân thiện và tôi như được bổ sung thêm sinh lực.

Tại sân bay có rất nhiều người cộng sản. Và bây giờ, khi nhìn lại quá khứ, tôi có thể tự hào nói rằng trong những ngày tháng khó khăn, những người cộng sản đã tập hợp được xung quanh mình tất cả chúng ta. Và chúng tôi, các thành viên của đoàn Komsomol, hướng về những đồng chí lớn tuổi hơn, những người bạn trung thành và những người cố vấn.

Cuộc chiến tranh đã không lấy đi được tuổi trẻ của chúng tôi. Nó làm cho chúng tôi khôn ngoan hơn một chút, buộc chúng tôi phải trưởng thành nhanh hơn. Nhưng dù sao, chúng tôi vẫn rất cần sự giúp đỡ và tư vấn của những người lớn tuổi hơn.

Nếu các chuyến bay không ổn thỏa, nếu các học sinh "khó khăn" ngã lòng, nếu phát sinh những phức tạp không lường trước được trong đời bay vốn đã không dễ dàng của chúng tôi, trước hết tôi chạy đến xin lời khuyên của người bạn gái lớn tuổi hơn tôi là Valerya Khomyakova. Chị ấy lo mối lo của chúng tôi như thể đó là mối lo lắng của riêng chị, không tiếc thời gian, sức lực để giúp đỡ các đồng chí đồng đội, và nếu chuyện phụ thuộc vào chị, chị sẽ hoàn thành tất cả các yêu cầu của chúng tôi.


Trung úy phi đội phó trung đoàn nữ KQ tiêm kích PK 586 Valerya Khomyakova (thứ hai từ phải sang) cùng các đồng đội (từ trái sang) G.Burdina, T.Pamyatnykh và V.Lysitsyna (ngoài cùng bên phải), cạnh chiếc tiêm kích Yak-1 của mình, mùa thu năm 1942.

Gần Stalingrad, tôi lại gặp Olga Sushchinskaya. Tôi cùng chị học tại câu lạc bộ HK quận Leningrad của thủ đô, đồng thời cùng được nhận danh hiệu phi công-huấn luyện viên. Olga lớn tuổi hơn tôi, nhưng điều đó không ảnh hưởng gì đến tình bạn của chúng tôi. Chị luôn luôn là một người đồng đội tốt.

Tôi yêu say đắm ngành hàng không và không ngạc nhiên khi có người hy sinh nhiều cho nó. Nhưng tại sao Olga - một nữ diễn viên chuyên nghiệp, một vũ công ba-lê giỏi của Nhà hát Thủ đô - lại từ chối nghệ thuật để hiến thân hoàn toàn cho môn thể thao hàng không, tôi không thể hiểu nổi.

Tôi không gặp chị đã lâu, có lẽ gần nửa năm, và cuộc gặp gỡ đã mang cho tôi niềm vui lớn. Trong chuyến bay chung đầu tiên (chúng tôi phải bay rất nhiều "cho bản thân mình" - trong những ngày học chỉ huy), tôi và Olga đã quyết định nô đùa một chút trong không trung và thực hiện trên chiếc U-2 hơn một chục vòng xoắn ốc stopor tại không vực thuật lái. Chủ nhiệm bay V.M.Malyugin thấy ngay sự trẻ con của chúng tôi. Khi chúng tôi hạ cánh, ông khiển trách nghiêm khắc cả hai chúng tôi và trừng phạt bằng cách đình chỉ bay tạm thời chúng tôi. Olga cụt hứng. Nhưng ngay lập tức chị trấn tĩnh lại khi nhìn thấy tôi buồn như thế nào. Chị ôm lấy vai tôi, sau đó thực hiện động tác ba-lê "entrechat" trên không, gập người xuống trước mặt tôi trong một tư thế cúi chào duyên dáng. Chị chỉ dừng đùa giỡn sau khi bắt được tôi mỉm cười.

Tiếc thay, chẳng mấy chốc chúng tôi phải chia tay. Chiến tranh ném chúng tôi đi các phương trời xa nhau. Tuy nhiên, suốt bao nhiêu tháng năm tôi vẫn không quên người bạn gái. Đi trước thời gian, tôi muốn nói rằng tôi đã trải qua một niềm vui thật sự, khi tháng 4 năm 1953, tôi đọc trong tạp chí "Đôi cánh của Tổ quốc" một tin nhỏ: "Lần nhảy thứ 500 của vận động viên nhảy dù Sushchinskaya".

* * *

Chúng tôi lo lắng nhìn lên tấm bản đồ, cắm đầy những lá cờ. Các lá cờ từ từ, nhưng vẫn tiếp tục tiến, mà là tiến về phía đông, không sao lay chuyển được.

Đất nước đang trải qua thời kỳ khó khăn. Bọn phát xít tấn công trên một tuyến mặt trận rất rộng từ biển Baltic tới Biển Đen. Kẻ thù đang tiến về Moskva và Kavkaz, liên tục ép quân đội của chúng ta về phía sông Volga. Dù sao nhân dân vẫn không mất tinh thần, không thể hiện một dấu hiệu nhỏ nào của sự hoảng loạn. Mọi người đều hiểu: chiến tranh - đó không chỉ là chiến thắng.

Trong một số cuốn sách về thời gian khó khăn này, những thất bại của chúng ta trong những tháng đầu tiên của cuộc chiến tranh được cố gắng giải thích bằng sự hỗn loạn kinh hoàng xâm chiếm mọi người. Điều này không phải sự thật. Tôi, với tư cách một nhân chứng, xin nói rằng: chẳng có gì như thế. Có những thất bại tạm thời, có nỗi đau khủng khiếp. Chúng ta biết quá rõ rằng nếu không có nước Nga, không có chính quyền Soviet, trên trái đất này sẽ không có hạnh phúc, không có không khí, không có cuộc sống cho chúng ta.

Đối với những người xung quanh tôi, không tồn tại câu hỏi: cường quốc Soviet có sống được hay không? Chúng tôi biết: khi mà chỉ một trong chúng tôi vẫn còn sống - nước Nga vẫn, đang và sẽ sống.

Chúng tôi là đoàn viên Komsomol, và điều đó nói lên rất nhiều.
Theo sự huy động của UBTU Đoàn Komsomol, trong ba ngày chiến tranh đầu tiên đã có đến 900.000 đoàn viên Komsomol gia nhập quân đội, trong đó có 50.000 đoàn viên Komsomol của Moskva.

Trong 5 tháng đầu tiên của chiến tranh Đảng bộ TP Moskva đã gửi ra mặt trận 100.000 đảng viên và 260.000 ngàn đoàn viên Komsomol. Trong quá trình diễn ra Chiến tranh Vệ quốc tổ chức đoàn Komsomol Moskva không ngừng gửi ra mặt trận những lực lượng ưu tú nhất của mình. Trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa phát xít đã có đến bốn phần năm đoàn viên Komsomol tham gia.

Khoảng 100.000 các chàng trai và cô gái đã làm việc trên công trường xây dựng các tuyến phòng thủ gần Moskva.

Tôi tự hào vì tổ chức Komsomol của thủ đô do sự tham gia tích cực trong chiến tranh đã được tặng thưởng Huân chương Cờ đỏ. Tôi tự hào vì 490 đoàn viên Komsomol Moskva đã nhận được danh hiệu cao quý Anh hùng Liên Xô, hàng chục ngàn người đã được trao tặng huân huy chương. Tôi tự hào vì người Moskva đã có Victor Talalikhin, Zoya Kosmodemyanskaya, Nikolai Gastello, Aleksandr Matrosov và Timur Frunze, tên tuổi họ sẽ sống mãi trong ký ức nhân dân.

Cũng như thời của Nikolai Ostrovsky, chất thép Komsomol đã được tôi luyện trong ngọn lửa chiến trận, trong lao động căng thẳng và quên mình. Các chàng trai và cô gái, các học sinh của ngày hôm qua, cho đến lúc đó chưa hề biết đến cái đói, sự thiếu thốn, nhưng trong giờ phút thử thách đã cho thấy sức chịu đựng, sự kiên cường và đức tin vững chắc vào thắng lợi.

Đoàn Komsomol đã trao cho mỗi người trong chúng ta nhiều thứ. Lấy tôi làm ví dụ, Đoàn đã trao cho tôi không chỉ đôi cánh bay. Đoàn xác định vị trí của tôi trong đội ngũ, cho tôi cảm giác rằng tôi cần cho mọi người. Và cảm giác này, theo tôi nghĩ, bản thân nó là một trong những yếu tố tạo nên hạnh phúc của con người. Và nếu phân tích nghiêm túc và sâu sắc, nó gắn liền chặt chẽ với thời thanh niên Komsomol.

Ba mươi năm trôi qua kể từ sau chiến tranh. Chúng ta đã có thời gian để suy nghĩ, soi nhìn quá khứ trong tâm tưởng, rút ra kết luận cho bản thân về tương lai, và điều quan trọng nhất - ngày càng thấy số phận của bạn gắn với vận mệnh của Tổ quốc bền chặt như thế nào.

Tôi không thích những cuốn tiểu thuyết và vở kịch, trong đó chiến tranh được miêu tả như là một thời kỳ của đau khổ, tàn bạo, sai lầm. Tôi không tin những cuốn sách như vậy, bởi vì chính tôi cũng là một người lính, đã trải qua nỗi cay đắng của sự mất mát và nỗi đau đớn vì buộc phải rút lui, nhìn thấy người Soviet lầm than điêu đứng.

Nhưng tôi đã nhìn thấy chiến thắng. Tôi nhìn thấy kỳ tích hằng giờ hằng phút, không gián đoạn theo thời gian. Tôi nhìn thấy ý thức trách nhiệm đối với số phận của nước Nga được nâng lên và thanh lọc con người.

Ở đó, dưới lửa đạn, con người bị bóc trần. Nó hoặc sẽ trở thành anh hùng hoặc là kẻ hèn nhát. Can đảm hay yếu ớt. Điều chủ yếu, ánh sáng và bóng tối đã được phác họa rõ ràng và mãnh liệt. Tôi có thể nói với trách nhiệm đầy đủ rằng chính ánh sáng tâm hồn này soi sáng con người Soviet, xác định kết quả cuộc chiến đấu với kẻ thù.

Nhân dân Nga ngày ấy đã bước lên những đỉnh cao đạo đức khổng lồ. Và họa sĩ, người không để ý thấy điều đó, sẽ không bao giờ có thể trình bày chiến tranh một cách đúng đắn.
......
« Sửa lần cuối: 20 Tháng Tám, 2015, 12:45:25 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #7 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2015, 12:40:44 am »

(tiếp)

Chúng tôi - những người lính!

Ngày ngày qua. Bay, phân tích, học lý thuyết. Vào buổi tối mệt quá mà ngủ thiếp đi ngay sau khi mới đặt được đầu mình lên chiếc gối. Còn buổi sáng, lúc vừa bình minh, lại trên đôi chân. Và lại bay, bay, bay và bay ...

Một ngày tháng Mười tin tức truyền đến Vladimirovka làm rung chuyển tất cả các nữ phi công: Raskova được giao phó nhiệm vụ thành lập đơn vị nữ không quân.


M.M.Raskova. Ảnh Ria Novosti.

Khao khát thiêng liêng của chúng tôi muốn tiêu diệt kẻ thù trong cùng đội hình chiến đấu với nam giới đã trở thành sự thật. Các cô gái phi công hét vang "Ura!", họ ôm chầm lấy nhau và chúc mừng nhau.

Một vài ngày sau đó, chúng tôi mới rõ tất cả mọi chuyện. Hóa ra kể từ khi bắt đầu chiến tranh, hàng ngày có hàng chục lá thư của các nữ phi công từ Osoaviakhim, hạm đội HKDD và đơn giản là từ những cô gái đang làm việc trong các xí nghiệp hàng không khác nhau, gửi về Trung ương Đảng, Ủy ban Trung ương Đoàn TNCS Lenin và các tổ chức khác, yêu cầu gửi họ ra mặt trận.

Đảng và chính phủ đã đáp ứng nguyện vọng của những người Soviet yêu nước, và trong tháng Chín, đã quyết định việc thành lập các trung đoàn nữ không quân, xương sống của chúng cần phải tập hợp và hình thành nên từ các nữ phi công-vận động viên thể thao, và các phi công HKDD.

Cùng với các trợ lý của mình - người nhiều lần lập kỷ lục nữ thế giới Vera Lomako, các nữ phi công nổi tiếng, các chị em Tamara và Militsya Kazarinova, các chính ủy Evdokia Rachkevich và Lina Eliseeva, cùng các cán bộ chính trị và các phi công nhiều kinh nghiệm khác - Raskova đã lập nên một danh sách các phi công nữ, tìm kiếm họ trong hạm đội HKDD, tại các câu lạc bộ hàng không, trong ngành công nghiệp hàng không.

Tên của Raskova bao phủ bởi huyền thoại, và hàng trăm phụ nữ từ khắp mọi miền đất nước đã đáp lời kêu gọi của chị.

Ngay sau đó, người ta gọi về Moskva một số nữ phi công của chúng tôi. Những người đầu tiên lên đường là Valerya Khomyakova, Olga Sakhova, Maria Kuznetsova, Raisa Belyaeva, những người có nhiều kinh nghiệm trong nghề bay. Chúng tôi, những nữ phi công trẻ, nhìn họ ghen tị và khi nói lời tạm biệt, van vỉ xin họ nói chỉ vài lời nho nhỏ vì chúng tôi.

Sự hình thành đơn vị nữ không quân ban đầu diễn ra tại Moskva. Liên tục đến với Raskova là các cô gái từ cơ sở sản xuất, từ các viện, các trường kỹ thuật. Đứng trong cùng hàng với những phi công giàu kinh nghiệm là những con người còn rất trẻ, nhưng có trái tim dũng cảm và tinh thần kiên cường. Hầu hết các cô gái không chỉ chưa bao giờ bay, mà thậm chí còn chưa biết máy bay. Trong những điều kiện đó rất khó thành lập được trong một thời gian ngắn các đơn vị quân đội có khả năng chiến đấu.

* * *

Hàng trăm đoàn viên Komsomol tập trung tại Trung ương Đoàn Komsomol ngày 10 tháng 10 năm 1941. Một hàng dài xếp hàng tới chỗ bộ phận nhân sự.

Ekaterina Ryabova, lúc đó là sinh viên Đại học Moskva, kể với tôi sau này:
Chúng tôi đến Trường Đoàn Komsomol. Ở đó họ bắt đầu thuyết rằng vào quân đội là rất gian khổ, thậm chí vượt quá sức chịu đựng. Sau đó họ liên tục quan tâm đến việc chúng tôi đi, bỏ lại các bậc cha mẹ ở nhà có khó khăn không. Những người lưỡng lự ngay lập tức bị xóa khỏi danh sách ... Tôi tỏ ra cương quyết và sẵn sàng chịu đựng bất kỳ gian khó nào, chỉ cần được ra mặt trận. Những người còn lại trong danh sách được mời đến Trung ương Đoàn Komsomol. Tại đây người ta cũng không khuyến khích. Tuy nhiên, những người vẫn vững vàng sẽ được giữ lại. Người ta ghi danh chúng tôi là "những quân khí viên" và nói rằng người chỉ huy sẽ là Marina Raskova. Không ai biết "những quân khí viên" là gì, nhưng ngay lập tức đồng ý ...

Điểm tập hợp đơn vị nữ không quân tân lập là Học viện Không quân mang tên Zhukovsky. TU Đoàn Komsomol gửi đến đây các cô gái gần như từ khắp nơi trên đất nước, từ hậu phương xa xôi cho đến từ các đơn vị đang ngoài mặt trận, các nữ phi công đến đây phải hình thành nên hạt nhân chiến đấu của trung đoàn nữ không quân.
* * *

Tôi vẫn đang tham gia vào việc đào tạo các phi công cho quân đội. Từ các bạn gái đầu tiên gia nhập đơn vị nữ không quân chẳng thấy có tin tức gì về. Tôi đã khá thất vọng. Duzhnov Matsnev mỗi khi gặp chỉ nhún vai, làm cho tôi hiểu rằng họ không thể giúp đỡ tôi được gì. Cuối cùng bức điện chờ đợi bấy lâu đã đến: "Chechneva được phái đến thuộc quyền Raskova".

Tôi đi đến Engels.
Thành phố Engels. Tại đây bắt đầu tình bạn của tôi với rất nhiều cô gái, với những người mà sau đó chúng tôi cùng đi với nhau một chặng đường dài trong chiến tranh. Hầu hết các cô gái (ở đây chỉ nói đến những người sau này trở thành quân nhân trung đoàn của chúng tôi) đã quen biết nhau - hoặc gặp nhau từ trước, hoặc cùng học với nhau. Nadia Popova, Larisa Rozanova, Sonia Burzaeva, Katya Piskareva trước chiến tranh đã tốt nghiệp trường hàng không Kherson của Osoaviakhim và làm phi công-giáo viên hướng dẫn. Sima Amosova, Dina Nikulina, Olga Sanfirova, Vera Tikhomirova đã bay trên các tuyến đường bay thời bình của HKDD. Nhiều nhất là nhóm dân Moskva. Irina Rakobolskaya, Anya Elenina, Katya Ryabova, Zhenya Rudneva, Dusya Pasko, Rufa Gasheva, Polina Gelman, Lelia Radchikova là các sinh viên Đại học Tổng hợp Moskva. Galia Dokutovich, Natasha Meklin và Raia Aronova đã học tại học viện hàng không. Còn Tanya Sumarokova và Katya Dospanova chuẩn bị trở thành bác sĩ.

Vừa mới đến đơn vị nữ không quân tân lập, trong tôi lại thức dậy giấc mơ cũ trở thành một phi công tiêm kích. Tôi cảm thấy cần có được một cuộc hẹn với Raskova - và tôi sẽ có thể xin chị ấy ủng hộ yêu cầu của tôi.

Cuộc gặp với Raskova diễn ra sớm hơn tôi tính. Một lần, đi bộ dọc hành lang, tôi nghe những lời nói với tôi:
- Bạn cũng ở đây à? Nào, xin chào, cô bạn phi công tiêm kích!

Tôi quay lại. Khuôn mặt dễ thương và cởi mở quen thuộc, cặp mắt dịu dàng và sáng rỡ sthông minh, nét kẻ lông mày dứt khoát cương quyết, vầng trán cao đẹp đẽ, tóc chải phẳng lật ra sau, và búi lại thành một búi tóc căng phồng.
- Marina Mikhailovna! Đồng chí thiếu tá, - tôi lập tức sửa ngay - phi công-huấn luyện viên Chechneva có mặt thuộc quyền điều động của đồng chí.
Raskova mỉm cười và chìa tay cho tôi.
- Rất vui được gặp bạn. Bạn đã lớn lên, đã trưởng thành. Tốt. Nào, hãy vào chỗ tôi - chị nói, mở cửa phòng làm việc.

Marina Mikhailovna hỏi tôi hồi lâu về công việc trong quá khứ. Biết tôi đã bay đêm, chị nhướng mày ngạc nhiên:
- Thế cơ à? Thật tuyệt, chúng tôi đang thực sự cần những phi công như vậy.
- Để cho LLPK ư? - tôi vui mừng hỏi, nghĩ ngay đến không quân tiêm kích.
- Không chỉ cho LLPK. - Raskova dừng lại và đột nhiên đề nghị: - Bạn có muốn bay đêm trên những chiếc máy bay ném bom tầm ngắn không?
Tôi chưa lập tức hiểu lời chị.
- Thế có loại máy bay như vậy sao?
- Chắc chắn rồi. Và bạn biết rõ chúng đấy, chỉ là chưa đoán ra thôi. Nó chính là chiếc U-2 của bạn.

Khuôn mặt tôi nghệt ra.
- Sao nào, thật đáng thất vọng. Một công việc rất thú vị. Sẽ thành lập một trung đoàn đánh đêm, trang bị U-2. Mục đích của nó - yểm trợ trực tiếp cho bộ đội mặt đất trên tiền duyên. Khả năng cơ động tốt của loại máy bay này, tính đơn giản trong sử dụng, dễ điều khiển sẽ cho phép nó thực hiện các hoạt động như vậy, mà các máy bay tốc độ cao hoặc máy bay hạng nặng nói chung không phù hợp. Ví dụ, ném bom ở độ cao thấp các hỏa điểm của kẻ thù, ném bom hậu phương gần của chúng và liên lạc, trinh sát. Rất nguy hiểm, nhưng thú vị! Tôi không vội cần bạn trả lời. Hãy suy nghĩ kỹ, và sau đó hãy đến với tôi.

Tôi đồng ý không chút do dự, vì bị lôi cuốn bởi câu chuyện của chị. Và chỉ khi tôi ra ngoài cửa, tôi mới buồn bã nhớ lại những chiếc máy bay tiêm kích. Nhưng tôi không khó chịu. Trước mặt tiền tuyến đang chờ tôi. Và đó nói cho cùng là điều quan trọng nhất ...

* * *

Nhóm hình thành các đơn vị không quân nữ ở thành phố Engels được liệt kê với tư cách là đơn vị hàng không № 122. Người bổ sung tiếp tục tới đơn vị. Thông qua hội đồng tuyển chọn có đến hơn một ngàn cô gái.

Tới Engels toàn bộ nhân viên được chia thành các nhóm. Nhóm bay gồm các nữ phi công đến từ các câu lạc bộ HK và hãng HKDD, nhóm hoa tiêu - các hoa tiêu đã có bằng tại trường HK của Osoaviakhim và các sinh viên đại học. Những người có học vấn về kỹ thuật, được ấn định vào các nhóm cơ khí HK về vũ khí HK, máy móc HK và khai thác sử dụng.

Theo mệnh lệnh của Tư lệnh Không quân đất nước, tướng A.A.Novikov, trong thời hạn sớm nhất cần thành lập không phải một, như dự tính ban đầu, mà là ba trung đoàn KQ: trung đoàn tiêm kích 586, trung đoàn ném bom 587 và trung đoàn ném bom đêm 588. Số hiệu trung đoàn đã tồn tại, nhưng cho đến tháng 2 năm 1942 bản thân các trung đoàn trên mới được liệt kê trong mệnh lệnh. Sẽ phải chọn người theo kiến thức, kinh nghiệm, khả năng của họ, đào tạo họ, giúp họ làm chủ khí tài quân sự, và quan trọng nhất - giáo dục lại họ, để chấm dứt các tâm trạng kiểu thời bình, thiết lập trật tự quân sự, thấm nhuần kỷ luật nghiêm ngặt. Đáng chú ý về vấn đề này là mệnh lệnh đầu tiên kể từ khi lưu trú tại Engels "Mệnh lệnh của ban tham mưu các trung đoàn đặc biệt ngày 25 Tháng 10 năm 1941", nói thế này:

Tôi ra lệnh cho tất cả các quân nhân: trước khi tắm hãy đi cắt tóc.
Tôi quy định cho tất cả quân nhân một kiểu tóc duy nhất: phía trước - ngang tai, và phía sau cắt kiểu polka - ngang gáy.

Chỉ được để các kiểu tóc khác khi có sự cho phép của cá nhân tôi trong từng trường hợp riêng.
Chủ trì tập trung các trung đoàn đặc biệt, Anh hùng Liên Xô thiếu tá Raskova.


Marina Mikhailovna Raskova đã phải bắt đầu từ những điều nhỏ nhặt như thế đấy.

* * *

Các khóa học các chuyên ngành kỹ thuật-bay trong thời bình dự kiến diễn ra ba năm, bây giờ phải hoàn thành trong một khoảng thời gian bị ép lại cực ngắn. Nếu xét đến việc không ai trong số chúng tôi từng quen thuộc với bất kỳ chiến thuật, công tác hoa tiêu nào, không biết gì về trang bị ném bom và bắn súng, cũng không quen với các kỷ luật khác, mà thiếu kiến thức về chúng không thể xoay sở được trong tình huống chiến đấu, ta có thể tưởng tượng gánh nặng lớn đến nhường nào đã được đặt trên vai của các cô gái-tình nguyện viên.


Mệnh lệnh của I.V.Stalin về thành lập các đơn vị nữ KQ

Đặc biệt khó khăn là đối với các hoa tiêu. Trước chiến tranh, các nữ hoa tiêu trong hàng không rất ít. Mà khi đó, trong năm bốn mươi mốt, các cô gái, phần lớn hôm qua còn là học sinh nữ và công nhân nữ, trong một thời gian ngắn sẽ phải làm chủ các công việc về dẫn đường hàng không và ném bom. Nhóm hoa tiêu đông quân nhất, sự quan tâm của tổ chức Đảng và Đoàn Komsomol cũng như các cán bộ chính trị là nhằm vào đây.

Thời gian làm việc là 13 giờ một ngày, và thêm vào đó, sau bữa ăn trưa phải học mã Morse - Polina Gelman nhớ lại. - Nhưng chúng tôi ở không có gì mà không vượt qua, vì tất cả chúng tôi đến đây một cách tình nguyện, không ai bắt phải ra mặt trận, do đó tất cả các nỗ lực giành cho học tập, mong muốn càng nhanh càng tốt để được ra tiền tuyến.

Làm việc nhiều, nhưng không ai phàn nàn. Mặc dù chúng tôi chưa tuyên thệ quân sự, mỗi người vẫn thầm coi mình là một người lính từ giờ đầu tiên của chiến tranh. Cảm giác này được các đồng chí lớn tuổi - các chỉ huy và cán bộ chính trị, duy trì cẩn thận.

Người tổ chức huấn luyện chiến đấu, cố vấn tinh thần của các phi công nữ là thiếu tá M.M. Raskova. Chị dành rất nhiều thời gian kiểm tra học tập, tham gia các kỳ thi, kiểm tra trong nhiều môn học, không chỉ dạy, mà còn thường xuyên tự mình nghiên cứu.

* * *

... Ngày và đêm máy bay gầm rú trên phi trường. Mặt trận đang cần các phi công. Do đó, chúng tôi không tiếc sức, thao luyện đi thao luyện lại các chuyến bay chiến đấu.
Chúng tôi không dễ dàng và không ngay lập tức lấy được các đường bay xác định, các đường tiếp cận mục tiêu trong bóng tối dày đặc, khi bầu trời phủ đầy mây, và không thể nhìn thấy cả các ngôi sao, cả kính ngắm, các cuộc ném bom có ngắm ném trên thao trường, chỉ được rọi sáng vài phần giây bởi các trái bom pháo sáng.

Một lần tôi trở về từ một chuyến bay đêm trong tâm trạng chán nản - hạ cánh rất không thành công, suýt nữa làm hỏng máy bay.
Sau khi nhảy xuống đất, tôi tức giận bảo người bạn gái:
- Đừng tắt đèn đêm của tớ! Cậu thấy đấy, hạ cánh kém thế nào ...
- Cần phải làm thế để đi ra, Chechneva! - Tôi nghe thấy một giọng nói lanh lảnh của Raskova vang lên trong bóng tối.
- Dẫu sao tôi cũng không đi ra! - Tôi bướng bỉnh đứng tại chỗ của mình. Marina Mikhailovna nhìn tôi chăm chú.
Tôi cụp mắt xuống.
- Chuyện cô ấy sẽ qua thôi, thưa đồng chí thiếu tá, - Nadia Popova đỡ cho tôi.
- Vậy, Chechneva, hãy bình tĩnh đi, đừng bực bội ... Ngẩng cao đầu lên! Sau chiến tranh, tôi muốn xem cậu có bao nhiêu huân chương. Sẽ không ít hơn hai!
- Chắc vậy, và sẽ là hai!
Raskova phá lên cười:
- Ba cũng có thể chứ. Còn nếu ít hơn hai đừng có đến!...

Marina Mikhailovna quay đi và bước sang chỗ máy bay khác. Tôi nhìn thấy chị với một sự nhẹ nhàng đáng ghen tị nhảy lên trên cánh máy bay và bắt đầu giải thích một điều gì đó cho cô phi công.

Raskova luôn như vậy. Tại bất kỳ thời gian nào trong ngày chị luôn ở bên cạnh các cô gái của mình: phân tích chuyến bay, bay, nói chuyện với mọi người, ra các hướng dẫn, chăm chú quan sát cấp dưới, dạy họ. Chị dường như không bao giờ nghỉ ngơi, trong mọi trường hợp chỉ luôn luôn thấy chị đang làm việc. Chúng tôi không nhận thấy ở Marina Mikhailovna bất cứ dấu hiệu nào của sự mệt mỏi. Chị biết cách kiểm soát bản thân. Chúng tôi tất cả đều nghĩ rằng người phụ nữ này sở hữu một nguồn năng lượng chưa từng có.
........
« Sửa lần cuối: 21 Tháng Tám, 2015, 12:28:44 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #8 vào lúc: 21 Tháng Tám, 2015, 12:28:13 am »

(tiếp)

* * *
Khó khăn không phải chỉ riêng tôi. Zhenya Rudneva thú nhận trong nhật ký:
Tôi ngồi ở máy điện báo mã Morse và buồn bã. Không có gì hay với tôi cả: với các con số vẫn thế nào đó, còn với các chữ cái tôi không thể xử lý được, chúng tôi đang nhận qua radio, chỉ bằng tai. Bây giờ chúng tôi học các ký hiệu liên lạc vô tuyến, vì vậy tôi có thể sẽ luôn luôn báo cáo rằng tôi nghe rất kém, không hiểu và phát còn chậm hơn. Và đã xảy ra chuyện thật thú vị: những âm thanh ấy ngay lập tức tôi đã làm chủ được. Ôi tốt rồi, tôi đã xử lý được.

Các giờ học hàng ngày đòi hỏi sự dồn sức tối đa. Và ở đây còn có những lo lắng thường xuyên, trực xuất kích trong đêm mưa tuyết, sưởi ấm động cơ trước khi cất cánh, những cuộc tiễn đưa ngắn và sự chờ đợi hồi lâu những người bạn gái từ các chuyến bay huấn luyện trở về...


Đội ngũ kỹ thuật viên của trung đoàn nữ KQ ném bom đêm 588 (trung đoàn cận vê 46 Taman), năm 1943.

Mùa đông năm đó khắc nghiệt bất thường. Sương giá bốn mươi độ âm. Tất cả đều nếm trải - cả chúng tôi, các nữ phi công và hoa tiêu. Nhưng đặc biệt kiên cường là các nhân viên kỹ thuật và quân khí. Trong thời gian bay huấn luyện suốt từ bình minh đến hoàng hôn, các cô gái đều ở tại sân bay. Họ chuẩn bị máy bay trong mưa tuyết và bão tuyết. Những khuôn mặt đông cứng trước gió, những đôi tay cứng đờ vì kim loại ngay cả trong đôi găng tay ấm, nhưng những người trợ giúp trung thành của chúng tôi chưa đi khi nào họ chưa kiểm tra xong mỗi con ốc, vít. Và tôi không nhớ có trường hợp nào vào thời đó, động cơ không làm việc do lỗi kỹ thuật ở máy bay. Chính ở đây, trong thử thách khắc nghiệt, đã nảy sinh tình bạn thắm thiết giữa chúng tôi với các chuyên gia phục vụ mặt đất và niềm tin tưởng vững chắc vào họ.

Đến đầu tháng 2 năm 1942 trình độ đào tạo của các thành viên đơn vị hàng không nữ cho phép chuyển sang điểm mấu chốt - hình thành, đào tạo và thành lập các trung đoàn nữ không quân.

Do tính chất của công tác huấn luyện chiến đấu mà sự hình thành các trung đoàn đã diễn ra trong các thời hạn khác nhau. Việc đầu tiên là người ta thànhị  lập trung đoàn nữ KQ tiêm kích 586, người chỉ huy được bổ nhiệm làm trung đoàn trưởng là một trong những phi công giàu kinh nghiệm nhất của nước ta thiếu tá Tamara Aleksandrovna Kazarinova. Trung đoàn được biên chế trang bị loại máy bay tiêm kích mới nhất vào thời điểm đó do A.S.Yakovlev thiết kế - tiêm kích Yak-1. Trung đoàn tiêm kích được kiện toàn và huấn luyện trước các trung đoàn khác, và nó nhập vào biên chế sư đoàn 144 của LL Phòng không thành phố Saratov. Ở đó, nó được một thử lửa, ở đó bắt đầu con đường chiến đấu của nó.

Trung đoàn thứ hai được thành lập là trung đoàn không quân ném bom đêm 588, tất cả các vị trí đều do phụ nữ đảm nhiệm. Nó gồm hai phi đội. Được giao nhiệm vụ chỉ huy trung đoàn là Evdokia Davydovna Bershanskaya.


Trung tá trung đoàn trưởng trung đoàn nữ KQ ném bom đêm cận vệ Taman 46, Evdokya (Bershanskaya) Botcharova (1913-1982)

Là một phi công xuất sắc, chị đã làm việc nhiều năm ở trường hàng không Bataisk, biết cách nhanh chóng có tiếng nói chung với mọi người. Ngay trong năm 1937, do công tác giảng dạy thành công mà Bershanskaya được trao tặng Huân chương "Danh dự".

Trước chiến tranh, Evdokia Davydovna làm việc trong đơn vị ứng dụng đặc biệt. Đơn vị này phục vụ các nông trang tập thể, bay trên các tuyến chở khách và thư tín, đồng thời là đại biểu Hội đồng thành phố Krasnodar và là đảng ủy viên thành phố, chị đã tiến hành công tác chính trị-xã hội rộng lớn.

Thiếu tá M.M.Raskova và thượng úy E.D.Bershanskaya gắn bó với nhau bằng một tình bạn mạnh mẽ và chân thành. Ngay từ đầu, Marina Mikhailovna đã tiếp Evdokia Davydovna một cách giản dị và đầm ấm, như thể họ là những người quen cũ. Hai người nữ đảng viên cộng sản đó là một ví dụ mẫu mực cho tất cả các cô gái trẻ chúng tôi.

Tham mưu trưởng trung đoàn là cựu sinh viên năm thứ tư khoa Toán Cơ Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva Irina Rakobolskaya.


Tham mưu trưởng trung đoàn nữ KQ ném bom đêm hạng nhẹ 588 (trung đoàn cận vê 46 Taman) Irina Viatcheslavovna Rakobolskaya (1919-...). Sau này là tiến sĩ toán lý bộ môn tia vũ trụ và vật lý vũ trụ khoa Vật lý MGU.

Tôi được bổ nhiệm tham mưu trưởng, - chị nhớ lại sau đó. - Chỉ huy trung đoàn E.D. Bershanskaya đi đến với huân chương trên ngực và cấp bậc thượng úy - và tôi đến với chị để làm tham mưu trưởng của chị! Lúc đó tôi chưa phong quân hàm, thậm chí không hình dung được mình phải làm gì. Tôi nhớ, là cần làm giấy nhận xét phong quân hàm, nhưng do lần đầu tiên mới làm, cho nên tôi đã phải viết lại chúng đến năm lần. Trong mệnh lệnh số 1 đã xác định rằng chúng tôi đã bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ. Mệnh lệnh thứ hai phê chuẩn việc phân phối quân nhân về các kíp bay và bổ nhiệm các cán bộ phụ trách. Lúc đầu chúng tôi cảm thấy lúng túng: mới đây tất cả còn trên cùng một vị trí như nhau, nay đột nhiên tôi - là cán bộ chỉ huy. Tôi đi vào phòng - tất cả phải đứng lên, phải xin phép, và v.v. Không phải ngay một lúc mà tôi làm quen được với hoàn cảnh mới, và đã làm chủ được tình thế một cách hoàn toàn không dễ dàng.

Cựu kỹ sư trường bay Irkutsk Sophia Ozerkova, một chuyên gia có tài năng, hiểu biết công việc của mình, được bổ nhiệm làm kỹ sư của trung đoàn. Chị đã trực tiếp đào tạo các kỹ thuật viên ngay bên máy bay, là người rất công bằng và đòi hỏi cao, không cho phép nhượng bộ. Bởi vì độ tin cậy của máy bay trong chuyến bay phụ thuộc vào việc kỹ thuật viên làm việc trên mặt đất như thế nào. Dưới quyền Sophia Ozerkova có các chuyên gia giàu kinh nghiệm như kỹ sư của trung đoàn phụ trách vũ khí trang bị Nadezhda Strelkova và kỹ sư phu trách thiết bị điện chuyên ngành Klavdya Ilyushina. Hoa tiêu của trung đoàn là Sophia Burzaeva. Họ, tất cả, đều là các chuyên gia xuất sắc trong lĩnh vực của họ và là những người chỉ huy có uy tín.

Đặc biệt chúng tôi rất vui mừng khi biết rằng chính ủy được bổ nhiệm là Evdokia Yakovlevna Rachkevich. Từ rất sớm, giữa chúng tôi với nhau đã bắt đầu gọi bà là "mẹ chúng ta". Nghe thì có vẻ mùi mẫn, nhưng Rachkevich thực sự đối với chúng tôi không chỉ là một người chỉ huy, một đồng đội lớn tuổi, mà còn là một con người thân yêu, gần gũi như ruột thịt. Với bà, chúng tôi có thể chia sẻ bất kỳ suy nghĩ nào dù sâu kín nhất, cũng như bất kỳ cảm xúc nào của mình. Chúng tôi tin tưởng thổ lộ với bà, thậm chí cả những bí mật của mình.


Chính ủy trung đoàn ném bom đêm cận vệ 46 Taman trung tá E.Ya.Rachkevich (1907-1975)

Evdokia Yakovlevna có kinh nghiệm sống tuyệt vời. Là con gái của một gia đình nghèo, bà sớm trải qua những khó khăn và đau buồn. Ngay từ thời thơ ấu, Dusya đã nổi bật bởi tính cách mạnh mẽ một cách đáng kinh ngạc đối với một đứa trẻ. Cô gái mười một tuổi được các chiến sĩ du kích tin cậy, giao cho một số nhiệm vụ. Cha bà, vì sợ bị trả thù, đã la mắng con gái. Nhưng Dusya không từ bỏ công việc của mình. Có một kẻ phản bội đã tố cáo với quân Petliura về đứa trẻ. Một lần những tên cướp đột nhập vào nhà cha mẹ cô, đập phá tanh bành, và bắt cô bé mang đi. Trong khi thẩm vấn, cô bé bị đánh đập, họ cố gắng tìm hiểu cô bé biết gì về quân du kích. Dusya im lặng.

Hai tuần sau đó, quân du kích giải thoát được cô bé phụ tá trẻ của mình. Dusya trở về nhà. Cha mẹ cấm cô giao tiếp với quân du kích. Nhưng cô gái lần này cũng không nghe. Chẳng bao lâu sau, cô bé đã giúp đỡ du kích theo dõi và tiêu diệt băng đảng phỉ.

Năm 1920 Dusya mãi mãi rời khỏi mái nhà ruột thịt và trở thành con nuôi của một chi đội biên phòng. Ở đây cô bé vào đoàn TN Cộng sản, sau đó vào Đảng, từ đó đến Kiev học khoa pháp lý. Sau khi tốt nghiệp, cô bắt đầu làm thẩm phán tại khu Kamenetz-Podolsk, nơi trong nhiều năm cô được bầu làm ủy viên Văn phòng Khu ủy.

Kể từ thời điểm đó, Evdokia Yakovlevna liên tục ở trong dòng chảy sôi động của cuộc sống. Năm 1932, chị vào phục vụ trong quân đội tại lực lượng kỵ binh. Sau đó, nhận được lệnh đi học tại Học viện Chính trị quân sự mang tên V.I.Lenin, tốt nghiệp xuất sắc và trở thành nữ giáo viên của trường thông tin quân sự tại Leningrad. Chiến tranh bùng nổ khi bà đang học dự bị Học viện. Đảng gửi người cộng sản Rachkevich đi làm chính ủy đoàn chuẩn bị thành lập đơn vị nữ không quân. Sau đó, bà trở thành chính ủy trung đoàn máy bay ném bom đêm.

Từ những ngày đầu tiên làm việc ở trung đoàn Evdokia Yakovlevna đã cố gắng đưa vào tập thể của chúng tôi một bầu không khí thân mật và thật sự chân thành. Và bà đã thành công.


Seraphima Tarasovna (Taranenko) Amosova (1914-1992), người Siberia. Thợ tiện bậc 4, phi công HKDD chuyên bay tuyến Moskva-Irkutsk trước khi gia nhập quân đội. Thiếu tá cận vệ trung đoàn phó trung đoàn nữ KQ ném bom đêm cận vệ 46 Taman, phụ trách huấn luyện bay.

Ngay sau đó, chúng tôi được phân về các kíp phi hành đoàn. Cùng với hoa tiêu Olga Kliueva tôi nhập vào phi đội của cựu nữ phi công hạm đội HK dân dụng Seraphima Amosova. Trong con người Amosova tất cả đều tràn đấy sự khoan hậu. Ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên người ta đã đoán ra sức mạnh nội tâm tuyệt vời trong chị. Không nhiều lời, điềm đạm, Amosova không bao giờ cao giọng, không bị chọc giận, làm việc không hấp tấp. Đôi mắt xám đẹp tuyệt của chị luôn luôn bình thản và chăm chú, nhưng đôi khi cặp mắt ấy trở nên lạnh lùng, sắc sảo. Chỉ có đôi mắt phát lộ tâm trạng của chị, còn bản thân chị vẫn tiếp tục điềm đạm, chín chắn như cũ. Và tất cả chúng tôi, các cấp dưới của chị biết rõ: bạn mắc lỗi đi - chớ có chờ đợi lòng thương xót của người chỉ huy.


Hoa tiêu Olga Kliueva

Chính ủy phi đội là Karpunina Ksenia, con gái của một người vô sản có truyền thống. Cha cô chiến đấu trong sư đoàn của sư trưởng Schors và hy sinh ngoài mặt trận, khi Kxenia chỉ mới bắt đầu lẫm chẫm. Vì vậy, cuộc sống đã sớm dạy cho cô những bài học khắc nghiệt của nó. Đến khi tới với chúng tôi, Karpunina, mặc dù tuổi đời còn trẻ, đã có kinh nghiệm sống dày dặn và vững chắc của người đoàn viên Komsomol và đảng viên.
.......
« Sửa lần cuối: 22 Tháng Tám, 2015, 10:05:28 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #9 vào lúc: 21 Tháng Tám, 2015, 09:45:21 pm »

(tiếp)

* * *

Vậy là tổ chức trung đoàn đã hình thành. Một lần nữa lại bắt đầu quá trình học tập căng thẳng. Chúng tôi được học cách bay trong chùm tia các đèn chiếu PK, nắm vững nghệ thuật cơ động chống hỏa lực pháo phòng không, ném bom từ các độ cao thấp.

Trung đoàn chúng tôi được trang bị các máy bay nhỏ, khiêm tốn U-2, quen thuộc với nhiều phi công tại các câu lạc bộ HK. Chiếc máy bay này được sáng tạo bởi nhà thiết kế máy bay xuất sắc của Liên Xô Nikolai Polikarpov vào năm 1927, đi vào khai thác năm 1928. Trải qua thời gian từ đó, ngành công nghiệp hàng không Liên Xô đã sản xuất nhiều loại máy bay có các mục đích đủ loại khác nhau, được cải tiến hoàn thiện từ năm này sang năm khác. Còn U-2 tiếp tục sự phục vụ của nó, đạt được sự phổ biến ngày càng lớn hơn. Nó được thiết kế cho các chuyến bay huấn luyện tại các câu lạc bộ hàng không, nhưng lại có ứng dụng rộng rãi trong nền kinh tế quốc dân, và trong thời gian chiến tranh là máy bay tải thương, liên lạc và chiến đấu - máy bay ném bom ban đêm hạng nhẹ. Tốc độ bay của U-2 nhỏ, tải trọng cũng nhỏ. Nhưng đặc biệt dễ điều khiển, và quan trọng nhất, không đòi hỏi sân cất cánh và hạ cánh kích thước lớn.


Nikolai Nikolayevich Polykarpov (1892-1944)

Trong thời gian chiến tranh, dưới các mặt phẳng cánh và thân máy bay người ta gắn sáu đến tám giá bom, còn dây cáp từ khóa được dẫn vào buồng lái của phi công và hoa tiêu. Máy ngắm để ném bom thậm chí còn đơn giản hơn - ở phía thân bên phải của buồng lái hoa tiêu người ta đặt hai thanh kim loại phủ hợp chất phát sáng, còn tại mặt phẳng bên cánh phải máy bay người ta đặt một cửa sổ nhỏ để quan sát mặt đất trong lúc ném bom. Tuy nhiên, tốc độ thấp, không có vỏ giáp, trần bay thấp chỉ cho phép sử dụng máy bay vào ban đêm.

Người ta đặt tên cho kẻ lao công chiến tranh này như thế nào: các phi công của các trung đoàn U-2 - gọi là vua trên không, bộ binh - chuẩn úy tiền tuyến, các du kích - người trồng rau hay lõi ngô, còn bọn Hitler sợ U-2 không ít hơn so với các loại máy bay khác, mặc dù chúng gọi nó là "gỗ dán Nga".

Thật khó để liệt kê tất cả những gì mà con ốc sên trên trời này làm được trong những tháng ngày chiến tranh - phi công cấp 1 đại tá B.Stepanov nhớ lại. - Để vận chuyển thương binh, bay trinh sát, kiểm tra ngụy trang pháo binh của ta, liên lạc điện thoại và điện báo, còn khi cần thiết thì nhổ dây "mèo", thả truyền đơn và luôn luôn sẵn sàng số 1 để cất cánh ném bom. Với chức năng vận chuyển hành khách, nó đã chở trên mình cả binh lính và các nguyên soái, các ủy viên hội đồng quân sự, các tư lệnh tập đoàn quân và phương diện quân, các phóng viên, các y tá và bác sĩ, nhà văn, nghệ sĩ, sĩ quan liên lạc và sĩ quan tùy tùng.

Chiếc máy bay khiêm tốn và không đỏng đảnh này, các quân nhân trung đoàn chúng tôi sẽ phải làm chủ. Làm chủ không phải chỉ phần vật chất của nó, mà còn cả chiến thuật đa dạng trong sử dụng. Ở đây mới phát hiện ra hầu hết các nữ phi công chưa bao giờ bay đêm, còn những người đã bay đêm có số giờ bay rất ít. Rất cần có được kinh nghiệm bay đêm.

Nhằm mục đích này, các nữ phi công đã học lái máy bay ban ngày, trong khi không nhìn mặt đất, trong kabin đóng kín, chỉ tuân theo khẩu lệnh của các phi công giàu kinh nghiệm và chỉ thị trên thiết bị đảm bảo bay. Trung đoàn trưởng, thượng uý E.D.Bershanskaya bay cả ngày và đêm với mỗi người chúng tôi. Sau đó người ta đưa vào tham gia trong các chuyến bay các hoa tiêu trẻ mới được đào tạo, những người đã biết lý thuyết, nhưng chưa có kinh nghiệm bay. Trung đoàn trưởng quan tâm nhiều đến các hoa tiêu, chị đã mang tất cả các hiểu biết và kỹ năng của mình vào công việc đào tạo họ.

* * *

Ngày 8 tháng 2 năm 1942, diễn ra cuộc họp tổ chức đảng đầu tiên tại trung đoàn. Đến thời điểm này trung đoàn đã có 17 đảng viên chính thức và dự bị. Tại cuộc họp đã tổ chức bầu đảng ủy, bí thư đảng ủy là chính trị viên Maria Ivanovna Runt. Ngày hôm sau có cuộc họp tổ chức đoàn Komsomol đầu tiên. 82 nữ đoàn viên Komsomol nhất trí bầu bí thư tổ chức đoàn TNCS của trung đoàn là Olga Fetisova, người đã từng làm việc tại Ủy ban Trung ương Đoàn Komsomol Liên Xô.

Những nữ đảng viên cộng sản và nữ đoàn viên Komsomol chiếm phần lớn số quân nhân trung đoàn, và không phải ngẫu nhiên, trung đoàn của chúng tôi đã được coi từ ngày đầu là trung đoàn đảng viên và đoàn viên Komsomol.

Các tổ chức Đảng và đoàn Komsomol dưới sự lãnh đạo của chính ủy trung đoàn Rachkevich, đã giúp ban chỉ huy thực hiện nhiệm vụ chính: dạy các quân nhân kỹ thuật lái trong điều kiện đêm tối và khai thác sử dụng phần vật chất máy bay một cách thành thạo, liên kết chúng tôi trong một tập thể thân thiện, với một kỷ luật quân sự mạnh mẽ và thái độ có ý thức đối với công việc. Và chúng tôi đã đạt được những kết quả tuyệt vời.

* * *

Cuối tháng hai, diễn ra một sự kiện quan trọng trong cuộc sống của trung đoàn: những người trong số chúng tôi chưa làm lễ tuyên thệ quân sự, ngày hôm đó đã tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, với nhân dân mình. Buổi lễ trọng thể này được tổ chức tại hội trường lớn. Chúng tôi xếp thành những hàng quân đều đặn thẳng như kẻ chỉ. Có đội cầm cờ. Phút im lặng đã tới, sau đó là một tiếng vang mạnh mẽ lan khắp ngôi nhà bởi hàng trăm tiếng nói lặp lại những lời tuyên thệ.
Cùng với tất cả mọi người tôi cất lên lời:
... Khi đứng vào hàng ngũ Hồng quân công nông, tôi tuyên thệ và long trọng thề ...

Vậy là bây giờ chúng tôi đã trở thành các chiến sĩ thực sự. Bây giờ chúng tôi đã gắn bó bằng nghĩa vụ quân sự và danh dự không thể phá hủy với những người đã đổ máu mình trên chiến trường. Và nếu chúng tôi vi phạm lời thề, hãy để sự khinh bỉ của toàn xã hội và cái chết trừng phạt mỗi người chúng tôi.

Một lần sau một chuyến bay theo hành trình khó khăn trong thời tiết xấu Sima Amosova đến gần tôi.
- Em cần nghỉ ngơi cho tốt, - chị nói trìu mến, nhưng chắc nịch. - Ngày mai sẽ phải tập ném bom trên thao trường... Nhân thể chị hỏi, nhiệm vụ ngày hôm nay em thực hiện thế nào? - Phi đội trưởng tỏ ra quan tâm.

Tôi không hài lòng với mình và thật thà thú nhận điều này.
- Dũng cảm không nằm ở chỗ từ lần đầu tiên đã đánh trúng mục tiêu, - Amosova nhận xét sau một lúc tạm dừng. - Người có ý chí dũng cảm ngay cả trong thất bại. Anh ta không nản chí mà trở nên dữ tợn hơn, cứng cỏi hơn. Anh ta học ngay từ những sai lầm. Và do đó có khả năng thực hiện bất kỳ nhiệm vụ nào.


Trung đoàn phó Seraphima Amosova (ngoài cùng bên phải) giao nhiệm vụ chiến đấu cho các nữ phi công trung đoàn cận vệ 46 Taman trước một phi vụ. Năm 1943.

Cần nói rằng tôi rất biết ơn người nữ chỉ huy của mình Sima Amosova vì những gì tôi được nghe, - nghĩa là không nói gì. Lúc đó, tôi chỉ cần những lời nói như vậy. Và nó gây nên chuyển động đáp trả của trái tim. Thật khó để truyền đạt những gì tôi đã trải qua. Nhưng kể từ thời điểm đó, mệnh lệnh của người chỉ huy đối với tôi không chỉ còn là công thức điều lệnh không thể bàn cãi. Toàn bộ ý nghĩa cuộc sống của tôi từ hôm nay trở đi nằm ở chỗ không phụ lòng người đã tin tưởng tôi trong những ngày chiến thắng cũng như những ngày thất bại.

Về mặt tâm lý, tất cả những điều đó rất phức tạp, nhưng đồng thời có thể dễ dàng giải thích. Thời thanh niên, luôn luôn có vẻ như bất kỳ thử thách nào cũng ở trên vai bạn. Cho đến tận khi bạn còn chưa chắc chắn rằng: chỉ mong muốn thôi không đủ! Cần ý chí, cần sự kiên trì, và lòng can đảm. Cuối cùng, là kinh nghiệm chiến đấu cơ bản nhất, cho phép những con chim con còn non trẻ trở thành những con đại bàng theo thời gian.

Tôi ghét những cuốn sách nhỏ làm ra vẻ hùng tráng giả tạo, trong đó chiến công không được thực thi, mà được rập theo một khuôn mẫu văn học giản đơn. Bao nhiêu bạn gái của chúng tôi đã mất, bao nhiêu lần chúng tôi đã ở trên bờ vực của cái chết, trước khi có được kỹ năng quân sự, kỹ năng mà cùng với các sửa đổi nhân các tai nạn không thể tránh khỏi của chiến tranh, đã xác định trước chiến thắng, mà không phải là chiến bại trong trận đánh.

Lao vào lưới lửa pháo phòng không, lưới lửa sẽ xé bạn ra từng mảnh khi bạn chưa đạt tới mục tiêu là một sự việc "anh hùng" giản đơn. Anh hùng đúng nghĩa là phải khéo léo đưa máy bay vượt qua lửa đạn, đánh trúng địch và bay trở về với quân mình, dù bị sứt mẻ: mỗi chiếc máy bay hồi ấy đều phải tính đếm. Còn nếu quả thực phải chết, nếu tình hình là tuyệt vọng, thì những người lính thực sự thậm chí bằng cái chết của mình cũng gây thiệt hại cho kẻ thù.

* * *

Mùa xuân năm bốn mươi hai đã đến. Tuyết sẫm lại và lún xuống trên những quả đồi. Ban ngày dưới mặt trời những giọt tuyết tan trong như pha lê rớt xuống gõ vang như trống. Gió ném rải bề bộn những đám mây dày đặc nặng trịch, giữa các đám mây ấy những ô cửa sổ màu thiên thanh ngày càng lấp lánh. Từ đó, ánh sáng và sự ấm ấp đổ xuống mặt đất đông lạnh. Nhưng mùa đông chưa chịu đầu hàng, nó rút lui từ từ, chậm chạp. Do thời tiết thường xuyên thay đổi, các nữ phi công và hoa tiêu cần phải cảnh giác. Tuy vậy rồi họ cũng không thoát khỏi sự xảo quyệt của nó.

Trung đoàn đã được chuẩn bị để gửi ra mặt trận. Đêm 09 tháng 3, toàn bộ các phi đội bay chuyến bay huấn luyện cuối cùng theo tuyến và tập ném bom. Trời đêm ấm áp. Sương treo lơ lửng trên mặt đất, quan sát chân trời rất kém. Nhưng có nhiều khó khăn đặc biệt không  tiên liệu được. Các nhà khí tượng dự báo thời tiết tốt, và chúng tôi an tâm cất cánh lên không trung.

Lúc đầu, mọi thứ diễn ra ổn thỏa. Nhưng khi chúng tôi bay được gần hết hành trình và chuyển sang giai đoạn thực hiện nhiệm vụ cuối cùng, thời tiết bỗng thay đổi đột ngột. Tầm nhìn hoàn toàn mất. Trong tình huống này, hai phi hành đoàn bị mất định hướng không gian và đã bị rơi.


Anh hùng Liên Xô (1945), đại úy cận vệ (1945), công dân danh dự thành phố Donetsk Ukraina, trong 4 năm chiến tranh đã thực hiện 852 phi vụ xuất kích đánh địch, đại tá cận vệ dự bị Nadejda Popova (1921-2013) và TT Nga Putin trong buổi tiếp khách chính thức nhân lễ kỷ niệm 50 năm chiến thắng phát xít ngày 9 tháng 5 năm 2000 ở điện Kremli. Phục vụ quân đội đến 1952, sau đó chuyển ngạch dự bị với quân hàm thiếu tá, chuyển sang hoạt động xã hội trong các tổ chức CCB Soviet và LB Nga. Giải thưởng quốc gia Liên bang Nga "Olympia" về sự công nhận của xã hội với các thành tựu của phụ nữ năm 2005.

Hy sinh đêm đó là bốn người bạn gái của chúng tôi: Lilya Tarmosina, Nadia Komogortseva, Anya Malakhova và Masha Vinogradova. Tất cả chúng tôi đều bị sốc bởi sự cố xảy ra, nhưng buồn nhất là Nadia Popova: ngay từ những ngày đầu tiên cô ấy đã kết bạn thân thiết với Lilya. Các cô gái đã ở cùng nhau cả trong lớp học, cả trong các chuyến bay, cũng như tại ký túc xá. Trong những giây phút rảnh rỗi, họ cũng ở bên nhau: Lilya thường ngồi bên cây đàn piano và Nadia Popova thì hát. Và Tarmosina cùng hoa tiêu của cô Nadia Komogortseva một người nổi bật bởi đức tính vô cùng khiêm tốn. Komogortseva là một vận động viên tuyệt vời, và đang chuẩn bị để trở thành một nhà toán học ...

Ngay sau chiến tranh, tôi đến thăm mẹ của người bạn gái đã hy sinh Anna Malakhova. Elena Ivanovna nói chuyện hồi lâu với tôi về thời thơ ấu của con gái, về quá trình học tập của cô ấy, về những bước đi đầu tiên trong ngành hàng không ...
Hai ngày sau, chúng tôi chôn cất các bạn gái hy sinh.

Từ trái sang phải: Anhia Malakhova, Nadya Komogortseva

Từ trái sang phải: Lilya Tarmoshina, Masha Vinogradova

Những mất mát đầu tiên ... Cái chết đi ngang qua ngay bên cạnh và tàn nhẫn nhắc nhở về sự hiện diện của chính nó. Nó xảy ra quá đột ngột đến nỗi nhiều cô gái hoảng loạn và nhiều ngày sau còn bị ức chế, câm lặng.

Sau thảm họa, mọi người thấy rõ rằng tất cả cần học hỏi nhiều hơn nữa, tích lũy kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng, nếu chúng tôi muốn trở thành những phi công thực sự.

Cái chết của các bạn gái đã làm u ám niềm vui khi biết sắp được ra tiền tuyến. Và hơn bao giờ hết luôn là như vậy - niềm vui và nỗi buồn sánh bước với nhau. Cả hai đều để lại dấu ấn. Nhưng cuộc sống vẫn tiếp tục tiến về phía trước không thể lay chuyển, luật đời vẫn độc tôn. Băng chặt vết thương, con người một lần nữa cố gắng nhìn về tương lai.

... Cuộc sống của nhiều người trong số chúng tôi, những người có liên quan đến sự tham gia, tư vấn, ủng hộ của Marina Raskova, được sắp đặt khác, so với cách mà nó có thể diễn ra. Người phụ nữ tuyệt vời này hào phóng truyền cho chúng tôi trí tuệ, tài năng, lòng can đảm, kỹ năng của chị. Chúng tôi, các học trò của chị chịu ơn chị rất nhiều.
.......
« Sửa lần cuối: 22 Tháng Tám, 2015, 09:31:21 pm gửi bởi qtdc » Logged
Trang: 1 2 3 4 5 6 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM