Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 01:21:22 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Stalingrad - Anthony Beevor  (Đọc 62627 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
huytop
Thành viên
*
Bài viết: 919


« Trả lời #90 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2015, 01:03:51 am »

                                                                                                 XXIV


                                                                                   THÀNH PHỐ CỦA NHỮNG NGƯỜI CHẾT

 

        Ngày 2 tháng Hai, trên thành phố đổ nát sự yên tĩnh rơi xuống với cảm giác kỳ lạ cho những ai đã trở nên quen thuộc với sự tàn phá như là một điều tự nhiên. Grossman mô tả những gò gạch vụN và những hố bom sâu đến mức ánh mặt trời ở góc thấp của mùa đông dường như không bao giờ rọi nổi tới đáy, và “trên đường sắt, những toa xăng dầu nằm phơi bụng như những con ngựa chết”.

        Chừng 3.500 thường dân được tổ chức làm trong các đội chôn cất. Họ chất xác lính Đức đông cứng thành từng đống như đống củi bên vệ đường, và vì họ chẳng có mấy xe lạc đà kéo, nên đa số các công việc chuyển vận là dùng bằng xe trượt tuyết tự chế hoặc xe cút kít. Xác lính Đức được đưa đến các boongke, hoặc các hào chống tăng lớn, đào từ mùa hè trước và lấp lại. Sau này, thêm 1200 tù binh Đức được dùng vào việc tương tự, dùng xe người kéo thay cho ngựa. “Hầu hết những người thuộc các đội công tác đó” một tù binh báo cáo “chết nhanh sau đó vì bệnh sốt Rickettsia”. Những người khác “hàng tá mỗi ngày” theo một sỹ quan NKVD ở trại Beketovka – bị bắn trên đường làm việc bởi lính canh.

         Những bằng chứng rùng rợn của trận chiến không biến mất đi ngay lập tức. Khi sông Volga tan băng trong mùa xuân, hàng đống xác chết đông cứng, đen ngòm được tìm thấy bên bờ sông. Tướng de Gaulle, khi dừng chân ở Stalingrad trên đường đến Moscow vào tháng 12 năm 1944, bị ấn tượng mạnh khi thấy người ta vẫn còn đào kiếm xác, nhưng thật ra việc này còn tiếp diễn cả mấy thập kỷ sau. Hầu hết những tòa nhà trong thành phố mở ra cho người còn sống sau trận đánh.

        Đáng ngạc nhiên hơn cả số lượng người chết chính là khả năng sống sót của con người, Đảng ủy thành phố Stalingrad tổ chức meeting ở khắp các quận “được giải phóng khỏi ách chiếm đóng phát xít” rồi nhanh chóng làm công tác điều tra dân số. Họ tìm thấy ít nhất 9796 thường dân còn sống sót qua trận chiến, trong các đống đổ nát của chiến trường. Trong đó có 994 trẻ em, mà chỉ có 9 em là tìm lại được cha mẹ. Phần lớn được gửi đến các trại trẻ mồ côi hoặc đến phục vụ trong công tác làm sạch thành phố. Báo cáo không nói gì đến tình trạng thể chất hay tâm lý những người đó, như bằng chứng từ một tình nguyện viên Hoa Kỳ, người đến rất sớm sau trận chiến để phát quần áo “Hầu hết bọn trẻ” cô viết “sống trong lòng đất từ 4 đến 5 tháng. Các em phù thũng vì do sống trong điều kiện như vậy. Chúng co mình một góc và ngại nói chuyện, và cả việc nhìn thẳng vào mặt người khác”.

         Đảng ủy Stalingrad có những việc ưu tiên cao hơn. “Chính quyền Soviet ngay lập tức được tái lập trên tất cả các quận của thành phố”, báo cáo về Moscow ghi.

          Ngày 4 tháng Hai, Hồng quân tổ chức một cuộc meeting lớn cho “cả thành phố”, cả thường dân lẫn binh lính. Cuộc tập hợp đó, với những bài diễn văn dài nhằm tung hô đồng chí Stalin và tài lãnh đạo Hồng quân của Người, là một dạng dịch vụ cảm ơn của Đảng.

         Đầu tiên, chính quyền không cho thường dân đã thoát sang bờ đông được quay về nhà trong thành phố bởi cần phải dọn sạch bom đạn chưa nổ. Các đội gỡ mìn phải chuẩn bị một sơ đồ cơ bản “những lối đi an toàn”. Nhưng ngay sau đó nhiều người đã cố vọt về qua sông Volga không phép. Các thông điệp xuất hiện đầy trên tường các tòa nhà đổ nát, minh chứng cho số lượng các gia đình bị ly tán bởi trận chiến “Mẹ, chúng con ổn cả. Hãy tìm bọn con ở Beketovka. Klava”. Nhiều người không biết được gia đình, họ hàng của họ còn sống hay đã chết cho đến tận khi chiến tranh kết thúc.

            Một lượng lớn tù binh Đức, mà nhiều người trong số họ quá yếu để đứng nổi, cũng bị buộc phải có mặt ở buổi meeting chính trị tại trung tâm Stalingrad để nghe những bài hô hào dài dòng của ba lãnh đạo ĐCS Đức: Walter Ulbricht, Erich Weinert và Wilhelm Pieck.

          Tình trạng của đa số tù binh lúc đầu hàng là rất thê thảm, nên mức tử vong lớn là dễ biết trước được trong những tuần, tháng kế tiếp. Các hành động tàn bạo và hỗ trợ y tế tồi tệ làm gia tăng vấn đề này lên nhiều, và trên tất cả là việc thiếu hụt hậu cần không thể tính toán được. Trong số 91000 tù binh vào lúc cuối cuộc chiến, hầu như phân nửa chết trước khi mùa xuân tới. Chính Hồng quân cũng biết được, trong các báo cáo sau này, rằng mệnh lệnh chăm sóc tù nhân bị bỏ qua, và cũng không thể nói được có bao nhiêu lính Đức bị bắn chết trong quá trình đầu hàng, hoặc ngay sau đó, thường là để trả thù cho cái chết của họ hàng, bà con hay đồng đội.

         Mức tử vong ở những nơi gọi là “bệnh viện” rất kinh khủng. Hệ thống hầm hào ở hẻm núi Tsaritsa, giờ được đổi tên là “Bệnh viện tù binh số 1”, vẫn là nơi tệ nhất, lớn nhất, chỉ bởi không có nhà cửa để chống lại cái lạnh. Nước chảy lan trên tường, không khí còn hơn cả nhiễm độc với hơi thở của người bịnh, oxy thiếu tới nỗi những cây đèn dầu tự tạo bằng lon đồ hộp chỉ cháy được lập lòe rồi tắt ngóm, cả đường hầm chìm trong bóng tối.

           Thương binh nằm lăn lóc cạnh nhau trong đường hầm hẹp, trên nền đất ẩm ướt mòn vẹt, trong bóng tối thật khó để không đạp lên hay vấp lên những bàn chân bị bỏng tuyết và chịu nghe những tiếng hét đau đớn inh tai. Nhiều người bỏng tuyết chết vì hoại thư, các bác sỹ không thể đối phó được. Dù họ có sống sót qua cuộc phẫu thuật cắt chi thì thể trạng yếu ớt và không có thuốc gây mê là những vấn đề lớn khác.

         Điều kiện của đa số 4.000 thương binh là vô cùng tội nghiệp, các bác sỹ vô vọng trước việc nấm lan rộng trên vết thương. Họ hầu như không còn băng gạc cũng như thuốc men. Chỗ loét và các vết thương hở làm vi trùng uốn ván từ rác rưởi bẩn dễ dàng thâm nhập. Về mặt vệ sinh, thì có một cái xô để dùng cho những người bị bệnh lỵ, không nói nổi và trong bóng tối không đèn. Nhiều người yếu tới mức không gượng dậy nổi và cũng không có đủ hộ lý để đáp ứng những yêu cầu giúp đỡ thường xuyên. Mà chính bản thân các hộ lý cũng yếu bởi sự thiếu ăn và nhanh chóng bị bệnh bởi phải dùng nước bẩn trong hẻm núi.

         Các bác sỹ không có nổi một danh sách tên bệnh nhân hoàn chỉnh, huống hồ gì là bệnh án. Các đơn vị thuộc tuyến hai của quân Nga, và cũng là các đơn vị y tế, đã cướp thuốc men và thiết bị của họ, kể cả thuốc giảm đau. Một cha tuyên úy Tin lành thuộc sư đoàn bộ binh 297 còn bắn vào sau cổ bởi một thiếu tá Liên Xô khi ông đang cúi xuống băng cho một thương binh.

        Các sỹ quan quân y Nga thất kinh trước những điều kiện đó. Nhiều người đồng cảm. Vài sĩ quan Nga chia thuốc lá cho các bác sỹ Đức, nhưng những công dân Sô viết khác thì đổi bánh mỳ lấy đồng hồ, nếu chúng còn sau đợt cướp trước đó. Dibold, một bác sỹ thuộc sư đoàn bộ binh 44 mô tả một nữ phẫu thuật viên quân đội, với gương mặt thuần nông dân mạnh khỏe, đã chòng gẹo và đổi đồng hồ, với một người lính Áo đến từ một gia đình nghèo, đưa ra một chiếc đồng hồ bỏ túi bằng bạc. Anh đưa của gia bảo đó ra, rõ ràng chắc là được cho trước lúc đi lính, và đổi lại được nửa ổ bánh mỳ. Ổ bánh này anh chia cho người khác, chỉ giữ lại phần nhỏ nhất cho chính mình.

           Cảnh nghèo khổ cũng làm nổi lên những kẻ cặn bã. Có những tên lợi dụng các đồng đội cũ, đang không tự lo liệu được, với sự trơ tráo không tưởng tượng nổi trước đây. Chúng ăn cắp đồ từ những người đã chết và những bệnh binh yếu ớt nhất. Nếu ai còn đồng hồ, nhẫn cưới hay những đồ vật có giá trị khác, trong đêm tối sẽ bị lấy mất ngay. Nhưng lẽ tạo hóa cũng có sự trừng phạt công bằng. Những tên trộm nhanh chóng bị bệnh sốt Ricketsia do bị rận lây qua từ những người bị trộm. Một phiên dịch viên, đáng hổ thẹn vì những hành động của mình, được tìm thấy với một túi to chứa đầy nhẫn vàng dấu trong người khi hắn chết.

         Lúc đầu, chính quyền Soviet chẳng cung cấp lương thực. Những tài liệu của Hồng quân và NKVD được giải mật đã cho thấy rằng, dù biết việc đầu hàng sẽ sắp xảy ra, nhưng rõ ràng là không có sự chuẩn bị nào cho việc đó, kể cả lính canh chứ đừng kể chi đến thức ăn cho tù binh. Đảng viên Cộng sản Đức, Erich Weinart, tuyên bố rằng tuyết rơi dày làm cản trở việc chuyên chở hàng hậu cần, nhưng điều này thiếu tính thuyết phục. Vấn đề thật chính là tổng hợp của sự thờ ơ tàn bạo cùng sự quan liêu kém cỏi, và trên cả là việc thiếu hợp tác giữa quân đội và NKVD.

         Cũng có sự miễn cưỡng trong việc cung cấp thức ăn cho tù binh Đức khi mà cả Liên Xô còn đang bị thiếu lương thực trầm trọng. Nhiều binh sỹ Hồng quân còn thiếu ăn đừng nói chi đến dân thường, nên ý nghĩ về việc cho quân xâm lược cướp bóc nước họ, đồ ăn thức uống thì thật là sai. Cuối cùng, lương thực cũng bắt đầu đến sau ba hoặc bốn ngày, lúc đó nhiều người đã không được ăn uống gì gần hai tuần rồi. Ngay cả những người bệnh cũng chỉ có không quá một ổ bánh mỳ cho mười người, cùng với một ít súp nấu từ nước cùng hạt kê cùng vài lát cá muối. Chẳng thể mong gì ở việc đối xử tốt hơn, đặc biệt khi cân nhắc đến những “thành tích” của quân đội Đức trong việc đối xử với chính tù binh của họ, cả dân thường, lẫn lính tráng ở ngay tại Liên Xô.
Logged
huytop
Thành viên
*
Bài viết: 919


« Trả lời #91 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2015, 11:52:39 pm »

        Tuy vậy, mối lo lớn nhất của các bác sỹ với các bệnh nhân, không phải là chết đói mà là dịch sốt Ricketsia. Nhiều người đã lo có một trận bùng phát trong Kessel khi xảy ra ca nhiễm đầu tiên, nhưng họ không dám nói nhiều về mối quan ngại đó bởi sợ mọi người hoang mang. Trong bệnh-viện–đường-hầm họ tiếp tục cách ly những ca nhiễm khác bất kể là bệnh bạch hầu hay sốt Ricketsia. Các bác sỹ cũng van nài nhà cầm quyền cung cấp các phương tiện khử rận, nhưng nhiều lính Hồng quân và hầu hết thường dân sống trong khu vực đó cũng có rận. Không chút ngạc nhiên nào khi có nhiều người chết đến thế. Dường như không còn lý do để đấu tranh sinh tồn. Viễn cảnh được thấy lại gia đình lần nữa thật quá xa. Nước Đức ở tít mù khơi, như thuộc về một thế giới khác, một thế giới mà giờ dường như quá khả năng tưởng tượng. Cái chết hứa hẹn sẽ là một sự giải thoát khỏi khổ đau, không còn những cơn đau kiệt quệ cũng như sức mạnh, chẳng qua là một cảm giác bềnh bồng. Những ai muốn sống nhất dường như là những người vẫn tiếp tục đấu tranh vì niềm tin tôn giáo hoặc ngoan cố từ chối chết trong tình trạng tệ hại như vậy hay vì lợi ích của gia đình.

         Ước vọng được sống đóng một vai trò quan trọng trong chặng đường giải về trại tù. Như Weinert mô tả “những bóng ma quấn giẻ nhúc nhắc lê bước” theo sau lưng người lính chiến. Rất nhanh sau những nỗ lực đi bộ để làm ấm người, bọn rận cũng hoạt động tích cực hơn. Vài người dân thường giật chăn khoát trên vai họ, nhổ vào mặt họ và thậm chí còn ném đá. Chỗ tốt nhất là ở hàng đầu hoặc an toàn nhất là đi cạnh lính canh. Vài người lính (Nga) khi đi ngang qua, bất kể đã có nghiêm lịnh, bắn bừa làm vui vào những hàng tù binh, cũng tương tự như lính Đức đã bắn vào vào các hàng tù binh Hồng quân vào năm 1941.

        Những ai may mắn hơn thì được giải thẳng đến những trại tập trung trong vùng, dù thật ra cũng khá xa. Ví dụ như, tù binh từ túi phía bắc, phải đi hơn 12 dặm đến Dubovka, phía bắc Stalingrad. Và như vậy mất chừng 2 ngày. Trong đêm, họ bị lùa vào những căn nhà không nóc còn sót lại – sản phẩm của Không lực Đức, như lính canh không quên nhắc cho biết.

       Tuy vậy, hàng ngàn người khác phải chịu điều chỉ có thể gọi là cuộc hành quân thần chết. Tệ nhất, là chuyến đi với không chút nước hay thức ăn trong khí hậu lạnh chừng 25 đến 30 độ dưới không, theo một tuyến đường zích zắc kéo dài từ hẻm núi Tsaritsa, theo hướng Gumrak và Gorodishche, và kết thúc ở Beketovka năm ngày sau đó. Mỗi lúc, họ nghe thấy tiếng súng trong tiết đông lạnh giá, và biết một nạn nhân khác đã ngã gục xuống tuyết, không bao giờ đi thêm được nữa. Cái khát là mối đe dọa lớn cũng như sự yếu ớt với những người thiếu đói. Dù tuyết bao quanh, nhưng họ cũng chịu số mệnh như những người thủy thủ xưa.

         Hiếm khi có chỗ trú chân khi đêm xuống, nên những người tù túm tụm ngủ cùng nhau trên tuyết. Nhiều người thức giấc và nhận ra người đồng đội gần gũi đã chết và đông cứng cạnh bên. Để phòng ngừa việc này, một người trong nhóm được chỉ định thức gác và lay tỉnh những người khác sau mỗi nửa giờ. Cứ thế họ quay theo vòng. Có những nhóm khác sợ phải nằm xuống. Họ hi vọng có thể ngủ theo kiểu ngựa, họ cùng đứng tựa vào nhau theo từng nhóm, với một chiếc chăn phủ qua đầu để giữa lại chút hơi ấm từ cơ thể.

         Bình minh đến, không mang lại sự khuây khỏa mà là nỗi khiếp hãi chặng đường hành quân phía trước. “Người Nga có phương pháp rất đơn giản” một trung úy sống sót ghi nhận “Những ai có thể đi nổi, được giải đi. Những ai không thể, bất kể là thương binh hay bệnh binh, đều bị bắn chết hoặc bị để lại đó với không chút thực phẩm”. Nhanh chóng hiểu được cái logic tàn bạo này, anh chuẩn bị bằng cách đổi chiếc áo len của mình để lấy bánh mỳ và sữa từ một phụ nữ nông dân Nga lúc dừng nghỉ đêm, bởi anh biết nếu không làm vậy thì anh sẽ ngã xuống vì yếu sức trong ngày kế tiếp.“Chúng tôi bắt đầu lên đường với 1.200 người” một người lính từ sư đoàn bộ binh 305 kể chi tiết “nhưng chỉ còn một phần mười, tầm 120 người là còn sống đến được trại Beketovka”. Cổng vào trại chính ở Baketovka là một nơi vào khác mà hoàn toàn xứng đáng với dòng chữ “Ai vào đây là từ bỏ tất cả hi vọng”.

         Khi họ đến nơi, lính canh lục soát tù binh lần nữa để lấy đi những thứ có giá trị, rồi để họ đứng đợi “đăng ký”. Những người tù nhanh chóng nhận ra họ phải đứng ngoài trời lạnh giá hàng mấy tiếng, diễu qua theo từng nhóm năm người để “đếm”, có thể là một dạng lễ sám hối mỗi ngày. Cuối cùng, sau khi phía NKVD thực hiện công việc ký tá, họ được đưa vào những căn lều gỗ, lèn chặt chừng 40 đến 50 người mỗi phòng, “như xếp cá mòi” một người sống sót ghi nhận. Ngày 4 tháng Hai, một sỹ quan NKVD phàn nàn với sở chỉ huy Phương diện quân sông Đon rằng tình hình là “rất trầm trọng”. Trại tù ở Beketovka nhận đến 50000 tù bình “bao gồm cả thương binh và bệnh binh”.

         Phụ trách trại tù NKVD bị quá tải. Họ không có xe vận tải và cố xin phía quân đội chỉ một chiếc. Rốt cuộc nước được mang tới trại bằng thùng sắt trên những chiếc xe kéo bởi lạc đà. Một tù binh bác sỹ người Áo ghi nhận ấn tượng đầu tiên: “Không có gì để ăn, không có gì để uống, tuyết bẩn thỉu và băng đá vàng màu nước tiểu là thứ duy nhất để khuây khỏa cho cơn khát ghê gớm… Mỗi buổi sáng, thấy nhiều xác người hơn”. Sau hai ngày, phía Nga mới cung cấp cho ít “súp”, thứ không gì hơn là một bao cám đổ vào nước ấm. Tức giận với điều kiện sống, tù binh nạo rận từ người họ ra đầy tay, rồi ném vào lính canh. Những kiểu phản kháng như vậy mang lại án tử hình.

        Ngay từ đầu, nhà cầm quyền Liên Xô phân chia tù binh ra, trước hết là theo quốc tịch, rồi sau đó là chính trị. Tù binh Rumani, Ý và Croatia, được ưu tiên làm công việc nhà bếp, ở đó những người Rumani cá biệt bắt đầu trả thù những cựu-Đồng-minh. Họ tin rằng, người Đức không chỉ đưa họ vào cái địa ngục này, mà còn cắt hậu cần khi ở trong vòng vây để quân Đức có thể được ăn uống tốt hơn. Những nhóm người Rumani đánh những người Đức đi riêng lẻ để nhận đồ ăn cho cả phòng, và thu luôn thức ăn. Phía Đức trả miếng, bằng cách gửi người hộ tống cho những ai đi nhận.

          “Rồi một cú sốc khác đến” một thượng sỹ Không quân Đức ghi nhận “Những đồng đội người Áo của chúng tôi đột nhiên thôi là người Đức. Họ tự gọi mình là “người Áo” với hi vọng được đối xử tốt hơn – và thực là như vậy”. Người Đức cảm thấy chua xót “tất cả những tội lỗi chiến tranh chất chồng lên chúng tôi, những ai còn là “Người Đức””, đặc biệt là khi những người Áo, với cái logic thay đổi đó, đổ lỗi cho những tướng lĩnh người Phổ hơn là cho Hitler-người gốc Áo, cho tình huống khó khăn của họ.

          Nhưng cuộc chiến để dành lại sự sống vẫn quan trọng hơn. “Mỗi sáng, người chết nằm dài ngoài trại” một sỹ quan thiết giáp viết. Những thi thể lạnh cứng, trần truồng đó được xếp chồng lên nhau bởi các đội lao động thành một hàng dài bên hông trại. Một bác sỹ ước lượng rằng ở Beketovka có “một ngọn núi xác người, dài chừng 100 mét và cao 6 feet”. Ít nhất có từ 50 đến 60 người chết mỗi ngày, một chuẩn úy không quân Đức ước tính. “Chúng tôi không còn nước mắt để khóc” anh viết sau này.

          Một tù binh khác được dùng làm thông dịch viên cho phía Nga cố xem “đăng ký tử vong”. Anh ghi nhận rằng đến ngày 21 tháng 10 năm 1943, riêng ở Beketovka có 45,200 người chết. Còn báo cáo của NKVD cho biết trong tất cả các trại tù binh ở Stalingrad, có 55,228 người chết tính đến ngày 15 tháng 4, nhưng không ai biết được có bao nhiêu tù binh bị bắt tính từ chiến dịch Uranus đến lượt đầu hàng cuối cùng.

        “Cái đói” bác sỹ Dibold quan sát “làm thay đổi tinh thần và tính cách, dễ nhận ra được qua các thói quen mẫu mực và khó nhận thấy nhất là suy nghĩ của mỗi người”. Lính Đức cũng như Rumani để sống sót phải ăn đến cả thịt người. Những lát mỏng cắt từ những xác chết đông cứng, được đun sôi lên. Sản phẩm cuối cùng ra được là một thứ tròn như “thịt lạc đà”. Những ai ăn thứ thức ăn này nhanh chóng được nhận ra ngay, bởi nước da của họ có ẩn chứa sắc đỏ, thay cho vẻ xám xanh của phần lớn người. Những trường hợp như vậy cũng được báo cáo từ các trại khác ở quanh Stalingrad, ngay cả trại giam những tù binh từ hồi chiến dịch Uranus cũng có. Một nguồn tin Sô viết tuyên bố rằng “chỉ có mũi súng mới bắt được những tù binh đó bỏ hành động man rợ này”. Những người chịu trách nhiệm đề nghị thêm thức ăn, nhưng sự bất tài cũng với tệ tham nhũng trong hệ thống làm làm cùn nhụt mọi biện pháp.

         Ảnh hưởng tổng hợp của sự kiệt sức, lạnh, bệnh tật và đói còn làm mất nhân tính của tù binh theo những cách khác. Bệnh lỵ lan tràn, những ai bị ngã và rơi xuống hố phân nhà xí, sẽ để cho chết chìm luôn, dù vẫn còn sống. Chẳng mấy ai có đủ sức hay có muốn kéo họ lên. Số phận kinh hoàng của những người đó ở dưới kia bị bỏ qua. Bởi nhiều người khác cũng bị bệnh lỵ, đang cần dùng nhà xí khẩn cấp hơn.

         Lạ kỳ là, chính nhà xí cũng đã cứu mạng một trung úy trẻ, xuýt chết đói, anh là một bá tước, gia đình anh có vài tòa lâu đài và bất động sản. Anh nghe lỏm thấy một người lính nói gì đó bằng thứ tiếng địa phương của quận anh, không nhầm được, anh nhanh chóng la lên, hỏi người lính kia quê ở đâu. Người lính nêu ra cái tên của một ngôi làng nhỏ ở cạnh bên. Rồi anh ta hỏi ngược lại: “Vậy thế anh là ai và quê ở đâu?”. Viên sỹ quan trả lời. “À, ra vậy” anh lính cười to “Tôi biết anh rồi. Hồi trước tôi thường thấy anh đi qua trong chiếc xe thể thao Mercedes màu đỏ, phóng như bay. Ồ, giờ chúng ta lại ở cùng nhau. Nếu anh đói thì tôi có thể giúp được”. Người lính đó được chọn làm hộ lý trong một bệnh viện cho tù binh, và bởi rất nhiều người trong bệnh viện chết trước khi có cơ hội được dùng khẩu phần bánh mỳ, nên anh ta tích lũy được một túi cùi bánh mỳ thừa để chia với người khác trong lúc nghỉ ngơi. Cuộc nói chuyện hoàn toàn không biết trước này đã cứu mạng vị bá tước trẻ nọ.

             Sự sống sót thường đi ngược mong đợi. Những người chết trước thường là những người có thân hình to lớn và mạnh mẽ. Trong khi những người nhỏ, gầy lại có cơ hội tốt nhất. Bởi cả lúc trong vòng vây lẫn khi trong trại tù, khẩu phần được chia đều cho đến từng vụn bánh, nên sẽ mang đến khả năng sống sót cho những người thích ứng nhất, bởi ở đây không có chia theo kích thước từng cá nhân. Thật thú vị khi được biết rằng trong các trại lao động Liên Xô, chỉ có ngựa mới được cho ăn dựa theo kích thước.

         Khi mùa xuân đến, chính quyền Soviet bắt đầu tái tổ chức lại lượng tù binh trong vùng. Tất cả có chừng 235.000 tù binh, từ Tập đoàn quân VI, Tập đoàn quân xe tăng IV, cùng với những người bị bắt trong chiến dịch giải cứu của Manstein trong tháng 12, cũng như quân Rumani và lính Đồng minh khác, được nhốt trong khoản 20 trại tù và bệnh viện tù nhân trong vùng.
Logged
huytop
Thành viên
*
Bài viết: 919


« Trả lời #92 vào lúc: 02 Tháng Mười, 2015, 12:31:31 pm »

        Các sỹ quan cấp tướng được đưa đi trước. Đích đến của họ là một trại ở gần Moscow. Họ đi trên cái mà các sỹ quan cấp thấp bất nhẫn phong cho cái tên là “Con tàu trắng”, bởi những toa xe trên đó rất tiện nghi. Sự cay đắng lớn này là hậu quả của sự kiện rằng những vị tướng ấy đã ra lệnh chiến đấu đến cùng, và họ không chỉ sống sót với lối nói tu từ đó của mình, mà giờ còn được hưởng những điều kiện mà lính của họ không thể so sánh nổi. “Nghĩa vụ của một vị tướng là ở cùng với lính mình” một trung úy bình luận “không phải là để phắn đi trên một toa xe nằm”.

         Cơ hội sống sót phụ thuộc tàn nhẫn vào cấp bậc. Trên 95 phần trăm lính trơn, NCO và 55% sỹ quan cấp thấp chết, trong khi đó con số chỉ là 5% với sỹ quan cao cấp. Như những phóng viên ngoại quốc ghi nhận, ngay sau lúc đầu hàng chỉ có vài sỹ quan cao cấp là có dấu hiệu của sự thiếu đói. Đối đãi ưu tiên mà các tướng lãnh được nhận, tuy vậy, minh chứng cho thấy về ý thức tôn ty thứ bậc ở Liên Xô.

       Một số nhỏ sỹ quan được gửi đến những trại ở quanh Moscow, như Lunovo, Krasnogosk và Suzdal. Còn những ai chọn “giáo dục chống phát xít” thì được gửi đến một pháo đài – tu viện Yelabuga, đông Kazan. Điều kiện trên phương tiện vận chuyển không được như phần dành cho cấp tướng. Trong một đoàn công voa gồm 1800 sỹ quan đi lúc tháng Ba, 1200 người chết. Thêm vào đó bệnh Ricketsia, bệnh vàng da, bạch hầu, bệnh sco-bút, phù thũng và lao lan rộng. Và khi mùa xuân đến, số ca sốt rét tăng nhanh.

        Lính và sỹ quan cấp thấp được chia theo từng cộng đồng cũng được xác định, 20.000 gửi đi Bekabad, đông Tashkent, 2.500 đến Volsk, đông bắc Saratov, 5.000 xuôi theo sông Volga đến Astrakhan, 2.000 đến Usman, bắc Voronezh, những người khác đến Basyanovsky, bắc Sverdlovsk, Oranky gần Gorky và cả đến Karaganda.

        Khi đăng ký trước lúc khởi hành, nhiều người khai nghề nghiệp là “lao động nông nghiệp” với hy vọng được gửi đến một nông trại. Những tay nghiện thuốc lá nặng nhặt phân lạc đà, phơi khô nhằm có gì đó để nhả khói trong chuyến đi. Sau những gì trải qua ở Beketovka, họ chắn mẩn rằng những gì tệ nhất đã qua, cảnh tượng của việc di chuyển và đổi thay khá hấp dẫn, nhưng rồi họ nhanh chóng nhận ra mình đã sai. Trên toa xe lửa, chen chúc cả trăm người, chỉ có một lỗ nhỏ trên sàn làm nhà xí. Cái lạnh vẫn ghê gớm, nhưng khát nước mới là tai họa lớn nhất, họ được cho bánh mỳ khô và cá muối để ăn, nhưng nước rất ít. Rồi họ trở nên liều lĩnh tới mức liếm nước đóng băng trên mặt thép của toa xe. Và lúc dừng, những ai được phép ra ngoài thường không cưỡng nổi việc xúc một nắm tuyết to và tống vào miệng. Kết quả là nhiều người chết, quá lặng lẽ tới mức đồng đội của họ chỉ biết là họ đi nhiều, sau này. Xác của họ chất cạnh cửa trượt của toa xe, sẵn sàng để bỏ xuống. Lính canh Nga thường hét lên bằng thứ tiếng Đức bồi của họ ở mỗi điểm dừng: “Skolko kaputt!” – “Có bao nhiêu người chết?”.

       Vài chuyến đi kéo dài tới 25 ngày. Những chuyến theo hướng Saratov, rồi băng qua Uzbekistan đến Bekabad nằm trong số những chuyến tệ hại nhất. Có một toa xe chỉ còn 8 người sống trong số 100 người. Khi những người tù, cuối cùng cũng đến được trại thu nhận trong khung cảnh núi non vùng Pamir, họ nhận ra nó được thiết lập cho một công trường đập thủy điện ở cạnh bên. Niềm vui khi nghe rằng họ sẽ được khử rận, cuối cùng cũng nhanh chóng tàn lụi. Họ bị cạo khắp người, “có thể so với cạo lông cừu”, rồi phun thuốc lên. MỘt số người chết vì kiểu dùng hóa chất nguyên thủy này.

          Không có lều để ở, chỉ có hầm đào trên đất. Nhưng điều ngạc nhiên tệ hại nhất là việc một hạ sỹ Đức làm việc cho phía Soviet với tư cách chỉ huy lính gác. “Không người Nga nào đối xử với chúng tôi tàn bạo như hắn” một tù binh viết (* Lính canh Đức cũng được dùng ở những trại khác.  Tệ nhất là khoản hai trăm lính Đức – hầu hết là người Saxon vì vài lí do – vốn đão ngũ từ những tiểu đoàn trừng giới. Vũ trang bằng dùi cui gỗ và với cái tên được ban là “Chiến sỹ chống Chủ nghĩa phát xít”, chúng không cho tù binh được chút niềm vui được thôi điểm danh, ngay cả khi phần lớn không chịu nổi vì bị bệnh lỵ).

       May mắn thay, việc lưu chuyển giữa các trại thuộc hệ thống Gulag là khá thường xuyên. Từ Bekabad, nhiều người đến Kokant, hoặc đến chỗ tốt nhất, Chuama nơi này họ có điều kiện y tế tốt hơn và có cả một hồ bơi sơ sài. Tù binh ở đó đã được tổ chức khá tốt, thường bắt chim để nấu súp.

      Những tù binh còn ở lại Stalingrad nhận ra trại tiếp nhận tại Krasnoarmeysk đã chuyển thành trại lao động khổ sai. Thức ăn, ít ra cũng được cải thiện với kasha (cháo kiều mạch) và canh cá, nhưng công việc rất nguy hiểm. Khi mùa xuân đến, nhiều người trong số họ bị đưa ra làm công việc trục vớt tàu chìm trên sông Volga, vốn do không lực và lục quân Đức bắn. Một quản đốc xưởng tàu người Nga, sốc bởi số lượng tù binh chết trong khi làm việc này, đã bắt cô em khác thề giữ bí mật trước khi kể cho cô nghe về điều đó.

         Sự kìm kẹp của NKVD ở Stalingrad không lỏng bớt. Tù binh làm việc ở cả hai bờ sông Volga để ý rằng tòa nhà đầu tiên ở thành phố được tu sửa chính là cơ quan NKVD, và hầu như ngay lập tức đã có ngay một hàng dài phụ nữ đứng chờ bên ngoài với gói đồ ăn trên tay để tiếp tế cho người thân bị bắt. Những cựu binh Tập đoàn quân VI đoán rằng họ cũng sẽ còn là tù binh trong nhiều năm nữa. Sau đó, Molotov đã xác nhận cho nỗi sợ của họ, khi ông phát biểu rằng sẽ không có tù binh Đức nào được về quê cho đến khi Stalingrad được xây dựng lại.
Logged
huytop
Thành viên
*
Bài viết: 919


« Trả lời #93 vào lúc: 02 Tháng Mười, 2015, 12:35:39 pm »

                                                                                                 XXV


                                                                                THANH GƯƠM STALINGRAD

 

       Tháng 11 năm 1943, một năm sau chiến dịch Uranus, một chiếc vận tải cơ hiệu Douglas bay thấp trên bầu trời Stalingrad. Những nhà ngoại giao Liên Xô đang trong chiếc máy bay đó trên đường từ Moscow đến gặp các lãnh đạo Anh, Mỹ tại Tehran. Một trong những hành khách là Valentin Berezhkov, người làm phiên dịch viên cho Dekanozov ở Berlin trong đêm chiến dịch Barbarossa xảy ra.“Chúng tôi dán mắt vào cửa sổ trong im lặng” ông viết sau đó “Đầu tiên là những căn nhà dân rải rác trên tuyết đến trong tầm nhìn, rồi sau đó là một đống hỗn độn không tin được: những bức tường chơ vơ, những tòa nhà khối hộp đổ nát, những đống đổ nát và vài ống khói đứng lẻ loi”. Tuy vậy, họ cũng có thể nhận ra dấu hiệu của cuộc sống. “Nổi lên trên nền tuyết là những bóng người và khắp nơi này nơi kia có dấu hiệu rõ ràng của những tòa nhà mới”. Khi ra ngoài thảo nguyên lại, họ trông thấy những bộ xác xe tăng cháy còn đó.

      Tại cuộc hội đàm Tehran, Churchill đã gửi tặng Thanh gươm Stalingrad cho “nhân dân Liên Xô”. Lưỡi thép được khắc lời đề tặng: “Gửi đến người dân Stalingrad kiên cường, món quà của Vua George VI để thể hiện lòng kính trọng của nhân dân Anh quốc”. Churchill làm nghi lễ thêm phần đáng nhớ bởi bài diễn văn hùng hồn. Stalin nhận thanh gươm bằng hai tay, đưa lên môi, hôn vào bao kiếm. Rồi ông chuyển món quà sang cho nguyên soái Voroshilov, ông này vụng về làm thanh gươm trượt ra khỏi vỏ. Rơi loảng xoảng trên thềm. Đêm đó, sau bữa tối, Stalin nâng ly. Ông nói “Tôi muốn chúc cho công lý sẽ đến nhanh nhất có thể với bọn tội phạm chiến tranh Đức… Tôi uống vì sự thống nhất của chúng ta để giải quyết chúng đủ nhanh để bắt chúng, tất cả, hoặc phải là khá nhiều bọn chúng”.

       Vài nguồn tin còn nói rằng ông ta cũng đề nghị tử hình 50.000 sỹ quan Đức nhằm tận diệt sức mạnh quân sự của nước Đức. Churchill giận dữ đứng dậy và tuyên bố rằng nhân dân Anh sẽ không bao giờ “chịu nổi cuộc tàn sát đó”. Không ai bị bắn nếu chưa có một phiên tòa đúng đắn. Ông bỏ ra ngoài. Stalin thích thú trước phản ứng mà ông đã gây ra, cũng đi ra cùng. Đặt cả hai bàn tay lên vai, ông nói rằng đó chỉ là trò đùa và tán tỉnh Churchill lúc cùng vào.

      Cuộc hội đàm ở Teheran quyết định chiến lược của khối Đồng Minh đến lúc kết thúc chiến tranh. Kế hoạch chiếm Balkan của Churchill bị phủ quyết vì những lý do quân sự. Nỗ lực chính của khối đồng minh Phương Tây phải được tập trung vào hướng tây bắc châu Âu. Nhưng cái logic chiến lược này đã đưa số mệnh của những quốc gia vùng phía đông và trung Âu và bàn tay của Stalin. Churchill, dù nghi hoặc nhiều về hậu quả, cũng không thể làm gì. Sự hy sinh của Hồng quân và thường dân Nga đã tạo điều kiện cho Stalin điều khiển được các Đồng minh phương Tây bởi họ có mặc cảm tội lỗi khi so  ra những thiệt hại của họ chẳng đáng là bao. Vài nhà sử học đã chỉ ra rằng Liên Xô vươn lên được vị trí siêu cường đúng vào thời điểm chiến thắng Stalingrad là cơ sở cho thành công của Stalin tại Tehran.

       Stalin, lợi dụng ánh hào quang của một chính khách lớn, và để lấy lòng Roosevelt, đã tuyên bố thủ tiêu Quốc tế Cộng sản III vào ngày 15 tháng 5 năm 1943. Đó là một quân tốt đen thí đi để đòi hỏi thứ quan trọng hơn. Georgi Dimitrov vẫn nguyên vị, lãnh đạo những người ít ỏi còn lại của Quốc tế III, dưới một cái tên khác: Ban Quốc tế thuộc Ủy ban Trung ương.

      Trong khi đó, chiến thắng của Liên Xô ở Stalingrad là sự quảng cáo rùm beng nhất cho việc tuyên truyền của Chủ nghĩa Cộng sản trên khắp thế giới. Đó là nguồn cảm hứng cho cả những ai đã mất niềm tin vào Stalin sau Nội chiến Tây Ban Nha và hiệp ước hòa bình Quốc Xã – Soviet năm 1939. Nó thúc đẩy những nhà điêu khắc, những họa sỹ,… nói chung là văn nghệ sỹ cánh tả, như Pablo Neruda, trong tập Nuevo Canto de Amor a Stalingrado đã viết một bài thơ về tình yêu quốc tế dành cho thành phố mà cái tên đã mang lại hi vọng cho cả thế giới.

       Với tù binh Đức ở Stalingrad, tương lai rõ ràng ảm đạm. Vài người, vẫn mơ đến một trận đại phản công để giải phóng họ, khi đêm xuống họ tin có thể nghe thấy tiếng đại bác phía xa của một cánh quân đang tiến đến. Nhưng ít ra họ cũng phải sống sót vài năm nữa trong các trại tù binh chiến tranh vốn được xây dựng theo tiêu chuẩn của NKVD với những hàng rào bao quanh chứa tới mười lớp kẽm gai.

       Những người bị bắt hầu như không biết chắc về số mệnh của mình như hồi đánh nhau. Và cũng cùng chia sẽ những sự trớ trêu trong chiến tranh. Như Dibold, một bác sỹ người Áo thuộc sư đoàn bộ binh 44, đã ngạc nhiên khi gặp ba bệnh nhân mới trong bệnh viện tù binh của mình. Nhóm bangười này, trông có vẻ là người Do Thái, mặc quân phục Đức với con ó và chữ thập ngoặc. Một trong số họ cười trước sự bối rối của ông. “Thưa bác sỹ, đây là điều kỳ diệu của thế kỷ hai mươi: một người Do thái là lính của Hitler”. Thì ra họ đến từ một tiểu đoàn lao công Hungary. Những người Nga đã cho họ quần áo từ những kho chiếm được.

       Dù khẩu phần ăn ở trại tù binh được tăng lên kể từ mùa hè năm 1943, nhưng vẫn không đồng đều, khác nhau giữa các trại. Khẩu phần bị những tay quản trị tham nhũng cướp bớt đi để đổi lấy vodka, hoặc bởi những người lính canh do chính phần gia đình của họ được nhận còn ít hơn so với tù binh Đức. Hầu hết sự ngược đãi là do thiếu óc sáng tạo, bất tài, và trên tất cả là sức chịu đựng của người Nga được học thuyết Marxit – Leninit khai thác thành công vượt mức.

       Tuy vậy, không có gì có thể đoán trước được hết. Những tù binh chứng minh được lính canh, khi được cho xem hình con cái họ, đã mềm lòng. Tại một bệnh viện tù binh bên ngoài Stalingrad, sau khi nghe những người bệnh dùng hình ảnh của những người bị bắn hoặc bỏ cho chết trên đường giải đi, lính canh Nga chẳng hiểu sao đã tha cho ba tù binh vừa bị bắt lại sau một nỗ lực trốn chạy phù phiếm.

      Ngay cả khi điều kiện sống được tăng lên kể từ mùa xuân 1943, mức tử vong ở đa số bệnh viện tù binh vẫn ít nhất là một ca/ngày. Vấn đề tồn tại vẫn rất lớn, đặc biệt ở vùng Stalingrad, với bệnh nứt da, bệnh lao, phù thũng, và bệnh sco-bút cùng những thứ bệnh khác.

      Một nữ bác sỹ Liên Xô nói với người đồng nghiệp Đức rằng thường dân Stalingrad còn bị bệnh sco-bút nhiều hơn tù binh Đức, nhưng rồi cô ta cũng cho phép các đội tìm kiếm được ra ngoài tìm kiếm dược liệu và rau xanh, để các bác sỹ Đức, ở trạm thuốc, cô đặc ra vitamin. Óc sáng tạo của các bác-sỹ-tù-binh Đức đã làm những sản phẩm tự chế thông minh. Một người đã làm ra được máy đo huyết áp từ kim loại vụn. Các bác sỹ cũng sản xuất được thuốc tiêm chủng để chống bệnh Ricketsia, với chiết xuất từ bụng rận. Tơ vải được rút ra làm chỉ khâu vết mổ, còn dao mổ thì là từ nắp gà-mên mài bén.Những tù binh, đến năm thứ nhất, thứ hai học rất nhanh. Họ chôm và cải tiến khéo léo rất nhiều đồ dùng. Họ cũng học cách để chế ra phần lớn thức ăn cho mình, ví dụ như, nướng xương cá trên bếp lò, rồi nghiền ra.

      Cũng có những sai lầm ghê gớm. Như ở Ilmen, tù binh bị gầy yếu do ăn cây sậy và cây độc cần nước, kết quả là chết nhanh chóng. Hay một tù binh chộp được một vốc bơ đầy trong nhà bếp, đã chết trong sự đau đớn bởi bao tử của anh ta không quen dùng đồ béo.

      Thức ăn tệ hại trong những tuần đầu của nạn đói trong vòng vây là lý do chính cho việc bệnh nhân trong các bệnh viện tù binh không thể phục hồi được. Tóc họ rụng sạch và cơ cổ yếu không thể ngóc đầu lên nổi. Họ nằm tránh ánh sáng như thể chuẩn bị cho chính mình đi vào vùng bóng tối muôn đời.Cái chết có thể là sự giải thoát, gần như là một giấc ngủ sau khi kiệt sức. Một số người đi rất nhanh, đột ngột, chỉ ngay sau khi các bác sỹ nghĩ họ đã qua cơn nguy kịch. Những bệnh nhân nằm cũng giường với nhau để giữ ấm, dù rằng nhiều người tỉnh dậy thấy đang nằm cạnh một xác chết. Nhiều người chết nhanh chóng. Helmuth Groscurth chết vì bệnh Ricketsia trong ngày 7 tháng 4 năm 1943 trong trại sỹ quan ở Frolovo trong số 4,000 người bệnh chết so với tổng thể là 5000 người. Ba năm sau gia đình mới nhận được tin về cái chết của ông. Kurt Reuber chết ngày 20 tháng Giêng năm 1944 ở trại Yelabuga chỉ vài tuần sau khi ông vẽ xong bức Madonna khác cho Giáng sinh cũng với cùng dòng chữ: “Ánh sáng, Cuộc sống, Tình yêu”.

       Một số ít, sau khi vượt qua cơn nguy kịch, lại tự giết mình. Trong một bệnh viện tù binh, một sỹ quan thức dậy nhận thấy một người bạn ở giường bên cạnh đang ngồi bất động. Anh ta đã cố tự sát bằng cách “đâm một miếng kính từ cửa sổ vỡ và thẳng tim”.

      Ngay cả những người khỏe mạnh cũng ít có hi vọng sống sót. Khẩu phần của họ - hạt kê chưa xay chạy thẳng vào dạ dày – chẳng cho họ mấy chút sức lực khi so với những công việc nặng nhọc mà NKVD bòn ra từ họ qua chương trình lao động khổ sai. Chủ nghĩa duy vật, có một câu “con người một dạng vật chất”, đã được dùng và thải hồi. Tù binh được dùng như bầy súc vật. Đầu tiên họ phải tự xây trại cho mình ở nơi gần như là rừng nguyên sinh. Họ không được có lều mà chỉ là những căn hầm dưới đất, mùa xuân và mùa thu ngập ngụa. Khi trại đã dựng xong, cuộc sống của họ là lao động cực nhọc, chặt, kéo gỗ, và đôi khi chế than bùn làm chất đốt mùa đông. Những ai còn ở trong khu vực Stalingrad, thì xây dựng lại thành phố và trục vớt tàu chìm trên sông Volga, và sao đó làm tham gia lao động cùng những người tù Gulag, đào một công trình mang tính triển lãm của Stalin, kênh Volga-Don.
Logged
huytop
Thành viên
*
Bài viết: 919


« Trả lời #94 vào lúc: 02 Tháng Mười, 2015, 12:38:47 pm »

        Rất nhanh sau chiến thắng ở Stalingrad, Liên bang Sô viết lập các kế hoạch để phá hoại chế độ Quốc xã và thay vào đó là một nhà nước Cộng sản bù nhìn. Nên tù binh tất cả các cấp bậc đều được phân chia thành nhóm “chống phát xít” hoặc “phát xít”. Trong mùa xuân và mùa hè năm 1943, những sỹ quan cao cấp được chuyển từ trại ở Krasnogorsk đến tu viện Suzdal, và rồi đến một cơ sở bán-định-cư: trại 48 ở Voikovo, một nhà nghỉ dưỡng, spa cũ, được gán cho cái tên “lâu đài” bởi sự sang trọng của nó. NKVD đưa viên tướng cứng đầu Schmidt ra xa Paulus, bởi dường như ông ta bị ảnh hưởng nặng.

        Ban chuyên trách của NKVD về vấn đề tù binh chiến tranh, đầu tiên dựng một tổ chức gọi là Ủy ban Quốc gia Giải phóng Đức. Để điều hành, Beria dùng những người Cộng sản Đức đã quy thuận. Hai tháng sau, một nhóm khác, Liên đoàn sỹ quan Đức, được thành lập để lôi cuốn những người chống Quốc-xã vốn miễn cưỡng ủng hộ Ủy Ban Quốc gia.

       Thiếu tướng Melnikov, phó ban, điều khiển những hoạt động này. Dù là một phần trong đế chế của Beria, nhưng Melnikov cũng làm việc rất gần gũi với Ban Quốc tế thuộc Ủy ban Trung Ương. Dmitry Manuisky, cựu điệp viên của Stalin trong Quốc tế Cộng sản III với nhiệm vụ đặc biệt cho vấn đề Đức, được giao một nhiệm vụ theo dõi khác, việc này giải thích cho chuyến thăm đầy tò mò của ông ta đến Stalingrad trong giai đoạn sau cuối của cuộc chiến, lúc đó Chuikov từ chối cho phép ông qua bờ Tây.

       Ngày 19 tháng 8 năm 1943, ba viên tướng Stalingrad, Seydlizt, Lattmann và Korfes được các thẩm vấn viên xác định là rất hợp tác, được đưa từ Voikovo đến “trung tâm cải huấn” ở Lunovo. Seydlist lúc đó tràn đầy cảm xúc của cái điều mà ông ta tin là tập hợp những trái tim sỹ quan thay đổi, những ai muốn cứu nước Đức khỏi sự diệt vong của chủ nghĩa Hitler. Ông ta tự thấy mình là lãnh tụ đương nhiên của những người đó.

       Đầu tháng 9, Melnikov gửi Seydlitz, Korfes và Lattmann trở lại Voikono để lôi kéo những viên tướng Stalingrad khác. Chuyến trở về của họ trong đêm muộn đã làm những viên tướng phải ra khỏi phòng mình, trong đồ ngủ, tò mò nghe có gì hấp dẫn không. Nhưng khi Seylitz thông báo một cách thống thiết về cái ngày gọi là “Tauroggen mới *”, thì tướng Strecker bỏ đi một cách giận dữ. Rồi ngày hôm sau, khi Syedlitz và Lattman khẩn thiết mời họ tham gia vào cái gọi là một cuộc khởi nghĩa chống chế độ Hitler, thì Strecker, Sixt von Armin, Rodenburg và Pfeffer giận dữ từ chối hành động bội tín. Tuy nhiên, Seydlitz và đồng đội cũng lôi kéo được tướng Edler von Daniel, Drebber và Schlomer.Seylidtz, với tinh thần xúc phạm chống Hitler và tin rằng họ phải tham gia vào dòng chảy lịch sử để cứu nước Đức, đã không nhận định được tình thế nguy hiểm. Bởi họ nhận vị trí đối địch với chế độ Quốc xã quá muộn nên phía Đồng Minh sẽ không bao giờ nghe họ hoặc cho họ có tiếng nói về số mệnh của đất nước mình.

      Trong khi đó, những nhà tổ chức (ông ta ngay cả không biết Melnikov là người của NKVD) còn chẳng được phía Liên Xô có cảm tình.Tài liệu Liên Xô cho thấy trong ngày 17 tháng 9 năm 1943, Seydlitz với cương vị chủ tịch Liên đoàn sỹ quan Đức, đưa một kế hoạch cho tướng Melniov về việc thành lập một quân đoàn lục quân với 30.000 lính lấy từ những người bị bắt ở Stalingrad. Melnikov báo cáo về cho Beria rằng: “Theo ý tưởng của Seydlitz thì quân đoàn này sẽ là cơ sở cho chính quyền mới sau khi Hitler bị hạ bệ”.“Seydlitz” Melnikov nói thêm “cho rằng ông ta sẽ là một ứng viên cho vị trí tổng tư lệnh lục quân của nước Đức tự do trong tương lai”. Hình như ông cũng hứa chuẩn bị một kế hoạch cho chiến dịch tuyên truyền qua báo chí và phát thanh. “gửi người vào hậu phương nước Đức để lôi kéo chỉ huy các đơn vị sang phía chúng ta và tổ chức tham gia các hoạt động chống chế độ Hitler”. Seydlitz cũng sẽ gửi thông điệp đến “những người bạn, tư lệnh mặt trận Trung tâm, von Kluge, và tướng Thomas tham mưu trưởng của Hitler”.

      Seydlitz, cùng với tướng Lattmann, tướng Korfes, và đại tá Gunter van Hooven, đã đệ trình bản kế hoạch vào ngày 22 tháng 9. Ông mong nhà cầm quyền Soviet sẽ giúp họ thành lập “một Tập đoàn quân nhỏ từ tù binh chiến tranh để có thể dùng cho việc chiếm  quyền lực của chính quyền nước Đức mới”. Họ sẽ triệu tập một ban tham mưu Tập đoàn quân, hai ban tham mưu quân đoàn, bốn sư đoàn đầy đủ, cùng một lực lượng không quân yểm trợ gồm ba phi đoàn ném bom, bốn phi đoàn tiêm kích và một nhóm không thám: tính tổng thể sẽ gồm 7 viên tướng, 1650 sỹ quan và 42000 lính. Rõ ràng là Seydlitz không biết đến mức tử vong của tù binh tại Stalingrad sau khi đầu hàng.Ở cuộc gặp kế tiếp, Seydlitz đề nghị “tất cả số quân đó được thả dù xuống nước Đức, có thể là ở Berlin”. Sỹ quan NKVD đã chỉ ra ngay “những khó khăn về mặt kỹ thuật với việc không vận một số lượng lớn quân như vậy vào nước Đức nhưng von Seydlitz trả lời rằng tùy vào phía Nga sắp xếp chi tiết”. tuy vậy, tướng Korfes không dấu diếm sự bực mình với kế hoạch viễn vông đó. “Hoàn toàn không tưởng” ông nói “để nghĩ đến việc không vận tất cả những đơn vị đó vào”. Ông nói thêm: “Các tư lệnh không quân Nga có thể coi cái đề xuất này là bằng cớ cho rằng tướng lĩnh Đức là bọn tùy hứng” (Dĩ nhiên, có thể tướng von Seydlitz bí mật xem cái chiến dịch này là cơ hội để lừa phía Liên Xô gửi ông cùng hàng nghìn sỹ quan tù binh thuộc tập đoàn quân 6 về nhà. Nhưng cho dù có như vậy, thì mọi người cũng mong ông lưu ý rằng đến lúc hết chiến tranh, ông ta sẽ đối mặt với bản kết án nặng nề từ những cựu đồng sự bởi đã hợp tác với chế độ Stalin).

       Té ra Seydlitz cũng không ngờ tới sự giận dữ và ác cảm khi ông và các đồng sự khuấy động. Các sỹ quan cay đắng phản đối những người chống phát xít, thiết lập một tòa án danh sự, nhằm kết tội những ai hợp tác với người Nga sẽ bị xa lánh vĩnh viễn. Như một hành động kháng cự công khai, họ bắt đầu dùng kiểu chào đưa tay lên. Hành động phân biệt này làm khó cho những ai vừa không muốn làm với người “chống phát xít” mà cũng không phải ủng hộ viên của Hitler. Một thiếu úy thấy anh bị buộc phải ngủ trên sàn nhà cả tuần bởi những nhóm đối địch không cho anh ta giường.

      Tháng hai năm 1944, máy bay Nga bắt đầu thả truyền đơn xuống nước Đức và các đơn vị tiền duyên, do Seydlitz và các đồng sự ký. Gestapo làm ngay một báo cáo khẩn lên Himmler xác nhận rằng chữ ký của Seydlitz là thật. Tướng Gille của Waffen SS, mà tất cả các đơn vị của nó đóng ở vòng cung Cherkassy đã bị dội truyền đơn của Ủy ban Quốc gia xuống, cũng gửi một bản sao về Đức. Ông ta cũng chuyển về những lá thư riêng gửi đến mình từ tướng Seydlitz và tướng Korfes. Những thư viết này được phân tích lần nữa bởi Gestapo và cũng xác nhận là đúng.Những lá truyền đơn mang lại sự hốt hoảng. Hitler triệu tập Himmler đến họp, rồi bảo tướng Schmudt ra một tuyên bố trung thành buộc các thống chế phải ký vào. Nhưng ngay cả điều này cũng không làm ông ta an tâm. Ngày 9 tháng 3, Rundsteds, Rommel, Kleist, Busch, Weichs và Manstein cũng bị triệu về đến Berghof để đọc thông điệp kết tội tướng Seydlitz- Kurzbach là “tên phản bội bần tiện với sự nghiệp đại nghĩa thần thánh của chúng ta”, và nhấn mạnh sự ủng hộ của họ với Hitler.

       Ban của Melnikov, mặt khác, bắt đầu lo ngại. Bởi sự chiêu mộ yếu dần, trong khi các nỗ lực tuyên truyền không lôi kéo được một đơn vị chính nào, ngay cả khi quân đội Đức bị thua trận khắp nơi. Seydlitz cho là do “thiếu thành công có ý nghĩa” và “thiếu sự hướng về cách mạng của nước Đức, do hệ thống cảnh sát thô bạo và quan điểm cá nhân bị ngăn chặn hoàn toàn, thiếu một tổ chức có khả năng kháng cự, và nỗi sợ bị bại trận cùng những hậu quả của nó, cũng với việc bị xúi dục sợ chủ nghĩa Bolshevik từ lâu”. Dù thất bại, nhưng ông vẫn muốn Liên Xô “chính thức xác nhận” Ủy ban Quốc gia là một chính phủ trong tương lai.

       Nhưng Dmitry Manuilsky, một nhân vật Stalinist điển hành, đã cảnh báo bảng ghi nhớ của Seydlitz “biên soạn theo cách láu cá” là một “cố gắng khiêu khích” để “chọc giận mối quan hệ của chúng ta với Đồng minh”. Ông viết “Không nghi ngờ gì, việc chính quyền Sô viết thừa nhận Ủy Ban Quốc gia sẽ kích động Anh và Mỹ thực hiện một chiến dịch để cho thấy Liên Xô ủng hộ Đức”. Rõ ràng hòa ước Molotov – Ribbentrop đã phủ bóng lên hồi ức Liên Xô. Manuilsky nghi ngờ rằng Seydlitz đã bị điều khiển bởi tướng Rodenburg và “cựu chỉ huy tình báo quân sự”, đại tá van Hooven (thực ra ông này chỉ là sỹ quan tín hiệu).

       Tính đa nghi kiểu Stalin thật tệ hại. Tháng 5 năm 1944, Weinert, chủ tịch ủy ban Quốc gia, gửi ba sỹ quan Đức đến Phương diện quân Leningrad để triển khai tuyên truyền cho Hồng quân. Hai trong số đó, đại úy Stolz và trung úy Willimzig, từ chối mệnh lệnh. Họ được mang trở về Moscow dưới sự giám sát cẩn thận để Weinert, Ulbricht và tướng Von Seydlitz, tướng Lattmann thẩm vấn. Sau bốn ngày họ được nói là đã thú nhận là “thành viên của một tổ chức phát xít bất hợp pháp trong liên đoàn sỹ quan Đức”. Cả hai người bị NKVD bắt với lí do là điệp viên nhị trùng cho Quốc xã, và bị đưa đi lấy cung thêm. Những sỹ quan Đức khác, bao gồm cả Rodenburg,  cũng bị bắt và cũng “thú nhận” khi đến lượt. Manuisky cho rằng sự nghi ngờ trước đây của ông về một âm mưu giờ đã được chứng minh, nên ngay lập tức ra lệnh đưa tất cả những sỹ quan Đức ra khỏi các nhiệm vụ tuyên truyền tại các mặt trận. Rõ ràng là Stalin đã quyết định rằng những nỗ lực vô dụng của họ không đáng giá so với việc chọc tức những đồng Minh phương Tây trong giai đoạn này của cuộc chiến, khi ông đang cần sự giúp đỡ của họ.
Logged
huytop
Thành viên
*
Bài viết: 919


« Trả lời #95 vào lúc: 02 Tháng Mười, 2015, 12:43:02 pm »

        Lúc đó Seydlitz chống chọi với sự ngã lòng nặng. Trong nổ lực nâng tinh thần của ông, các sỹ quan NKVD đã làm một chiếc bánh sinh nhật với bốn đóa hồng màu đỏ bằng bột bánh hạnh nhân nhân danh bốn cô con gái ông. Nhưng như tất cả những người mắc chứng hưng trầm cảm, ông phải trải qua những lần lạc quan bùng nổ một cách phi lý. Nỗ lực ám sát Hitler vào ngày 20 tháng 7 có thể thất bại, nhưng cuộc đàn áp tiếp theo của Gestapo cho thấy mức độ đối kháng trong quân đội Đức ở quê nhà. Ngay cả Strecker, khi nghe về việc tử hình thống chế von Witzleben, đã được thuyết phục, ký vào một yêu cầu phản đối Hitler, nhưng ông vẫn khinh miệt Seydlitz.

       Ngày 8 tháng 8 năm 1944, Beria báo cáo thắng lợi lên Stalin rằng cuối cùng Paulus cũng chịu ký một tuyên cáo cho nhân dân Đức. Yêu cầu tiếp sau của Paulus gửi đến cụm tập đoàn quân Bắc để đầu hàng thật ra được thảo bởi NKVD “dưới sự hướng dẫn của đồng chí Shcherbakov” và được Paulus cùng 29 vị tướng bị bắt khác ký.

      Tuyên bố của Paulus gây ra cơn giận giữ của Hitler. Sự nghi ngờ của Quốc trưởng rằng ông đã nộp mình cho những người bắt giữ được xác nhận. Nhưng rõ ràng, Paulus, sau gần một năm rưỡi giam cầm, đã không làm quyết định đó do sự thôi thúc của tình thế. Con ông Friedrich, một đại úy, đã chết ở Anzio vào tháng hai năm 1944, và ông không phải lo đến sự khác biệt trong nhiệm vụ. Ông chỉ muốn giúp rút ngắn một cuộc chiến thất bại và giảm số người chết vô nghĩa. MỘt người con khác của ông, Ernst Alexander, cũng là một đại úy, cũng đã bị bắt sau đó theo sắc lệnh Sippenhaft. Mùa thu đó, người mẹ gốc Rumani, Elena Constance Paulus, người luôn không tin vào Quốc xã, đã bị các sỹ quan Gestapo bảo rằng bà sẽ được tha nếu chịu từ bỏ họ chồng. Bà được nói là đã quay lưng đi một cách khinh miệt. Bà bị bắt và giam trong một trại.Paulus, bị thiếu thông tin đáng tin cậy, nên đã yêu cầu gặp thành viên của Ủy ban Trung Ương “người có thể giải thích những chính sách chính của Liên Xô với nước Đức bị chiếm đóng”. Ông và “những tướng khác bị bắt kêu gọi khẩn thiết xóa bỏ chính quyền Hitler, và sau đó có có nhận định đúng đắn để biết vị trí của chính quyền Sô viết với nước Đức”.

      Ông biểu lộ hy vọng của mình là nước Đức sẽ được cứu khỏi thảm họa diệt vong qua một xê-ri trao đổi trong tháng hai năm 1945 với trung tướng Krivemko, trưởng ban tù binh NKVD và với Amyak Zakharovich Kobulov, giám đốc thứ ba của bộ An ninh (Kobulov, nhân viên NKVD thường trú tại Berlin ngay trước chiến dịch Barbarossa, và là người điều khiển việc tra tấn Dekanozov và phòng tử hình trong tòa đại sứ Liên Xô). “Nên lưu ý đến việc”, Krievemko và Kobulov viết trong báo cáo gửi Beria “ khi các hoạt động quân sự đã vào trong đất Đức, tinh thần các tướng tù binh Đức suy giảm mạnh. Tướng pháo binh von Seydlitz đã bối rối mạnh trước tin về cuộc gặp của lãnh đạo ba cường quốc [ở Yalta]. Seydlitz tuyên bố rằng nước Đức có lẽ sẽ bị chia bởi Mỹ, Anh, Liên Xô và Pháp. Nước Đức sẽ chỉ còn là những mảnh nhỏ và các tốt nhất là nên gia nhập vào Liên Xô như là “nước cộng hòa Xô viết thứ mười bảy”.

      Tin nước Đức đầu hàng vô điều kiện đến tới Moscow trong ngày 9 tháng 5 năm 1945, và một nghìn khẩu đại bác đã bắn đạn mừng đơn điệu từ điện Kremlin, Strecker và các đồng nghiệp ghi lại cảm nhận của họ “tâm hồn chán nản … khi nghe những thông báo chiến thắng của người Nga và những bài hát của lính Nga say rượu”.

      Với người Nga, mặt khác, tự hào dù buồn khi kết thúc được cơn ác mộng kéo dài gần bốn năm và làm Hồng quân mất 9 triệu quân hi sinh cùng 18 triệu người bị thương (trong số 4 triệu rưỡi tù binh do quân Đức bắt, chỉ còn 1.8 triệu người sống sót trở về). Mức thương vong của thường dân khó mà xác định, nhưng có lẽ gần 18 triệu người, đưa tổng số thiệt hại nhân mạng lên đến 26 triệu người Liên Xô, gấp hơn năm lần tổng số người Đức chết.

       Năm 1946, Paulus xuất hiện với tư cách nhân chứng ở tòa án chiến tranh Nuremberg. Báo chí Soviet thích gọi ông là “bóng ma Stalingrad”. Sau đó ông về sống tại một biệt thự ở Moscow, ở đó ông đánh bài và viết lại những sự kiện theo lối của mình. Ông già đi nhanh và tật máy ở mặt tệ hơn bao giờ hết. Năm 1947, vợ ông chết ở Baden-Baden, mà không được thấy mặt chồng lần nữa. Mọi người chỉ có thể tự biện rằng bà cảm thấy thảm họa ở Stalingrad là dành cho Rumani, đất nước quê hương của bà, và cũng như cho gia đình bà.Tháng 11 năm 1947, khi cuộc chiến tranh lạnh tăng mạnh, nhà cầm quyền Sô viết quyết định rằng những người được cho là tội phạm chiến tranh chiểu theo sắc lệnh ra ngày 13 tháng 4 năm 1943 “bất kể tình trạng thể chất” sẽ bị đưa đi lao động khổ sai đến Vorkhuta ở phía cực bắc dãy Urals. Các cựu thành viên SA, SS, lính gác trại, cảnh sát dã chiến mật, và quân cảnh – trong nhiều trường hợp ngay cả Đoàn thanh niên Hitler – bị chuyển đển các trại “chế độ đặc biệt”. Định nghĩa về tội phạm chiến tranh được mở rộng từ các hành động hung bạo chống lại thường dân đến việc trộm gà, cướp ngựa.

       Khi cơ cấu tương lai của Cộng hòa Dân chủ Đức (DDR) bắt đầu triển khai ở khắp các vùng chiếm đóng của Soviet ở Đức, nhiều sỹ quan cao cấp từ Stalingrad, gồm cả Lattmann, Korfes, Muller và Steidler được giao các vai trò, vài người tham gia vào Volkspolizei. Tướng Arno von Lenski cải sang Cộng sản được chọn làm thành viên Bộ Chính trị. Đại tá Adam, vẫn là bạn đồng hành, được cử đến một vị trí trong Đảng Thống Nhất Xã hội đã được thuần hóa. Tuy nhiên, tướng Seydlitz lại mất phương hướng.

       Năm 1949, một đợt thanh lọc Stalinist tràn khắp Liên Xô. Các tù binh chiến tranh Đức đột nhiên lại đối mặt với những phiên tòa “tội phạm chiến tranh”. Chiến tranh lạnh, theo sau là cuộc vây hãm tây Berlin, đang ở giai đoạn bất ổn nhất. Một “át” phi công tiêm kích, Erich Hartmann, bị kết tội là phá hủy máy bay, tài sản chính quyền Sô viết. Còn tướng Strecker thì bị đưa về lại Stalingrad, ở đó một tòa án buộc ông tội phá hoại xí nghiệp máy kéo, cho dù quân đoàn của ông ở đâu đó gần vị trí ấy mãi cho đến lúc gần kết thúc trận chiến, và lúc đó xí nghiệp ấy đã là một đống đổ nát. Cũng như phần lớn những người bị buộc tội lúc ấy, ông nhận án tử hình, rồi giảm thành tù giam 25 năm. Trung úy Gottfried von Bismarck bị kết án 25 năm lao động khổ sai với lý do tù binh Nga đã phải lao động khổ sai trong bất động sản gia đình của ông ta ở Pomerania. Tháng 7 năm 1950, con người vỡ mộng và cay đắng tướng von Seydlitz bị bắt và tuyên án 25 năm tù giam với tư cách là tội phạm chiến tranh và “tướng phản động phục thù”.

       Rất ít vấn đề nào mà tìm thấy được sự đồng thuận giữa những tù binh thích cãi nhau như việc cảm ơn lòng trắc ẩn của phụ nữ Nga. Trong nhiều trường hợp, đó là một phần của truyền thống xưa cũ. Từ trại tù Kamshkovo, giữa Moscow và Gorky, chạy đến Vladimirskaya, con đường cũ mà những người ủng hộ Sa hoàng đã bị phát vãng đến Siberia. Những nông dân đi ra cho họ nước uống và ngay cả mang gánh nặng giúp họ dọc đường. Tính nhân đạo như thế, không bị ảnh hưởng bởi lý tưởng, vẫn tồn tại.

      Một bác sỹ Áo, Hans Dibold, còn có cảm tình sâu hơn với người Nga khi một trong những sỹ quan quân y được kính trọng nhất, tiến sỹ Richard Speiler, từ bệnh viện Weizsacker ở Heidelberg, đột nhiên bị ốm trong đầu mùa xuân 1946. Ông đã sống sót qua căn bệnh Ricketsia, bệnh thương hàn, và bạch hầu ở trại Ilmen. Đồng nghiệp của ông đầu tiên cho rằng ông bị sốt rét. Nhưng thực tế là máu nhiễm độc trong quá trình làm việc. Đồng nghiệp của ông đau khổ với ý nghĩ rằng sự chẩn đoán sai của họ đã dẫn đến cái chết của ông ta. Họ cho ông sulphonamide và những liều penixilin cuối cùng. Hai trợ lý trạm phát thuốc Nga cũng đưa ra những liều penicillin cuối cùng của họ, vốn được chỉ định cấp cho bệnh nhân người Nga, nhưng ông ta cũng chết.

       Đường dẫn đến nghĩa địa bệnh viện trồng đầy cây thông lùn và những bụi cây bách xù ở hai bên. Nó nằm sau một khu rừng. Các bác sỹ người Nga cho thấy sự kính trọng của mình và viên chỉ huy đã cho phép các đồng nghiệp Speiler tổ chức đám tang cho ông trong khu rừng nghĩa địa đúng theo cách mà họ muốn. Speiler đã trở lại đức tin Thiên chúa trong những ngày sau cùng.

          Các bác sỹ Nga, chẳng thèm để tâm đến phản ứng của chính trị viên, cũng cẩn trọng làm theo những nghi thức tang chế do một mục sư cao, yếu ớt làm chủ. Những người sống sót của tập đoàn quân 6 đã xem ngày đó, và nghi thức đó: “không chỉ có giá trị với người đã khuất, mà còn cho những người nằm quanh đó, và cả những ai ở xa về phương Nam, ở nơi Stalingrad và trong thảo nguyên vùng giữa sông Don và sông Volga, và những ai không có được một lời của Chúa đi cùng trong giây phút sau cuối”.

         Từ năm 1945, chừng 3000 hoặc hơn tù binh Stalingrad được phóng thích, cả theo từng người hoặc từng nhóm và được phép về quê, thường là bởi họ hoàn toàn không thể lao động được nữa. Đến năm 1955, vẫn còn 9626 tù nhân chiến tranh Đức, hoặc là “tội phạm chiến tranh” như Khrushchev xác định, trong số đó còn chừng 2000 là sống sót từ Stalingrad.

        Những tù binh này cuối này cũng được thả sau khi thủ tướng Adenauer đến thăm Moscow vào tháng 9 năm 1955. Trong đó bao gồm cả tướng Strecker, Seudlitz, Schmidt và Rodenburg, và cả trung úy Gottfried von Bismarck, người gần mười ba năm trước, đã bay vào trong vòng vây để trở về với đơn vị sau buổi ăn tối cùng thống chế von Manstein. Chỉ cần sống sót, ông viết là “đủ lý do để cảm ơn số phận”.Seydlitz, khi đi về đến Friedland bei Gottingen, biết rằng ông sẽ đối diện với một tương lai khó khăn trong không khí Chiến tranh Lạnh. Tháng 4 năm 1944, ông bị kết án vắng mặt là phản bội, và tất cả tài sản bị sung công. Điều khoản này bị bỏ bởi một phiên toà trong năm 1956, nhưng quân đội Đức mới (Bundeswehr) từ chối khôi phục cấp hàm và lương hưu cho ông. Sự thật là ông đã cộng tác với quân thù Cộng sản, đã đẩy ông, trong mắt nhiều người, ở một lớp khác so với những sỹ quan đã cố ám sát Hitler, ngay cả khi tướng Achim Oster, một trong rất ít người sống sót qua Âm mưu Tháng bảy, cũng xác nhận Seydlitz là người của họ. Ông chết, như những tổ tiên kỵ sỹ của ông, “một người rất bất hạnh”.

          Như những sự kiện lịch sử được cào sới lên trong những năm hậu chiến, sự tố cáo qua lại về việc chịu trách nhiệm cho sự hiến tế của Tập đoàn quân VI càng thêm gay gắt. Schmidt, trái với suy luận của Hitler, đã luôn từ chối hợp tác với những người bắt giữ, nhưng vẫn thù ghét ghê gớm với những sỹ quan thuộc nhóm Nước Đức tự do. Đại tá Adam, người kết tội ông là ép Paulus chiến đấu đến cùng, bị đối xử khinh miệt khi trở về như là một “người hưởng trợ cấp ở vùng chiếm đóng Liên Xô”.

        Còn Paulus, ở lại Đông Đức, cố bảo vệ mình một cách vô ích từ những lời buộc tội rằng đã quỵ lụy Hitler và không dứt khoát. Sau khi được phóng thích vào mùa thu năm 1953, ông sống trong vùng Soviet, ở đó ông viết hết trang này sang trang khác giải thích về tình trạng ông đã phải đối mặt. Bệnh tật, muộn phiền kéo dài đã đưa đến cái chết của ông tại Dresden vào năm 1957. Thi hài ông được mang sang phía Tây để an táng cạnh vợ mình ở Baden.

       Địch thủ của ông tại Stalingrad, tướng Chuikov, mà cả Tập đoàn quân 62 của ông cũng đã tiến trên con đường dài đến Berlin dưới cái tên tập đoàn quân Cận vệ 8, trở thành tư lệnh lực lượng chiếm đóng, Nguyên soái Liên Xô và là thứ trưởng Bộ quốc phòng dưới thời Khrushchev, ông này cũng chính là người đã bổ nhiệm ông trong một đêm tháng Chín của cuộc khủng hoảng bên dòng Volga. Hàng ngàn người lính Liên Xô bị hành quyết ở Stalingrad dưới lệnh của ông không bao giờ có được một tấm bia mộ. Còn theo thống kê, họ nằm trong số những thương vong chiến trận khác, chắn chắn không thể dự báo được công lý.


                                                                             HẾT
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM