Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 05:56:12 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Mãi mãi tuổi mười chín  (Đọc 35753 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
huytop
Thành viên
*
Bài viết: 919


« Trả lời #20 vào lúc: 21 Tháng Hai, 2016, 12:43:50 pm »

      Ở đó mọi âm thanh đều giảm đi, các tiếng nổ nghe như tiếng động vang lên ở bên dưới mặt đất - làm những ngọn nến nẩy lên, đất sét từ trên vòm mái rơi xuống. Trong hầm, trong bóng tối, những vòng băng của thương binh trông trắng toát. Anh trông thấy đại đội trưởng trong số đó. Trong thứ ánh sáng này, anh ta cởi trần, trông da màu nâu, ngồi phệt xuống đất, người cứu thương quì bên quấn băng quanh ngực. Nhận ra Trêchiakov, đại đội trưởng đuối sức ngẩng mái đầu hói cứ rũ xuống:

      - Đấy... lại bị nện... Tôi không đủ sức đánh thêm trận nữa….

      Đường hầm bụi mù như khói phủ, các tiếng động vang lên không ngừng, nghe chừng như có gì đó đang diễn ra ở bên trên. Đứng trước đại đội trưởng, Trêchiakov hỏi :

      - Đồng chí thượng úy, đồng chi nói tham mưu trưởng chỗ chúng ta đã có mặt ở Kharkov. Đồng chí ấy có ở đây không hả? Đồng chí có thấy không ? Tôi muốn hỏi thăm ông bác...

       Cái nhìn của anh giục giã, gợi nhớ lại. Nhưng đại đội trưởng ngửa mặt nhìn lên vòm hầm, từ nơi đó đất sét rơi xuống mặt. Nỗi lo lắng hiện trên nét mặt các thương binh. Họ rờ rẫm vũ khí quanh mình. Một vài người bò đi đâu đó.

      Trên cao vẫn ầm ầm. Khi anh lọt vào đây, có rất nhiều người không hiểu chạy từ đâu đến tụ tập khắp lối đì. Và trong hầm là cảnh chen lấn, kêu rên, những gương mặt hãi hùng. Tiếng nổ đanh. Đùng. Đùng. Xe tăng ! Chưa thò đầu ra khỏi hầm, anh đã hiểu ra : xe tăng. Chúng bắn thẳng : bắn — nổ. Lại có tiếng nổ đanh, mọi người cúi gập trong hầm. Trêchiakov bị đất đổ xuống, nhưng anh vẫn quan sát sau mô đất; xe tăng. Những chiếc tăng thấp, nòng dài, xuất hiện sau ngọn gò có chiếc cối xay cánh vẫn quay tít. Hai chiếc xe tăng... Đằng sau chúng — một, hai, ba... Súng ở chiếc đi đầu tóe lửa. Bắn đến inh cả tai.

      - Kưchin !

      Máy móc để ngổn ngang bị đất phủ dầy. Không thấy cuộn dây đâu, cả Kưchin cũng chẳng thấy. Trêchiakov vớ lấy ống nghe. Mất liên lạc. Không lẽ anh ta đã bỏ chạy ?

      Bộ binh nằm trên trận địa không hầm hố. Xe tăng tiến đến, và trước mũi  xe tăng, như bị gió cuốn, mọi người bị nhấc bổng lên khỏi mặt đất. Từng người một nhổm phắt dậy, gập người chạy, hệt như chạy bằng cả tay lẫn chân, tiếng nổ quét sạch những người đang chạy.

      - Ai cho chạy đấy ! Ai cho chạy ! — Tiểu đoàn trưởng phẫn nộ hét vào ống nghe, kéo sụp chiếc mũ lưỡi trai xuống mắt, và toàn thân anh ta vẫn vùi dưới đất, ở lối vào hầm ngầm.

      Trung úy pháo binh tay cầm tấm bản đồ lăng xăng vô ích bên máy điện thoại. Anh ta chỉ chống chế trong ống nghe, vẫn chưa cho nổ súng.

      - Đằng anh có loại pháo nào — Trêchiakov quát lên

    - Lựu pháo... Một trăm hăm hai...

    - Khẩu đội pháo nằm ở đâu ?

    - Đây, đây này, — trung úy chỉ lên bản đồ, nhìn đầy hy vọng.

     Trechiakov ước lượng khoảng cách :

     - Cho bắn đi !

     Và anh ta bắt đầu truyền lệnh.

     Một chàng trai nào đó, tóc xõa trước trán, mang quân hàm trung sĩ, không hiểu sao lại láng cháng ở đây, nhìn Trêchiakov đầy vẻ thán phục.   

-    Trung úy, cừ lắm !

     Và Trechiakov nghe thấy giọng Kưchin hổn hển trong ống nghe :

     - Phượng vĩ, Phượng vĩ !

     - Kưchin phải không ?

     - Tôi đây ! Dây đứt ở đây, ngoài trận địa...

     Và lúc này là giọng của tiểu đoàn trưởng :

     -  Có chuyện gì xảy ra ở chỗ các đồng chí đấy ? Trechiakov. Các đồng chí đang làm gì ?

     - Bọn Đức dùng xe tăng phản kích ! Cần hỏa lực bắn chặn…

    - Xe tăng, xe tăng à…Đồng chí trông thấy bao nhiêu chiếc ? Chính mắt đồng chí trông thấy bao nhiêu chiếc ?

    - Tôi trông thấy năm chiếc…Bây giờ…

    Anh muốn nói «tôi sẽ đến». Nhưng từ trén cao, đất đổ xuống, rơi trúng lưng cúi cong cong, rơi trúng đầu, khi anh đang quỳ trước máy, cố nén cơn buồn nôn. Nước bọt đặc quánh từ miệng ứa ra, anh đưa tay áo lau. Anh chợt nghĩ : « Nó thế đấy... ». Và anh rất đỗi ngạc nhiên : chẳng đáng sợ….

      Trung sĩ tóc bù xù nằm sấp dưới đáy hầm, giơ một cánh tay ra đằng trước. Những ngón tay ngọ nguậy. Và ở đằng kia, một hố đạn đất tơi xốp khói âm ỉ bốc lên, đại đội trưởng vừa kêu lên vừa kéo cái mũ lưỡi trai xuống.

      Sau khi đã đứng dậy bằng đôi chân yếu ớt, anh không hiểu mình đã bị thương hay không, — nhưng người anh không chỗ nào có máu, — Trêchiakov nhìn thấy trận địa đạn nổ và nhìn thấy những người đang chạy cả những người đang ngã xuống. Hệt như một chiếc đầu đang quay tit, ngoài ngọn gò, cạnh cối xay gió, những tấm cánh thủng lỗ chỗ, vẫn quay chậm rãi, lúc thì che khuất vùng đất thấp, lúc thì để lộ những chiếc xe tăng đang chạy. Anh truyền lệnh bắn cho tiểu đoàn trưởng, anh cảm thấy điều không thế tránh khỏi đang dần đến và thời gian đang ngừng lại, qua âm thanh và tiếng ù ù trong tai, anh nghe giọng mình như giọng người khác. Anh đưa chiếc ống nhòm lên mắt. Mọi vật trở nên rõ nét hơn, gần hơn dưới kính phóng đại. Loang loáng bởi những vòng xích chiếc xe tăng bứt lên đầu tiến gần lại, chiếc cối xay gió với các tấm cánh thủng lỗ chỗ hạ từ trên xuống, đã tách chiếc xe tăng đó ra khỏi những chiếc còn lại.


      Một tiếng nổ tung lên, có cái gì đó giật chiếc máy điện thoại và kéo nó ra khỏi ụ đất. Chụp lấy máy, ấn chặt đầu gối vào vách hào, Trêchiakov truyền lệnh mới. Chiếc máy càng bị kéo mạnh hơn. Anh quay lại. Trên mô đất ngoài hầm — một bộ mặt đen trũi, răng trang lóa nhe ra cười.

     - Naxrullaev !

      Nụ cười càng rộng ngoác ra, vui sướng hơn, phô cả trăm cái răng, tất cả đều trắng bóng, chắc chắn.. Naxrullaev, thông tin viên của anh, đang nằm trên mặt đất. Anh ta bò đến. Hai cuộn đậy điện thoại trên người anh ta. Và anh ta cầm cả cuộn dây mà mình đang kéo.

     - Nhảy xuống ! Mau !

     Anh ta vẫn cười, như không hề hiểu tiếng Nga.

     - Xuống, chứ còn nói với ai nữa ..Kưchin đâu ?

     Anh vươn người giật Naxrullaev xuống hào, cùi tay bị trúng đạn, đau nhói lên. Anh đưa tay phải nắm lấy tay trái đang cầm ống nghe, vẫn không hiểu ai bắn phải anh và anh chỉ cảm thấy rất tức thở. Trước khi nhìn thấy máu mình, anh trông thấy nỗi khiếp sợ và đau đớn trên gương mặt Naxrullaev đang nhìn anh. Sau đó máu nhỏ ra từ ống tay áo capốt. Ngay lập tức, sau khi thấy người yếu hẳn đi, môi tê dại, anh ngồi bệt xuống và không hiểu sao anh vẫn dùng cánh tay lành lặn sờ soạng tìm khẩu tiểu liên bên cạnh người.
Logged
huytop
Thành viên
*
Bài viết: 919


« Trả lời #21 vào lúc: 12 Tháng Bảy, 2016, 08:49:31 pm »

     
       IX.   




       Làng cháy trụi, xa xa sau làng, ga Iansêvô cũng bị thiêu cháy. Ở đằng ấy mọi vật đều nổ tung, những đường đạn bay vọt lên bầu trời tối đen như những tỉa lửa bay lên từ đống lửa. Từ đâu đó, chúng vẫn hiện lên tức thì ở phía sau, lúc thì ở ngang bên, lúc thì ở phía trước. Chiếc ô tô không có đường bò trên cánh đồng trong bóng tổi, trong ánh lửa hắt đến lờ mờ. Nó dệ bánh xuống những hố đạn, thương binh nằm đè lên nhau, họ rên rỉ, họ cựa quậy trong thùng xe, khi động cơ yếu ớt rú lên, tìm chỗ bằng phẳng. Và lại lạc lối, khi ra xa, khi dường như lại đâm quàng vào trận đánh. Có một lần, hệt như ảo ảnh, bỗng hiện lên : cối xay gió cháy trụi đổ sụp ngay trước mẳt, lửa bung ra ; giống như bộ khung bằng dây thép gai bị nung đỏ, cháy rực lên…

      Xe xóc và lắc mạnh, máu ở cổ Trêchiakov lại trào ra, anh đưa tav áo lên lau miệng, Lau xong, anh nhìn thấy một vệt ướt thẫm trên da. Khoảnh khắc đầu tiên anh chỉ cảm thấy có mỗi một vết thương trong số tất cả các vết thương, khi anh bị bắn trúng cùi chỏ, chỗ đau nhất nơi dây thần kinh, khẩu tiểu liên tuột khỏi tay. Và sau đó cứu thương đếm được thêm bốn vết thương nữa trên người anh. Mảnh đạn nằm ở giữa các xương sườn, khiến anh không thể thở được. Vì vết thương ẩy, màu trào ra đầy miệng. Cả ngưởi co rúm lại chờ đợi nỗi đau đớn, với tửng cú xóc một, mỗi khi chiếc xe tải sa xuống hố, các vết thương tại đau nhói.

      - Ốí, ô-ối ! — Thiểu úy nằm cạnh anh rên lên - Ối, ối trời ơi, sao thế này ? Ối, giá nhanh nữa lên...

       Một lần khi bị sóc dữ dội, Trêchiakov đă quát anh ta vì mình quá đau đớn :
       - Thì cũng phải cỏ lương tri chứ ! Anh làm sao nào, đau hơn mọi người chắc ?

       Thế !à anh ta im bặt. Và chiếc xe lại bò quanh cánh đồng, loanh quanh mãi không thấy kết thúc, động cơ lúc thì rú lên cật lực, lúc thì lịm dần, pháo sáng rọi vào trông rõ đến tận từng tấm gỗ trên sàn xe, rồi bóng tối lại trùm lên tất cả. Thời gian được đo bằng những lần xóc những cơn đau.

       Họ dừng lại. Những tiếng nói và những bước chân vang lên trong bóng tối. Sắt va loảng xoảng. Thành xe hạ xuống. Họ bắt đầu đỡ từng thương binh một và đưa đi. Khi họ nâng thiếu úy lên, anh ta không rên rỉ. Những tiếng nói im bặt. Họ đưa anh ta sang một bên, đặt xuống đất trong bóng tối.

       Một chuẩn ủy không quen biết giúp Trêchiakov trèo xuống, anh ta hối hả, ghé vai lại :
      - Bước cạnh tôi này, cạnh tôi này. Đặt mạnh chân xuống, không sao đâu.

      Ống quần khô cong dính bết vào vết thương, giờ bong ra, máu chảy trên chân âm ấm. Có nghĩa là thêm một vết thương. Cho đến tận lúc này, anh vẫn không thấy vết thương đó. Ai đó đeo thắt lưng, dáng bé nhỏ nhưng quả quyết bước nhanh đến.

     Họ giữ Trêchiakov lại trước người đó.
    - Trung úy ! Cậu làm sao thế... Chúng mình đưa cậu đi ngay, y tế sẽ điều trị, cậu sẽ trở về trung đoàn. Chúng mình chờ đấy.

      Trêchiakov nhìn xuống thấy người đó mang quân hàm đại úy, anh hiểu ra đấy là tiểu đoàn trưởng. Lúc chiến đấu, nghe giọng nói anh không hình dung tiểu đoàn trưởng dáng người lại bé nhỏ đến thế.

     - Hôm nay tôi  đã quát cậu – Đại úy cau có một cách nghiêm khắc — Trong chiến đấu tất cả chúng ta hay cáu bẳn. Cậu đừng giận, không nên giận.

     - Tôi có giận đâu.

      Mọi vật bồng bềnh ngay trước mặt, cây cối nghiêng ngả trên đầu, mà rất có thể chính anh đang chao đảo. Và anh thấy khó thở.

     - Không nên giận, chính thế : không nên giận.

       Chuẩn úy lại dìu anh đi, còn anh yêu cầu, giọng vang lên nghe khó nhọc ;
       - Cho tôi lại đằng kia… Đưa tôi lại đằng kia...

       Mảnh đạn nằm giữa xương sườn khiến anh khó thở :
      - Chuẩn úy…lại đằng kia. .

      Và anh nhoài đến bụi cây. Vì có tính kiên trì, chuẩn úy vẫn không hiểu, lại càng xốc vai mạnh hơn, cố nhấc anh lên người mình.

      - Chúng ta đến nơi ngay mà, không xa đâu, ngay bây giờ.

     - Chuẩn úy…

     - Không sao !


    Mãi rồi mới đoán ra, anh ta lỉật đật tự tay mở thắt lưng mở khuy quần.

       - Xê ra,— Trêchiakov yêu cầu.

      - Có làm sao đâu !

      - Xê ra... tôi van anh...— Anh không thể thở sâu đưọc, vì thế giọng anh nghe rất tội nghiệp.— Xê ra ngay.

       Tay túm chặt lấy cái cây con, cùng với cái cây con, anh chao đi, anh rất yếu, giá mà khóc được. Nhưng chuẩn úy chỉ chực bên cạnh để đưa anh đi, chẳng thấy xấu hổ. Thở ra toàn hơi thuốc lá và nước bọt, chuẩn úy lẩm bẩm :«Có sao đâu mà ?» — và chẳng hề bực dọc, vẫn sẵn lòng, đi vòng quanh anh,

       - Tớ được phép chứ ? - anh ta nói, sau một việc như vậy, anh ta dứt khoát chuyển sang xưng hô thân mật – Chẳng lẽ tớ không giúp được gì ? Dù thế nào cũng cần phải giúp đỡ nhau.

Logged
huytop
Thành viên
*
Bài viết: 919


« Trả lời #22 vào lúc: 18 Tháng Bảy, 2016, 10:29:53 pm »

       Và anh ta không tránh ra, vẫn giữ chặt lấy anh trong suốt thời gian ấy. Sau đó chính anh ta cài quần lại cho anh — Trêchiakov không còn đủ sức để cưỡng lại. Anh ta sửa lại áo va rơi cho ngay ngắn, ngắm nhìn chiếc thắt lưng sĩ quan trong tay mình, ngắm nhìn khóa đồng có ngôi sao, và ngần ngại :
       - Thắt lưng của cậu tốt thật... ở quân y viện, cậu có biết không. Ai giấu gì, họ cũng biết. Tớ đã nằm đó tớ biết.

       Anh ta thở dài, ngập ngừng : anh ta không muốn từ bỏ chiếc thắt lưng,
      - Và nếu không nhớ, thì rồi ra cũng chẳng biết đâu mà hỏi mà tìm.

       - Cầm lấy, — Trêchiakov nói, dường như anh phẩy tay. Bây giờ anh có tiếc thì cũng không phải là chiếc thắt lưng. Anh tiếc một cái gì đó hoàn toàn khác thuộc về con người. Mà cả cái điều tiếc ấy bây giờ cũng đã bắt đầu trở nên dửng dưng, Còn anh ta thì sung sướng rối rít thắt cho anh chiếc thắt lưng của anh ta, nói líu nhíu :
      - Thắt lưng của tớ còn dùng được. Sờn rách có đáng kể chi, cứ phết xi...

       Anh ta bỏ áo vào trong quần, sửa sang cho ngay ngắn, mỗi bận như vậy, các vết thương lại đau nhói lên rồi anh ta còn quả quyết rất dễ dàng.
    - Thế nào họ cũng sẽ phát thắt lưng mới cho cậu !

      Trêchiakov lại được dìu đi đâu đó, được chở đi, lại, xóc tung lên. Sau đó anh ngồi dưới đất. Ráng chiều trong vắt sáng lên sau cánh rừng : rừng thì đỏ rực, cây thì đen thẫm trên nền đỏ. Và khắp mọi nơi dưới các gốc cây thương binh nằm, ngồi, cựa quậy trên mặt đất.

      Có tiếng ầm ì. Từ các lều bạt không xa, họ chuyền những người đã băng bó ra, băng mới tinh trên người họ chốc chốc lại trắng xóa lên. Và khi các cứu thương đi lại giữa mọi người, chọn người tiếp theo, thương binh nằm dưới đất nhìn họ, tiếng rên rỉ trở nên ai oán hơn. Họ cáng ra một người. Màn đậy lên người anh ta, băng cuốn từ đầu đến chân.

       Trêchiakov cảm nhận mọi điều qua các âm thanh lọt vào tai. Chốc chốc các âm thanh ấy xa dần rồi biến mất. Khẽ giật mình, anh chợt tỉnh. Tim đập loạn lên. Anh biết : không nên ngủ. Giống như ở ngoài băng giá: nếu thiếp đi — sẽ không tỉnh dậy được. Và anh cố không ngủ thiếp đi. Trong người anh tất cả đều trở nên yếu ớt - tim không đập mà run rảy. Anh cảm thấy cuộc sổng đang rời bỏ anh.

       Có lần anh nghe thấy tiếng nói sát bên người :
       - Trung úy, đừng ngủ !

       Bóng đen che lấp ráng hồng, cúi  xuống thấp hơn nữa :
      - Ê, ê này, Này, này, dậy đi… Nhikisin, giúp tôi một tay. Thế. Đấy ! Có đi được không !

      Vải bạt thô cứng cọ khắp mặt làm chiếc mũ tuột khỏi đầu. Người tải thương nhặt lên, rồi đút vào túi áo ca-pốt  cho anh.

      Bên trong, sau tấm sàn trắng, ánh sáng của những ngọn đèn dầu hỏa làm lóe mắt.

       Trong khi họ cởi quần áo cho anh, tất cả hiện lên rõ ràng. Trong góc — một người trần trùng trục, tay này giữ chặt tay kia, mắt nhìn lên trên khi người y tá dùng kẹp lôi ra mẩu băng nâu ướt, từ vết thương đen ngòm nơi khuỷu tay.

       Các bác sĩ đeo khẩu trang cúi xuống bàn. Nơi đó, dưới tay họ — một cái đầu tròn tóc húi cao, đáng lẽ là thái dương và gò má thì lại là những cục máu đông, dày dặc vết thương. Các bác sĩ cầm kẹp mạ kền cắm cúi làm việc, họ lôi từ trong đầu ra vật gì đó, miếng kim loại va vào chiếc chậu dưới gầm bàn kêu lenh keng. Đôi mắt người đó vẫn sáng rực, đen, kiểu hốc mắt không phải là của người Nga nhìn lên trên, tách biệt với nỗi đau, tách biệt với mọi điều, và bàn chân vàng bệch thò ra dưới tấm vải, khẽ run run.

       Trêchiakov cũng run bắn lên, anh đã được cởi hết quần áo. Chiếc bàn ấm hẳn lên khi họ đặt anh xuống. Bác sĩ hút thuốc từ tay người khác bên cạnh chiếc màn kéo. Đôi tay bác sĩ đi găng vẫn giơ ngang tầm vai. Bác sĩ cúi xuống chỉ hở mỗi đôi mắt. Chiếc khẩu trang căng ra, nhìn thấy miệng mũi lúc phồng lên rồi lại xẹp xuống. Họ dùng cái gì đó cùn cùn kéo trên người anh. Miếng kim loại va vào chậu kêu leng keng. Dường như họ lại dùng con dao mổ cùn, toàn thân anh co rúm lại chờ đợi cơn đau, thêm vài lần leng keng trong chậu và cơn đau quặn lên.
       - Giữ chặt chân ! – Bác sĩ phẫu thuật nói.

       Một cái gì nóng bỏng vào thấu tận tim anh , làm anh ngạt thở
     - Kêu lên, đừng có nín chịu. Cứ kêu lên …

      Tiếng người phụ nữ lúc thì biến mất, lúc thì ở ngay bên cạnh, sát bên tay. Có ai đó dùng băng thấm khô trán và mặt anh.   Có lần đôi mắt của bác sĩ phẫu thuật hiện lên rất gần, đồng tử rọi thẳng vào đồng tử. Bác sĩ nói cái gì đó. Và đột nhiên trái tim trở lên nhẹ nhõm hơn.

       Khi họ băng bó xong, người phụ nữ chìa cục máu đặt trên bông nõn :
      - Giữ lại một mảnh làm kỷ niệm…

      - Tôi cần nó để làm gì cơ chứ !

      Và mảnh đạn đó lại lenh keng trong chậu.

       Họ đưa Trêchiakov yếu sức đang run bắn lên vào trong chiếc lều bạt. Dưới cái áo ca-pốt, dưới tấm chăn, anh vẫn run lên cho đến tận nửa đêm. Hễ cứ nhắm mắt là anh lại thấy lính bộ binh chạy lom khom trong cỏ khô, phía trước bức tường là đám mây đen, áo va-rơi trên người lính bộ binh và cỏ, tất cả đều trắng toát. Và thình lình anh nhìn thấy chiếc chân vàng bệch đang run run trên bàn mổ, căng ra vì đau đớn, những ngón chân co quắp lại. Và trong cái đêm ấy, đã hơn một lần anh trông thấy Xuiarov. Anh nheo mắt lại, và anh vẫn thấy cảnh mình đánh anh ta ngoại ụ đất, trên cái trận địa vô vọng này, anh ta nằm ngửa, mắt chớp chớp, tay che mặt. Đó là những gì cuối cùng của người ấy trong cuộc đời ; chúng nó đã giết anh ta rồi..Anh ta sẽ mang theo điều đó !....Và cả cái ngón tay, ngón tay đeo nhẫn – bị cắt cụt như tay của mẹ anh.
Logged
huytop
Thành viên
*
Bài viết: 919


« Trả lời #23 vào lúc: 22 Tháng Bảy, 2016, 08:44:22 pm »

       
      Bộ binh chạy giữa tiếng nổ, đám mây dựng thành bức tường sau hào chống tăng. Có cái gì đó cuồn cuộn bốc lên trong bức tường, hệt như bụi cuốn thành vòi rồng. Nó bồng bềnh lại gần. Và với nỗi đâu ngọt ngào trong ngực, tất cả mọi điều trong con người anh bỗng mở ra chào đón
     - “Mẹ !”.

     Bà mẹ buồn bã đứng bên kia, nhìn anh im lặng. Anh cảm thấy mẹ ở gần, như cảm thấy hơi thở trên má :
    - “Mẹ !”.

      Và anh thở hổn hển vì tình yêu đối với mẹ, anh sung sướng thấy rằng lần đầu tiên trong cuộc đời một người đã trưởng thành, anh có thể nói với mẹ điều đó và giữa mẹ con anh không có gì phiền lòng. Anh lao về phía bà, nhưng họ giữ chặt lấy vai anh, không thả anh ra, lại còn kéo giật lại. Anh đau đớn lao đến và tỉnh dậy. Trong rạng đông xam xám, cái đầu vắn băng của ai đó như quả cầu trắng, đang đung đưa trước mặt anh.   
      - Anh muốn gì ? — Trêchiakov hỏi và quay đi,  hai má anh ướt đầm nước mắt.

      - Cậu hét lên. Có thể, cậu cần gì phải không ?

       - Tôi chẳng cần gì cả.


        Anh tiếc rằng họ đã đánh thức mình dậy, nằm như vậy rất lâu. Trời đã sáng. Cảnh bận rộn bắt đầu trong lều bạt. Những người tải thương khẩn trương cho thương binh uống trà nóng, băng bó lại, kiểm tra các chỗ băng. Một vài bận, người bác sĩ dáng điệu lo lắng rẽ vào. Họ chuẩn bị gì đó. Chắc là, chuyển về hậu phương.

       Bên ngoài, sau tấm màn, khi họ mở ra, tất cả đẫm sương. Và họ nằm với sương. Mặt trời lạnh lẽo đã lên cao và đứng trên cánh rừng. Thương binh lắng nghe tiếng ầm ầm không xa của trận đánh, họ nằm yên trên lớp rơm đã được lót áo mưa bạt.

      Đại đội trưởng pháo chống tăng người quấn đầy băng ngồi bên cạnh Trêchiakov. Cả hai tay của anh ta đều cụt từ trên khuỷu, Trêchiakov cảm thấy mùi máu tanh tanh thấm qua lần băng nơi mỏm tay cụt. Một chiến sĩ ở đại đội này cũng bị thương trong trận đánh, đỡ lưng đại đội trưởng, cho anh ta uống trà từ chiếc ca, và kể cho ai đó ở đằng sau lưng anh ta nghe chuyện xe tăng Đức đã tiến đến chỗ họ ra sao và mọi việc đã diễn ra như thế nào.

      - Cái quan trọng là trước chiến tranh, anh ấy là thợ may. — anh chiến sĩ nói cứ như đại đội trưởng không có tay thi không nghe được vậy, và anh ta đưa chiếc ca chệch ra khỏi môi. Đại đội trưởng vẫn ngồi nhẫn nại chờ đợi. — Không có tay, anh ấy sẽ thế nào nhỉ ? Không có tay, anh ấy sẽ  không kiếm được bánh mì cho chính mình. — anh chiến sĩ vẫn nói trước mặt đại đội trưởng mà cứ như vắng mặt vậy.

       Gương mặt đại đội trưởng có vẻ gì đó rất Kapkaz hoặc rất Do thái : mũi trắng hơi quặp, cặp mắt lồi, ria lép hung nhạt tua tủa trên gương mặt mất máu. Dáng vẻ đó khiến cho Trêchiakov nhớ tới người bố dượng, chỉ có điều ông không để râu.

       Mọi người đột ngột mở cửa vào lều bạt: che khuất mặt trời. Cùng với những cái bóng đen dài đang chuyển động trên mặt đất phía trước, một nhóm sĩ quan bước vào trong lều bạt. Người đi đầu là đại tá ngực đeo huân chương. Từ đằng sau những mái đầu, bác sĩ hoảng hốt nhìn ra.   
       - Xin chào các dũng sĩ ! Trong số các đồng chí ai là người đầu tiên trong trận đánh nhảy vào hầm của quân Đức ?.

      Im lặng một lúc. Đại tá chờ đợi. Tiếng thì thào loan khắp thương binh : «Sư đoàn trưởng». Bên lối vào lều bạt, một chiến sĩ bị thương nhẹ từ ổ rơm đứng lên, anh ta trẻ trung, can đảm — hệt như đang đứng dưới cờ.
      - Thưa đồng chí đại tá, tôi !.

      Sư trưởng nhìn anh ta :
      - Giỏi lắm, anh hùng lắm !

      Và sư đoàn trưởng chỉ cần ngoái chiếc cổ cứng đờ ra đằng sau, viên sĩ quan tùy tùng đã đưa ngay chiếc huy chương bạc «Dũng cảm»  từ chiếc hộp nhỏ ôm trước ngực. Chiếc huy chương đung đưa dưới cuống. Sư đoàn trưởng tự tay gắn huy chương lên ngực người lính.
      - Đồng chí thật xứng đáng. Hãy đeo lấy !

      Thêm một người nữa đứng lên, trông anh ta chẳng lấy gì là can đảm. Cánh tay uốn gập ở khuỷu, ép chặt vào bụng căng phồng dưới áo va-rơi. Và anh ta cúi người xuống cánh tay.
       - Thưa đồng chí đại tá, tôi cũng thế…

       Và họ gắn huy chương lên áo va rơi cho anh ta. Không ai quyết định đứng lên nữa. Chỉ có giọng nói yếu ớt của ai đó hỏi với ra từ trong góc :
       - Thưa đồng chí đại tá, chúng ta đã chiếm được nhà ga rồi phải không ạ ? Chiếm được nó thế nào ? Cái nhà ga ấy...

      - Chiếm được rồi. Chiếm được rồi, các dũng sĩ ạ. Mau bình phục nhé, Quân y của chúng ta tốt lắm, họ sẽ chữa khỏi cho tất cả các đồng chí, ai còn có khả năng sẽ trở lại đội ngũ !...

     Rồi đại tá bước nhanh ra. Theo sau ông, cả một đám đông những người còn lại. Bác sĩ là người cuối cùng đuổi theo, ông còn ngoảnh lại nghiêm nghị nhìn các thương binh…
Logged
huytop
Thành viên
*
Bài viết: 919


« Trả lời #24 vào lúc: 23 Tháng Bảy, 2016, 06:40:38 pm »

     

      X.


       Đất bên kè đá vẫn vút qua, cuộn khói tàu hỏa xam xám lơ lửng trên đường dây điện thoại, những cánh rừng mùa thu chạy vòng quanh, vòng quanh khi thì biến mất, khi thi hiện lên. Anh ngủ thiếp đi trong tiếng cót két của toa tàu, tiếng bánh xe gõ nhịp xình xịch phía dưới, rồi anh chợt tỉnh — gió vẫn tải khói tàu trên khắp mặt ruộng trơ gốc rạ, cánh đồng luôn đổi thay, dưới bầu trời mùa thu trong vắt, xa xa rừng hiện lên vàng rực khi mặt trời chiếu xuống.

      Ở nơi nào đó trên phía bắc, chắc là tuyết đã rơi : hơi lạnh tràn vào cửa tàu. Còn ở đây, họ đã đi biết bao lâu, mặt trời vẫn sưởi ấm mảnh đất mùa thu, mà cuộc chiến tranh đã hai lần phóng vút qua từ hai hướng ngược chiều nhau.

       Anh thức giấc, xe cứu thương đậu giữa cánh đồng. Yên tĩnh. Họ đẩv cửa toa tàu sang bên, một chiến sĩ bận quần ống thụng, áo sơ mi vải thô cụt tay trái, đang ngồi trên sàn tàu, đôi chân trần buông thõng trước gió. Anh ta tháo băng ở tay ra, đầu húi cao cúi xuống cánh tay, khẽ nhón những con dòi từ vết thương. Một chiến sĩ khác đứng phía dưới, chăm chú nhìn, cuộn băng lại. Và một người nữa bước đến, đôi nạng răng rắc trên lớp đá răm.
        - Cậu bắt chúng làm gì? Chúng có ích đấy, làm sạch vết thương.

       - A ha... Cậu biết không, dưới lần băng ngứa ngáy lắm !

       Chiếc đầu tàu nổi lên một hồi còi lanh lảnh. Thương binh bò vào các cửa đã mở, họ nhét nạng vào sàn tàu, có ai đó bíu lấy thành tàu nhảy từ ngoài vào. Mọi người kéo anh ta vào toa.

      Và mặt đất bên kè đá lại vút qua, khói đậu trên đường dây. Tĩnh lặng trên các cánh đồng.

       Từ giường trên, Trêchiakov ngắm nhìn, ngắm nhìn mãi vẻ đẹp mùa thu ấy của thế giới. Có thể anh sẽ không được thấy vẻ đẹp ấy nữa. Lần này, trong một trận chiến đấu mà chưa đến phút chót, điều ấy  lại xâm chiếm anh chút ít. Nhưng lòng anh thanh thản. Nếu cuộc chiến tranh kéo dài sang năm thứ ba, cần phải có biết bao nhiêu người, thì một người kể ra thật là ít ỏi, trong cuộc chiến tranh ấy... Trước khi vào trường sĩ quan, anh ở ngoài mặt trận một năm , hồi đó anh bị thương vì ngốc nghếch : không phải bị thương mà là bị sức ép. Tất nhiên ở mặt trận Tây bắc, nơi diễn ra các trận chiến đấu - có tính chất cục bộ, không thể so sánh với mặt trận này. Nhưng ở đó, họ cũng bị giết chết – nhiều người còn nằm lại trong các đầm lầy, trong các khu rừng xám ven đầm lầy.

       Đoàn tàu căng ra trên đường lên dốc; khói đen đặc bên ngoài. Trong toa tàu có cảm giác mặt trời bị một cái bóng chập chờn, lay động che khuất. Qua tiếng thở phì phò nặng nhọc của đoàn tàu vừa ra khỏi đường hầm, từ giường dưới vẳng lên giọng nói vui vẻ của ai đó. Tiếng gõ đều đều của bánh xe, tiếng cọt kẹt của toa tàu bằng gỗ thỉnh thoảng lại át tiếng nói ấy.  Và bỗng nhiên giọng nói ấy trở lên vang hơn:
      - Chúng bắt đầu cởi tung áo ra, rận bám đầy áo!... Chúng trải áo lên bàn, ngồi đối diện nhau, từng đứa một đưa móng tay miết lên áo của mình «Ain rux kaput ! Svai kaput !...».(*)

      Cứ việc ngồi ở bếp lò mà cười. Và chính chúng cũng cười.

      Anh chàng lúc nãy nhón dòi khỏi vết thương đang kể chuvện, Trêchiakov nhận ra anh ta nhờ giọng nói.

     Lên khỏi dốc, đoàn tàu khó nhọc thở ra một hồi còi dài, lại nghe thấy giọng nói ấy ở giường dưới :
    — ... Có một trận đánh... À, mả chả ra đánh nhau. Quân ta đã rút lui từ buổi chiều, đốt cháy kho tàng, suốt đêm các mụ đàn bà vơ sạch những gì họ kiếm được. Sáng ra quân nó tràn vào. Tôi vừa mới ngồi xuống bậc thềm bắt đầu dùng sữa chiêu bánh mì. Tôi trông thấy chúng đi xe đạp. Nóng nực, chúng bận có mỗi quần cộc, ủng và súng quàng lên cổ trần trụi, chiến tranh mà. Tôi đã lớn rồi, mà phát hoảng lên, bỏ chạy vào trong nhà. Bọn nhóc sau này kể lại, chúng chạy ra xem mà ! ; bọn Đức đạp xe ra ngoài cái đập sau làng, ở đó có hai chiến sĩ Hồng quân đang đi, dọc bờ mương, hát rống lên : cả hai say mềm. Trong túi mỗi người đều còn một chai nữa. Ngay lập tức bọn chúng giơ súng tiểu liên “Rux, henđơ hốp » (**) Thế là cả hai đành giơ tay lên.

      Trong cảnh lắc lư và tiếng cọt kẹt cua toa tàu, giọng nói đó lúc thì vang lên rõ hơn, lúc thi biến mất.

      Và một lúc nào đó, Trêchiakov, yếu sức vì mất máu, lại thiếp đi.

      Anh thấy mình ở dưới gầm cầu : nằm trên cỏ sau tảng đá to, còn bọn Đức thì phi mô-tô trên cầu.

       Anh nghe thấy tiếng răng rắc và tiếng xe phành phạch, anh trông thấy tấm gỗ lát mặt cầu lay động trên đầu anh. Im ắng... Từ sau mỏm đá anh nhìn ra. Phía trước lòng khe khô cạn, những bụi cây lúp xúp. Và đột nhiên anh cảm thấy, anh không trông thấy,  mà bằng hai bả vai, bằng lưng, anh cảm cái nhìn đang hướng vào minh. Anh quay ngoắt lại - một tên Đức. Nó đứng trên cao, nhìn anh, đội mũ, quân phục mở phanh trên bộ ngực đẫm mồ hôi, băng đạn tiểu liên dự trữ thò ra từ cái ống ủng đầy bụi. Không xuống xe đạp, tên Đức chỉ chống một chân, từ trên cao theo dõi anh đang bò dưới gầm cầu giữa ban ngày. Ngay lúc đó anh cảm thấy sự bất lực không tránh khỏi của những gì đang xảy ra, anh không nhúc nhích, từ phía dưới nhìn tên Đức, và ý nghĩ khiếp nhược quay cuồng : vừa mới đây mọi chuyện đều khác hẳn, thế mà bây giờ, không sao thay đổi, không sao sửa chữa được điều gì. Tên Đức tháo khẩu tiểu liên khỏi cổ đẫm mồ hôi, bắt đầu nheo hàng mi trắng. Và khi cảm thấy đôi chân tê dại đi trước họng anh liền lao đến, kêu thét lên và anh tỉnh dậy vì tiếng kêu của mình.

       Anh nằm đó tai ù đi và không tin rằng mình còn sống. Vì sao trong mơ bao giờ cũng đáng sợ ? Không một lần nào trong chiến đấu anh lại cảm thấy sợ như sau đó ngủ mơ. Và bao giờ trong mơ bạn cũng thấy mình bất lực trước những điều đang đến gần.

      Vài ngày sau, từ ô cửa của đoàn tàu tải thương, từ chăn đệm, trong sự rung rinh êm êm của lò xo, từ trong ấm áp, anh trông thấy thắp thoáng sau làn kính một khu vườn táp sương, nhưng chưa rụng lá. Và anh chợt nhớ lại rành rọt — thậm chí anh cảm thấy hương vị những quả táo mùa thu mát lạnh lần ấy cả lớp anh đi lao động. Những gốc cây cổ thụ sần sùi đứng trên lá câ vàng rực đẫm sương, những quả táo lạnh buốt trên cây, từ đống lá làn khói cay cay bốc lên, gió lùa khói bay khắp vườn.

      Và giữa trưa, từ những đám mây xám xịt mưa tuyết đổ xuống, trời tối sầm lại, tất cả tụ tập trong chòi canh bên đống lửa, những bàn tay lạnh buốt đỏ ửng bốc lấy khoai nóng trong chiếc nồi gang đặt trên bàn, rồi chấm muối. Và sữa rót đầy ca...

      Tất cả những điều đó đã lâu lắm rồi, dường như trong một cuộc sống khác.

………………………….. 

    (*). Một thằng Nga toi mạng ! Hai thằng Nga toi mạng ! – Tiếng Đức.

    (**). Bọn Nga, giơ tay lên ! – Tiếng Đức.

Logged
huytop
Thành viên
*
Bài viết: 919


« Trả lời #25 vào lúc: 26 Tháng Bảy, 2016, 10:26:26 pm »

     

       XI.




      Mùa đông ở Uran đến sớm. Sáng sáng ánh tuyết hắt lên trần nhà trắng toát, còn mặt trời rọi vào những ô kính ẩm ướt, mà ở đó băng đang tan . Có lần thương binh mở cửa kính đã được dán kín, và thò đầu ra, họ vỗ tay, họ hò hét bên trên, lấy nạng gõ vào các viền sắt ở cửa.
    - Hát bài lên đường !

      Phía dưới, ở trong sân bên bức tường gạch cua một trường phổ thông xưa được mặt trời sưởi ấm, và bây giờ là quân y viện, đội nhạc của nhà trường đang biểu diễn tiễn đưa những người trở lại mặt trận.
     - Bài lên đường !— Họ hét lên bên các cửa sỗ.

      Trêchiakov còn chưa đi đến đó, chỉ ở tận đầu kia của buồng bệnh anh cũng nghe thấy rõ, trong sân một vài chiếc măngđôlin và balalaica đang gẩy một giai điệu được ưa thích. Và giọng hát trẻ trung, vui sướng, vang lên lảnh lót ngoài băng giá.
      “Đừng buồn, đừng khổ đau   
       Xin gửi nụ hôn bên ngưỡng cửa…”


      Đại úy Roizman mù lòa vịn thành giường, đánh đổ chiếc ghế đẩu ở lối đi, đang bước ra chỗ sáng bên cửa sổ.

       Đường thênh thang rực sáng
       Rộng mở trước chúng ta…..


      Bài hát ấy được trình diễn ba lần liền, Thương binh không muốn nghe bài nào khác : Họ thích bài hát này, cứ yêu cầu đi yêu cầu lại. Và họ lại gẩy đàn. Vui sướng vì tuổi trẻ, vì âm điệu, vì sức  mạnh, giọng thiếu nữ trong veo bay vút lên trên tất cả các giọng khác :
       “Đừng buồn, đừng khổ đau….
   
        Y tá chạy vào phòng bệnh nhân, đóng sập cửa sổ lại, đẩy thương binh về giường :
        - Các anh điên rồi I Ngoài sân băng giá, muốn sưng phổi hả ?

       Cũng trong ngày hôm ấy anh tải thương cụt một chân bắt đầu tập tễnh đi chân giả. Có dạo anh nằm ở đây cho hết kỳ hạn, anh được ra viện nhưng không biết đi đâu : ngôi nhà của anh và cả vùng quê đã bị quân Đức chiếm đóng. Bởi vì thế anh ta đâm mọc rễ ở quân y viện. Anh lấy đinh đóng chặt ô cửa sổ lại để mọi người, cho đến tận đầu xuân cũng không mở ra được : ở đây cần giữ gìn ấm áp. Nhưng đến tận đêm  âm điệu đó vẫn bay khắp phòng bệnh nhân. Người này quên, người kia khe khẽ hát, rồi đi lại, mỉm cười với chính mình. Trong góc phòng như người theo đạo Hồi, Gôsa ngồi khoanh chân trên giường, tráo bài rủ chơi tính điểm.

       Tính theo tuổi, Gôsa cũng gần giống như những học sinh phổ thông kia, nhưng trong cuộc đời mình, anh đã kịp ra đến mặt trận. Đoàn tàu quân sự bị ném bom, Gôsa bị sức ép và họ chở anh vào quân y viện. Rồi anh lại ra trận, và lần này không phải bị trúng bom mà trúng pháo địch. Anh tỉnh lại ở quân y viện, các bác sĩ nói rằng đợt chấn thương trước của anh bị ảnh hưởng. Và rất có thể, anh lại bị sức ép. Không lần nào. Gôsa có thể thuật lại cho đến nơi đến chốn : anh bắt đầu hồi hộp, nghẹn ngào đến nỗi không thể nói ra được, người rung lên như đang nức nở.

       Ngày ngày, từ sáng sớm anh đã ngồi trên giường với cỗ bài : Chờ xem có ai chơi tính điểm với anh không. Và số phận anh có thể đoán trước được. Hồi ở trường sĩ quan mỗi khi được nhận giấy ra ngoài, Trêchiakov đã thấy những người như thế  ở ngoài chợ, bên các quán bia ; họ cụt chân ngồi dưới đất, chơi “vòng”, “dây”, họ còn đổi chác gì đó dấu dưới áo ngực, họ chỉ sống độc bằng ban ngày. Hoặc là, kẹp chặt bao thuốc lá đã bóc trong mỏm tay cụt, họ run cầm cập ngoài băng giá, bán lẻ từng điếu. Chắc vì thế mà bác sĩ không vội cho Gôsa ra viện.

       Nhìn dáng điệu, rõ ràng đó là một chàng trai anh hùng, lao ra trận lập chiến công, nhưng anh ta không được may mắn, không thực hiện nổi điều gì, không được chết vinh quang.

       Thứ sáu nào các học viên trường sĩ quan lục quân cũng đi tắm ngang qua quân y viện. Từ nhà tắm ra, họ vừa đi vừa hát. Giọng hát của người bắt nhịp run run, không lấy được dũng khí và dễ gẫy trong giá lạnh, cất cao trên đội ngũ nhấp nhô, trên làn hơi nước bốc lên từ những chiếc lưng áo bạc màu và từ những chiếc chổi tắm ướt sũng.
      “Ở nơi mà bộ binh không đến được
       Tầu bọc thép không qua
       Xe tăng không trườn tới….


        Lạo xạo, lạo xạo — những đôi ủng đi trên tuyết. Yên lặng đợi chờ. Giọng người bắt nhịp cất lên giữa hàng quân, ai cũng lo cho giọng hát ấy : nhỡ không đủ hơi thì sẽ hỏng cả bài hát. Và lần cuối cùng, giọng hát ấy cất lên không thương xót :
       Ở đó chỉ có chim sắt bay lượn được….

       Hệt như sẵn giọng trả lời, át cả tiếng bước chân, các học viên gào lên điệp khúc do ai đó sáng tác :
       Tạm biệt Maruxia, em thân yêu.
       Anh sẽ không quên tình em.
       Và, phải chăng, đây là lần cuối.
       Anh được nhìn vào đôi mắt xanh….


      Và ngoài băng giá, tiếng lạo xạo của những đôi ủng đóng cá sắt lại vang lên, hơi bay ra từ miệng, hơi bốc trên những chiếc mũ có tai. Đường phố ngập tuyết vắng vẻ, rộng rãi, những chiếc cổng khóa kín được cào sạch tuyết, làn khói trắng bay trên ống khói bếp lò, ở các ô cửa sổ không ai nhìn xem các học viên vừa đi vừa hát : chiến tranh, người nào không ra mặt trận thì làm việc mười hai tiếng vì mặt trận. Chẳng lẽ những gương mặt già nua trùm kín khăn lại dán chặt vảo ô kính, và những đôi mắt đùng đục lờ mờ lại nhìn theo hay sao.
Logged
huytop
Thành viên
*
Bài viết: 919


« Trả lời #26 vào lúc: 29 Tháng Bảy, 2016, 09:35:05 am »

       
       Băng giá cũng phải nhường bước, các học viên đi rất nhanh. Lúc này không phải áo capốt, mà bài ca và bước đi đã ủ ấm họ : Lạo xạo, lạo xạo. Như một bầy chim sẻ, bọn trẻ từ hai bên đường chạy theo sau hàng quân nhìn ngắm, và chúng dường như cũng bước đều, bước ! Bước đều, bước.! Và ở các ô cửa sổ của quân y viện, thương binh mỉm cười, hệt như nhìn vào quá khứ của chính mình.

       Nửa tháng sau, khi đã bình phục, Trêchiakov còn phải mổ thêm lần nữa : gắp những mảnh đạn nhỏ ở tay, nối dây thần kinh, rồi bọc bằng xenlôphan. « Chúng tôi đã bọc như bọc kẹo ấy » bác sĩ phẫu thuật nói.

      Phẫu thuật chỉ gây tê tại chỗ, nên đêm đến, nỗi đau thật sự mới bắt đầu, các bác sĩ đưa cho cô y tá một ống moóc phin dành cho anh. Hầu như cho đến sáng, anh đi lại suốt dọc hành lang, nhưng không chịu tiêm thuốc. Thượng úy pháo binh nằm trong phòng dành riêng cho sĩ quan, đôi tay dập nát vì đạn nổ. Anh ta bị xóc tung lên trong xe-tải thương, khi họ chuyển anh ta ra đoàn tàu cứu thương, họ tiêm moóc phin để anh ta ngủ, và cho người khác ngủ. Thế mà bây giờ anh ta hỏi xin y tá moóc phin, rồi đổi chác, dối trá, hạ mình van nài. Thấy thế, Trêchiakov quyết định thà chịu đựng còn hơn biến thành người như vậy, cho dù cô y tá chế nhạo anh, các cô bảo một mũi tiêm không thể trở thành kẻ nghiện moóc phin được.

      Gần sáng, thương anh, các cô y tá rót cho anh nửa cốc rượu cồn, anh uổng cạn, nằm xuống rồi kê gối dưới đầu và váng vất ngủ thiếp đi. Anh nằm mơ, hình như anh nghe thấy có giọng nói, chính cái giọng đã hát :”Đừng buồn, đừng khổ đau..” ở ngoài sân. Anh nghe thấy cô gái ấy đang nói trước mặt anh, thế là anh sợ hãi choàng dậy. Anh tỉnh dậy và không biết mình ngủ hay không ngủ, giọng nói đó vẫn vang lên, chưa biến mẩt. Anh thận trọng đẩy chiếc gối ra. Ánh tuyết trắng hắt vào phòng, những cành cây trắng đung đưa ngoài cửa sổ, tất cả vẫn rõ ràng như vẫn thường xảy ra sau đêm mất ngủ. Cách hai giường, một cô gái mặc áo choàng trắng, ngồi xoay lưng về phía anh, hai bím tóc dài chấm ghế. Chân cô ta mang đôi ủng dạ của lính, mà xám thuộc rất thô. Hai bím tóc lúc lắc trên lưng, cô ta quay đầu ỉại — trong khoảnh khắc đó, anh nhìn thấy một bên mắt cô sáng rực đầy vẻ lo lắng.

     Đại úy đeo huân chương Cờ đỏ ngồi trên giường gần chỗ cô. Anh là người duy nhất trong buồng bệnh của họ không cất huân chương dưới gối mà cài chặt trên chiếc áo sơ mi mở toang dưới áo choàng, và anh cứ thế đi lại, ngực đeo huân chương. Anh không còn trẻ trung nữa và bị thương nặng : mảnh đạn cối nằm lại trong não của anh. Qua lời bác sĩ, họ được biết anh ta có thể sống với mảnh đạn ấy, nhưng cũng có thể chết đột ngột vào bất cứ lúc nào đó. Anh ta thường bị những cơn đau đầu, đến mức anh phải nằm liệt giường, thoàn thân nhợt nhạt.

       Trong phòng mọi người khe khẽ gõ đôminô, đánh túlơkhơ trên bàn ăn. Đại úy Rôizam mù lòa lê giầy lệt xệt trên sàn nhà, rồi va phải giường. Cô gái nói nhỏ, Trêchiakov nghe câu được câu chăng :
       - Cháu không thể tha thứ cho mình... Cháu hoàn toàn không hiểu... Còn anh ấy nổi nóng lên một cách hãi hùng. « Em quên rồi hả !» Lúc đó cháu mới chợt hiểu, anh ấy chỉ còn có nửa giờ đồng hồ nữa. Anh ấy hút hết điểu thuốc này sang điếu thuốc khác... Anh ấy muốn nói. Cháu chạy bổ đến, tất cả mọi người có mặt ngoài sân ga đã lâu ...   

       Bằng thính giác, Trêchiakov cảm thấy rằng cô gái quay về phía anh.
       - Anh ấy ngủ, — đại úy nói, — Mới mổ hồi chiều Và đột nhiên anh cảm thấy bực bội, cô gái thậm chí chẳng hỏi han gì, đối với cô, anh ta chỉ là điều trở ngại trong câu chuyện.

       Chiếc giường lại bị xô đẩy, Rôizman đụng phải. Tiếng bước chân lệt xệt, xa dần. Cô gái bắt đầu thì thào khẽ hơn :
      - Rồi sau đó khi tiếng còi tàu và còi lệnh vang lên, mẹ cháu lao đến ôm hôn anh ấy ! Mẹ cháu đã hôn anh ấy như thế ! Hôn lên cổ, lên gáy, lên đầu... Chỉ đến lúc nào đó cháu mới nhận thấy, chỉ đến lúc đó cháu mới hiểu ra rằng điều đó là thế nào. Cháu cảm thấy rất dễ chịu, vì anh ấy đã đến, và tóc cháu xõa tung trên vai. Anh ấy đi đến chỗ chết chóc.

       Trêchiakov muốn nhìn thấy gương mặt cô nhưng anh chỉ nhìn thấy dải tỏc đuôi sam trên áo choàng, và đôi ủng to xám dưới gầm ghế đẩu. Anh chợt nhớ ra, anh đã có lần trông thấy đôi ủng này ở đâu.

       Đoàn tàu cứu thương dừng ở ga, họ khiêng những người nằm trên cáng, tải thương dìu những người đi được. Lúc anh được dìu từ trên bậc xuống, có hai đứa trẻ chui ra khỏi gầm tàu : cô bé choàng khăn kín người, băng giá lạnh buốt còn cậu bé đội chiếc mũ có vành che tai bằng da đen. Cả hai nhìn quanh xem có ai tròng thấy mình không, và chúng vui sướng, hà hê, một thùng than chưa cháy hết khét lẹt đầy ụ đặt trước mặt : Chúng đi nhặt than trên đường. Anh nhận thấy cô gái mang đôi ủng bộ đội, đúng là đôi ủng này, to, rộng. Rất có thể, đây chính là cô bé đỏ ?

      - Các bạn ơi, — Rôizman gọi. Giơ tay lên, ống tay áo choàng bằng vải flanen tuột thõng xuống, — anh rờ mép cửa sổ. — Đây là cửa sổ, phải không ?

       Mọi người ngừng nện đôminô. Đứng ngược sáng, Rôizman rờ ô kính, rờ khung cửa. Đôi mắt anh — không một chút hư hại, vẫn sáng rực lên nhưng lại không trông thấy gì — lúng túng nhìn căn phòng, nhin lướt qua tất cả mọi người.
       — Tôi phân biệt được ánh sáng. Đây... Nó đây...

       Và tay run run anh bắt lấy ánh sáng trên ô kính.
Logged
huytop
Thành viên
*
Bài viết: 919


« Trả lời #27 vào lúc: 03 Tháng Tám, 2016, 06:46:52 pm »

   

        XII


 
       Từ hành lang bên cạnh phòng sơ cứu, vẫn phảng phất hơi lạnh lọt qua cửa kính, xa xa vẫn thấy rõ: đường tàu, nhà ga, và những ô cửa sổ băng tuyết bám trắng xóa. Nhìn những ô cửa sổ nhà ga to rộng như cổng ra vào, có một lần nào đấy anh hồn nhiên nghĩ rằng ban đêm đoàn tàu từ một bài thơ của trẻ con sẽ đi dạo chơi qua những ô cửa ấy ; đoàn tàu đẩy cửa bằng tấm ngực thép ; đi ra, xung quanh vắng lặng, ngay cả người bẻ ghi cũng kéo ghế đến bên bếp lò thiếp đi...

       Hồi ấy, anh mới lên bốn, và bố anh vẫn sống với mẹ con anh. Bố bảo anh không được ngủ mà phải trông coi đồ đạc, và bố cùng với mẹ bỏ đi đâu đó. Anh ngồi trên chiếc va-ly giữa những người nằm ngủ ngổn ngang, và anh hình dung thấy người bẻ ghi thiu thiu ngủ trong góc nhà, bên bếp lò và đoàn tàu đẩy ô cửa sổ bằng tấm ngực thép ra sao...   

       Bố anh trở lại, tay xách đồ, tay dắt anh và cả hai cha con cùng đi đến gian phòng lớn. Dưới ánh điện, mọi cái đều sáng rõ, nhiều người vui vẻ trò chuyện bên bàn ăn, khói thuốc bốc lên tận trần nhà, và giữa tiếng ồn ào và giữa ngày hội hè mẹ ngồi một mình bên chiếc bàn trải khăn ăn trắng tinh, chờ hai bố con. Mọi điều chưa từng thấy, không giống ở nhà. Lần đầu tiên cả nhà ăn giữa đêm và bữa ăn không phái do mẹ nấu, có một người bước đến, khăn mặt vắt trên tay, bố nói với người đó, người đó ghi lại tất cả và tỏ ra rất hài lòng. Thật kinh ngạc, ở đây sao mà họ nấu ăn nhanh đến thế. Thường thường, mẹ vẫn đứng nửa ngày bên bếp dầu, còn người này vừa đi khỏi thì ngay lập tức làm xong tất cả và mang đến.

      Rồi sau đó cả nhà đi xe ngựa, những vì sao đu đưa gần ngay mặt. Và thế giới đã trở nên vô tận. Vũ trụ và các thế giới khác là gì ? Chỉ có một thế giới vô tận : Tuổi thơ. Và những con người bất tử sống trong thế giới ấy là : Anh, bố, mẹ. Lúc đó thì Lianka còn chưa có trên đời.

     Cứ mỗi khi băng giá nổi cơn thịnh nộ như thế, thế nào anh cũng nghĩ đến cha. Mẹ đã gửi gói bưu phẩm cuối cùng cho cha trước lúc chiến tranh, còn bức thư cuối cùng của cha, từ nơi ấy được gửi về sớm hơn.

       Chuyện, mẹ đã có chồng, khi cha anh đang ở chốn ấy, nói chung, ngoài cha anh ra, ai đó sẽ là chồng của mẹ, anh không thể tha thứ cho mẹ. Cho nên anh không thể nhìn mẹ chăm sóc bố dượng, và chốc chốc lại đưa mắt nhìn Bezais. Anh luôn cố tình tìm thấy ở người chồng của mẹ những điều khó chịu nhất, anh không bao giờ và không sao gọi tên người đỏ được: «Có điện thoại….có thư..». Thường thường anh sai truyền qua Lianka : «Bảo với ông ấy, họ hỏi ngoài kia». Lianka là một cô bé ngổc nghếch, nó vừa quấn quít với Bezais vừa nhớ đến cha. Có lần anh trông thấy nó cho tấm ảnh của cha xơi vụn bánh bích qui : nó ngồi bệt xuống sàn nhà, đằng sau cái giường, thầm thì gì đó rồi đưa vụn bánh qui lên miệng, lên ảnh.

       Trong cả ba người chỉ có mình anh vẫn mang họ  của cha : Trêchiakov. Và tất cả các tấm ảnh của cha, thậm chí cả những tấm mẹ đứng bên cha, anh cũng lấy hết. Bây giờ nhưng tấm ảnh ấy, thư của Lianka gửi cho anh hồi ở trường sĩ quan, thư của mẹ — tất cả những thứ đồ cùng với chiếc xà cột đã nằm lại ngoài trận địa hỏa lực của khẩu đội trong chiếc xe hòm của chuẩn úy. Khi họ đưa anh đi, anh còn nghĩ : “Mình sẽ trở lại trung đoàn... ». Làm như trong chiến tranh là có thể đoán trước được.

       Người tải thương chân cà nhắc đi từ ô cửa sổ này sang ô cửa sổ khác dọc hành lang. Anh ta dừng lại, đo ướm, rồi rút chiếc đinh từ bộ ria mép ra, khẽ đóng vào bên cửa sổ. Anh tự ngắm nghía, đứng lại và treo cái chai lên đinh. Rồi những ngón tay cứng quèo của anh ta cứ nhét mãi sợi bấc bện bằng băng đã giặt sạch xuống dưới khe cửa, để nước từ trên cửa kính theo sợi bấc chảy vào chai, chứ không rỏ xuống sàn nhà. Anh ta đã giành lại chỗ đứng của mình, công việc lặng lẽ ở nơi ấm áp này đủ cho anh từ bây giờ đến khi kết thúc chiến tranh.

       Hồi nào về mùa đông mẹ anh cũng treo những cái chai như thế dưới bậu cửa sổ : sáng sáng băng bám đầy các tấm kính trên cao, anh ủ đồng năm cô-pếc bằng đồng trong tay, rồi ấn vào băng. Anh kẹp thêm lần nữa, rồi ấn đồng tiền vào cửa sổ : sấp — ngửa, sấp — ngửa. Và những đồng cô-pếc băng của anh tan ra dưới ánh mặt trời. Mọi điều trước chiến tranh lúc này giống hệt như một thế giới đã biến mất.

        Cách đây không lâu anh nằm trong buồng bệnh và nhớ lại: Mùa thu, anh ngồi bên cửa sổ lớp học, nhìn từ tầng hai xuống đường. Ở đằng kia là đường tàu loại nhỏ dẫn vào nhà máy bơ, và một đống hạt hướng dương nằm ven đường sắt. Nam nữ thanh niên mặc áo bông trần, để hở mặt, nằm sưởi ấm trên đống hạt hướng dương dưới mặt trời lạnh lẽo. Bác lái tầu ngồi trong ô cửa, trông giống như ngồi trong khung ảnh, khi chạy ngang qua cũng đưa mắt nhìn họ. Bác kéo căng sợi dây, một luồng hơi trắng xóa phụt lên từ còi tàu. Và như bị đánh thức dậy, họ lăn vào nhau, túm lẩy tay áo bông, cười rúc rích... Chuyện đó xẩy ra trong thế giới đã biến mất ấy. Rất có thể, lúc này không một ai trong số họ còn sống : cả những chàng trai, cả bác lái tàu từng chạy thẳng qua nhà họ.

      Từ cửa nhà ga, mọi người bỗng lũ lượt kéo nhau ra sân ga đầy tuyết, tất cả đều mặc ấm, che kín đến tận mắt. Băng giá lạnh buốt, đất trời xám ngắt, cả không khí, cả tuyết đều mang một màu xám ngắt. Chỉ có lớp băng bám trên mặt kính ánh lên hồng hồng. Không biết thời gian, không thể đoán được mặt trời mọc hay mặt trời lặn : mặt trời nhòe nhòe sau màn sương xám không hẳn tối mà cũng chẳng có tia sáng nào.
Logged
huytop
Thành viên
*
Bài viết: 919


« Trả lời #28 vào lúc: 06 Tháng Tám, 2016, 01:45:41 pm »


        Cả đoàn tàu đẫm hơi nước lao vào sân ga. Băng chảy từ trên mái các toa tàu xuổng, những ô cửa trắng mờ. Và dường như đoàn tàu cuốn theo cả gió, từ trên nóc nhà ga gió cuộn lại rồi xoáy tít. Trên các mô tuvết, trong hơi nước, mọi người chạy rối lên từ cửa này sang cửa kia, họ chạy dọc theo đoàn tàu. Họ chạy ngược chạy xuôi, tay xách đồ đạc, tay dắt con, vậy mà khắp nơi các cửa đều đóng kín, họ không được vào.

        Người tải thương bên cạnh cũng đứng nhìn. Anh ta thận trọng nhả chiếc đinh vào lòng bàn tay.
       — Giá thằng Hítle đó mà đến đây ! Nó cứ ở nơi ấm áp. Còn dân mình phải chịu đựng những đau khổ như thế .. . với cả bọn trẻ nữa...   

       Rồi anh ta co ro như chính mình bị thấm lạnh. Đối với Trêchiakov, cuộc nói chuyện đó rất ngớ ngẩn. Anh trút giận lên người tải thương bởi lẽ anh cũng tbấy xót thương các cụ già bị đuổi khỏi tàu đang chạy lăng xăng ngoài băng tuyết, anh nói :
       - Sao, theo anh, cái thằng Hítle nào đó muốn thì chiến tranh bắt đầu hả ? Và nó muốn thì chiến tranh kết thúc hả ?

       Và anh ưỡn thẳng người dưới làn áo choàng vì cái giọng thủ trưởng của chính mình. .

       Người tải thương ngay lập tức xỉu đi và tỏ ra nhu nhược :
        — Không phải tôi muốn thế, - anh ta miệng lắp bắp, chân bước sang ô cửa khác. - Hay là cái chân của tôi hóa ra thừa đối với tôi ?

       Trêchiakov nhìn theo anh ta, một chân giày và một chân gỗ. Giảng giải điều gì cho anh ta ? Nếu không bị nối bên chân cụt, thì không thể giảng giải được.

       Mà quan trọng nhất là anh có thể giảng giải cho chính mình không phải tất cả mọi điều. Ở trường phổ thông, theo lời thầy cô, anh biết trả lời đủ điểm. Vì sao các cuộc chiến tranh xuất hiện và chúng xuất hiện như thế nào ? Và nhờ các điều kiện đã được xác định, tính tất yếu của các cuộc chiến tranh ấy đã được giải thích và rất đơn giản. Nhưng những gì anh đã trông thấy suốt trong những năm tháng này, không thể cắt nghĩa dễ dàng.

       Đã bao lần như vậy - các cuộc chiến tranh kết thúc, và chính các dân tộc vừa mới bắn giết nhau điên cuồng, dường như chính họ cũng không còn cuộc sống trên trái đất, chính những dân tộc ấy sau này lại sống trong hòa bình, và không hề cảm thấy căm thù nhau. Chẳng lẽ vì thế mà không có giải pháp pháp nào khác, mà chỉ sau khi đã giết hại hàng triệu người mới dẫn đến kết cục đó hay sao?. Không dành riêng cho người nào, mà dành cho chính cuộc sống, một sự cần thiết như thể nào, trong đó con người được xếp thành các tiểu đoàn, trung đoàn, các đại đội trong các đoàn tàu quân sự, vội vàng lao lên, chịu đựng đói khát và nhiều cảnh thiểu thốn trên đường đi, hành quân cấp tốc, rồi sau đó nằm rải rác khắp chiến trường, bị đạn pháo tiện đứt, bị các tiếng nổ quét sạch, và thậm chí là không thể nhặt nhạnh, chôn cất được nữa ?   

        Chúng ta đang đẩy lùi cuộc xâm lược. Không phải chúng ta bắt đầu chiến tranh, bọn Đức đến đất nước chúng ta – giết và hủy diệt chúng ta. NHưng chúng đến để làm gì. Chúng đang sống bình thường, nhưng đột nhiên đối với chúng không thể có một cuộc sống nào khác là phải tiêu diệt chúng ta ư ? Nếu chỉ theo mệnh lệnh, đằng này chúng chiến đấu cật lực. Hay bọn phát xít thuyết phục chúng phải không? Thuyết phục như thế nào ? Thuyết phục ở điểm gì ?

      Cỏ sinh sôi và tất nhiên rồi sẽ chết khô, và trên đất đai được bón phân cỏ, cỏ lại mọc dầy hơn. Nhưng con người sống trên đời không phải là để bón mình cho đất. Và cuộc đời cần gì đến việc để biết bao ngưòi tàn tật bị giày vò trong các quân y viện ?

     Tất nhiên, không phải chỉ một người nào đó thúc đẩy lịch sử bằng ý muốn của mình. Mọi người sẽ dễ hình dung hơn điều khó hiểu : hoặc là nó diễn ra không phụ thuộc vào họ, hoặc là một người nào đó hướng cho những người khác biết trước rằng họ, phải chết, không thể tránh khỏi. Nhưng mọi việc diễn ra không phải như vậy. Thường thường sức lực của mọi người là để thúc đẩy lịch sử đi theo con đường này chứ không phải con đường khác, lại còn quá ít ỏi.

       Trước chiến tranh, anh đã đọc được một điều làm anh hết sức ngạc nhiên : hàng loạt năm tháng đặc biệt thuận lợi đã diễn ra trước khi Tzinghixkhan , tiến hành cuộc xâm lược. Mưa đúng mùa, cỏ mọc tốt chưa từng thấy, nhiều bày đàn sinh sôi nảy nở, tất cả những điều đó cùng một lúc đem lại sức mạnh cho cuộc xâm lăng. Rất có thể, nếu hạn hán kéo dài nhiều năm trên vùng đất này, các điều kiện thuận lợi không hội tụ lại, thì tai họa khủng khiếp  đã không giáng xuống đầu các dân tộc trên các vùng đất khác, và lịch sử của nhiều dân tộc đã diễn ra hoàn toàn khác.

       Người lính chiến đẩu ngoài mặt trận, và anhta chẳng tiếc sức mình. Cuốn một điếu thuốc, anh ta không biết mình có hút hết điếu thuốc hay không : đang nằm dài ra đó, nó mà đến – thế là tha hồ mà hút…..
Logged
huytop
Thành viên
*
Bài viết: 919


« Trả lời #29 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2016, 08:44:07 pm »

     
       Nhưng ở đây, trong quân y viện, chỉ có độc một ý nghĩ bứt rứt : Phải chăng rồi một lúc nào đấy hóa ra cuộc chiến tranh có thể không xảy ra ? Sức mạnh của mọi người để ngăn ngừa cho cuộc chiến tranh đó ở đâu? Và giá hàng triệu người sống lại được... Thúc đẩy lịch sử đi theo con đường của nó - ở đây cần sự nỗ lực của tất cả mọi người, và cần tụ hội được nhiều điều. Nhưng, để đẩy bánh xe của lịch sử trượt khỏi đường ray, có thể không cần nhiều người đến thế, cỏ thể, chỉ lén lút đặt một hòn đá nhỏ là đủ?

       Khi chiếc bánh xe lao xuống và lăn răng rắc trên mọi người, lăn trên những bộ xương, ở đây không còn có sự lựa chọn nữa mà chỉ có một điều : chặn lại, không cho nó lăn tiếp trên cuộc đời của mọi người. Song chẳng lẽ cả điều đó có thể cũng không có ? Người tải thương đã nói những gì mình nghĩ, và trong con người ấy mọi điều đều được thức tỉnh một cách mới mẻ. Nhưng mà lúc này đây điều đó cũng chẳng để làm gì. Không có thời gian và chẳng để làm gì. Bây giờ đang là chiến tranh, chiến tranh với bọn phát-xít và cần phải chiến đấu. Đó là điều duy nhất không thể trút cho ai khác. Và dù sao cũng không ngăn cấm mình suy nghĩ, cho dù điều đó cũng chẳng để làm gì.

     Dựa vào qui mô của sự kiện, mọi người suy xét nguyên nhân : sự kiện lớn, tức là, có các nguyên nhân như thế nào để không thể không dẫn đến sự kiệu đó. Và có thể, mọi điều đơn giản hơn nhiều? Làm việc thiện cho mọi người, ở đây cần có nhiều điều. Nhưng thậm chí một con mèo bẩn thỉu nhất cũng có khả năng làm vấy bẩn lịch sử.

      Từ ô cửa của mình, mỗi người — anh và người lính tải thương — đều nhìn đoàn tàu chuyển bánh, bỏ lại mọi người ngoài rìa sân ga. Cánh cửa ở toa cuối cùng lắc lư từ bên này sang bên kia, dường như muốn rời khỏi đoàn tàu. Một đám tuyết vút theo phủ kín mọi vật.

      Và dẫu sao, trong mớ bòng bong đó, cho dù các sợi chỉ có rối tung lên, mỗi người vẫn có vị trí của mình, có cái đúng và có cả cái sai. Ta có thể lần gỡ được mở bòng bong đó, có thể gỡ được. Nếu phải dành cả cuộc đời cho việc đó cũng không tiếc. Và lúc này đây anh đang mong được trò chuyện với ai đó. Chỉ có điều là với ai ?

      Đã có lần anh nói chuyện với Xtarức - Xtarức chỉ nhìn anh, căng óc ra mà không thể hiểu được, không chỉ ý nghĩa của lời nói mà cả cái ngôn từ của người
nói với anh ta :
      - Sao cơ?

       Toàn thân Xtarức đầy vết sứt sẹo, anh ta đã bốn lần bị thương, cho nên bây giờ đối với bản thân, ngoài chuyện chiến tranh ra, anh ta đều trả lời cộc lốc, để không đụng chạm đến tâm hồn một cách vô ích.

      Còn Atrakovxki thì hoàn toàn khác. Anh một mực im lặng. Trêchiakov thấy anh ta im lặng không phải vì không có gì để nói, mà im lặng vì không thể nói với ai cũng được và không thể nói hết những điều anh ta biết.

       Hai ngày sau, những vết ủng của cô gái có bím tóc đuôi sam đã ngồi bên giường đại úy Atrakovxki vẫn còn in trên sàn nhà. San đó, cô y tá đẩy tấm khăn ướt, lau sàn nhà dính dầu đến sáng bóng lên. Và lúc này đây, Trêchiakov vẫn thấy cô gái đi ra, chân mang ủng, áo choàng trắng, lưng buộc một sợi dây nhỏ, và ra đến cửa cô còn ngoái lại. Vô tình anh rơi vào tầm nhìn của đôi mắt xám, nhưng không sao in bóng trong đôi mắt ấy.

       Với vẻ tò mò mơ hồ, anh ngắm nhìn đại úy Atrakovxki. Anh ta nằm ở đây đã lâu, các em học sinh đến quân y viện đọc sách, viếí thư hộ những ai không tự viết được vì bị thương, các em quen biết anh. Làm sao cô bé ấy lại kể về mình cho anh ấy nghe ! Có lẽ, chỉ bởi vì anh ấy đã lớn tuổi rồi sao ?

      Trong phòng bệnh bao giờ cũng vậy, ăn xong mọi người đánh cờ giết thời gian. Ở quân y viện thời gian trôi chậm chạp, từng người bắt buộc để lại một phần đời mình ở nơi đây: người thì chở được chuyển ra mặt trận, người thì trước lúc bắt đầu một sự gì đó đối với mình kể từ nay, Nhưng tất cả đều hướng tới điều mình chưa từng biết : họ thích những gì không tạm bợ, rõ ràng, cho dù, có thể, ở nơi đây, trong quân y viện, đối với người nào đó trong số họ, nhưng năm tháng vinh quang đẹp đẽ nhất của cuộc đời mình thế là đang đi tới kết thúc và mãi mãi nằm lại phía sau.

      Đại đội trưởng Xtarức và đại úy Rôizman mù lòa đang chơi cờ, số các ván cờ đã lên quá hàng trăm, nhưng Xtarức vẫn không mất hy vọng gỡ lại. Họ ngồi đối diện bên bàn, và mọi người qua lại tụ tập xung quanh, cả Atrakôvxki cũng đứng đó, tay giữ áo. Anh thận trọng đi khắp phòng như sợ chạm đến chỗ đau, và anh dừng lại, cùng xem với tất cả mọi người, nhưng vẫn thấy sao mà tách biệt với mọi người.

     Nghe chuyện, Trêchiakov biết rằng, năm bốn mươi mốt, Atrakovxki bị bắt làm tù binh, anh chạy thoát, và phải thử thách mãi : và năm bốn mươi hai anh lại sa vào vòng vây và anh đã vượt vòng vậy. Sau đó, anh được tặng thưởng Huân chương Cờ đỏ, anh đã lập được một chiến công gì đó tương đối lớn, vì không phải dễ dàng mà người ta tặng thưởng Huân chương cho một con người như thế. Và cuộc sống ở anh được duy trì một cách khó khăn, ngày nào cuộc sống ấy cũng có thể chấm dứt một cách đột ngột.

      Khi tất cả đã lên giường nằm, họ bắt đầu nói đến chuyện bị thương — ai bị, bị ra sao, trong hoàn cảnh nào và Trêchiakov chợt nhớ ra :
    - Tôi biết ngày hôm đó tôi sẽ bị thương.

       Quả thật, lúc đó anh nghĩ rằng anh có thể bị thương, có thể bị chết sau khi tình cờ anh trông thấy những viên đạn giết chết con bồ câu đang bay trên không trung. Và không hiểu sao điều đó đã tác động đến anh như một điềm báo. Nhưng ngay sau đó, trong trận đánh anh quên đi, và chỉ đến bây giờ anh mới nhớ lại.
      - Làm sao mà cậu biết trước được điều đó ? — Xtarức hỏi vẻ không tin tưởng lắm.

      - Tôi biết chứ.

       Nhưng anh không kể về điềm báo trước, anh sợ mọi người cười.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM