Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 07:47:50 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Đất Trắng  (Đọc 101983 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
danhthanh
Thành viên
*
Bài viết: 708


« Trả lời #160 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2016, 06:51:42 pm »


Tuấn dẫn trung đoàn bộ cắt đường vởng trở lại. Từ suối Ông Thành lấy núi Bà Đen làm chuẩn ở phía sau lựng, cắt dọc theo sông Thị Tính, qua lộ Căm Xe. Trở về Ván Tám, và xuống lại cứ Suối Tre. Mới mấy ngày, họ từ đây ra đi.Cũng trong lúc đó đồng chí trợ lý tác chiến được ông Dũng phái đi, “móc” được hậu cần, lại vởng lên suối Ông Thành và hai bộ phận cứ như vậy đuổi theo nhau. Bộ phận đi trước để một người ở lại, và dặn với bộ phận di sau hai ba cái cử mà khả năng họ có thể đến.
Chi sau hai ngày, khi họ quay trở lại, thì cánh rừng từ Ván Tám, Bãi Cưa đã bị ủi tráng. Chúng nó tiếp tục ủi dồn lên phía bắc lộ Căm Xe.
Cùng sau khi d Chín tập kích tiêu diệt hơn một chục chiếc xe tăng và hàng trăm tên Mỹ trước đêm tiểu đoàn vượt sông Nha Thức, địch tập trung phi pháo oanh tạc suốt ngày đêm vào các cứ ở Long Nguyên, suối Ông Thành, Bãi Cưa... Trên lộ Căm Xe, biệt kích và xe tăng ken dày. Hai bộ phận cùa trung đoàn bộ cứ đuổi nhau hành quân, gặp địch lại vòng sang cứ khác, gặp biệt kích lùi lại, cắt đường đi sang trái sang phải. Trúng mìn, gặp pháo, thì chôn cất tử sĩ rồi khiêng thương binh trên vai hành quân. Còn dăm lon gạo, Tuấn ra lệnh gom lại để cán bộ chịu trách nhiệm quản lý,  không ăn nữa. Chỉ kiếm củ rừng, và lá cây thay cơm, riêng thương binh, được ăn cháo nấu lần với củ...
Đến ngày thứ năm thì bộ phận đi sau đuổi kịp bộ phận đi trước. Tuấn dừng lại ở Ván Tám, rồi cho liên lạc xuống d Bảy báo cáo tình hình với ông Thêm.
Khoảng nửa đêm, đoàn thương binh do Quá dần từ bệnh viện phân khu cắt vào bệnh xá trung đoàn. Đêm lặng ngắt không nghe một tiếng động. Quá cho anh em dừng lại, rồi nói với chiến sĩ hộ tống.
- Cậu vào xem xem còn ai ở đó nữa không?
Mộc lúc sau, chiên sĩ đó trở ra:
• Chứng nó phá hết hầm rổi, chỉ thấy toàn dấu xích xe tăng, và vở đổ hộp. tụi Mỹ mới ở đây đi.
Cậu chiến sĩ đật cái túi dết lốn nhổn những đổ hộp nhặt được xuống đất. Các chiến sĩ được chia mỗi người một hộp. Người thì hộp cá, người hộp trái cây, có người vớ được hộp bánh ngọt. Từ trong vòng càn ra. họ đi đêm nay nữa là hai đêm hai ngày. Đoàn có hai chiến sĩ hộ tống và hai thương binh nhẹ cũng theo Quá trở vể. "Trực thăng” đổ chụp xuống bệnh viện khi họ mới dời khởi đó được chừng một tiêng đồng hổ. Không biết số phận của các anh em thương binh sẽ ra sao? Bệnh viện phân khu cũng ở gần Long Nguyên, nằm trong khu vực càn lớn. Đã hai hôm nay, không biêt có đơn vị nào đánh nhau không mà phía sau họ bom pháo nổ suốt ngày.
Đoàn di, cắt qua hết khu rừng này đến khu rừng khác. Sáng, họ tìm vào những bụi cây, những hố bom còn có đám cở tốt, chui vào, xóa hết dấu vết, ngụy trang lại. Tốì lại đi. Quanh họ, chỉ nghe tiếng tăng hụ, tiếng súng nổ.
-   Chắc trung đoàn không còn đây nữa anh Quá à?
. Hay là đơn vị qua bên kia sông Nha Thức?
-   Qua sông Nha Thức thì không biết nhưng chắc chắn không ở trong khu vực Long Nguyên này nữa?
-   Vậy thì chỉ có qua lại lộ Căm Xe thôi.
Trong khi anh em bàn bạc với nhau, Quá cũng ngồi tính toán mọi khả năng có thể xảy ra, và xử trí như thế nào bây giờ? Đi đâu? Lên hay xuống? Làm sao đưa anh em thương binh về đến nơi an toàn? Rồi còn phải báo cáo với đơn vị tìm cách chi viện cho số anh em thương binh hiện đang ở bệnh xá phân khu. Nếu như có việc gì, Bảy Hường làm sao đưa anh em thương binh chạy? Cô có một mình!
Nó càn cái gì mà càn hoài ở phía đó? Có lẽ nó phát hiện trung đoàn bộ chăng.
Quá đang ở trong tâm trạng của một ngươi mới được yêu, và người yêu của anh lại ở phía đó, trong trung tâm của cuộc càn. Anh dự đoán những điều có thể xảy ra. Bệnh viện sẽ đưa một số thương binh nhẹ đi lên, còn số thương binh nặng sẽ ở lại hầm bí mật. Tất nhiên là Bảy Hường sẽ ở lại đó. Cùng có thể cả bệnh viện phân khu, cả trung đoàn bộ sẽ chạy sang phía d Chín rồi ở đó lại cũng có một cuộc càn nữa...
-Bọn mình bây giờ thành lính lạc ngũ, muốn đi đâu thi đi, “tùy nghi di tản”.
- Có một ông nhà văn nào đi theo bọn mình, thì viết được cuốn truyện hay bằng mấy “Rô-bin-xơn” ấy chứ!
- Thôi đừng nói dóc nữa, kìa, chụp lấy chú dế mà nướng ăn... A, chú dế trụi. Này, thứ này mà rút ruột, rán bột ăn ngon hơn thịt gà đấy.
•   Này, bọn mình đi đâu cũng không thoát khỏi cái núi Bà Đen. Mà sao lại gọi là Bà Đen nhỉ? Nghe nói trên đó có cái trạm viễn thông có thể quan sát khắp cả miền đông đấy!
Quá nghe chiến sĩ nói, ngẩng lên nhìn núi Bà Đen. Bây giờ anh chỉ còn ngọn núi đó làm chuẩn. Không địa bàn, không bản đồ. Cái núi Bà Đen đó là con mắt của địch, nhưng lại là người chỉ đường cho bao nhiêu chiến sĩ trở về đơn vị. Núi Bà Đen nằm ở hướng tây-bắc, cứ lấy nó làm chuẩn thì cắt đường không lạc được. Nhiều chiến sĩ của trung đoàn Mưởi sáu thường nói đùa với nhau: “Khi nào tao chết, chúng mày cứ chôn tao quay đầu về hướng núi Bà Đen để tao còn tìm đường tao về!”. Bây giờ anh cũng đang lấy núi Bà Đen làm chuẩn. Có thể đêm nay có bao nhiêu ngưởi cũng đang nhìn lên cái núi Bà Đen đó để làm chuẩn, để đi về một Một hướng. Biết đâu đêm nay Bảy Hường cũng đang nhì núi Bà Đen...
   Thôi mình đi đi!
-   Đi đâu bây giờ?
-   Cứ đi về hướng Ván Tám, nếu ở đó không gặp trung đoàn thì tìm vể d Tám, nếu không gặp d Tám, mình tìm đến d Bảy. Các cậu sao chứ mình về đơn vị thôi.
-   Bọn em cũng về đơn vị thôi.
Điều khó khăn nhất của họ là phải qua sông Thị Tính. Họ quyết định vòng lên phía trên, chọn chỗ dòng sông cạn nhất để có thể cõng nhau đi qua.
Vậy là họ cứ việc nhắm thẳng hướng núi Bà Đen mà cắt tới. Phía sau Quá, hai chiến sĩ vẫn thì thầm:
-   Cứ hướng này đi mãi về đâu?
- Lên R
-   Thích nhỉ, vậy là mình chỉ cần một cái võng, một cái màn, một cái hăng gô, một cái chét đào củ mài là có thể “a- lê-hấp”, dông một mạch lên Đất Thánh.
-   Thì đã chả có khối thằng “”lấy núi Bà Đen làm chuẩn phía trước, tiến” là gì.
-   Nghe đâu bên địa phương cũng nhiều cán bộ “tụt tạt" lắm.
- Thì trung đoàn mình cũng khốĩ, cứ gì địa phương, bọn mình toàn là những thằng lọt sổ.
- Đánh thằng Mỹ cực thật. Tao mà làm chính phủ thì cứ thằng nào ở lại vùng ven này một tháng, tao cho một cái huân chương.
-   Vậy thì có mà tặng huân chương cả nước.
-   Suỵt!
-   Cái gì vậy!
Quá vừa kịp hỏi câu đó thì một tràng đại liên lia ngang-
Anh trông thấy ba chiến sĩ đi trước loạng choạng ngã xuống.
Họ đi gần nhau quá! Một quả lựu đạn nổ ngay trưóc mặt. Ai ném vậy? Quá nâng súng bắn một điểm xạ rồi lăn đi mấy vòng. Đất ở đây trống trơ, không có chỗ núp. Súng nổ ran bốn phía. Lọt tổ phục kích rồi. Chẳng có đứa nào bắn trà. Chúng nó hy sinh hết cả rồi sao? Không có lý! Quá nhìn lên ngọn núi Bà Đen để định hướng rồi sờ vào thắt lưng: còn một quả lựu đạn. Anh bò lên.
Cũng chính giữa lúc ấy thì một thương binh, không chịu nổi sự đau đớn đã kêu rống lên. Quá chưa kịp xốc nách anh ta dậy thì một quả đạn M.79 rơi xẹt nổ trước mặt. Anh gục xuống ôm lấy chiến sĩ vẫn còn la hét để rồi chìm đi trong những chùm lửa đạn...
… Đoàn thương binh năm người đêm ấy chỉ còn Quá trở về.


Logged
danhthanh
Thành viên
*
Bài viết: 708


« Trả lời #161 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2016, 06:53:36 pm »

-Địch càn vào bệnh xá.
Bay Hường đang đi đào củ, hầm chỉ còn Lựu và Tư Quang. Lựu nằm liệt trên võng. Mấy thương binh còn lê đi được đã bám theo đoàn cáng thương. Có cậu vừa chống nạng vừa tập tễnh, cắn răng mà bước. Không đi thì chết. Người cõng, ngưòi khiêng cáng, dìu nhau chạy qua các cụm cây thưa, trên thì máy bay, dưới thì đạn. Lệnh của bệnh viện: Ai bám theo được đoàn thì đi. Chỉ khiêng thương binh nặng. Nhưng thương binh nặng cũng không đù người cõng, chưa nói đến khiêng. Thứ nào thuốc, thứ nào dụng cụ y tế, thứ nào gạo, củ, cho thương binh, cán bộ công nhân viên lấy đâu cho đủ. Bác sĩ viện trưởng cũng cõng thương binh chạy, cả đến thương binh nhẹ cũng phải cõng thương binh nặng.

Tiếng máy hay ầm ào trên đầu, lớp khói trái mù, lớp khói hòa tiễn bịt bùng n phía. Anh em đi hết rồi, chì còn Lựu và Tư Quang trong hầm. Tư Quang ra đi thi thật nhẹ. Anh chỉ cần bám theo đoàn tải thương, chống nạng mà đi. NẾu gặp địch thì còn súng, còn đạn...
-   Nhưng Lựu nằm đó! Anh đến bên võng:
-   Lựu à, bây giờ tính sao?
Lựu mở mắt, nhìn quanh rồi nhìn Tư Quang lúc đó đã tay bồng tay súng:   *
-   Anh cứ đi đi, nếu còn, để lại cho tôi trái lựu đan
Nói vậy rồi nhìn ra ngoài hỏi tiếp:
-   Đây ra chỗ vệ binh xa không?
Tư Quang:
-   Khoảng 300 mét.
-   Sao súng nổ gần vậy?
Tư Quang đứng im. Đã nghe súng nhỏ nổ ở bìa trảng Tiểu đội vệ binh bắt đầu đụng địch.
Lựu lại giục:
-   Anh Tư, đi đi.
Trông thằng Lựu thật tội, hắn cứ nằm yên trên võng, tay cầm trái lựu đạn. Anh nhắm mắt một lúc rồi lại mở mắt ra nhìn Tư Quang:
-   Anh chưa đi à? Đi đi kẻo muộn. Ra ngoài đó có gặp cô Bảy cho tôi gửi lời thăm. Tội nghiệp, một thân một mình đi đào củ. Kẹt ngoài đó rồi không biết làm sao! Mấy hôm nay không có cô ấy đi đào củ thì anh em mình chết rồi. Sống đến bữa nay cũng là quá lắm!...
Lựu nói tỉnh bơ. Anh nằm đó sẵn sàng chờ cái chết. Trông anh lúc này thật bình thản.
Ai mà đi được cho đành! Còn súng, còn lựu đạn, thôi ,mình ráng chờ thêm chút nữa. Nghĩ vậy Tư Quang nói với Lựu:
-   Chờ lát nữa có người vể, tôi đi với anh một thể.
Tụi nó sắp vào rồi, anh đừng chờ, chết thêm một ngứời vô ích.
 - Tư Quang đã quyết ở lại, nhưng vẫn nói để Lựu yên tâm
-  Tụi nó đánh cho thủng được tiểu đội vệ binh còn lâu.
Anh cứ yên trí.
Lựu biết Tư Quang nôi để động viên mình, nhưng mệt quá, nhắm mắt, không cãi nữa.
Các đoàn thương binh lần lượt đi qua hầm. Bây giờ thỉ không thấy người cáng thương quay về nữa, không biết vì đã hết thương binh hay kẹt đường vào. Ngoài kia, chỉ còn tiếng súng điểm xạ của tiểu đội vệ binh. Còn đây, chung quanh cái hầm trơ trọi đôc có hai người, chỉ thấy mờ mịt khói đạn. Sự cô độc ở trong một trận địa thật là đáng sợ. Một lúc, tiếng súng ngoài tiểu đội vệ binh lặng câm.
Lựu mở mắt ra:
-   Chuẩn bị đi anh Tư! Anh đỡ tôi xuống đất một chút. Nó sắp vào rồi đó.
Tư Quang đõ Lựu xuống đất.
-   Được rồi, anh đi đi, để thêm cho tôi quả lựu đạn, vậy là đủ.
Chính giữa lúc Tư Quang đang vô cùng bối rốì đó, thi Bảy Hường bươn bả chạy về, vứt bồng củ xuống giữa hầm, mặt tái mét, nói không ra hơi:
-   Trời ơi, may quá, anh mà có làm sao em chết, các anh đi hết rồi hả?
Anh Tư cuộn giùm em cái võng. Nhanh lên.
Vừa nói, cô vừa qùy xuống, đỡ Lựu lên lưng:
-   Nó vào a vệ binh rồi, vòng sang phía a 3 mà đi. Anh đi được không anh Tư... Thôi vứt bồng củ đi, anh cầm hộ em cái chét. Vậy được rồi.
Lựu bỏ hai trái lựu đạn lăn long lóc giữa hầm. Hắn ta khóc như một đứa trẻ. Bảy Hường cười:
- Nín đi chớ anh Lựu, em không khóc thỉ thôi chớ sao anh, lại khóc...
Ra khỏi hầm 300 mét thì tụi Mỹ tràn vô. Gần thằng địch sợ thật, nhưng lại dễ luồn, không có bom pháo. Ba người dìu nhau vừa trông chừng vừa lẩn ra phía bìa trảng.
Cõng Lựu trên lưng, tay vẫn xách súng, Bảy Hường thở muốn đứt hơi, mặt cắt không ra hột máu. Biết vậy mà Tư Quang đành chịu. Anh cũng một khẩu súng, một cái bổng chân đi khập khà khập khiễng.
Mãi cho đến lúc Lựu kêu mệt, và phát hiện ra anh bị choáng, Bảy Hường hoảng hốt đặt anh xuống và nói với Tư Quang:
- Ra đây, anh có thể đi một mình được rồi, cứ vòng theo bìa trảng, sang gặp con đường mòn thì rẽ vào A.69, các anh đang tập trung sang đó.
Tư Quang đi lên trước. Ai ngờ chỉ khoảng dăm bảy phút sau đó phía sau có tiếng súng nổ. Bọn địch nào phục ở bìa trảng cắt vào chắc vô tình đã phát hiện ra hai người giữa lúc Lựu đang bị choáng. Chẳng cần phải phán đoán lâu, anh cũng biết Bảy Hường đang bắn trả từng phát một. Đạn của cô giỏi lắm thì còn được mười lăm viên trong băng. Đến lúc nghe tiếng lựu đạn nổ, Tư Quang biết vậy là hết.
Đi không dứt, nhưng trở lại thì chẳng có ích gì, chỉ nộp thêm cho chúng nó một mạng người, mà không chừng lại làm phiền cho Bảy Hường nếu cô đang tìm đường rút lui.
Mãi đến lúc không nghe tiếng súng nữa, anh mới đứng dậy tập tễnh trở về nơi sơ tán của bệnh xá. Chờ đến chiểu, rồi ngày hôm sau, rồi ngày hôm sau nữa, chăng có ai trở về. Bệnh xá còn trăm công nghìn việc, còn bao nhiêu thương binh chưa đưa đi, bao nhiêu người kẹt trong đó không biêt sống hay chết, đến rau, củ, thương binh cũng phải tự nấu lấy mà ăn. Nơi nào tụi Mỹ cũng đổ quân, nơi nào cũng nghe tiếng súng. Đêm pháo sáng đầy trời, ngày trực thăng rà sát ngọn cây. Mới hai hôm, bò ra khỏi cứ đã thấy cả một khu rừng trắng bóc. Tụi nó lại chuẩn bị càn vào khu còn có cây xanh. Xe tăng, máy ủi đã xếp hàng chờ sẵn.
Bệnh xá lại tiếp tục di chuyển, anh em nào lê lết đi được chi mong gặp người đơn vị để trở về.
Tư Quang vẫn mang theo cái chét đào củ của Bảy Hường và cái võng của Lựu. Cứ mỗi lần cầm cái chét anh lại nhớ cô gái, nhớ từ miệng cười, đôi mằt, ừ thì một chiến sĩ chiến đấu hy sinh chẳng sao, đằng này một cô con gái.
Về bệnh xá, anh em đói, Bảy Hường đi hái lá rừng, đào củ bằng hai bàn tay. Lúc đầu, cô lấy tay bới đất không được, sau bẻ cây, rồi mượn dao găm thương binh, đào xong lại bới, cả buổi về được vài ba củ mài bé xíu, phồng rộp cả da tay. Hôm ra giếng múc nước, có thương binh trông thấy cô gái vừa cầm dây gàu kéo vừa khóc, hỏi ra mới biết hai lòng bàn tay cua cô trầy da đỏ lựng. Họ kéo nhau lên viện, xin cho cô một cái chét cùn mòn đến gần cán. Ở đây một cái chét rất quý. Phải chia cho cô gái cái chét cũ đó là một sự hy sinh lớn của bệnh viện.
Được cái chét, Bảy Hường vui như người được của. Cứ buổi sáng, làm thuốc xong, cô ngồi chờ cho đứng buổi, đoán chừng tụi nó không đi nữa, lại xách bồng ra rừng.
Bảy Hường đi có hôm tôi mịt mới về, đổ một bồng cù lăn lóc dưới hầm, lại đi rửa rau, luộc củ. Thấy cô về, anh nào cũng gọi, anh thì kêu đau, anh thì kêu đói. Mỗi ngày, anh nào cũng phải làm nũng Bảy Hường được một lần, chờ cô chia cho một nụ cười, một lời trách, một lời an ủi động viên. Không có vậy họ cảm thấy như mình mất phần trong ngày hôm đó. Ở cái bệnh viện giữa vùng ven, dưới bom pháo, luôn luôn phấp phỏng chạy càn, luôn luôn nghĩ đến miếng ăn, chẳng có một ai động viên thăm hởi. Không có quà cáp, thì
Đến một trái cây xanh trong rừng về cũng trở thành miếng ngon vật lạ. Những món quà đó Bảy Hường chỉ đành cho những anh em bệnh nặng. Những người bệnh nặng muốn được Bảy Hường săn sóc đã đành, những người tương đối khỏe cũng muốn được Bảy Hường nhờ vả.
-   Anh Tư nhặt hộ em mớ rau.
-   Em đi đào củ, chốc nhờ anh Tư bón hộ em thìa cháo cho anh Lựu.
Thấy Bảy Hường vứt bồng củ xuống, anh em thương binh đi được đẫ tập tễnh vây quanh.
Vậy mà bây giờ, hầu hết số anh em được Bảy Hường săn sóc, động viên, hoặc nhờ vả còn ngồi đó cả. chỉ riêng Bày Hường và Lựu không về. Họ hỏi Tư Quang đến hàng trăm lần:
-   Anh có biết tụi nó cắt từ hướng nào vào không?
Rồi họ lại hy vọng:
-   Bảy Hường sao chưa về nhỉ?
Nhưng về làm sao? Đã nổ súng, đã ném lựu đạn. Thàng Lựu nằm đó. Đời nào Bảy Hường bỏ thương binh mà đi. Họ vẫn cứ ước mong điều họ muốn mà không muốn nhìn vào điều họ đã thấy: Bảy Hường không về nữa. Bảy Hường đã hy sinh!






Logged
danhthanh
Thành viên
*
Bài viết: 708


« Trả lời #162 vào lúc: 04 Tháng Giêng, 2016, 09:56:32 pm »

Cuối tháng tám trời đổ mưa ào ào. Nước sông Sài Gòn dâng lên mênh mông. Ngồi trong cứ d Bảy nhìn ra, chỉ thấy trời đất mù mịt. Những mái nhà tôn trong ấp 3 cũng lẫn vào trong màn mưa. Xa xa chỉ cồn trông thấy vệt xanh mờ của hàng cây tiếp với bờ sông tráng xóa.
Mấy hôm nay yên tĩnh, chỉ có những viên đạn đại bác nổ trong mưa lóe trắng, và tiếng phản lực bay trong mưa.
Con chó Đớp của ông Thêm không chạy đi đâu được, đành trèo lên võng nằm. Nó không đám rên ư ử vì nó biết, không được rên, không được sủa. Tư hôm đưa con chó về, ôngThêm lấy miếng vải Mỹ xé từ cái bao đựng cát ra, làm chonó một cái võng. Tối ngủ nó cũng leo lên võng nằm. Nó Thích ăn thịt nướng, vì hễ bắt được con gì, từ con rắn cho đên con cào cào, ông Thêm cũng nướng cho nó ăn.
. Anh em bảo: Để nó lộ bí mật, thịt đi.
NÓ mới lớn hơn cái cổ chân một chút. Thế mà bao nhiêu đúa nhìn ngó. Đói mà!
- Lộ bí mật cái gì, nó bàng con cheo cheo chứ mấy? ăn uông thì toàn rắn rết, cóc nhái, nó ăn gì phần tụi bay. Nghe pháo thì nó chạy xuống hầm. Qua sông thì nó bơi. Mất gì tụi bay mà nay dọa làm thịt, mai dọa làm thịt.
Mà cũng lạ, con chó không hề sủa, không hề kêu, nó chỉ vẫy đuôi và nhảy chồm hai chân trước, hoặc chỉ khẽ ư ử để biểu hiện sự vui mừng. Pháo bắn, nó chạy vào một góc hầm nằm bẹp xuống, cụp đuôi, cụp tai, run lên bần bật. Ông Thêm chỉ chê nó cố một điểm hơi kém dũng cảm ấy. Nghe tiếng máy bay, nó chui ngay vào chỗ kín. Nhìn thấy người đi ra, nó mới theo ra.
Còn bơi thì nó chưa bơi được xa. Hôm qua SUốI, ông Thêm thả xuống nước, bơi được chừng 50 mét, cu cậu hốt hoảng quay trở lại, trèo lên bồng ông Thêm ngồi.
Thắng ngủ dậy, vươn vai ngáp dài một cái. Anh quay sang nghịch với con Đớp. Con Đớp nằm trên võng, đưa hai chân trước khều khều bàn tay Thắng. Thắng lấy một cái que ném vào góc hầm. Con Đớp liền nhảy xuống, chạy đến ngậm mang về:
-   Giỏi, để tao huấn luyện cho vào ấp, được đây... ôi, giá chi mình bằng con chó thì đi đâu cũng lọt.
Ông Thêm:
-   Sao, đêm qua thế nào?
-   Cả một đêm được năm lít gạo đó thủ trưởng ạ.
 
-   Lại vào nhà cô Tạng à.
Ông Thêm ngồi lặng đi. Còn Thắng cũng không nói thêm.
Đêm qua, Thắng dẫn một tổ 3 người vào ấp, về đến đây  thì vứt bồng lăn ra ngủ, ông Thêm cũng chưa kịp hỏi han tình hình. Mới có mấy hôm mà chúng nó làm ráo riết quá.  Tập trung hết dân ấp 4 lên chung quanh đồn và bây giờ đang tập trung ấp 3. Vào nhà dân, không ai đám mở cửa. Nó gài trái đến nỗi chó mèo đi cũng đạp... Riêng chuyện đột ấp, chỉ trong mười ngày cả tiểu đoàn hy sinh một, bị thương hai mà chẳng được hạt gạo nào...
... Đêm qua. Thắng phải bò mãi chung quanh bờ tre ấp 3, cuối cùng vào được nhà bà Sáu. Đến trước sân rồi Thắng vẫn còn ngờ ngợ vì nhà lớn của bà đã dỡ hết, chỉ còn cái nhà con trông như cái bếp. Thắng đi một vòng quanh nhà, thấy trong nhà có đèn và rõ ràng còn nghe tiếng nói, vậy mà khi gõ cửa thì đèn tắt phụt, trong nhà im re. Thắng không dám gọi vì sợ chung quanh có lính, anh đưa tay mò xem có mìn không rồi cạy cửa. Đến nước này thì chỉ còn liều! Trong nhà tối om, Thắng bò đến bên giường, nắm chân bà Sáu lắc lắc và nói thầm:
-   Con đây mà, bộ đội Mười sáu đây mà.
Bà già vẫn nằm im. Nếu đó là con Tạng thì nó đã nhận ra tiếng Thằng rồi. Túng quá, anh đành rút cái dép cao su buộc ở lưng ra, rồi cầm tay bà Sáu đặt vào quai dép: con là lính ông Ba Kiên đây mà, đơn vị hết gạo ăn từ mấy hôm nay, thím còn gạo để lại cho chúng con một ít.
Đến lúc đó, bà già mới ngồi đậy, hỏi thầm:
-   Tụi bay ăn cơm chưa?
- Có hột nào đâu thím.
-   Lính nó ở cách đây có ba nhà thôi, đáng lẽ như mọi hôm, tao phải nấu cơm cho bụi bay ăn, nhưng nay thì nấu
không được mà cũng chẳng còn gạo để nấu. Hồi chiều còn ít cơm nguội đây, tụi bay ăn tạm.
Nói rồi bà Sáu đứng dậy, mò mâm sờ tìm trong chạn thức ăn, bưng ra một cái niêu to hơn quả bưởi một chút. Ba người cạy cơm ra, được mỗi người lưng bát. ngồi ăn với muối tiêu. Vậy mà nuốt vào đến đâu, thấy mát bụng đến đó.
ăn xong, Thắng lại hỏi mua gạo. Ba Sáu thở dài:
-   Gạo tao chẳng còn hạt nào. Đến bữa, mỗi nhà mang một cái nồi đến, nó đong gạo rồi đổ nước vào. Về ăn bữa nào hết bữa ấy.
Thắng buồn quá đã định ra về. nhưng lại gặng hỏi thêm một lần nữa:
-   Vậy nhà thím có còn cái gì ăn được không? Chẳng lẽ chúng con vào đến đây mà lại phải về không thì buồn quá.
Bà Sáu quay lại nói thầm phía sau lưng và Thắng mới biết còn một bà già nữa nằm trên giường. Hai bà thì thầm với nhau một lúc, bà Sáu quay lai:
-   Tụi bay ra ngoài cái nhà bỏ trước mặt ngồi đó chờ. Chị Năm về lấy gạo cho. Giờ về sau các con đừng vào đây nữa. Lính nó nằm phục đầy ấp. Nó gài trái chó mèo đi cũng đụng. Má thương các con lắm, nhưng các con cứ đi vầy rồi có hôm đạp mìn, đụng lính chết mất. Ráng mà chịu ít nữa rồi mấy cây củ báng ngoài rẫy tốt lên, tụi bay nhổ về mà ăn.
Chẳng thấy Tạng đâu, Thắng đành phải hỏi:
-   Cô Tạng đi đâu hả thím?
Nghe nói đến con Tạng, bà Sáu sụt sịt:
-   Khổ thân con nhỏ, nó cứ đòi đi bộ đội hoài mà ông Sáu không cho đi. Để đến bây giờ tụi nó gọi lên quận, lên đó rồi một thân một mình con gái -..
Thắng chẳng biết nói sao, nghe bà Sáu khóc một lúc rồi  ra nhà bỏ ngồi chờ. Bà Năm ra sau bờ tre bới lên một cái
thùng sắt. Tất cả được năm lít gạo. Thắng trả tiền, bà không lấy...
Logged
danhthanh
Thành viên
*
Bài viết: 708


« Trả lời #163 vào lúc: 06 Tháng Giêng, 2016, 08:48:32 pm »

.. Ông Thêm đang ngồi nói chuyện với Thắng thì Lâu chạy xồng xộc vào hầm:
-   ông Dũng hy sinh rồi.
-   Tin đâu vậy.
-   Liên lạc trung đoàn về dưới xê Ba sáng nay. Thằng Tuấn viết thư báo cáo tình hình cho anh đây.
Thêm mở tờ giấy gấp tư ướt nhòe nhoẹt. Chữ viết bằng bút bi dày đặc cả hai mặt. Vừa đọc, tay ông Thêm vừa run run. Lâu và Thắng thì ngồi lặng ngắt.
Con Đớp thấy mọi ngưòi không chú ý đến nó nữa, trèo lên võng nằm. Ông Thêm đọc xong một lần, lại lật lại đọc một lần nữa, trao lá thư cho Thắng rồi quay sang nói với Lâu.
-   Cậu cho gọi đồng chí liên lạc sang ta nghe tình hình trên ấy một chút rồi gọi cậu An sang hội ý.
Giữa lúc mọi người đang ngồi im lặng, nghĩ về ông Dũng thì liên lạc dẫn ông Sáu Dần và một cán bộ địa phương đến.
-   Giới thiệu với các đồng chí, anh Tư bên quận đội sang bắt liên lạc với trung đoàn.
Ông Thêm mời hai người ngồi. Thắng và Lâu dịch vào trong góc và kéo dài tấm ni lông ra.
Ông Sáu Dần nhìn ông Thêm rồi lại nhìn Lâu. Rõ ràng họ đang có chuyện gì không vui. Bắt liên lạc được với địa phương là chuyện rất mừng. Ông Thêm lại là ngưòi xởi lởi vui vẻ, vậy mà hôm nay ông cứ trả lời câu một... Hay là ông Thêm đã biết chuyện ông Ba Kiên hy sinh. Sang sông, ông Sáu đi về phía Trảng Bàng tìm liên lạc được với 82, rồi trở về chỗ ông Hai Trụ tìm ông Ba Kiên thì ông đã hy sinh.
Anh Tư, cán bộ bên quận đội Trảng Bàng sang bắt liên lạc với Củ Chi, đang muốn gặp ông Ba Kiên, nghe tin vậy. 
Rủ ông Sáu bơi sông sang đây. Biết rằng tin ông Ba Kiên hy sinh sẽ làm cán bộ trung đoàn lo buồn, nên ông định từ từ rồi hãy nói. Vậy mà sao bây giờ họ lại biết trước ông. Ai về bên này? Thằng Thị còn nhắn với ông về báo cáo tình hình  cho ông Thêm và chuẩn bị cho bộ đội sang sông lấy gạo mà...
. Chắc là các chú hay tin...
. Vâng, chúng tôi có tin buồn, đồng chí chính ủy chúng tôi vừa mới hy sinh, chúng nó đang càn lên trên khu vực Ván Tám, Long Nguyên.
Thì ra vậy, cái tin thật bất ngờ đối với ông Sáu.
Bây giờ lại nói thêm cái tin ông Ba Kiên hy sinh nữa thì quả là một điều đau đớn cho trung đoàn, nhưng rồi cũng phai cho họ hay:
-   Ai đưa tin về đây vậy?
-   Liên lạc trung đoàn mới xuống... Trên Long Nguyên d Chín mới đánh một trận tiêu diệt được chục xe tăng...
ông Thêm ngừng lại nửa chừng, chợt nhớ ra việc Thắng nối: Tụi nó bắt con Tạng, con ông Sáu Dần lên quận. Biết việc này chắc ông Sáu phải buồn lắm. Mình đã khuyên ông nên cho con Tạng thoát ly, ông không nghe. Bây giờ mình nói ra, chắc ông sẽ buồn nhưng biết sao rồi cũng phải cho ông ấy hay...
Đồng chí cán bộ quận đội Trảng Bàng định sang đây bàn với trung đoàn nhiều việc. Từ hôm bị đánh, chạy đứt liên lạc mỗi người một ngả, hôm nay, ông lại mới đến được đây. Từ trung đoàn bắt mốì với các đơn vị khác, rồi bàn về việc trung đoàn sang sông hoạt động bên đó như thế nào. Nhưng bây giò cái tin chính ủy trung đoàn và trung đoàn trưởng hy sinh một lúc đến với họ, họ còn lòng dạ nào nói chuyện nữa. Hãy chờ một lúc. Nghĩ vậy, đồng chí cán bộ quận đội cùng ngồi im không nói năng gì.
Thấy mọi người lặng lẽ, ông Thêm quay lại phía Thắng gợi chuyện:   1
- Giới thiệu với các anh đây là đông chí Thắng, đại  đội trưởng xê Hai. Tối qua đồng chí vừa đột vào trong ấp 3 được một số tình hình trong đó.
Ong Sáu Dần nghe vậy, hỏi luôn:
-   Vậy em có ghé vô nhà qua không, có gặp bà Sáu không? Biết có bộ đội vào mà theo về thì hay quá.
-   Cháu có vào nhà thím, nhà lớn chúng nó đã bắt dỡ vào trong đổn, nay còn cái nhÀ nhỏ.
-   Rồi sao nữa?
-   Còn con Tạng...
-   Con Tạng sao?
• Tụi nó gọi lên quận, không biết để làm gì, nghe đâu nó bảo đưa đi cải tạo... học tập chi đó.
Thắng biết không giấu được, đành kể lại chuyện trong ấp. ông Sáu chẳng hỏi lại một câu nào. Vậy là ông về đây chậm quá. Hôm ra đi, ông đã nghĩ lại. Gia đình ông là gia đình cách mạng, con Tạng bị nó theo dõi, không cách chi hoạt động được. Ở lại trong đó chỉ để nó làm tình làm tội. Ông chưa kịp nói lại với nó thì đã xảy ra cơ sự này.
Thắng nói về tình hình trong ấp, nhưng ông nghe loáng thoáng CÂU được câu mất. Mãi một lúc sau, ông mới thở dài:
- Tao định về đây sửa chữa thiếu sót của tao, vậy là không kịp rồi, khổ thân con nhỏ. Nó cứ đòi đi bộ đội Mười Sáu hoài. Trời đất ơi... Đến bây giờ tao mới nghĩ ra tao là thằng ngu. Chỉ tại tao phong kiến quá. Tạng ơi! Tía có lỗi với con rồi, Tạng à. Anh Thêm, biết chi hôm rồi tôi nghe lời anh...
Ông Sáu nhắm mát lại, ngả đầu vào vách hầm, rên rỉ:
• Khổ thân con gái tía... khổ thân con gái tía...
Ông Thêm an ủi:
. Thôi anh Sáu đừng quá lo buồn, có khi nó gọi lên dăm bảy ngày rồi lại thả.
-Tôi biết tôi biết âm mưu tụi nó, nó làm nhục con tôi. nó làm nhục con tôi.
Ông Thêm bỗng nghĩ đến Ut Lích, lúc sáng ông đã định hỏi Thắng xem có biết gì về cô út không, nhưng thấy không tiện, lại thôi. Bây giờ thấy ông Sáu tự dằn vặt về việc con Tạng, ông Thêm lại thấy bồn chồn trong bụng.
-   Tụi nó thâm độc lắm anh Thêm ạ. Hết tụi dân vệ, bảo an, đến tụi bình định, tui biết, suốt ngày lui tới nhà tôi. Chúng nó treo giải thưỏng cho đứa nào lấy được vợ con cán bộ... Con Tạng nó còn nhỏ qua, khò quá...
út Lích cũng vậy thôi, suốt ngày tụi nó đến nhà. Con Tạng còn có bà Sáu, có gì bà che chở, chứ còn út Lích thì một thân một mình, giá chi hôm đó, ông Thêm cứ mạnh dạn nói thêm chút nữa, cô út sẽ nghe ông. Phải rồi, ông giữ ý quá...
Trong khi ông Sáu đang rên rỉ về số phân cô con gái và ông Thêm đang lựa lời an ủi ông, thì đồng chí cán bộ quận đội quay sang hỏi nhỏ Lâu:
-   Các đồng chí biết tin về anh Ba rồi chứ?
-    Tin gì?
• Tôi tưỏng các anh biết rồi, anh Ba hôm sang sông bị pháo, đưa về chỗ chú Hai Trụ...
Cả Thắng và ông Thêm đều nhổm dậy và mặc đầu đã nghe rất rõ ràng mấy chữ “sau đó hy sinh”, họ vẫn không tin vào lỗ tai mình:
-   Anh Tư nói chú Ba hy sinh rồi à?
-   Dạ, ảnh hy sinh rồi, chú Sáu đây cũng biết.
Ông Thêm đứng đây:
-   Lâu thu xếp chỗ nghĩ cho hai anh. Chút nữa ta bàn công việc.
Ông Thêm vào trong hầm ngã vật xuống trên võng.
Logged
danhthanh
Thành viên
*
Bài viết: 708


« Trả lời #164 vào lúc: 06 Tháng Giêng, 2016, 08:50:36 pm »

Chương Bảy

Mới sáng sớm, xóm nhà dưới bờ sông đã nghe một tiếng nổ. dân vệ rồi lính trong đồn rầm rập chạy đến. Bà con chung quanh nghe đó mà không ai dám mở cửa. Chúng nó đuổi Việt cộng! Lại có anh bộ đội nào đụng trái rồi!
Một lúc sau nghe tiếng ồn ào, rồi út Lích gào lên:
-   Trời đất ơi, lính quốc gia gài trái giết chết con tôi rồi. Tôi không đi đâu cả. Đền con cho tôi. Đền con cho tôi, các người tập trung dân rồi giết dân.
Tiếng một tên lính nào đó:
-   Cô út, cô phải bình tĩnh, để các ông giải quyết.
-   Tôi không bình tĩnh với các ngưòi. Tôi bình tĩnh mãi rồi. Các người bắn tôi đi, các người giết tôi đi. Miền ơi, Miền à... mới sáng dậy má đã bảo con đừng đi ra... Con mà chết thì má cũng chết thôi. Miền ơi, Miền à... làng nước ôi, ôi con tôi...
Con Miền như một cục bông trắng toát nằm trên băng- ca.
Bọn bình định điện thoại gọi xe công vụ tới. Một cái xe nhà binh sơn trắng, đến đậu ngay trước sân nhà út Lích.
Bà con trong ấp chạy đến thì bọn lính đã chặn ở các ngả đường.
-   Đề nghị cô bác bình tĩnh để chính quyền giải quyết. Con bé trúng phải trái gài vì nó mở cửa ra ngoài sớm quá.
-   Thì cũng phải để chúng tôi xem xét má con nó bị thương ra sao?
-   Việc đó không liên quan gì tới các người.
Vậy ông coi dân như con giun con dế, sống nay chết mai. Thế này thì chúng tôi sống làm sao đặng. Ra với Việt cộng cũng chết. Ở đây cũng chết, thà ra ngoài đó chết còn hơn!
Thấy để lâu sinh chuyện, chúng nó vội vàng đưa con Miền lên xe.
Giật cái băng đang băng dở trên tay thằng y tá, út Lích chạy lao theo. Cánh cửa đóng sập lại và xe rồ máy.
Sau khi cố tiếng nổ một phút, thằng Hai Rớt đã có mặt ở đây. Hắn ra lệnh ngay cho lính đón ở các ngả đường, cấm không cho ai đến.
Một vài người đã đứng đó, hắn quát:
- Các người về hết đi. Chạy tùm lum rồi đạp trái lại đổ cho tụi tui. Người ta đã bảo dọn nhà lên đồn ở thì không nghe. ở đây chúng tôi không chịu trách nhiệm an ninh cho các người.
Chiếc xe đi xa rồi, vẫn nghe tiếng út Lích kêu gào:
• Miền ơi, Miền à... Má chết mất thôi Miền ơi... Làng nước ơi, quốc gia họ gài trái giết chết con tôi rồi...
Bà Sáu ra tới đường thì bị lính giữ lại, xe đi rồi nó mói tha ra. đến nơi chỉ thấy còn một vũng máu và cái băng mà y tá băng cho cô út bị giật quăng xuống giữa sân.
Thằng Hai Rớt nhìn bà gằm gằm:
- Bà già đến đây làm gì, chắc bộ bà muôn đấu tranh hẳn?
Bà Sáu giận run lên:
-    Đến đấu tranh thì các người làm gì?
-   Thì tù mọt gông... thì có cái này nó nói chuyện...
Hắn vỗ vỗ vào khẩu súng.
-   Các người độc ác hết chỗ nói, các người giết trẻ con lên 4 lên 5 tuổi. Các người phải nhớ lấy: làm đĩ chín phương còn để một phương lấy chồng. Các người làm tay sai cho thằng Mỹ, nhưng các người còn phải nhìn mặt bà con lối xóm chớ...
-   Bà già câm cái miệng đi không tôi bán bể óc. Muốn đấu tranh thì lên trên quận mà đấu tranh.
-   Trả con tao đây, không trả thì bắt giam tao luôn một thể, lên quận thì lên, tao sợ gì.
Một thằng dân vệ đến nắm tay bà Sáu kéo đi:
-   Thôi thím Sáu, thím về di, ổng Hai Rớt ổng nóng tính lắm.
Bà Sáu chẳng sợ thằng Hai Rớt, nó chống nẹ tay. bà cũng chống nẹ tay. Nó nhìn bà gằm gằm, bà cũng nhìn nó gằm gằm. Cùng lắm thì nó cho bà một phát súng. Đấy nó cứ thử bắn đi xem...
Nó quay đi, bà cũng quay về. vừa đi vừa chửi.
Một mình, tay không, chẳng làm gì được thì bà về chứ bà đâu có sợ.
Ngày xưa, hồi tụi lính trong Bến Cát ra đốt nhà, dân ấp 3 còn kéo rần rần lên quận đấu tranh. Lên đến cầu Đở. lính đóng cửa bến đò, ra đứng chĩa súng một hàng, các ông già đi trước bắt súng quăng đi. TỔ đi đấu tranh tổ ở nhà đón rước. Ngày đầu lên không được, ngày sau lại đi, nó đành phải mở cửa bến đò cho lên quận, sang quận nó phải nhận đơn. Sau đó nó đóng cửa nhà đò lại không cho về nữa. Nó bắt đứng phơi nắng ở ngã ba Tân Dù từ 10 giò sáng đến 3,4 giờ chiều, vậy mà bà con vẫn không ai nao núng. Nó chia lính đứng lẫn vào trong hàng, một kèm một. Ngưòi có con mọn xi cho trẻ đái ỉa lung tung, nó phải cho về. Còn lại ba bốn chục người, nó lùa vào bốt Cây Dền phát dao bắt di phạt cây. Đồng bào bảo nhau không đi, vậy mà nó cũng chịu.
Hồi đó, bà Sáu chỉ huy một “ô”, cùng đi với út Lích. Ra đi bà dặn bà con: nó mà đánh người đằng trước gục, thì ngưòi đằng sau xông lên. Làm cái gi, nói cái gì phải nhìn nhau mà làm, mà nói.
Con út đi với bà. Vào quận bà đưa giấy đầu tiên, chúng cầm giấy hởi: “Thẻ gia đình của bà đâu, đưa coi?
 Bà trả lời “Các ông đốt nhà, giấy cháy rồi còn đâu mà đưa”, nó lấy ba toong đánh, bà té qua một bên thì con út xông lên đưa giấy rồi mọi người cũng rần rần đưa giấy. Vậy là thằng gác phải vào báo quận...
Lần ấy dân ấp 3 đấu tranh thắng lợi, chúng nó buộc phải bồi thường nhưng sau đó lại ra điều kiện là chỉ bồi thường cho ai chịu dời nhà vào trong các khu chiến lược.
Đó là chuyện cũ, còn từ giữa năm 1969 đến giờ, nó làm ráo riết quá. Cốt cán nó bắt đi. Nó gài mật vụ khắp nơi, nhà nào cũng bình định, cũng lính ở. Người này đi lại với người khác cũng không được, hụống chi là bà Sáu. Bà thì bà chẳng sợ. Nhưng mọi người lại sợ bà. Nói chuyện với bà Sáu là liên quan với Việt cộng.
Đáng lẽ ra những vụ gài trái chết người như thế này, phải đấu tranh lên đến tận quận. Vậy mà bây giờ, bà con người ra đứng nhìn, người nói vài câu rồi bở về.
Bà Sáu về nhà nằm xoài. Bà muốn viết một cái đơn, một mình bà sẽ lên quân, bà bảo với chúng nó nếu không trả con Tạng về, bà sẽ xin đi ở nơi khác, không ở ấp 3 nữa. Nhưng chẳng ai viết đơn cho bà. Con Tạng nó bắt đi rồi, con út thì lên bệnh viện.

Logged
danhthanh
Thành viên
*
Bài viết: 708


« Trả lời #165 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2016, 09:18:00 pm »

Út Lích mở mất tỉnh dây đã thấy bà Sáu đang ngồi quạt bên cạnh. Cô nhìn ngơ ngác một lúc rồi hỏi:
- Con nằm đâu đây thím?
 Con đang nằm điều trị trong bệnh viện quận.
Cô nhớ ra rồi, nó đưa con Miền vào đến bệnh viện thì em tắt thở. Mọi hôm nó nói như khướu vậy mà lúc đó nó chỉ trơn mắt trừng trừng chảng nói được câu nào. Vậy là ba cô không

Về được, không nhìn và chẳng bao giờ nhìn thấy mặt em cô.Con Miền chết không nói được một tiếng. Không kêu được một tiếng “má Út” cho cô được nghe lần cuối cùng. Rồi biết nói thế nào với ba cô. Cô gục lên trên đống bông băng đầy máu mà khóc. Cho đến khi người ta gỡ tay cô ra thì cô ngất xỉu..

 
-   Người ta chôn mất em con rồi à thím?
-   ừa, con nằm im đi, đừng nói nữa.
-   Ô, Miền ơi, má út chết mất, Miền ơi, không có con, má sông làm sao đặng, Miền ơi.
Nghe con út kêu giống hệt như bà mẹ mất con, bà Sáu cám cảnh quá đứng dậy bỏ ra ngoài khóc. Một lúc vào, út Lích gọi bà lại ngồi cạnh:
-   Thôi thím ngồi đây, con không khóc nữa đâu, con buồn lắm, thím nói chuyện cho con nghe đi.
Bà Sáu nhìn quanh, không thấy ai, ghé sát tai út Lích:
-   Tối qua, mấy thằng Giải phóng nó vào ấp.
-   Thím có quen ai không?
-   Có một thằng hôm trước vào đó, tao nghe tiếng quen mà ban đêm không trông thấy mặt.
-   Già hay trẻ?
- Trẻ...
út Lích thở dài:
-   Vậy chắc là cậu Thắng.
-   Đận này tụi nó trúng mìn, trúng ca nông đầy đường. Có đứa bị “trực thăng” bốc lên đồn. Hôm qua, mấy thằng nói với tao cả trung đoàn hết gạo, nhịn đói cả tuần nay...
-   ừ, chết vây mà sướng, đói vậy mà sướng, mai mốt rồi con cũng đi Giải phóng...
-    Có mồm thì cắp, có nắp thì đậy, mà liệu hồn đấy út ạ

-   Con chẳng sợ, cho nó bắn con một phát chết luôn...

-   Em Miền chết rồi, con còn sống chi thím? Thím có nghe tin chi con Tạng không?
-Thấy tụi nó bảo vẫn giam trên quận, tao lên thăm, tụi nó không cho gặp...
• Thôi đừng đi nữa thím, rồi tiền đóng mộc, rồi tiền xe đò, mà nào có xin xỏ được gì cái tụi chó đểu ấy...
Con Út khuyên vậy mà đúng. Trước đến giờ bà Sáu có lên quận xin xỏ làm gì, mọi việc có con Tạng. Một lần đi, một lần khổ. Nhà quận và nhà xã làm việc chung một nơi, vào cửa có lính gác. Lên xin giấy trước hết phải vào dãy nhà xã.
Cái nhà dài rộng mông mênh, bàn kê cứ liên tiếp, bà Sáu không biết chữ, lại phải hỏi. Thì ra sau cái bàn, nó có bảng treo ở trên tường ghi tên: “Hội đồng hương chánh xã...”. Đưa giấy đến xin mộc phải trả tiền. Nó bảo trả tiền con niêm trên giấy. Xã đã một lần tiền rồi, sang phòng quận lại một lần nữa. Đến phòng quạn thì chỉ được đưa giấy qua song sắt. Rồi nào là mộc xanh, nào là mộc đỏ, bà Sáu chẳng biết đường nào mà lần. Thà như hồi đấu tranh trực diện thì lại đi một chuyện...
Đến gặp thằng đại diện xã, bà Sáu thấy trên bàn hắn để một cái cặp da, hai cái hộp dấu. Bà ngồi chờ đến hàng tiếng đồng hồ mới đến lượt. Thằng phó đóng mộc thì thằng phó thu tiền, thằng trưởng đóng thằng trưởng thu. Bà ngồi tính nội một buổi sáng đó, nó lấy của dân không biết bao nhiêu mà kể: Nào là đơn xin đám cưới, đơn xin làm giỗ, đơn kiện, đơn xin đi làm xa, đơn xin chứng nhận gia đình, đơn xin thăm con thăm mẹ. Mà khốn khổ mới nạp được tiền cho chúng nó, nói rã cả bọt mép chứ có phải là có tiền là xong đâu. Thật cơ khổ cho người dân mất nước, nhục nhã đến trăm bề.
Còn bà con thì từ tờ mờ sáng đã chen chúc ngồi đợi ở nhà mát. Gọi là nhà mát  nhưng lại lồng lộng mưa nắng, bốn chung quanh không có vách, mái lợp tôn, đến lúc nắng ngồi trong đó nóng như thiêu như đốt. Trên dãy ghế của mấy bà có con mọn, đợi lâu quá, trẻ con khóc nhao nhác. Bà nọ kéo vú cho con bú. bà kia xi cho con đái. Trẻ con đái bậy Và làm bẩn ra cà chung quanh nhà ngồi mát của hội dồng. Có người lên ngổi cả buổi rồi về không, đến hôm sau lại tiển đò tiền xe lụm cụm trở lên...
Thằng đại diện mặt đầy mụn trứng cá, mãi đến 8 giờ sáng mới đi cái hon-đa đèn. Hắn vào phòng làm việc còn sửa soạn cái gì đến nửa giờ sau mới xem giấy. Đống mộc cho bà Sáu rổi xong, hắn nói:
- Bà khỏi lo, nay mai rồi con bà làm bà đại úy quận phó tụi tui chỉ việc mà thưa mà dạ cô ấy. Tôi như bà thì tôi cứ vô nhà nằm ngủ, chẳng cẩn thưa kiện chi.
Được giấy rồi bà cũng chẳng thiết gì cãi lộn với cái thằng mặt sắt ấy làm gì...
Bà Sáu chỉ mong được gặp con gái một chút xem nó mạnh yếu thế nào. được kêu tên, nhìn mặt nó một chút rồi về, vậy mà tụi nó không cho. Nó bảo bà cứ yên trí về đi. ít hôm nữa nó sẽ thả cô Tạng về lành mạnh, có khi còn béo tốt hơn hồi ở nhà. Nghe vậy bà bắt rùng mình. Trước cửa công đường, một thân một mình thì đấu tranh với ai, vậy là bà dành lụi hụi ra về...
.. Bà Sáu xắng về mấy lần rồi vẫn ngồi lại. Bà cũng buồn như út Lích, về nhà cũng quanh đi quẩn lại một thân một mình.
-   Thím ở với con thêm một lúc, có chuyện chi thím nói con nghe đi!
-   À, tao quên nói với mày: tụi nó vu cho con Tạng tiếp tế cho Việt cộng.
 Chứng cớ chi?

Logged
danhthanh
Thành viên
*
Bài viết: 708


« Trả lời #166 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2016, 09:19:43 pm »

-    Nó mang một gói đồ vút ra bờ sông sau nhà rồi nói có chữ con Tạng viết trỏng...
-    Quyền thế trong tay, nó muốn vu cho ai thế nào chẳng được. Hôm ây, anh Thêm bảo con mang cả con Miền đi. Biết vậy con nghe ảnh.
-    Con Tạng cũng bảo cái chú Thêm nào đó chú khuyên ông già cho nó đi, mà ông già không nghe.
-    Chú Thêm ấy đấy.
-   út à, hôm mày đi rồi, thằng đồn phó đến, nó bảo tao có vào thăm mày thì bảo mày làm đơn kiện, bắt chúng nó bồi thường.
- Nó gài trái rồi nó lại xúi con đi kiện.
-   Nó bảo lính trong đồn chỉ gài trái quanh ấp, còn ở các nhà là bọn dân vệ gài.
-Thì dân vệ, bình định, bảo an chi cũng một lò chúng nó cả.
-   Đành vậy, nhưng mình lấy cái cớ mình đấu tranh... bắt nó bồi thường...
út Lích cười:
-   Thím coi bắt chúng nó bồi thường bao nhiêu thì vừa...
-   Không phải tao tính mạng người ra mà đòi tiền dâu, tao nói nhân cái cớ này mà dêíu tranh cho nó ra lẽ...
Người bệnh nằm bên cạnh trở mình rên lên một tiếng. Hai người đàn bà im lặng.
Một lúc, Út Lích nắm tay bà Sáu nói nhỏ:
-   Con sẽ đi thôi, con sẽ theo Giải phóng, rồi ở nhà bà con lấy cớ mà đấu tranh. Con là người dân của quốc gia, con không có tội tình gì, vậy mà rồi quốc gia o ép, riết quá, con chịu không nổi, con phải bỏ đi, thím cứ nói vậy. Chớ con ở lại đâu tranh, nó trả cho con ít tiền để con làm gì? Em Miền của con cũng chẳng sống lại được. Thím cũng biết đó, trước đến rày. con ở được trong ấp là nhờ có con Miền. Nay tụi nó đến, mai tụi nó đến. một thân một mình, rồi con chết mất
• Thôi thì mầy nghĩ vậy cùng phải, tùy mày...
Mãi đến chiều, bá Sáu mới ra về. út Lích muốn theo bà về bà không cho. út Lích nằm một mình trằn trọc.
... Cái nhà thương quận rộng mênh mông, chia thành nhiều trại. Có lính gác, có lính đi tuần. Người trong viện nhìn Út Lích khinh khỉnh, cái nhòn làm cô không sao chịu được. Riêng trại út Lích nằm có đến vài chục cái giường sắt kê nốì tiếp nhau, trừ giữa một lối đi cho nhân viên phục vụ, bác sĩ. y tả. Mọi thứ từ chuối, bánh, bát đĩa vứt cả lên cái khung sắt giống như cái chạn thức ăn ở đầu giường. Mùi thuốc tây lúc nào cũng xông lên hăng xì, không quen, ngửi vào, buồn nôn không ăn cơm được.
Khoảng 7 giờ sáng, một cô y tá đeo kính mát, đi giày cao gót. Quần phăng, môi tô đỏ choét. xách cái ví đầm, õng ẹo đi vào. Nó đến chỗ phòng làm việc ở đầu trại, thay quần áo mất hết cả tiếng đồng hồ, mới đi cho thuốc.
9 giờ. một lão bác sĩ, nghe nói là người Phi Luật Tân, tóc xoăn tít, béo ục ịch, cái cổ cụt ngủn và có ngấn như cổ heo, đến khám bệnh. Cô y tá vội vàng mang một cặp hồ sơ chạy theo. Đến đâu, lão ta khắm, tên trại trưởng dịch lại, cô y tá lại chép. Đến giường mấy cô gái tóc quăn, mấy bà vợ lính ỏng ẹo, lão ta đứng lại rất lâu, còn các giường mấy cô, mấy bác trông có vẻ nhà quê, lão ta khám rất nhanh, có khi chỉ liếc qua, quay lại hỏi và nói với y tá mấy câu rồi bỏ đi.
... Nhưng đáng ghét hơn cả lão bác sĩ và con y tá õng ẹo là bà mụ mà mọi người gọi là bà phước. Bà ta chỉ cao khoảng mét ba, mét tư, mới sàng ra đã thấy xách một cái làn đựng bánh mì, chạy lạch bạch từ đầu này trại đến đầu kia trại. Đâu cùng nghe tiếng mụ oang oang (người nhỏ mà tiếng lại to vậy).
-   ăn ở như mọi, ăn đâu ỉa đó quen.
Thấy ba ta đến vứt cái bánh mỳ vào đầu giường từng người. út Lích sợ rơi bẩn, liền ngồi dậy đưa tay ra đỡ. Bà phước nhìn út Lích rồi lại nhìn bàn tay cô. Như sợ đụng phải bàn tay quá bẩn, bà thò tay vào làn, nhón một đầu bánh đưa cho cô. Hai bàn tay còn cách nhau cả gang mà bà đã vội vàng rụt lại làm súyt nữa cái bánh rơi xuống đất.
Bánh mì với một tấm đường! Uú Lích cầm lên mà có cảm giác như mình là môt kẻ ăn xin. Tại sao mình không vứt cái bánh vào mặt nó? Tại sao mình lại quá hiến từ, lễ phép đốì với con mụ ấy. Phía đằng kia, mụ phước đã lại quát tháo om sòm:
-   ăn ở như mọi. Không sợ người ngoại quốc người ta cười cho.
út Lích nằm nghĩ vơ vẩn rồi lai nhớ đến ông Thêm. Có lẽ ông ấy còn cô đơn hơn mình... Ông ấy thương mình mà ông không dám nói. ông sợ cái gì kia? Hay là ông sợ mình trẻ mà ông già? Hay là ông không thích con gái Nam Bô? Được rồi. lần này mình sẽ hỏi ông vì sao không lấy vợ xem ông nói thế nào...
Giữa lúc Ưt Lích đang nằm nghĩ hết chuyện này sang chuyện khác thì cô y tá đeo kính mát đến đứng giữa phòng hỏi to:
-   Đây có ai tên là út Lích không?
út Lích ngồi dậy.
-   Cô ra ngoài có người gặp.
ai vây? Chắc không phải là bà Sáu rồi, bà Sáu mới vào, còn bà con thân thích thì chẳng có ai- Ra đến cửa phòng, bà phước tránh sang một bên:
-   Nhanh lên, người ta đợi cô muốn chết ở ngoải.
Đã bao giờ bà phước nói với cô một câu ngọt ngào như vây? Ra đến phòng đợi, cô còn ngơ ngác thì có tiếng gọi:
Cô út.
Bây giờ cô mới nhận ra Huy, thiếu úy đồn phó. Anh ta mặc thường phục, tóc chải gọn, đeo cái kính mát. Thọat trông út Lích tưỏng là một thanh niên nào đó.


Logged
danhthanh
Thành viên
*
Bài viết: 708


« Trả lời #167 vào lúc: 13 Tháng Giêng, 2016, 09:25:54 pm »

-   Chết, sao ông lại đến đây?
-   Thì cô hãy ngồi xuống đã.
Một vài người đến thăm người nhà hoặc chờ khám bệnh liếc nhìn sang, tò mò như muốn tìm hiểu quan hệ giữa hai người càng làm cho út Lích thêm lúng túng. Cuối cùng cô cũng ngồi xuống cái ghế tựa đối diện với ghế mà Huy đang ngồi.
- ở đây không tiện lắm, cô có thể đi ra ngoài kia một lúc không?
Thì đi chớ mình sợ chi. út Lích nghĩ vậy và gật đầu. Khi họ đã ngồi trên cái ghế đá ở gần bờ rào bệnh viện, Huy mới hỏi:
-   Cô có nghĩ tôi vào đây thăm cô không?
-   Tôi chẳng nghĩ bao giò.
Câu trả lời của út Lích làm cho Huy mất hứng, lúng túng một chút, còn út Lích thì sau khi lấy lại được bình tĩnh đang thử đoán xem cái lão này đến đây định nói gì...
-   Tôi đến đây có hai việc. Trước hết là đến chia buồn với cô, tôi biết là cô vô cùng đau đớn...
-   Cám ơn ông...
-   Sau nữa là đến thăm viếng cô...
út Lích liếc thấy trong cái làn bao nhiêu là thứ: sữa, bánh ngọt, trái cây...
-   Có vậy thôi à?
-   Còn một điều nữa, dầu sao thì chúng tôi cùng phải xin lỗi cô...
-    ông giết người rồi ông đến xin lỗi người ta...
-   Cô út
Nhớ đến con Miền, út Lích giận trào lên, không nén lại
. Ông đến chia buồn, ông nói nghe hay vậy. Con tôi chết tôi chịu chứ buồn chi ông mà ông chia. Các người giết người, rồi các người lại làm bộ đạo đức giả. Thăm với viếng.
Út Lích toan đứng dậy nhưng trông thấy vẻ mặt khổ nào cùa thằng Huy cô lại ngồi xuống:
• Cô Út. Cô để tôi nói. Việc gài trái trong nhà là do tụi bình định...
- Bình định với các ông thì cùng một giuộc, đều là đầy tớ của thằng Mỹ cả, bộ ông tưỏng ông oai hờn thằng bình định chắc?
• Cô đừng nói vậy, tôi cũng là người biết tự trọng... Tôi đến đây không phải để nghe cô sỉ nhục. Tôi không nói chuyện chính trị với cô nhưng cô cũng đừng động đến đời tư của tôi...
-Vậy thì ông cũng đừng động đến đời tư của tôi, tôi chẳng cần ông thăm viếng.
-Huy lặng thinh một lúc, nửa muốn đứng dậy ra về, nửa muốn ngồi lại. Nhưng điều anh suy nghĩ để nói với út Lích, anh chưa nói được. Anh không thiếu gì người đẹp ở Sài Gòn, vậy mà anh lại yêu một cô gái mà anh tưởng là có con thật.
- Anh chán ngấy những cuộc tình duyên mà anh cho chỉ là  xác thịt. Anh muốn tìm đến một tình yêu **lý tưởng”. Điều ị đó anh cảm thấy một cách mờ hồ, không giải thích được. Và sự đời, khi đã yêu mà không được yêu thì tình yêu lại càng đi sâu vào cõi huyền bí. Anh không phải là thằng con trai lang chạ, cũng không phải là thằng lính chỉ biết sống cho ngày hôm nay, anh mang cái mộng xây dựng một cuộc đời. Những thứ chính trị, triết học, các thứ chủ nghĩa, các loại văn chương nhồi vào đầu anh như một thứ hổ lốn. Anh vẫn nghĩ anh là một thanh niên có lý tưỏng, có đạo đức, và yêu nước theo cách nghĩ của anh. Cái đạo đức mà anh được tiếp thu cũng là môt thứ đạo đức nửa đông, nửa tây, nửa kirn nửa cổ, nhưng anh râ't tin ở nó. Đã yêu là chung thủy. Đà yêu là bất kể lý tưỏng. Đã yêu thì không cần biết cô gái đó đã có chồng hay chưa. Nhưng cái đạo đức ây cũng buộc anh phải biết tự trọng. Thà anh cắt đút cuộc tình một cách đau khổ. Anh không chịu để bị sỉ nhục.
-   Cô chưa hiểu tôi đâu cô út ạ, thôi thì đành vậy, tôi định hôm nay đến đây để nói chuyện với cô, nhưng cô đã không muôn nghe...
-   Thì ông cứ nói đi.
-   Nói mà cô không bình tĩnh thì không nói được...
- Vâng, vậy thì ông về.
Huy không thể không về được. Và út Lích cũng không thể không nói câu đó được. Tuy vây theo phép lịch sự. Huy vẫn nói:
-   Chào cô!
út Lích:
-   Chào ông!
Út Lích vào một lúc thì bà phước mang đến một cái làn đủ các thứ: sữa, bánh, trái cây, đặt lên cái chạn thức ăn đầu giường.
-Thôi, có chi chín bỏ làm mười, giận nhau vậy hoài rồi ăn ở với nhau làm sao. Có cưng người ta mới đến thăm viếng. Chớ gặp đức ông chồng khác thì đừng hòng.
Út Lích chăng buồn nói lại, cũng chẳng buồn nhìn cái làn trái cây. Cô nghĩ đến ông Thêm, giá chi lúc này ông đến thăm cô.
Một lúc bà phước bảo lao công vào thay cho cô tấm ga mới.
Út Lích nằm buồn ngó vô cái làn, bỗng cô thấy có một cái phong bì xanh. Thằng cha lại viết thư rồi. Thì cứ đọc coi sao.Cô  Lấy bì thư mở xem: một tờ giấy gấp tư viết bằng bút bi rất vội:
"Cô Út quý mến,

Vậy tó tôi định đến nói chuyện với cô mà rồi lại khống nói được. Hẹn cô hôm khác. Tôi biết rằng cô vẫn nhìn tôi bằng một đôi mắt hận thù. Mà tôi thì có tội tình gì. Còn bao nhiêu điều tôi muốn nói với cô mà chưa nói được, chỉ vì cứ mỗi lần gặp nhau, cô lại đem những chuyện chẳng đâu vào đâu ra mà nguyền rủa tôi. Rồi tôi sẽ nói với cô những suy nghĩ của tôi về cuộc đời. Tôi biết cô là một cô gái thông minh, chắc cô sẽ hiểu. Tôi chẳng cần phải thanh minh gì cho tôi. Sự việc dần dà sẽ tự trả lời giùm tôi những điều uẩn khúc. Tôi mong được gặp lại cô ở bệnh viện và được trò chuyện với nhau một cách bình tĩnh hơn (vì tôi cũng không muốn nói nhưng chuyện như thê này ở trong ấp”.
Mong cô chóng hồi phục
Người rất quý yêu cô
   Huy*.
út Lích gấp lá thư bỏ vào túi áo, vắt tay lên trán nhìn trần nhà. Cô mắng oan thằng Huy, như nó đã nói nó đến với cô một cách chân thành. Nó không tính toán, không phải là loại trai lơ, tình tứ. Nhưng nó yêu cô vì cái gì thì cô cũng không biết. Nó cứ bám riết cô hoài và làm cho cô đôi lúc phải nghĩ đến nó. Nó rất lo cho thân phận cô. Con gái một mình. Tụi lính, tụi bình định ra vào chớt nhả. Cố hôm Huy nói với cô phải coi chừng thằng Hai Rớt, thằng đểu lắm đó.
Út Lích càng tránh mặt thằng Huy thì nó càng xáp tới. Hình như chính sự đứng đắn của cô lại là một sức hút làm cho thằng Huy say mê. Hắn nói: tôi đốt đuốc đi tìm mãi khắp cả ven đô, bây giờ mới gặp được cô đó cô út ạ.
Chết mát, sao mình lại nghĩ nhiều quá về thằng Huy thế này, cứ thế này mãi có khi hỏng mất. Mai mốt mình sẽ thành bà thiếu úy và đến lúc nào đó ba mình về.., nghĩ đến đó Út Lích thấy lạnh toát cả xương sống…
Logged
danhthanh
Thành viên
*
Bài viết: 708


« Trả lời #168 vào lúc: 13 Tháng Giêng, 2016, 09:27:44 pm »

Đi thôi, phải đi theo cách mạng thôi, chẳng còn cách nào nữa. em Miền của cô chết rồi. Vậy là công lao của cô bao nhiêu năm trời để chờ một ngày ba về.
Vết thương chưa lành Út Lích đã ra viện. Bà phước không  hiểu nổi cái tính khí lạ lừng của cô  gái “thôn dã” này. Từ hôm có ông thiếu úy đồn phó đến thâm, cô gái đã được hưởng mọi sự chăm sóc đạc biệt của bà. Phần cơm chia nhiều thức ăn hơn, tấm ga nằm bao giờ cũng thay giặt tráng toát... Cả đến ông cố vấn bác sĩ người Phi Luật Tân đến đứng khám cũng lâu hơn. Cô y tá đưa thuốc đến phục vụ cũng chu đáo hơn: ngày nào cũng hỏi xem cô ngủ có ngon không, cô ăn được cơm không? Vậy mà cô gái lại đùng đùng ra về…
-   Thì cô cũng phải chờ người ta đến đón rồi hãy về...
-   Cám ơn bà phước, tui chẳng có ai thân thiết mà đón với đưa...
Bà phước bỏ đi không nói nữa. Cái cô gái xấu tính mà tốt số ấy, thôi bà chả chấp... có lẽ hai ngưòi lại giận dỗi gì nhau, cái trò thanh niền. Bà lại lạch bạch xách cái làn bánh mì chạy đi cùng trại, mắng mỏ hết ngưòi này đến người khác:
-   Ăn ở như lũ mọi, các người có dọn dẹp vào cho ngăn nắp không, ông bác sĩ cố vấn sắp đến bây giờ...
Cái làn trái cây và sữa, bánh trên bàn của út Lích vẫn nguyên.
Bà phước vội vàng xách chạy theo, nhưng chỉ ra đến cửa, không thấy cô gái đâu nữa thì quay trỏ vào. Bà đặt cái  Làn xuống mở xem có những thứ gì trong đó, rồi vừa đi vừa lẩm bẩm:
-   Người chi mà tính khí kỳ cục.
Bà mang về phòng riêng, bỏ vào tủ khóa, lại, xong, tiếp tục xách cối làn còn một ít bánh mỳ lạch bạch chạy đi các phòng phát cho bệnh nhân.
Út Lích về nhà gửi mua 5 mét vải dù, tự tay khâu lấy một cái võng, may một cái bồng như bồng các anh Giải phóng hay mang. Không có dép cao su, cô mua một đôi dép Thái Lan, và ngồi nghĩ mãi xem nên sắm sửa cái gì nữa. Cuối cùng, cô nhớ ra, mua 5 mét vải.
Cô lại xin phép lên quận, viếng mộ con Miền, đặt làm cho nó một cái mộ chí- Đến thăm mộ, út Lích nói với nắm đất: - Em nằm đây rồi mai mốt chị đưa em về. Bây giờ chị không còn em nữa, chị chẳng ở nhà đâu. Em có thăm chị thi đừng về trong ấp. Chị đi đây.
Cái mả mới vẫn nằm im bất động, đám nhang cháy khói bốc nghi ngút... Mới hôm nào con nhỏ còn chạy theo kên má út... út Lích ngồi bên mồ khóc một lúc và thấy rằng: con Miền chết thiệt rồi, nó chẳng còn đâu nữa mà nói với nó… cô vừa khóc vừa đứng dậy đi ra khỏi nghĩa địa   
... San khi đi thăm em về, Út Lích coi như chẳng còn công việc gì để làm nữa. Bà con cô bác, rồi cả tụi dân vệ, bảo an, ai cũng bảo cô làm đơn kiện đòi bồi thường, nhưng út Lích cứ nằm dài cả ngày, chẳng thưa kiện gì cả.
-   Con tôi chết rồi, tôi lấy tiền về nuôi ai.
Tụi nó đến giục dọn nhà vào trong đồn ở, út Lích gào lên:
- Làng nước ơi, con tôi quốc gia mới vừa giết chết, tôi còn ốm lơ Ốm lắt chưa dậy đi làm được mà họ đã đến bắt dời nhà. Các người có giết thì giết nốt tôi đi.
Tụi bình định thấy vậy bỏ đi. Hai Rớt thì làm ra vẻ độ lượng, nói với tụi đàn em:
-   Thì cũng để từ từ, con người ta mới chết đó, mồ chưa xanh cở, còn để cho nó biết nhà biết ngõ mà về... Người của quốc gia thì rồi họ về với quốc gia. Cứ để rồi đâu khắc vào đó, mất đi đâu mà lo.
Nó nháy mắt với tụi lính. Tụi lính hiểu ý cười ầm:
-   Anh Hai thật cao kiến, tụi em phục sát đất...
Từ hôm lựu đạn nổ chết con Miển, cô bác cứ chỉ mặt tui dân vệ mà chửi. Tụi nó sợ, không dám cài linh tinh nữa. Bà Sáu thấy Út Lích không dọn lên đồn, cũng nấn ná ở lại, mặc dầu bà chỉ còn cái nhà nhở chỉ đủ chui ra chui vào.
Tối đến, út Lích sang nhà bà Sáu ngủ. Hai người cứ chờ hết đêm này đến đêm khác, hễ có tiếng động, lại lắng tai nghe. Có thứ gì ăn được, họ mua góp, đong góp cất dành trong cái thùng sắt chôn ngoài bụi chuối chờ nghe tiếng gõ cửa của các anh Giải phóng.
Từ ấp 3 trở xuống, phía tây bờ sông Sài Gòn tiếp giáp với một bãi sình rộng, lỗ chỗ những gò đất, những bờ tre, có nơi thỉnh thoảng còn sót lại một cái nền nhà cũ, có một vài bụi chuối, một hàng tầm vông, hay một vài cây sầu riêng, vú sữa héo hắt không ai chăm bón. Sau nhiều lần bom pháo, càn phá, gom đốt, dân vùng bưng đã bở chạy vào trong làng, rồi lại từ trong làng chạy vào ấp chiến lược.
Đầu năm 69, có một đơn vị bộ đội đóng ở đây. Khi tụi Mỹ đưa xe ủi ủi từ trong Rừng Làng ra đến bờ sông, thì chúng nó cũng đổ lính, càn từ dưới sông càn lên. Vùng bưng không ủi được thì nó đốt. Những đơn vị bám trụ ở đây tổ chức những trận địa đánh tụi giang thuyền suốt một dọc từ Bưng Còng, Rạch Kiến xuống đến Trung An. Trận địa của họ thường đào trên những gờ đất mỏng, phía trước là sông,
phía sau là sình đánh một trận rồi tùy cơ mà rút đi hay trụ lại.
 Từ khi tụi Mỹ “xuống thang” mà cái “chân thang” là vùng đất ven đô, hầu hết những công sự trên bờ sông đó bị đánh tróc. Hễ một chiếc tàu trên sông bị đánh, hoặc “đầm già" phát hiện ra dấu vết của ta trên bờ, lập tức đại bác căn đến, rồi “cá rô” quần, “trực thăng” vũ trang đổ lính Mỹ sau lưng. Dưới sông thì tàu phía trên ào đến, tàu phía dưới ào lên. Nó đánh đến lúc những gò đất bên sông trọc lốc, chì còn trơ ra những hố bom hố pháo. Các phân đội trụ lại ít ai còn sống sót.


Logged
danhthanh
Thành viên
*
Bài viết: 708


« Trả lời #169 vào lúc: 14 Tháng Giêng, 2016, 09:48:46 pm »

Thị và Hùng lội qua một quãng sình ngắn, đến một cái nền nhà cũ... Hai người ngồi xuống nghỉ. Rõ ràng đây là một khu vực bọn địch bỏ sót, ta thì chưa trở lại... Mấy hôm nay, sau khi ông Ba Kiên chết, hai anh em dẫn nhau đi cùng xứ.
Đi đâu về lại nói với ông Hai Trụ, lại hỏi, lại đi. Hóa ra bên này sông, sau khi nó làm dữ dằn vậy, vẫn có đơn vị bật đi mấy ngày rồi lại lục tục trở về. Nhờ có ông Hai làm trụ sở. Thị móc được một cán bộ đoàn 82 vẫn nằm kẹt trong rừng Bời Lời. Cậu ta vẫn giấu gạo khắp nơi. Có chỗ tụi nó càn, khui lên được, nhưng có chỗ vân còn. Cũng nhờ ông Hai Trụ, Thị biết được những trận địa của đơn vị Đạch Đằng, một đơn vị của phân khu nay vẫn đang bám trụ dọc con sông Sài Gòn. Và theo lời dặn của ông Ba Kiên, anh đi nghiên cứu một số trận địa đánh tàu...
Cách đây dăm tháng, cái nền nhà cũ Thị đang ngồi đó là khu vực tập kết của các đơn vị đánh tàu, từ khu vực tập kết đó, họ ra chiếm lĩnh trận địa. Ngay sát sau cái nển cũ là một hàng tầm vông. Dưới hàng tầm vông bị đốt phá, nay đã xanh lai còn dấu vết cái bếp Hoàng cầm đã bị mưa xói mòn, cở mọc lấp gần kín. Trước cái sân hẹp chỉ bàng một lối di là bụi chuối lau ngày đã thành chuối dại, cây nhờ thân và cao vút, những hoa chuối không ai cắt, cứ trổ mãi cho hết trái CUố1 cùng, quả chỉ bang ngón tay cái.
Thằng Hùng định bẻ cái hoa chuối về ăn, Thị quát-
-   Muốn chết à!
Nó đành tiếc rẻ buông tay xuống.
-   Hôm nào đánh xong, em ra lấy vậy.
Từ khu vực tập kết ra đến bờ sông là một bờ tre bị đại bác phá tan nát, thân cây gãy gập, xơ tướp, ngọn úa vàng. Nhưng bên cạnh những ngọn tre héo vàng, chết khô đó, những cành non và những búp măng, sang mùa mưa lại đâm chồi. Dưới chân bờ tre, nhìn xuống cánh đồng sình là những cái hầm ếch tránh pháo của các đơn vị trước đào đã lâu ngày, vỡ lở gần hết. Qua một bãi sình ngắn nữa lại đến một bờ tre. Thằng Hùng kêu lên:
-   Măng nhiều quá anh Thị ơi! Đây, anh thấy không? Sờ chỗ nào cũng có.
-   Cẩn thân không trái nổ bây giờ.
Bờ tre này hầu như bị đạn phát gần hết ngọn, chạy dài dọc theo triền sông. Ngày xưa, các phân đội đánh tàu đặt trận địa B.41 ở đây. Từ đây ra sông lại là sình. Mí bờ sông, giáp với nước có một bờ cây lúp xúp, bờ đất có chỗ chìm xuống nước, có chỗ nhô cao lên. Anh em chiến sĩ ta lấy bao cát đắp quanh những mô đất đó làm thành ụ súng đứng bắn cho các xạ thủ. Những anh em này phải đào hầm trong gò đất đó, đứng ngâm mình trong nước, có khi ngang bụng, có khi ngang ngực, đón tàu mà bắn. Bắn xong lội qua sình rút vào bờ tre phía trong, một bộ phận khác bắn trả lại “trực thăng” hỗ trợ cho nhau rút lui. ụ súng B.40 sát mí nước. Mùa hè, nắng bắt hơi sình lên nóng rát, người đứng trong hầm chẳng khác gì đứng trong một nồi nước nóng mà trên đầu lại có lửa đốt.
Quanh trân địa là những hố bom đìa, rộng toang hoác Nhễu nước phèn, một thứ nước đầy bọt vàng lấm tấm. Đường từ bờ tre ra trận địa là bờ cỏ hẹp, sồi sụt, đang đi, có lúc hụt chân, bước xuống hố sình sâu ngang bụng. Từ xa, những ngày đẹp trời, nước sông Sài Gòn trông xanh biếc, vậy mà đến đây bỗng hóa bạc trắng. Lòng sông ở đây nhìn cũng như rộng ra, dữ dội hơn. Sóng từng đợt, từng đợt dội vào dưới chân lỗ châu mai của ụ súng, vỗ oàm oạp. Những lúc tàu địch chạy sát vào bờ, sóng cày tung tóe nước hắt cả vào mặt các chiến sĩ trong hầm. Thị đưa tay mò lên ụ súng, những bao cát ngày nào đắp chung quanh vẫn còn, có bao rã ra, có bao còn mang nguyên vết đạn. Ban đêm, mặt sông đen ngòm. Nếu tàu nó tắt đèn chạy thì chẳng có cách gì đánh? Phải cố một vật sáng ỏ bờ bên kia làm chuẩn. Và chắc chắn nhất là phải đánh ban ngày.
Bên cạnh Thị, thằng Hùng cứ ngồi đập muỗi đôm đốp. Muỗi từ trong bãi sình, từ trong những đám cỏ thối bay ra như trấu. Mỗi lúc rút chân lên, họ lại cấu ra một con đỉa, sau chán, cứ để cho nó cắn no...
... Đã mấy hôm nay rồi, Thị kéo thằng Hùng đi khắp quãng bờ sông bên này từ trên An Phú đổ xuống, nghiên cứu các khu vực có thể đánh tàu; cấc đường rút, và quy luật của tàu đi...
“Bám trụ được phía tây sông, đánh được tàu trên sông Sài Gòn rồi ta sẽ nói chuyện với chúng nó”. Hôm ông Ba Kiên qua sông, vừa đi ông vừa nói với Thị như vậy. Hôm qua sông, đứng trên đường Mười lăm, ông còn quay lại ướm xem địa hình. Hôm đó ông chưa biết quãng dưới này... Ông sang sông chưa kịp làm gì thì đã hy sinh. Nhưng cũng từ sau khi ông mất, thì công việc tự nhiên bày ra trước mắt anh. Anh cho rằng: nếu ông Ba Kiên còn sống, chắc ông cùng phải thích thú khi có được những trận địa như vậy. Trước khi sang sông có ông Ba Kiên, Thị cảm thấy muôn vàn khó khăn, Thị nghĩ rằng sang đây sẽ sống trơ trọi như sống trên
một hòn đảo. Vậy mà lạ lùng chưa, sau khi ông Ba Kiên hy sinh, đáng lẽ trong tình thế như vậy, anh phải cảm thấy cô độc hơn, lo lắng hơn. Nhưng không, anh chỉ buổn, còn công việc bây giờ không đáng lo nữa. Chỗ ở có hầm bí mật, cái ăn thì liên lạc với hậu cần. Với dân, dần dần qua ông Hai Trụ sẽ bắt mối được. Thằng Bảy Rỹ mấy hôm nay lại làm trái, cứ mỗi buổi chiều, ông Hai Trụ đánh xe trâu đi một vòng nhặt trái lép về bỏ xuống hố bom, nó lại ra đó lấy. Hỏi nó gài ở đâu, nó bảo: rồi mình lập lại căn cứ chớ. Nay mai ông Tư Quang ổng về, thằng Đực, thằng Re về, các anh kéo sang...
Tụi nó có phần quá trớn, nhưng thôi cứ để vậy cho vui. Đến như thằng Hùng cũng còn nói với Thị:
-   Sang bên này sông khoái ạ, có gạo ăn, lại có dân, mai mốt vô ấp anh Thị hè.
-   Sang rồi phải đánh, chớ sang nằm im thì được chi.
- Thì đánh...
Thì ra mọi việc khởi đầu đều khó, bị đánh tanh bành, nhưng đã đứng lại được rồi thì chẳng sợ nữa. Có lẽ công lao của ông Ba Kiên là ở chỗ đó. Có kinh nghiệm thì rồi dần dà, bình tĩnh là tìm ra cách đánh...
Thằng Hùng vẫn ngồi đập muỗi, nó nhìn sao rồi nói:
-   Sáng rồi đó anh Thị, nghiên cứu xong chưa ta về. Em nghĩ cứ đào hầm bí mật trong bụi tre, đánh xong vô nằm chịu trận đó một ngày, đêm sau chuồn.
- Hay là mày về trước đi.
-   Chi vậy?
-   Tao ở lại đây một ngày, ban ngày ban mặt tao xem xem quy luật tàu bè nó đi lại thế nào...
-   Vậy thì em cũng ở lại.
-    Đói chết.
Thằng Hùng móc trong túi ngực ra một gói mì tôm:
Phần anh đây, em còn một gói.
-   Đâu đó?
-   Chị Sáu cho.
-   Ai cho chị Sáu?...
-   Chị gặp chị Ba.
-   Chết!
Thị im lặng, thằng Hùng gặng hỏi:
-    Em ở lại nghen? Được rồi, không nói là đồng ý.
-   Này cậu bố láo vừa vừa. Hồi trước cậu đi với chú Ba, chú Ba nói gì câu phải nghe, bây giờ tao thay chú Ba...
-Anh còn lâu mới thay được chú Ba...
Thị bật cười:
-   Mày bảo cấp trên hy sinh thì cấp dưới phải thay thế chớ?
-   Ờ vậy thì em cũng thay thế anh vì anh thay chú Ba...
-   Cái thằng, thôi, vậy thì tìm một bụi cây mà ngồi, “cá rô” hay xuồng máy có đi qua thì ém cho kín, muỗi cắn không được đập, không được kêu. Động thì ngâm mình xuống nước, lấy bèo tây phủ kín như hồi ở cầu sắt ấy.
- Anh khỏi lo.
Thằng Hùng kêu đỉa quá trèo lên bờ công sự ngồi, vừa đập muỗi vừa nói hết chuyên này sang chuyện khác. Nó phân tích tình hình thật giỏi. Nó nói: thằng địch cứ ủi dưới ủi lên thì ta ở trên đi xuống, hết mùa mưa nó ủi lên Ván Tám thì cây dưới này lại mọc. ừ, nó hiểu biết vậy mà anh cứ vẫn nghĩ nó là trẻ con. Lạ thật, cái quan hệ giữa Thị và thằng Hùng cũng chẳng ra cấp trên cấp dưới, nó giống như quan hệ anh em vậy. Có lẽ ở bộ đội như vậy không được. Mai mốt về bên kia phải đề nghị ông Dũng cho nó xuống đơn vị. Nó làm tiểu đội trưởng được quá đi chớ.


Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM