Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 04:43:29 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Stalingrad - Anthony Beevor  (Đọc 62618 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
huytop
Thành viên
*
Bài viết: 919


« Trả lời #80 vào lúc: 31 Tháng Bảy, 2015, 06:46:11 am »

           Số thương vong vào thời điểm đó quá đông đến nỗi các bệnh binh phải nằm cùng giường với nhau. Thường khi một thương binh nặng được các đồng đội mang đến, một bác sỹ sẽ xua họ đi bởi ông ta đã có quá nhiều ca vô vọng. Một trung sỹ không quân ghi nhận “Đối diện với quá nhiều ca, quá nhiều người đau đớn, nhiều người chết và biết rằng không thể giúp gì được hơn, chúng tôi đưa viên trung úy của mình ra cùng chúng tôi. Không ai biết tên của tất cả những người bất hạnh đó, họ nằm lộn xộn với nhau trên đất, chảy máu đến chết, lạnh cứng, nhiều người mất tay hoặc chân, cuối cùng cũng chết bởi chẳng ai giúp”. Vì thiếu thạch cao bó bột nên các bác sỹ phải băng các chi gãy bằng giấy. “Các ca sốc hậu phẫu tăng cao” một bác sỹ phẫu thuật ghi nhận. Các ca bệnh bạch hầu cũng tăng nhanh. Phần tệ nhất là việc gia tăng rận rệp trên mình thương binh. “Trên bàn mổ, chúng tôi phải cạo rận ra khỏi quân phục và da bằng cái đè lưỡi và ném chúng vào lửa. Chúng tôi cũng phải tẩy chúng ra khỏi chân mày và râu ria, ở đó chúng bám lúc nhúc như những chùm nho”.

              Cái gọi là “bệnh viện” ở Gumrak còn tệ hơn cả Pitomnik, lớn hơn bởi tràn ngập trong dòng người. “Đó là một thứ địa ngục” một sỹ quan bị thương, rút lui từ mũi Karpovka báo cáo “Xác chết chất đống bên vệ đường, nơi người ta ngã xuống, rồi chết. Không ai chăm sóc. Không có băng gạc. Phi trường bị pháo kích, và bốn mươi người ních vào trong một căn hầm đào cho mười người, rung lên trong từng phát nổ”. Cha tuyên úy Thiên chúa giáo ở bệnh viện đó được biết với cái tên “Vua tử thần của Gumrak” bởi ông đã làm phép xức dầu thánh cho hơn 200 người một ngày. Các cha tuyên úy, sau khi vuốt mắt người chết, thường bẻ đi nửa dưới của thẻ bài (lính) như là một là bằng chứng chính thức của cái chết. Họ nhanh chóng thấy túi mình nặng nề.

             Các bác sỹ ở gần đó làm việc trong các “hẻm núi tử thần”, với những thương binh nằm trong các đường hầm đào vào vách núi dành cho ngựa. Với một bác sỹ, nơi đó, với nghĩa trang ngay phía trên, là Golgotha. Trạm y tế này cùng với cơ sở dành cho thương binh não bị bỏ lại cùng với hầu hết các thương binh nặng. Khi quân Nga đến, vài ngày sau, họ hướng đại liên vào các hình thù băng bó. Ranke, một thông dịch viên sư đoàn, bị thương ở đầu, nhỏm dậy và hét to bằng tiếng Nga. Đáng ngạc nhiên là quân Nga ngưng bắn và đưa anh ta tới gặp chính trị viên của họ, đến lượt ông ấy lại gửi anh ta lên để yêu cầu lính Đức đang rút chạy đầu hàng.

           Nếu lính Nga đang trong cơn say máu trả thù, thì thi thể lạnh cứng của tù binh Hồng quân trong trại như đổ dầu thêm vào lửa. Những người sống sót bị đói ghê gớm đến nỗi khi những người giải cứu cho họ bánh mì và xúc xích để ăn, thì đa số chết ngay lập tức.

          Kessel hẳn đã sớm sụp đổ nếu không có những người vững lòng tin vào lý do mà họ chiến đấu. Một trung sỹ Không quân thuộc sư đoàn cao xạ số 9 viết về nhà: "Con tự hào là một trong số những người bảo vệ Stalingrad. Có lẽ, đã đến lúc con chết, con sẽ hài lòng vì đã góp phần vào trận chiến bảo vệ vùng đất cực đông trên sông Volga cho tổ quốc, và hiến cuộc sống của mình cho Quốc trưởng cùng sự tự do của nước ta”.

          Ngay cả đến giai đoạn sau cùng, hầu hết các đơn vị chiến đấu tiếp tục kháng cự điên dại, và đó là những minh chứng cho lòng dũng cảm vô song. Tướng Jaenecke báo cáo rằng “một cuộc tấn công của hai mươi tám xe tăng Nga ở gần ga Bassagino bị chặn đứng bởi trung úy Hirschmann, chỉ huy một khẩu đội chống tăng. Anh đã diệt được 15 chiếc T-34 trong trận này”. Ở thời điểm gần kết thúc của trận chiến, sự lãnh đạo đã tạo nên sự khác biệt. Lãnh đạm và tự thán là những mối nguy lớn nhất, cả cho mệnh lệnh quân sự lẫn sự sống sót của cá nhân.

         Ở những khu vực chưa bị đột phá, quân lính đói kém quá mệt mỏi để đi ra ngoài hầm nhằm dấu nước mắt trước mặt đồng đội. “Anh đang nghĩ về em và con trai nhỏ bé của chúng ta” một người lính Đức vô danh viết trong lá thư không bao giờ tới được với vợ mình “Điều duy nhất còn lại trong anh là suy nghĩ về em. Anh bàng quang với mọi thứ xung quanh. Ý nghĩ về em xé nát tim anh”. Ngoài hỏa tuyến, binh sỹ lạnh cóng và yếu đến nỗi những cử động chậm chạp, rời rạc làm họ như thể đang chơi ma túy. Chỉ có một trung sỹ giỏi mới kìm cặp được họ, giữ cho súng của họ sạch sẽ và lựu đạn được chứa sẵn sàng để dùng nơi giá.

             Ngày 16 tháng Giêng, ngay sau khi Pitomnik bị mất, sở chỉ huy Tập đoàn quân VI gửi điện báo, phàn nàn rằng không quân chỉ thả dù hàng hậu cần. “Sao không có chuyến hậu cần nào hạ cánh ở Gumrak trong đêm?”. Fiebig trả lời rằng đèn hạ cánh và radio điều khiển mặt đất không hoạt động. Paulus dường như không biết về tình cảnh hỗn loạn ở sân bay. Những đội mặt đất tổ chức kém và quá yếu để làm việc tốt – “hoàn toàn thờ ơ”, như theo ý kiến của phía không quân. Kỷ luật bị phá vỡ bởi thương binh nhẹ cũng như những kẻ lạc ngũ và đào ngũ, kéo nhau đến phi trường để tìm kiếm sự bảo vệ. Đoàn quân cảnh “chó xích” bắt đầu mất kiểm soát với những đám đông quân lính đói kém, liều lĩnh tìm đường thoát. Theo các báo cáo của không quân, phần lớn là quân Rumani.

            Ngày 17 tháng Giêng, Tập đoàn quân VI bị ép lùi vào nửa phía đông của Kessel. Có tương đối ít trận đánh trong bốn ngày sau đó, bởi Rokossovsky đang tái bố trí lại các Tập đoàn quân của mình cho lần tấn công sau cùng. Trong khi hầu hết những trung đoàn tiền duyên còn theo lệnh, thì sự tan rã lại nhanh chóng đến từ phía sau. Trưởng ban hậu cần ghi nhận rằng “tập đoàn quân không còn khả năng cung cấp hậu cần cho các đơn vị”. Hầu hết ngựa đã bị ăn thịt. Cũng không còn bánh mì – vốn bị đông cứng với cái tên “Eisbrot”. Nhưng vẫn có những kho đầy lương thực, giữ bởi những tay quản trị hậu cần quá hăng hái, những chỗ này bị quân Nga chiếm nguyên vẹn. Vài chỗ, với quyền lực, chắc chắn là đã lợi dụng vị trí của họ. Như một bác sỹ báo cáo sau đó về một người giữ vị trí cao hơn ông ta, ngay trước mắt ông, “cho con chó của mình ăn một khúc bánh gì phết bơ dày, trong khi không có lấy một gam cho người trong trạm xá của mình”.

          Ngày 16 tháng Giêng, Paulus, tin rằng kết cục đã đến gần, nên đã gửi một điện tín cho tướng Zeitler đề nghị rằng các đơn vị vẫn đang chiến đấu cực khổ nên được bố trí đánh ra ở hướng nam, bởi ở lại trong vòng vây đồng nghĩa với việc bị bắt hay chết vì đói và lạnh. Dù không có được hồi đáp ngay từ Zeitler, những mệnh lệnh mở đầu cũng được đưa ra. Tối hôm sau 17 tháng Giêng, một sỹ quan tham mưu của sư đoàn bộ binh 371 báo với trung tá Mader rằng: “Mật mã Lion, cả Kessel chiến đầu tìm đường thoát theo mọi hướng. Các trung đoàn trưởng đã tập hợp các nhóm chiến đấu chừng 200 người tốt nhất, thông báo cho phần còn lại về việc hành quân và phá vây”.

          Một số sỹ quan cũng bắt đầu “tìm đường thoát khỏi việc bị quân Nga bắt, bởi điều đó còn tệ hơn cái chết”. Freytag-Loringhoven thuộc sư đoàn xe tăng 16, có ý kiến dùng vài chiếc xe Jeep Mỹ, bắt được từ quân Nga. Ý tưởng là lấy quân phục Hồng quân cùng vài tay Hiwis tín cẩn, muốn thoát khỏi sự báo thù của NKVD, cố chạy qua tuyến quân địch. Ý tưởng này lan ra khắp ban tham mưu sư đoàn, kể cả sư đoàn trưởng, tướng Angern. Ngay cả tư lệnh quân đoàn, tướng Strecker, cũng bị lôi cuốn chút đỉnh khi nghe được, nhưng là một sỹ quan trọng các giá trị truyền thống, ý tưởng bỏ rơi quân lính là không thể được. Một nhóm từ quân đoàn XI sau đó đã cố làm, và một số nhóm nhỏ khác, một số trượt tuyết, đột phá lên phía tây nam trong những ngày sau cùng. Hai sỹ quan tham mưu của tập đoàn quân 6, đại tá Elchlepp và trung tá Niemeyer, Trưởng ban tình báo, chết ngoài thảo nguyên.

           Rõ ràng là Paulus không có ý định bỏ rơi quân mình. Ngày 18 tháng Giêng, sau lượt thư cuối từ Đức được phát xuống vài sư đoàn, ông viết vài dòng từ biệt vợ, để cho một sỹ quan mang đi. Các huân chương, nhẫn cưới và ấn chỉ cũng được tháo ra, nhưng những thứ đó sau này bị Gestapo thu giữ.

          Tướng Hube nhận được lệnh bay ra từ Gumrak ngay trong sáng sớm ngày hôm sau trên một chiếc Focke-Wulf Condor để gia nhập đội đặc nhiệm của Thống chế Milch. Ngày 20 tháng Giêng, sau khi đến nơi, tới lượt mình, ông ta lại gửi một danh sách “các sỹ quan có năng lực và tín cẩn” để được gửi ra, tham gia với ông. Có lẽ không mấy ngạc nhiên, khi thấy phần lớn trong danh sách đó không có nhiều chuyên gia trong lãnh vực vận tải hay hậu cần, mà là những sỹ quan từ quân đoàn xe tăng của ông ta, đặc biệt là từ sư đoàn cũ của ông. Hẳn tướng Hube, đã cảm thấy có lý do, khi Tập đoàn quân VI ra qui định rằng các chuyên gia thiết giáp nằm trong số những ai được ưu tiên di tản bằng hàng không.
Logged
huytop
Thành viên
*
Bài viết: 919


« Trả lời #81 vào lúc: 01 Tháng Tám, 2015, 10:36:57 am »

         Các sỹ quan huấn luyện của Bộ tổng tham mưu cũng nằm trong danh mục đặc biệt, nhưng phần đáng tò mò nhất chính là thứ có thể mô tả là một dạng “con thuyền Nô-ê của Tập đoàn quân VI”. Thượng sỹ Phillip Westrich từ sư đoàn Jager 100 “bay ra khỏi vòng vây trong ngày 22 tháng Giêng năm 1943 theo lệnh của Tập đoàn quân VI, yêu cầu một người từ mỗi sư đoàn”. Trung tá Mader và hai NCO được chọn từ sư đoàn bộ binh 297, và một danh sách dài khác theo từng sư đoàn. Hitler, trong khi bỏ cho Tập đoàn quân VI của Paulus đối diện với sự diệt vong, đã sẳn sàng suy nghĩ về ý tưởng tái lập một tập đoàn quân 6 khác – như phượng hoàng sống lại từ đống tro tàn. Ngày 25 tháng Giêng, ý tưởng đó trở thành một kế hoạch rõ rệt. Phụ trách tham mưu biệt bộ, tướng Schmundt, ghi nhận: “Quốc trưởng quyết định tái lập Tập đoàn quân VI với sức mạnh là 20 sư đoàn”.

       Những sỹ quan được chọn, mang theo các hồ sơ sống còn, được lựa chọn bởi những người kẹt lại đáng thương. Công tước Dohna-Scholobitten, được ra trong ngày 17 tháng Giêng, do có một công việc liên quan đến sở chỉ huy quân đoàn xe tăng XIV, không vì ông ta là Trưởng ban tình báo mà vì ông có trong tay hầu hết con cái các quan chức trong ban của mình. Rất nhanh sau đó, sở chỉ huy Tập đoàn quân VI cố nài cho số lượng các sỹ quan được bay ra với tư cách là chuyên gia phải gấp đôi. Đại úy von Freytag-Loringhoven, được chọn bởi thành tích ở vị trí tiểu đoàn trưởng xe tăng, nhận lệnh ưu tiên mang theo các thông điệp và các tài liệu khác từ sở chỉ huy tập đoàn quân. Ở đó, anh thấy tướng Paulus “dường như hoàn toàn bị trói chặt bởi trách nhiệm”.

           Tại phi trường Gumrak, sau một quảng thời gian chờ dài, anh lên được một trong năm chiếc oanh tạc cơ Heinkel, dưới sự hộ tống của quân cảnh để đẩy lùi những thương binh, bệnh binh bằng mũi súng tiểu liên. Lúc rời Kessel, hẳn anh đầy cảm xúc lẫn lộn: “Tôi cảm thấy rất tệ khi bỏ lại đồng đội. Nhưng đó là cơ hội để sống sót”. Anh ta cũng cố để đưa bá tước Dohna (một họ hàng xa của công tước Dohna) ra cùng, nhưng ông ta quá ốm. Dù đã được lên tàu an toàn cùng với chừng mười thương binh khác, nhưng Freytag-Loringhoven biết rằng họ chưa ra khỏi khu vực nguy hiểm. Chiếc Heinkel của họ vẫn đứng yên khi bốn chiếc kia đã cất cánh. Một máy bơm bị kẹt khi nạp nhiên liệu. Đạn pháo rơi mỗi lúc một gần hơn. Viên phi công ném chiếc bơm sang một bên rồi chạy về khoan lái. Họ cất cánh, chậm chạp lấy độ cao, bởi chở nặng thương binh, vào trong trần mây thấp. Khi đến độ cao 6000 feet, chiếc Heinkel đột ngột thoát khỏi mây đi vào “vùng ánh nắng tuyệt vời”, Freytag cũng như những người khác cảm thấy như “được tái sinh”.

           Khi đáp xuống Melitopol, những chiếc xe cứu thương từ bệnh việc đang đợi các thương binh, và một chiếc xe con đưa Freytag-Loringhoven đến sở chỉ huy của Thống chế Manstein. Anh ấy không có một ảo tưởng nào về sự hiện diện của mình. Và đang trong “tình trạng rất tệ”. Dù cao, rắn rỏi, nhưng anh cũng mất đến gần 60 cân. Má hõm xuống. Như mọi người khác trong vòng vây, anh đã không cạo râu nhiều ngày rồi. Bộ đồng phục binh chủng xe tăng bẩn thỉu, rách nát, đôi ủng trận thì quấn đầy giẻ để chống bỏng tuyết. Stahlberg, sỹ quan tùy viên của Manstein, trong bộ quân phục màu xám không một vết bụi, rõ ràng là đứng lùi lại. “Stahlberg nhìn tôi và tôi biết anh ta đang tự hỏi rằng: Hắn ta có rận không? – mà thiệt tình là tôi có rận – rồi anh ta bắt tay tôi với vẻ hết sức cẩn thận”.

            Stahlberg đưa anh vào gặp Manstein, vị thống chế đón anh thân tình hơn. Ông đứng dậy ngay ra khỏi bàn và bước đến bắt chặt tay anh mà không e sợ tý nào. Ông nhận các thông điệp và hỏi viên đại úy trẻ về tình hình trong Kessel. Lúc ấy Freytag-Loringhoven cảm thấy rằng ông ta, về cơ bản là một “cold man”.

          Manstein bảo Freytag-Loringhoven rằng anh được bố trí vào Đội đặc nhiệm của thống chế Milch nhằm tăng cường việc không vận. Trước tiên anh trình diện với Đại tướng von Richthofen, ông này vừa biết việc anh đến và bảo rằng ông ta rất bận nên không tiếp. Trong khi đó, thống chế Milch, “một người Quốc xã già” mà anh không mong là được ưu thích, lại cho thấy “có tình người hơn”. Ông lo lắng về diện mạo của Freytag-Loringhoven. “Chúa ơi, nhìn anh kìa!”. Sau khi hỏi han về tình hình của Stalingrad, Milch bảo: “Giờ anh phải được ăn ngon”.

            Ông lệnh rằng Freytag-Loringhoven phải được nhận khẩu phần ăn đặc biệt, có bơ và cả mật ong. Rồi viên sỹ quan xe tăng trẻ kiệt sức, được chỉ cho một ngăn phòng ngủ trong toa xe lửa sang trọng. “Đây là lần đầu tiên sau chín tháng trời, tôi được ngủ trên một cái giường. Tôi chẳng thèm quan tâm đến bọn rận. Tôi ném mình lên tấm ga trải trắng tinh và xác định rằng sẽ dời việc đến khu khử rận đến sáng hôm sau. Tiện nghi và ấm áp – ngoài trời đang âm 25 độ - là một sự tương phản không thể tin được

           Những sỹ quan khác, những ai được bay ra để làm việc với đội đặc nhiệm của Milch, đầu tiên bị mất phương hướng bởi họ chuyển sang một thế giới khác, sung túc và triển vọng. Nhưng họ vẫn không rõ về ý tưởng những gì có thể và không thể làm được của việc không vận. “Có thể nào không vận xe tăng vào từng chiếc một không?” đó là câu hỏi đầu tiên của tướng Hube trong cuộc gặp thứ nhất với thống chế Milch.

          Bản thân Milch, cũng như những ai chưa từng đặt chân vào Kessel, vẫn không thể hiểu thấu tình trạng tệ hại ghê gớm ở trong đó. Khi nhận được điện báo của Paulus trong ngày 18 tháng Giêng rằng tập đoàn quân 6 không thể trụ vững trong một vài ngày nữa bởi đã hoàn toàn hết xăng dầu và đạn dược, ông ta đã nói với Goering qua một cuộc điện thoại rằng: “Những người trong Pháo đài có dấu hiệu bị mất tỉnh táo”. Manstein cũng nghĩ như vậy, ông ta thêm vào. Bọn họ dường như chấp nhận theo bản năng cái chính sách ủng hộ quan điểm cá nhân của nhau, vào lúc mà chính họ xa cách với những sự thật kinh hoàng mà một Tập đoàn quân bị bỏ rơi phải đối mặt

            Đồng phạm của tấm thảm họa đang treo lơ lửng đó, còn rộng hơn, khi có cả tổng hành dinh Quốc trưởng và bộ tuyên truyền ở Berlin. “Vòng vây Stalingrad đã tới lúc kết thúc” Goebbel tuyên bố trong cuộc họp ở bộ, ba ngày trước “báo chí phải chuẩn bị để đưa tin thích hợp về kết quả chiến thắng của trận chiến vĩ đại ở thành phố Stalingrad – nếu cần thì thêm phụ trương”. Từ “chiến thắng” ở đây mang ý nghĩa tinh thần.

            Helmuth Groshcurth, tham mưu trưởng của Strecker và là thành viên chống chế độ năng nổ nhất trong vòng vây, xác định rằng những sự thật của thảm họa phải được thông tri đến các sỹ quan cao cấp để biến nó thành hành động. Ông sắp xếp để đưa một trong những đồng sự tin cẩn nhất, thiếu tá bá tước Alfred von Waldersee ra. Waldersee đi thẳng đến bộ tổng tư lệnh lục quân tại Bendlerstrasse ở Berlin, và gặp đại tướng Olbricht, một thành viên cao cấp của phe đối lập và tướng về hưu Beck, với thông điệp “chỉ có đánh ngay” chống lại Hitler mới cứu được Tập đoàn quân VI. Beck bảo Waldersee đến Paris để gặp tướng Von Stulpnagel và thống chế Von Rundstedt. Rundstedt trả lời rằng “rất buồn” vì Waldersee mất hết hi vọng làm được gì.

            Groscurth gửi lá thư sau cùng cho người em trai trong ngày 20 tháng Giêng, cũng là ngày sinh nhật của Susi, con gái ông “-cháu sẽ sớm không còn cha, như hàng ngàn trẻ em khác”, ông viết “sự đau khổ vẫn tiếp tục và tệ hơn trong từng giờ. Bọn anh bị đẩy lùi về một khu vực rất hẹp. Tuy vậy, bọn anh sẽ chiến đấu đến viên đạn cuối cùng theo mệnh  lệnh, đặc biệt là khi bọn anh được bảo rằng quân Nga sẽ giết hết tù binh, anh lo… Ở đây, không ai biết việc gì sẽ đến. Không có cả một lời hứa!”.

           Sở chỉ huy Tập đoàn quân VI cảm giác rằng đội của Milch không có hiểu rõ những điều tệ hại ở đây tới mức nào. “Không còn một người khỏe mạnh nào trên toàn mặt trận” một báo cáo trong ngày đó “mọi người, ít nhất là cũng bị bỏng tuyết. Sư đoàn trưởng sư đoàn bộ binh 76, trong chuyến thị sát mặt trận ngày hôm qua đã đi qua rất nhiều xác lính bị chết cóng”.

           Trận tấn công của Liên Xô bắt đầu trở lại với những lực lượng tăng viện vào sáng ngày 20 tháng Giêng. Tập đoàn quân 65 chọc thủng phía tây bắc Gonchara và chiếm nó vào trong đêm đó. Gumrak, chỉ còn cách vài dặm, là mục tiêu chính.

           Việc di tản phi trường và các sở chỉ huy ở lân cận trong đêm hôm sau rất hoảng loạn khi các khẩu đội Katyusha khai hỏa. Đêm đó, đội đặc nhiệm của Milch nhận được điện báo: “Phi trường Gumrak bất khả dụng kể từ 4h00 ngày 22 tháng Giêng. Vào lúc đó, phi trường mới Stalingradsky sẽ sẵn sàng để sử dụng”. Điều này quá lạc quan. Đường băng hạ cánh ở Stalingradsky không thể dùng cho các máy bay lớn. Lúc đó Paulus đã hoàn toàn buông xuôi cho định mệnh và hầu như trì trệ. Một thiếu tá không lực Đức vừa quay về từ Kessel đã báo cáo với thống chế Milch rằng Paulus đã nói với anh ta: “Những sự trợ giúp đến kể từ bây giờ sẽ là quá muộn. Quân tôi không còn sức nữa”. Khi viên thiếu tá cố tóm tắt cho ông tình hình tổng quan của mặt Tây, đối diện với cụm Tập đoàn quân sông Đôn, ông đáp :”Người chết không hứng thú với lịch sử quân sự”.
Logged
huytop
Thành viên
*
Bài viết: 919


« Trả lời #82 vào lúc: 03 Tháng Tám, 2015, 06:49:04 am »

          Vì thiếu xăng dầu, nên 500 thương binh bị bỏ lại ở bệnh viện dã chiến ở Gumrak. Lúc bình minh sáng ngày 22 tháng Giêng, bộ binh Nga đã xuất hiện ở phía xa, tiến theo từng hàng dài “như đi bắn thỏ”. Lúc quân địch tiến đến trong tầm súng trường, các sỹ quan thuộc sư đoàn cao xạ số 9, chịu trách nhiệm dọn dẹp phi trường lên chiếc xe sau cùng. Khi chạy xuống đường được chừng 100 mét, họ thấy một người lính từ bệnh viện dã chiến, cả hai chân bị cắt bỏ, cố gắng tự di chuyển trên một chiếc xe trượt tuyết. Các sỹ quan Không quân dừng lại, cột chiếc xe trượt tuyết vào phía sau xe họ như theo lời yêu cầu của anh ta, nhưng nó lật úp ngay khi họ bắt đầu nổ máy chạy. Một viên trung úy đề nghị anh ta bám vào phía trước xe bởi không còn chỗ bên trong. Nhưng người thương binh từ chối không làm họ chậm thêm lại. Lúc đó họ đã ở trong tầm súng bộ binh Nga. “Hãy để tôi lại!” anh la lên “đằng nào tôi cũng không còn cơ hội”. Các sỹ quan không quân hiểu rõ đó là sự thật. Bất kỳ ai không thể tự đi bộ vào lúc đó xem như cầm chắc cái chết. Họ lái xe đi để người thương binh cụt chân đó ngồi trên tuyết cạnh chiếc xe trượt, đợi quân Nga đến và kết liễu mình.

           Có thể anh ta bị bắn như nhiều thương binh khác bên đường. Nhà văn cộng sản, Erich Weinert cố quả quyết rằng “những người tàn tật bị bỏ rơi” ráng lết theo những đồng đội đang trong tầm “hỏa lực tấn công của Hồng quân”. Sự thật là Hồng quân, cũng như quân đội Đức, chỉ có rất ít lương thực cho thương binh phía kẻ thù. Các báo cáo rằng 500 phế binh bị bỏ lại bệnh viện dã chiến Gumrak trong sự chăm sóc của hai hộ lý và một cha tuyên úy đã bị tàn sát, là không đúng. Hồng quân chỉ đơn giản là bỏ họ lại tự kiếm ăn bằng “nước từ tuyết và thịt từ xác ngựa”. Những ai sống sót được chuyển đến trại ở Beketovka mười ngày sau đó.

           Cảnh tượng thất bại càng tệ hại thêm khi những người lính thất trận lui về gần Stalingrad. “Xa ngút tầm mắt, là những thi thể lính bị xe tăng đè nghiến, những tiếng rên vô vọng của thương binh, những xác chết đông cứng, xe cộ bị bỏ lại do hết xăng, những khẩu pháo vỡ tung cùng các thiết bị linh tinh”. Thịt được lóc hết ra từ sườn những xác ngựa chết bên đường. Quân lính mơ màng tóm được một chiếc dù tiếp liệu, nhưng chúng thường bị chiếm mất khi tiếp đất hoặc thất lạc trong tuyết.

        Dù việc sụp đổ ở ngay trung tâm là không thể ngăn chặn, nhưng ở nhiều khu vực các nhóm chiến đấu Đức vẫn chiến đấu quyết liệt. Sáng sớm ngày 22 tháng Giêng, những phần còn lại của sư đoàn bộ binh 297 bị đẩy lùi từ vùng Voroponovo về ngoại ô Stalingrad. Thiếu tá Bruno Gebele và những người còn sống trong tiểu đoàn của anh đợi trận xung phong kế tiếp. Hỏa lực yểm trợ duy nhất của họ là vài khẩu sơn pháo dưới quyền một trung sỹ, anh này lịnh không bắn cho đến khi quân Nga đến trong tầm 200 – 300 thước. Ngay trước lúc 7 giờ sáng, tiểu đoàn của Gebele bị pháo kích, một lính gác la lên: “Herr Major, sie kommen!” (Thiếu tá, chúng đến)

            Gebele chỉ có thời gian để hét “Ra ngoài!”. Quân của anh băng mình đến các hỏa điểm. Một đám đông bộ binh trong quân phục màu trắng tiến lên phía họ, gào vang “Urah!Urah! Urah”. Khi những tên đầu tiên chỉ cách 40 thước thì các lính thủ pháo Đức khai hỏa bằng trung liên, tiểu liên và súng trường. Quân Nga thiệt hại nặng. “Đợt đầu tiên bị giết hoặc nằm lại đó, đợt thứ hai cũng vậy, rồi cả đợt thứ ba. Trước vị trí của chúng tôi, xác lính Liên Xô chất đống và che chắn cho chúng tôi như những bức tường bằng bao cát”.

           Phía Nga không bỏ cuộc. Họ chỉ đơn giản là đổi hướng, tập trung vào các đơn vị bên sườn. Lúc 9h30, họ chọc thủng tuyến quân Rumani ở phía trái. Một viên đạn chống tăng bắn trúng viên tiểu đoàn phó thứ nhất của Gebele, khi đó đang đứng cạnh anh, và giết tươi anh ta ngay tức khắc. Rồi Gebele cảm thấy có cái gì đó xô mạnh vào vai trái anh. Viên đạn đại liên đó cũng đã giết chết viên quản trị tiểu đoàn, trung sỹ Schmidt, sau khi xuyên thủng qua chiếc nón sắt. Gebele điên tiết, đặt khẩu carbine lên bức tường tuyết trước mặt, để có thể bắn được vài phát bằng cánh tay và phía vai còn lại.

          Một làn sóng quân Nga nữa tràn đến. Gebele thét gọi anh em còn sống khai hỏa lần nữa. MỘt trung sỹ tham mưu cố bắn từ một khẩu cối nhẹ, nhưng tầm quá ngắn và gió đã làm vài quả rơi ngược lại vị trí của họ. Sau khi trụ được bảy tiếng, Gebele nhìn thấy cờ Nga xuất hiện trên tháp nước ở phía sau. Họ đã bị bọc sườn. Anh tập hợp những người còn sống lại và đưa họ về phía trung tâm thành phố Stalingrad. Ở đây, trong thành phố, họ sốc bởi cảnh tượng của sự tàn phá và sụp đổ. “Trời lạnh ghê gớm” một trong số họ viết “và chung quanh là sự hỗn độn, như thể thế giới đã đến ngày tận thế”.

            Ngày 22 tháng Giêng ấy – sau ngày Goebbels chuẩn bị đạo diễn cho vở bi kịch Stalingrad bằng thứ gọi là “chiến tranh tổng lực” – Tập đoàn quân VI nhận được điện báo từ Hitler đóng niêm phong lên số mệnh của nó. “Không được đầu hàng. Các đơn vị chiến đấu cho đến cùng. Nếu có thể, hãy thu hẹp và giữ vững pháo đài (Stalingrad) bằng các lực lượng xứng đáng. Pháo đài kiên cường, anh dũng sẽ mang lại cơ hội để thiết lập mặt trận mới và phản công. Làm như vậy, Tập đoàn quân VI sẽ hoàn thành trọng trách lịch sử của mình trong giai đoạn vĩ đại nhất của lịch sử nước Đức”.




        .........................................

Logged
huytop
Thành viên
*
Bài viết: 919


« Trả lời #83 vào lúc: 04 Tháng Tám, 2015, 05:06:43 am »

                                                                                             XXII


                                                     MỘT THỐNG CHẾ ĐỨC KHÔNG THỂ TỰ TỬ BẰNG KÉO CẮT MÓNG TAY!



           Khi những chiếc phi cơ Không quân Đức bay mất, mọi người nhìn theo khát khao, và tiếp tục trông lên bầu trời cho đến khi đóm sáng nhỏ nhoi ấy biến mất hẳn. “Với trái tim nặng nề” một người lính viết “chúng tôi trông theo chiếc máy bay và nghĩ rằng thật tuyệt biết bao nếu được bay ra, khỏi cái địa ngục mà chúng tôi đang bị bỏ rơi này”. Sau khi phi trường Gumrak bị chiếm vào sáng sớm ngày 22 tháng Giêng, chỉ còn một ít chuyến bay cố hạ cánh được ở phi đạo Stalingradsky bé tý. “Cầu không vận”, và là lối thoát cuối cùng, đã sụp đổ.

            Việc tiếp liệu giờ phụ thuộc vào những thùng hàng được thả dù xuống, “những quả bom hậu cần”, nhưng dù Tập đoàn quân VI yêu cầu dùng dù màu đỏ, phía Không quân Đức vẫn dùng dù trắng. Hệ thống thả dù càng lúc càng trở nên thả-và-mất, bởi rất ít đơn vị còn pano nhận dạng và Quân đoàn không quân VIII đã mất liên lạc vô tuyến với sở chỉ huy Tập đoàn quân VI kể từ ngày 24 tháng Giêng. Tướng Hube nhận một thông điệp rằng lính ở trong thành Stalingrad đổ nát, khi nghe tiếng động cơ máy bay, sẽ nằm trên tuyết xếp thành một hình dạng chữ thập để định dạng rằng “Quân Đức đang ở đây”. Khi ánh sáng hoặc tầm nhìn xấu, họ sẽ bắn pháo sáng lên ngay hướng máy bay, nhưng quân Nga ở quanh đó cũng bắn ngay lập tức pháo sáng cùng màu lên trời nhằm rối trí phi công. Gió mạnh cũng mang nhiều kiện hàng sang các tuyến mặt trận đã nhanh chóng rơi vào tay quân địch. Nhiều người liều mạng tới mức ráng chạy ra lấy những kiện hàng rơi ở bên ngoài. Những tay súng bắn tỉa Nga dễ dàng kết thúc họ. Trong những đống đổ nát ở Stalingrad, quân Đức đói khác cố mai phục lính Nga để cướp bánh mỳ.

         Gumrak thất thủ đồng nghĩa với một chuyến đi kinh hoàng khác với các thương binh, mà đa số họ vừa mới chuyển từ Pitomnik sang, nơi họ đã thất bại khi tìm một chỗ trên các chuyến bay. “Thương binh kiệt sức tự băng bó nhau trong thị trấn đổ nát” một người sống sót báo cáo “họ bò đi như những con vật trên bốn chân, trong hi vọng tìm được vài sự giúp đỡ”.

        Điều kiện trong các bệnh viện tạm thời ở Stalingrad còn tệ hơn cả Gumrak, với chừng 20.000 thương binh chen chúc trong các căn hầm đào dưới đống đổ nát của thành phố, đó là không nói đến số bệnh binh, mà có thể đến con số 40.000. Chừng 600 thương binh nặng nằm trong tầng hầm nhà hát Stalingrad, không đèn, không hệ thống vệ sinh. “Tiếng than, tiếng gọi giúp đỡ và cầu nguyện” một bác sỹ viết từ sư đoàn bộ binh cơ giới hóa số 60 “hoà cùng tiếng gầm của bom đạn. Mùi khói thuốc, mùi máu và mùi hôi thối từ các vết thương quyện đặc trong phòng”. Không có băng gạc, không thuốc và cũng không nước sạch.

         Một số các bác sỹ thuộc các đơn vị tiền duyên được lệnh đến giúp sức trong hệ thống hầm ở hẻm núi Tsaritsa. Khu phức hợp này, trông như những đường hầm trong mỏ, giờ chứa đến 3000 thương binh hoặc bệnh binh nặng. Bác sỹ Hermann Achleitner, khi đến theo mệnh lệnh, đã được nhắc nhở ngay một câu: “Những ai vào đây là đã hết hi vọng”. Hàng đống xác lạnh cứng bên ngoài làm ông sốc mạnh. Bên trong, cảnh tượng địa ngục càng được tăng thêm bởi những ngọn đèn dầu tự chế, nguồn ánh sáng duy nhất ở đó. Không khí hôi thối, ngột ngạt khó thở. Ông được chào đón bằng những lời than vãn đáng thương: “Làm ơn cho tôi chút gì để ăn!”. Mỗi bệnh nhân chỉ nhận được một lát mỏng bánh mỳ cũ mốc cho cả ngày. Các bác sỹ biến nó thành một dạng súp, nóng và tốt hơn chút đỉnh. Băng gạc thiếu nghiêm trọng cho những ca bỏng tuyết nặng. Ông ghi nhận “Thường thì ngón chân, ngón tay đã nằm trong các lớp băng cũ bẩn thỉu khi chúng tôi thay”. Không thể khử rận. Các y tá khi thay băng đều thấy hàng đống rận xám lúc nhúc bò trên cổ tay, cẳng tay của bệnh nhân. Và khi người ấy chết, rận lũ rận sẽ kéo đàn bò đi khỏi thi thể anh ta để tìm một cơ thể còn sống khác. Các bác sỹ cách ly ngay những ca bệnh sốt Rickettsia ngay khi chẩn đoán ra, nhưng họ hiểu họ không còn nhiều thời gian trước khi có một trận dịch diễn ra ngay trong tầm tay. Một người lính trẻ, vẽ lại cảnh cơ cực đó, đã nghe thấy thời xì xào “Ở nhà họ sẽ không bao giờ biết được nơi đây như thế nào

          Rút lui về từ thảo nguyên, khi vòng vây bị các Tập đoàn quân của Rokossovsky tiến đánh, làm số lính Đức trong thành phố đổ nát lên đến trên 100,000 người. Nhiều, nếu không phải là hầu hết, mắc bệnh lỵ, vàng da hoặc các bệnh khác, mặt họ nhuốm màu vàng xanh.

         Phản ứng của thường dân Stalingrad không phải lúc nào cũng là thù địch, như một thương binh thuộc sư đoàn bộ binh 297 phát hiện ra. “Người phụ nữ Stalingrad đã xoa bóp đôi chân lạnh cứng của tôi trong cả giờ để không bị bỏng tuyết nặng” một sỹ quan viết “Nhiều lần họ nhìn tôi với sự trắc ẩn và bảo “cậu ấy quá trẻ và chắc chết mất””. Một nhóm lính, ngạc nhiên khi thấy vài phụ nữ Nga trong một ngôi nhà đổ nát một phần. Họ vừa nướng xong ít bánh mỳ, và đồng ý đổi một ổ lấy một khoang thịt ngựa đông lạnh.

         Các trung đoàn, sư đoàn chẳng còn gì. Sư đoàn xe tăng 14 còn không quá 80 lính có khả năng chiến đấu. Khó lắm mới có một chiếc tăng hay một vũ khí hạng nặng nào đó còn đạn. Trong tình cảnh tuyệt vọng đó, kỹ luật bắt đầu bị tan vỡ. Sau khi tướng Paulus từ chối đầu hàng, việc kháng cự vẫn tiếp tục rộng khắp vì sợ quân Nga trả thù.
                                                 
       Không còn e ngại đại bác chống tăng, những chiếc T-34 của Liên Xô nghiền nát các ổ vũ khí và pháo thủ Đức dưới vòng xích. Hầm hố, boongke và các tòa nhà được gia cố bị phá nát bởi một khẩu dã pháo kéo đến trong tầm bắn thẳng. Lính Đức giờ đây trong tình cảnh bất lực cực độ, không làm gì được cho những đồng đội bị thương và ngay cho cả chính mình. Những trận tấn công tàn nhẫn của họ trong mùa hè năm trước dường như thuộc về một thế giới nào đó khác. Ngày 25 tháng Giêng, tướng Paulus và đại tá Wilhelm Adam, một trong các sỹ quan tham mưu cao cấp của ông, bị thương nhẹ ở đầu do mảnh bom. Tướng Morizr von Drebber đầu hàng cùng với một phần của sư đoàn bộ binh 297 ở cách phía tây nam Tsaritsa 3 dặm. Khi viên đại tá Liên Xô đến nhận sự đầu hàng đã hỏi rằng: “Các trung đoàn của ông ở đâu?”. Morizt von Drebber, theo phiên bản được phát sóng sau đó hai ngày trên truyền thanh Liên Xô bởi tiểu thuyết gia Theodor Plievier – một người cộng sản Đức “Cư dân Moscow”, đã nhìn quanh nhúm người còn lại, kiệt sức và bỏng tuyết, trả lời: “Tôi có cần phải giải thích cho ông không, thưa ông đại tá, về việc những trung đoàn của tôi ở đâu?

           Trưởng ban quân y Tập đoàn quân VI, tướng Renoldi, là một trong số những tướng lĩnh đầu tiên tự nộp mình (Lần đầu tiên tình báo Hồng quân nghe được rằng Paulus đang trong tình trạng sụp đổ, đó là kết quả của cuộc thẩm vấn ông ta). Tuy nhiên, vài vị tướng khác vẫn tiếp tục hành động. Tướng Schlomer, người thay thế tướng Hube, bị bắn vào đùi, và tướng Von Hartmann của sư bộ binh 71 bị giết bởi một viên đạn vào đầu. Tướng Stempel, sư đoàn trưởng sư đoàn bộ binh 371 tự sát, như một số sỹ quan khác lúc bị địch quân tràn ngập ở vùng nam Stalingrad đến sông Tsaritsa. Bình minh ngày 26 tháng Giêng, xe tăng của tập đoàn quân 21 đã tiếp xúc được với sư đoàn bộ binh cận vệ 13 của Rodimtsev ở phía bắc đồi Mamaev Kurgan, cạnh khu tập thể công nhân nhà máy Tháng Mười đỏ. Cảnh tượng này thật cảm động như đã được dự đoán trước, đặc biệt là với tập đoàn quân 62 của Chuikov, những người đã chiến đấu đơn độc trong gần 5 tháng qua. “Mắt của những người lính cứng cỏi gặp nhau tràn lệ vui mừng” Chuikov viết. Rượu được chuyền tay nhau trong niềm vui mãnh liệt.

           Vòng vây Stalingrad bị chia cắt làm đôi, Paulus và phần lớn sỹ quan cao cấp bị kẹt trong cái túi nhỏ hơn, ở phía nam, và quân đoàn XI của Strecker ở phần phía bắc quanh khu vực nhà máy kéo Stalingrad. Liên lạc duy nhất với thế giới bên ngoài của ông ta là hệ thống vô tuyến của Sư đoàn xe tăng 24.

          Trong hai ngày kế tiếp, quân lạc ngũ Đức và Rumani, những thương binh hoặc bị pháo dập, cũng như các nhóm vẫn còn sức chiến đấu, tất cả rút vào phần túi phía bắc nhỏ hơn, nơi Paulus và Schmidt thiết lập sở chỉ huy mới ngay dưới cụm cửa hàng bách hóa Univermag ở quảng trường Đỏ.

          Biểu tượng cuối cùng của sự chiếm đóng Đức là lá cờ chữ thập ngoặc treo trên một cột cờ tạm ở ban công trên lối vào. Những đơn vị còn lại thuộc trung đoàn pháo thủ 194 của đại tá Roske làm lực lượng bảo vệ. Roske được thăng cấp tướng với cương vị sư đoàn trưởng sư đoàn bộ binh 71 đã bị tiêu ma. Số lượng sỹ quan cao cấp Đức đầu hàng đồng nghĩa với ban 7 của Phương diện quân sông Đon, chịu trách nhiệm “hoạt động tuyên truyền” bận rộn hơn bội phần. Nhiều tù binh được mang đến thẩm vấn đề từ khi trận tấn công bắt đầu, và khó để chọn ai “quan trọng hơn”.

         Đại úy Dyatlenko nhận lệnh quay về sở chỉ huy Phương diện quân sông Đon ngay lập tức. Một vị tướng Đức khác được mang đến để thẩm vấn. Dyatlenko biết rằng việc tốn thời gian với người mới này là xứng đáng, tướng Edler von Daniels. Qua lục soát những túi thư từ một chiếc máy bay vận tải bị rơi lúc đầu tháng, tìm thấy những lá thư viết theo dạng nhật ký của tướng Daniels gửi cho vợ. Cũng như những tù binh vừa mới bị bắt khác, Daniels trong tình trạng dễ bị khuất phục. Là một thẩm vấn viên đầy kinh nghiệm, Dyatlenko biết rằng chiến thuật tốt nhất bắt đầu từ những điều đơn giản nhất. Anh hỏi người tù quanh co về “em bé – vòng vây” của ông và rồi làm ông mất thăng bằng bằng việc bất ngờ đưa ra những lá thư và giấy tờ mà Daniels nghĩ rằng nó đã được gửi an toàn về Đức.
Logged
huytop
Thành viên
*
Bài viết: 919


« Trả lời #84 vào lúc: 05 Tháng Tám, 2015, 06:49:00 am »

          “Thưa tướng quân” Dyatlenko ghi âm lại phần trao đổi với ông ta “Xin vui lòng nhận lại những giấy tờ của ngài. Đây là tài sản cá nhân của ngài, và ngài có thể đưa nó vào tài liệu lưu trữ của gia đình khi ngài trở về sau chiến tranh”. Dường như Daniels bị mất tự chủ bởi lòng biết ơn. Ông nhận ly trà và bánh qui cùng thuốc lá Nga, rồi “trả lời câu hỏi của chúng tôi”. Dyatlenko giữ ông đến tận tối.

           Sau buổi ăn tối, lại tiếp tục đến tận nửa đêm.Trong nhiều trường hợp, cách tiếp cận tế nhị như vậy là không cần thiết. Bởi với tâm lý ngượng ngùng pha lẫn giận dữ vì thất bại, làm họ dễ bảo nếu không nói là hợp tác, những sỹ quan đó cảm thấy bị phản bội với tư cách cá nhân và thấy có lỗi với lính của mình vì đã bảo đảm với họ về lời hứa bảo vệ của Quốc trưởng.

           Trong suốt buổi hỏi cung, họ thường xúc phạm nặng đến Hitler và chế độ. Họ gọi Goebbel là “con vịt què” và lấy làm tiếc rằng tay Goering mập ú đã không phải chịu đựng cái gọi là “thực đơn ăn kiêng ở Stalingrad”. Nhưng dĩ nhiên nó cũng cho những người Nga thấy rằng những viên tướng đó chỉ nhận ra bộ mặt thật của Hitler khi họ phải nếm trải sự phản bội mà ông ta đã đối xử vơi họ và Tập đoàn quân VI. Một vài người trong số đó còn mô tả Hitler và những chính sách của ông ta là tội phạm khi họ tiến sâu vào lãnh thổ Nga và những hành động tàn bạo được làm ngay trước tuyến mặt trận, rằng họ phải biết đến việc đó, nếu không có trường hợp nào chịu trách nhiệm trực tiếp.

           Từ các cuộc thẩm vấn sỹ quan bị bắt, sở chỉ huy Phương diện quân sông Don, hình thành ấn tượng mạnh mẽ rằng Paulus “đang trong tình trạng căng thẳng nặng, và phải làm vai trò mà họ buộc ông phải làm”. Họ càng thêm tin rằng Paulus đang là một tù nhân trong chính sở chỉ huy của ông và cai ngục chính là viên tham mưu trưởng. Dyatlenko không chút nghi ngờ rằng Schimidt chính là “tay, mắt của đảng Quốc xã” trong tập đoàn quân 6, bởi những sỹ quan bị bắt khai rằng “Schmidt đang chỉ huy tập đoàn quân và cả bản thân Paulus”.

           Đại tá Adam, sau này khai với Dyatlenko rằng, chính Schmidt là người lệnh cho việc đuổi đoàn sứ giả ngưng chiến về (Dyatlenko không hề tiết lộ rằng anh chính là người trong đoàn ấy). Các sỹ quan cao cấp ở Tập đoàn quân VI hình như đều biết rõ nội dung chứa trong chiếc túi da bóng ấy. Vào cái buổi sáng ngày 9 tháng Giêng đó, khi Dyatlenko và Smyslov đợi trong hầm, họ đang đọc trong bữa ăn sáng các truyền đơn được thả từ máy bay Nga với dòng tối hậu thư. Cũng trong sáng đó, tướng Hube bay về trong vòng vây sau chuyến làm việc với Hitler. Ông ta mang theo mệnh lệnh không được đầu hàng. Theo đại tá Adam, điều này đã làm tăng vị trí của người không khoan nhượng Schmidt tại sở chỉ huy Tập đoàn quân VI.

         Ngày 29 tháng Giêng, đêm kỷ niệm năm thứ mười ngày Hitler chiếm quyền lực, sở chỉ huy Tập đoàn quân VI gửi một điện tín chúc mừng từ căn hầm đổ nát của họ: “Kính gửi quốc trưởng! Tập đoàn quân 6 chúc mừng Quốc trưởng nhân ngày kỷ niệm sự kiện ngài nắm quyền. Lá cờ chữ vạn vẫn phất phới trên thành Stalingrad. Cuộc chiến đấu của chúng tôi có lẽ là một tấm gương cho các thế hệ hiện tại và tương lai sẽ không đầu hàng cho dù tình hình tuyệt vọng và rằng nước Đức sau cùng sẽ chiến thắng.

           Heil mein Fuhrer! Paulus”.


          Bức điện kỳ cục trong hoàn cảnh lúc đó, dường như được thảo và gửi bởi tướng Schmidt. Từ ngữ rõ ràng mang giọng lưỡi ông ta. Còn Paulus, khi ấy, bị bệnh lỵ, bàng hoàng vì các sự kiện và mất tinh thần, nên không khó để tưởng tượng ra rằng ông chỉ biết gật đầu chấp thuận khi được cho xem bức điện. Groscurth, như để chứng minh, đã báo cáo trong một lá thư không lâu trước đó rằng: “Tướng Paulus trong tình trạng kiệt quệ về thể xác lẫn tinh thần”.

        Ngày 30 tháng Giêng, ngay trong lễ kỷ niệm, Goering đã phát biểu trên đài, so sánh Tập đoàn quân VI với quân Spartan ở Thermopylae. Bài diễn thuyết này không đón nhận tốt mấy ở Stalingrad khi nghe qua sóng radio. Sự thật là, với mọi người, Goering đã đọc “bài điếu văn cho chúng tôi”, lăng nhục đến thanh danh của họ. Gottfried von Bismarck đã mô tả ảnh hưởng là “kinh khủng”. Trong những căn hầm trong nhà hát Stalingrad lèn chặt thương binh, giọng của Goering được nhận ra ngay. “Tắt ngay đi” vài người hét lên. “Chuyển kênh đi” những người khác gào theo và nguyền rủa ông ta. Chương trình phát thanh kết thúc bằng bảng giao hưởng số năm của Bruckner. Nhiều sỹ quan đùa cợt chua cay rằng cuộc “tự sát của người Do Thái” trên đỉnh Masada có lẽ là một so sánh hợp lý hơn là Thermopylae.

         Họ không biết rằng nó cực kỳ chính xác thế nào. Hitler đã tính toán đến một cuộc tự sát tập thể, bao gồm tất cả những sỹ quan cao cấp. Bài diễn thuyết của chính Hitler được Goebbel phát sóng sau đó trong ngày kỷ niệm, bị trễ lại bởi máy bay ném bom Nga. Nghe có vẻ cay đắng, nhưng hồi tự-bào-chữa xem chừng quá thô để dấu. Ông ta chỉ dành một câu cho Stalingrad, bởi thảm họa sẽ phủ bóng lên ngày vui của chế độ: “Trận đánh anh hùng của quân ta trên dòng Volga là sự cổ vũ cho mọi người làm hết sức mình cho cuộc chiến vì tự do và tương lai của nước Đức, và rộng hơn là sự bảo tồn cho cả châu Âu”. Đó là lần thú nhận đầu tiên rằng kể từ đó quân đội Đức phải chiến đấu để ngăn chặn sự thất bại.

         Ngày hôm sau, Hitler, như thể bù đắp cho cảm xúc của thảm họa, đã phong tước cho 4 vị thống chế mới, bao gồm cả Paulus. Đây là đợt thăng chức cao cấp lớn nhất kể từ lần chiến thắng nước Pháp. Khi điện tín thông báo về việc thăng chức lên thống chế đến, Paulus ngay lập tức đoán ra rằng ông được cho một ly thuốc độc. Ông kêu lên với tướng Pfeffer trong cuộc hội họp cấp tướng lần cuối rằng: “Tôi không có ý định tự bắn mình vì tay hạ sỹ lang thang đó” (I have no intention of shooting myself for this Bohemian corporal).

          Một viên tướng khác nói với thẩm vẩn viên NKVD của ông rằng Paulus đã nói: “Đó trông có vẻ như là một lời mời chào tự sát, nhưng tôi không làm cái đặc ân đó cho Hitler đâu”. Theo bản năng Paulus không chấp nhận việc tự sát. Khi ông nghe quân của mình chọn kiểu “tự sát theo lối lính” – đứng trên giao thông hào để đợi quân địch bắn hạ - ông ra lệnh cấm ngay kiểu đó. Còn Hitler, dĩ nhiên không thèm quan tâm tới việc cứu mạng, mà chỉ chú trọng tới việc tạo nên những huyền thoại đầy thuyết phục. Rõ ràng là ông ta hy vọng các sỹ quan cao cấp của Tập đoàn quân sẽ theo gương của Đô đốc Lutjen trên thiết giáp hạm Bismarck, một ý nghĩ kỳ quặc, không nghi ngờ gì, được khuyến khích từ tin cái chết của tướng Von Hartman và tướng Stempel.

          Túi phía nam tiếp tục co lại nhanh chóng. Ngày 30 tháng Giêng, các đơn vị Soviet đã xuyên thủng đến ngay trung tâm thành phố. Trong những căn hầm nơi phần lớn quân Đức đang trốn cái lạnh và pháo kích, tâm trạng tuyệt vọng và đề phòng kinh khủng dâng cao. Ở trụ sở của NKVD, bầu trời mùa đông có thể nhìn thấy qua mái vòm bị xuyên thủng. Sàn bằng đá phủ đầy gạch vỡ và vụn vữa trong cái kiến trúc như cái lồng gồm cầu thang và rào chắn vặn xoắn vào nhau. Một lá cờ chữ thập đỏ bên ngoài lối vào làm một sỹ quan bộ binh Đức nổi điên, vì cho đó là dấu hiệu đầu hàng.

         Anh ta bước xuống hầm, ở đó các bác sỹ vẫn tiếp tục phẫu thuật trong ánh đèn cháy bằng gas của bệnh viện dã chiến, trong khi đợi quân Nga đến. Dữ tợn với ánh mắt hoang dại, viên sỹ quan đe dọa họ bằng khẩu tiểu liên. “Việc gì ở đây vậy? Sẽ không có đầu hàng gì cả! Cuộc chiến vẫn tiếp tục”. Nhiều người bị mất thăng bằng do căng thẳng và ảo giác vì thiếu ăn nghiêm trọng. Trong hầm đầy người còn trong cơn mê sảng. Bác sỹ Marksein, một người Danzig, nhún vai thờ ơ “Đây là trạm y tế”, ông nói. Người chiến binh loạn trí không bắn họ, vẻ ma quái của anh biến mất và trở nên u ám mà không một lời nói.

         Khi tướng Von Seydlitz, ở trong cùng tòa nhà, cho phép các sư đoàn trưởng thuộc quyền, kể từ ngày 25 tháng Giêng tự quyết họ sẽ đầu hàng hay không, Paulus đã giải phóng nhiệm vụ chỉ huy của ông ta. Ông đặt tất cả các sư đoàn của Seydlitz dưới quyền tướng Walter Heitz, tư lệnh quân đoàn VIII. Khi ấy, Heitz ra một mệnh lệnh rằng ai cố đầu hàng sẽ bị bắn tại chỗ. Lúc Seydlitz cùng hơn một tá sỹ quan khác đầu hàng – trong đó gồm cả tướng Pfeffer, Korfes và Sanne – hỏa lực đại liên đã bắn vào họ từ tuyến quân Đức khi phía Nga giải họ đi. Sau nay Seylitz tuyên bố rằng hai sỹ quan Đức đã tử thương là kết quả của cái “mệnh lệnh khải huyền” của Heitz.Tuy vậy, tướng Heitz, khi đưa ra lệnh “Chúng ta chiến đấu đến viên đạn cuối cùng”, đã không bao gồm cá nhân ông và sở chỉ huy của ông vào trong câu nói hoa mỹ tu từ đó. Một sỹ quan dưới quyền đã nhận thấy rằng, ban tham mưu của ông ta, rõ ràng là ông ta biết, đã chuẩn bị cờ trắng.

         Đại tá Rosenfeld, sỹ quan không quân chỉ huy trung đoàn cao xạ 104 lại tuân thủ sự khoa trương đó đúng như mong đợi của chế độ. “Lá cờ chữ vạn tung bay trên đầu chúng tôi” ông đánh điện về trong đêm 30 tháng Giêng “Mệnh lệnh của tổng tư lệnh tối cao sẽ được thực hiện đến cùng. Quốc trưởng muôn năm!”. Đêm đó, sở chỉ huy tập đoàn quân 6 gửi một điện tín cảnh báo rằng một số chỉ huy đang đầu hàng bởi quân mình hết đạn, nhưng cũng kế tục lối nói hoa mỹ như của Rosenfeld, tuyên bố rằng họ đang “lắng nghe bài quốc ca lần sau chót với cánh tay giơ cao chào nước Đức”. Một lần nữa, giọng điệu này mang hơi hớm của Schmidt hơn là của Paulus. Mà cho dù sự thật thế nào, thì chẳng có mấy người lính có ước mơ hoặc đủ sức để chia sẽ cảm xúc đó. “Trong đêm 30 tháng Giêng,” một trung sỹ ghi lại “mọi người bận rộn với suy nghĩ riêng, với cái đói cồn cào, với vết thương đau nhức và bỏng tuyết, cùng những suy tư về nhà và về số mệnh của họ”. Các sỹ quan thì đặc biệt lo sợ bị tử hình. Nhiều người tháo quân hàm.

          Cũng trong giữa đêm đó, tướng Voronov trong căn nhà izba ở sở chỉ huy phương diện quân sông Don, hốt hoảng tỉnh giấc sau một giấc ngủ chập chờn. Một ý nghĩ đột nhiên ồ đến với ông rằng Paulus có thể đã trốn thoát bằng một chiếc máy bay hạ trên lớp băng của sông Volga. Phản ứng của Stalin trước việc mất một giải thưởng có giá như vậy thì thật là rõ ràng để tưởng tượng. Ông nhảy khỏi giường và gọi điện ra lệnh cho pháo binh dọc bờ đông Stalingrad phải được nhắm vào lớp băng để phòng xa.
Logged
huytop
Thành viên
*
Bài viết: 919


« Trả lời #85 vào lúc: 07 Tháng Tám, 2015, 12:03:46 am »

        Sáng ngày kế tiếp, 31 tháng Giêng năm 1943, Tập đoàn quân 64 của Sumilov siết chặt toàn bộ trung tâm thành phố Stalingrad. Những tòa nhà đổ nát và hầm hố được quét sạch bằng thủ pháo và súng phun lửa. Quảng trường Đỏ bị pháo cối tập trung hỏa lực trước khi lính tiến vào cửa hàng Univermag. Lính thủ pháo còn lại của Roske xung quanh sở chỉ huy Paulus cuối cùng cũng hạ vũ khí. 7h30 sáng, đại úy Behr thuộc đội đặc nhiệm Milch nhận điện : “Quân Nga ở ngay cửa. Chúng tôi chuẩn bị đầu hàng”. Mười phút sau, thượng úy Fyodor Ilchenko bước vào tầng hầm chật cứng và hôi hám, thì điện tín được gửi đi: “Chúng tôi đầu hàng”. Behr chuyển ngay thông điệp đó cho sở chỉ huy thống chế Manstein ở cụm tập đoàn quân sông Don. Đến Đức, truyền thông nhà nước loan tin: “Tình hình ở Stalingrad không thay đổi. Tinh thần của những người phòng thủ không sứt mẻ”.

        Các sỹ quan tham mưu của tướng Sumilov đến thảo luận các điều kiện đầu hàng với tướng Schmidt trong tầng hầm. Paulus vẫn ở phòng cạnh bên và Adam thông báo cho ông mọi bước. Đây là một mánh lới cho việc Paulus tránh khỏi tiếng đầu hàng hay là một chỉ dấu khác cho thấy Schmidt điều khiển mọi việc vì Paulus hoàn toàn suy sụp, không rõ. Cuối cùng, hai giờ sau khi thượng úy Ilchenko xuất hiện, tướng Laskin đến nhận sự đầu hàng chính thức của Paulus, trước ông, Schmidt và Adam được đưa đến sở chỉ huy của Smilov bằng xe hơi, cùng với tướng Roske khi ông này cố nài.

          Cũng giống như quân lính của họ, ba người đó nổi bật trong ánh mặt trời với bộ râu xanh rì, ngay cả khi họ không quá nhợt nhạt như các binh sỹ. Đại tá Adam, như Vasily Grossman ghi nhận, đập đen đét chiếc mũ lông ushaka xuống “như tai của một con chó nòi vừa ngoi lên khỏi mặt nước”. Các tay quay film thời sự đang đợi để ghi hình sự kiện này.Những người khác vẫn ở trong các hầm hào ở trung tâm thành phố đợi đến khi quân Nga xuất hiện. Vẫy nòng tiểu liên, họ lệnh cho quân Đức ném vũ khí sang một góc và đi ra. Phía bại trận đã sẵn sàng cho việc bị giam giữ bằng cách quấn chặt giẻ xé từ các bộ quân phục quanh ủng của họ. Nhiều người lính gào to “Đả đảo Hitler!”như một thứ tín hiệu đầu hàng. Quân Nga có thể trả lời “Kameraden. Krieg kaputt! Paulus kapituliert!” nhưng hầu hết họ hét “Faschist!” hoặc “Frizt! Komm! Komm”.

          Khi quân Nga tiến vào tầng hầm của nhà hát, họ ra lệnh: “Những ai có thể đi được, hãy ra ngoài và hành quân đến trại tù”. Những người đứng dậy được cho rằng các thương binh bị bỏ lại sẽ được chăm sóc. Nhưng chỉ sau này họ mới biết được rằng phía Hồng quân hành động theo nguyên tắc rằng những tù binh không thể đi được sẽ tự kết liễu ở nơi họ nằm. Một hai trường hợp, sự thịnh nộ cùng nỗi tuyệt vọng tạo thành một hỗn hợp nổ. Ngay trong tòa nhà NKVD, tất cả lính Đức chờ đợi bị giết để trả thù, sau khi một sỹ quan dấu được một khẩu súng ngắn theo, đã bất ngờ bắn gục một thiếu tá Nga ở khoảng cách gần, rồi tự quay súng về phía mình. Không rõ vì sao mà khoảng khắc giận dữ của lính Nga qua đi, và những tù binh được dung thứ.

          Việc đầu hàng ở Stalingrad mang lại một số mệnh bấp bênh, không thể đoán trước được với quân Đức. Lính Nga, không rõ là có chủ định hay chỉ là tai nạn, đã phóng hỏa một bệnh viện tạm thời chứa đầy thương binh trong một lán trại công binh ở phi trường. Trong khi đó, có hai sỹ quan phòng không Đức, đang bị giải lên lầu bởi lính Nga do nhận thấy các miếng đỏ trên cổ áo thể hiện cấp bậc cao, đã phóng mình nhảy qua một cửa sổ vỡ. Họ rớt xuống một nhà xí, rồi quân Nga xuất hiện chung quanh sẵn sàng nhả đạn. Viên trung úy trẻ tuổi hơn đã cứu mạng cho cả hai người bằng suy nghĩ nhanh nhẹn và tâm lý sắc bén. Anh bảo người đi cùng cởi quần ra. Lính Nga cười rộ lên và tha cho hai người. Họ không thể bắn những ai cởi truồng ra.

           Đơn vị đặc biệt NKVD tìm kiếm lính Hiwis cũng như những “con chó phát xít”, trong nghĩa của họ là quân “SS, Gestapo, lính tăng, và quân cảnh”. Một số lính Đức nhận nhầm là SS, bị đẩy sang một bên và giết chết bằng súng tiểu liên. Hình như lính Hồng quân từ một sư đoàn Siberia đã quay mặt đi, kinh tởm cảnh tượng đó. Cũng theo cùng một nguồn tin, dựa trên việc thẩm vấn một nữ sỹ quan điệp viên Soviet bởi cảnh sát dã chiến mật vào sáu tháng sau đó, đã ghi nhận việc tử hình một nhóm 23 lính Hiwi.
 
         Việc tìm kiếm quân Hiwi của NKVD là rất gay gắt. Bất kỳ một ai (là người Nga) trong quân phục Đức có cơ bị bắn tại chỗ, như một tiểu đoàn trưởng thuộc sư đoàn bộ binh 297 nhận ra. “Lính Liên Xô đột nhiên dừng chúng tôi lại, và bởi vì quân phục của tôi không đủ, thiếu nón, nên muốn bắn tôi vì tôi là Hiwi. Chỉ nhờ một bác sỹ Nga có kiến thức mà tôi được cứu”. Một số đáng kể lính Hiwi trung thành với nước Đức cho đến phút cuối. Trong đống đổ nát của Stalingrad ngay trước giờ đầu hàng, nhiều người lính trong sư đoàn bộ binh 305 đang chết đói. Những tay Hiwi ở cùng với họ biến mất, họ cho rằng đó là lần sau cùng còn nhìn thấy chúng, nhưng rồi những người Nga đó quay lại với thức ăn cho họ. Những tay Hiwi đó tìm thấy thức ăn ở đâu, họ không nói. Tuy vậy, lòng trung thành đó không phải luôn luôn được đáp lại. Ngay trước lúc đầu hàng, một sỹ quan đã hỏi viên chuẩn úy: “Chúng ta nên làm gì với tám thằng Hiwi của mình nhỉ? Tôi có nên giết chúng không?”. Viên chuẩn úy giật mình trước kiểu máu lạnh đó, bác bỏ ngay ý kiến ấy. Anh bảo những tay Hiwi đó hãy tìm các trốn hoặc lẩn đi theo cách tốt nhất có thể. Họ tự lo cho mình.

              Số phận của quân Hiwi trong vòng vây lúc kết thúc trận chiến Stalingrad vẫn còn không rõ ràng, một phần bởi đến giờ hồ sơ của sư đoàn NKVD số 10 vẫn chưa được giải mật. Không có cách nào để biết bao nhiêu người đã chết trong mười tuần bị vây và trong ba tuần chiến đấu ác liệt sau cùng. Một số bị bắn khi bị bắt, một số ít khác được dùng làm thông ngôn hay chỉ điểm, rồi hầu hết chắc cũng bị giết sau đó, nhưng phần lớn bị NKVD giải đi. Ngay cả tình báo Hồng quân cũng không biết được về sau những người đó ra sao. Có thể họ bị tàn sát – có những nguồn tin sau này nói rằng những người Hiwi bị bắt đã bị đánh đến chết, thay vì bắn, vì để tiết kiệm đạn – nhưng vào đầu năm 1943 lúc đó nhà cầm quyền Liên Xô muốn tăng lực lượng lao động khổ sai, đặc biệt khi chuyển những tù nhân trại Gulag vào các đại đội trừng giới. Giải pháp bắt Hiwi lao động đến chết chắc chắn là một sự báo thù khắc nghiệt hơn vì nó kéo dài sự chịu đựng. Mặt khác, Stalin và Beria hẳn cũng ám ảnh bởi suy nghĩ rằng một cái chết tức thời cho bọn phản quốc thì thỏa mãn cho chúng quá.
                                                 
            Trong những ngày sau cùng của trận chiến, giới chức quân sự Liên Xô gia tăng cảnh giác nhằm ngăn ngừa những nhóm nhỏ thoát khỏi lưới của họ. Ba sỹ quan Đức trong quân phục Hồng quân, chỉ huy là một trung tá đã bị bắt vào ngày 27 tháng Giêng. Một trung úy Nga thuộc một trung đoàn xe tăng đã dồn được hai sỹ quan Đức khác, và đã bị thương do họ bắn trả. Ước lượng có chừng 9 hay 10 nhóm nhỏ quân Đức chọc thủng được vòng vây, nhưng không ai trong số họ được ghi nhận là thoát được, bởi lúc đó cụm Tập đoàn quân sông Don đã bị ép lùi về đến tận sông Donet, cách vòng vây 200 dặm. Tuy vậy, có một câu chuyện không được kiểm chứng và không đáng tin của một người lính kể lại, nhưng anh ta bị giết ngay ngày hôm sau bởi một quả bom rơi trúng bệnh viện dã chiến, nơi anh nằm điều trị vì kiệt sức và bỏng tuyết. Những người khác được nói là đã cố thoát về hướng Nam trong thảo nguyên và tìm nơi trú ẩn trong dân Kalmyk, vốn khá thân thiện, nhưng chính những người Kalmyk cũng như đa số các dân tộc khác ở các vùng phía nam Liên bang Sô viết, nhanh chóng nhận được sự trả đũa từ quân NKVD của Beria.

          Lính Nga ở tiền tuyến, đặc biệt là ở các sư đoàn Cận vệ, được nói là đối đãi nghiêm túc với kẻ bại trận hơn các đơn vị thuộc tuyến hai. Nhưng vài tay lính say, ăn mừng chiến thắng, đã bắn tù binh, dù cho mệnh lệnh là ngược lại. Ngay cả quân của các đơn vị tinh nhuệ cũng nhanh nhẹn lột đồng hồ, nhẫn, máy chụp hình cũng như cà men bằng nhôm có giá trị cao của quân đội Đức từ những người bị bắt. Đa số những thứ đồ đó được đổi lấy vodka. Trong vài trường hợp, một đôi ủng lông ngon lành bị tước khỏi tay một tù nhân sẽ được ném đổi lại bằng một đôi của Nga rách nát. Một bác sỹ bị mất một bảng sao có giá trị của cuốn Faust in trên giấy vỏ củ hành, bởi một tay lính Nga muốn cuốn một điếu makhorka. Chăn mền cũng bị nẫng, đôi khi chỉ vì thỏa mãn cho sự trả thù bởi quân Đức đã cướp quần áo ấm của thường dân Nga.

          Lúc những tù binh hốc hác nghiêng ngả đi ra từ hầm hào, tay họ giơ cao để đầu hàng, nhưng mắt láo liêng nhìn quanh tìm một khúc củi làm nạng chống. Nhiều trong số họ bị bỏng tuyết nặng và đi lại khó khăn. Hầu hết mọi người bị sứt móng chân, nếu không phải là mất cả ngón chân. Các sỹ quan Soviet nhận thấy lính Rumani còn ở trong tình trạng tệ hơn quân Đức. Hình như khẩu phần ăn của họ bị cắt sớm hơn nhằm duy trì sức lực cho quân Đức.

          Những người tù giữ mắt nhìn xuống, không dám liếc nhìn lính gác cũng như vòng người dân thường vây quanh, hiện lên từ đồng đổ nát với số lượng đáng ngạc nhiên. Đâu đó, những phát súng lẻ loi phá vỡ sự yên tĩnh của nơi từng là chiến trường. Đâu đó trong các boongke có tiếng kêu nghèn nghẹt. Không ai biết đó là tín hiệu báo cho biết đã kết liễu một người lính còn đang trốn, hay của một người đang tìm cách kháng cự nào đó, hoặc là một thương binh nặng đang nhận được cú coup de grace sau cùng.

         Tàn dư bại trận của Tập đoàn quân VI, không vũ khí, không nón trận, đội những chiếc mũ lông tùm hụp hoặc chỉ quấn giẻ quanh đầu để chống lạnh, run lẩy bẩy trong những chiếc áo bành tô mỏng cột chặt bằng dây điện thoại thay cho thắt lưng, bị dồn lại thành từng hàng dài để giải đi. Một nhóm người sống sót thuộc sư đoàn bộ binh 297 bị một sỹ quan Nga đe dọa, anh ta chỉ vào đống đổ nát chung quanh và hét lên với họ: “Rồi Berlin cũng sẽ như thế này đây!”.

         Thống chế Paulus, áp giải bởi trung úy Lev Bezyminsky thuộc quân báo Nga, được chở từ sở chỉ huy Tập đoàn quân 64 bởi chính xe của ông đến sở chỉ huy Phương diện quân sông Don nằm bên ngoài Zavarykino, cách Stalingrad chừng 50 dặm. Schmidt và Adam cũng được hộ tống đi sau trên một chiếc xe khác. Họ được chỉ cho thấy nơi ở của họ, một căn nhà izba-năm-bức-tường khác. Một phân đội lính gác thường trực dưới quyền trung úy C.M. Bogomolov đợi họ. Các “tướng Stalingrad” khác cũng được mang đến các izba khác gần kề, ở đó họ được canh phòng bởi một trung đội lính dưới quyền trung úy Spektor.

         Bogomolov và quân của anh, hăng hái bởi nhận thức được thời khắc lịch sử, nên tập trung vào công việc của họ với sự đam mê. Vì cao cho nên  Paulus phải cúi đầu thấp mới vào được. Và theo gương của Adam, ông cũng bỏ chiếc nón mềm và thay bằng một chiếc mũ lông ushanka. Ông vẫn còn mặc bộ quân phục cấp đại tướng. Theo sau Paulus là tướng Schmidt và đại tá A dam, người gây ấn tượng với các lính gác bởi “ra lệnh bằng tiếng Nga khá tốt”. Người lính lái xe của Paulus đi sau chót cùng các va li nặng nề. Chiếc xe Mercedes giờ được thông báo là dùng riêng cho tướng W.I. Kazakov, tư lệnh pháo binh Phương diện quân.

           Paulus và Schmidt chiếm buồng trong, trong khi Adam và người cận vệ lấy phòng ngoài. Họ ở cùng với hai điệp viên NKVD gửi bởi Beria từ Moscow. Tối muộn, tướng Malinin, tham mưu trưởng phương diện quân và đại tá Yakimovich, một sỹ quan tham mưu cao cấp, đến. Bezyminsky đóng vai trò phiên dịch, thông báo với Paulus và Schmidt rằng nhiệm vụ của họ là phải khám hành lý để tìm những “vật cấm”, bao gồm cả những đồ vật sắt bén bằng kim loại. Schmidt bùng lên. “Một thống chế Đức” ông hét “không thể tự tử bằng một chiếc kéo cắt móng!”. Còn Paulus, thì mệt mỏi, ra hiệu cho ông ta bằng một cái phẩy tay không làm phiền, và đưa ra bộ đồ cạo râu của mình.

           Ngay trước lúc nửa đêm, Paulus được bảo là chỉ huy Hồng quân đã đến và đợi để thẩm vấn ông. Trung úy Yevgeny Tarabrin, một sỹ quan NKVD nói được tiếng Đức, được đưa đến để hộ tống ông ta đi khắp mọi nơi, nghe Paulus thì thầm với Schmidt khi ông nọ giúp ông mặc áo bành tô:

          “Tôi nên nói gì nhỉ?”

           “Hãy nhớ anh là một Thống chế quân đội Đức”


           Schmidt nói rít lên. Ngạc nhiên hơn và có ý nghĩa nhất với những đôi tai tình báo Hồng quân, là việc các sỹ quan Nga báo rằng Schmidt đã dùng từ du một thể thức thân mật để nói với vị chỉ huy của mình (Winrich Behr, người hiểu rõ Schmidt, nghĩ rằng việc dùng từ du này với ý tôn trọng không chắc đúng dù anh tin rằng “rõ ràng là tướng Schmidt tạo được một ảnh hưởng mạnh với Paulus”).
Logged
huytop
Thành viên
*
Bài viết: 919


« Trả lời #86 vào lúc: 07 Tháng Tám, 2015, 05:50:49 pm »

           Chỉ nửa giờ trước khi cuộc thẩm vấn bắt đầu, đại úy Dyatlenko của NKVD nhận được lệnh đến trình diện ở izba của nguyên soái Voronov, ông ta vừa được thăng chức này. “Này đại úy” Voronov ân cần chào anh “Cậu hẳn còn nhớ cái lúc ông già này không muốn nhận cậu. Ừ, giờ thì ông ý phải tự đến thăm chúng ta. Và cậu sẽ nhận ông ý nhé”. Voronov ngồi vào bàn cùng với đại tướng Rokossosky, tư lệnh phương diện quân, và tướng K.F. Telegin, chính ủy phương diện quân.

           Một phóng viên ảnh xuất hiện trong chiếc áo khoát lông thú. Với sự ngạc nhiên của Dyatlenko, ông chào Voronov với vẻ bình thản thân thiết. Thì ra đây nhà làm phim tài liệu nổi tiếng Roman Karmen, ông là bạn bè của Voronov từ thời Nội chiến Tây Ban Nha. Karmen xếp đặt ghế sẽ dùng cho Paulus, nhằm có thể chụp tốt từ cửa phòng ngủ của Voronov. Ông biết kết quả của cú hình sẽ được dùng loan tin với thế giới về chiến thắng vĩ đại của Liên Xô (Bức ảnh của Karmen được chỉnh sửa ở Moscow. Tướng Telegin bị xóa khỏi bản in bởi Stalin cho rằng ông không đủ tầm quan trọng trong khoảng khắc lịch sử như thế (Ngay cả việc Dyatlenko thăng lên thiếu tá cũng được thúc nhanh để phát hành bức ảnh). Kiểu lộn xộn này là một trong những trò hề quái dị trong thời đại Stalin. Khi bức ảnh ra tới mặt trận trên tờ Pravda, thấy mặt mình biến mất, Telegin sợ rằng ai đó đã lên án ông. Tuy nhiên, không có gì xảy ra cả, nên ông ta nghĩ mình an toàn, nhưng rồi đến năm 1948, ông bị bắt đột ngột theo lệnh của Abakumov (trưởng ban SMERSH) mà không có lý do rõ ràng).

            Không khí trong căn nhà izba của Voronov căng lên khi vị “khách” của họ đến. Thống chế Paulus, gầy, cao, lom khom trong một nhân dạng xám xịt, từ bộ đồng phục màu “lông chuột” đến gương mặt xanh xám vì thần kinh căng thẳng. Tóc ông ngả sang màu muối tiêu, và ngay cả râu cũng lẫn lộn màu trắng và đen. Chỉ khi Paulus đến gần bàn, thì Voronov mới chỉ chiếc trống và nói: “Mời ngài ngồi”, ông nói bằng tiếng Nga. Dyatlenko đứng nghiêm và dịch lại. Paulus nắm tay chào và ngồi xuống. Khi đó Dyatlenko giới thiệu hai vị tư lệnh phía Sô viết: “Đại diện của Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh tối cao, Nguyên soái pháo binh Voronov! Tư lệnh phương diện quân sông Don, Đại tướng Rokosovsky!” Paulus giật chân và nắm tay chào theo hướng từng người.

            Voronov bắt đầu nói, ngừng mỗi khúc để Dyatlenko dịch. “Thưa Đại tướng, giờ đã khá trễ và chắc ngài cũng mệt. Chúng tôi cũng làm việc rất nhiều trong vài ngày qua. Đây là vì chúng ta sẽ thảo luận ngay bây giờ chỉ một vấn đề rất khẩn cấp”.“Tôi xin lỗi” Paulus cắt ngang, làm Dyatlenko chới với: “Nhưng tôi không còn là Đại tướng. Ngày hôm kia, sở chỉ huy của tôi đã nhận được một điện tín báo tin tôi đã được thăng chức Thống chế. Nó cũng được viết trong chứng thư quân nhân của tôi”. Ông sờ vào túi áo ngực của bộ quân phục “Tuy nhiên, trong hoàn cảnh này tôi không thể thay đổi quân phục”.

              Voronov và Rokossovsky trao nhau một cái nhìn châm biếm vui vẻ. Tướng Shumilov đã báo về sở chỉ huy Phương diện quân sông Don việc thăng chức trong phút chót của Paulus.“Vậy thì, thưa ngài thống chế!” Voronov quay lại “chúng tôi yêu cầu ngài ký một mệnh lệnh cho phần còn lại của Tập đoàn quân ngài vẫn đang còn kháng cự, bảo họ đầu hàng để tránh thiệt hại nhân mạng vô ích”.

           “Điều đó không xứng đáng với danh dự một người lính

          Paulus bung ra ngay trước khi Dyatlenko kết thúc phần dịch.

          “Có thể nói cứu mạng những người dưới quyền là hành vi không xứng đáng của một người lính trong khi chính người chỉ huy đầu hàng sao?
          Voronov hỏi:

         “Tôi không đầu hàng. Tôi bị bắt bất ngờ”.

         Câu trả lời ngờ nghệch này không tác dụng gì với các sỹ quan Nga, vốn biết rõ tình hình lúc đầu hàng.

         “Chúng ta đang nói về một hành động nhân đạo” Voronov tiếp tục:
         
           “Chúng tôi sẽ chỉ mất thêm một vài ngày hay thậm chí chỉ một vài giờ để tiêu diệt những gì còn lại của các đơn vị dưới quyền ngài vẫn đang chiến đấu. Kháng cự là vô ích. Nó chỉ gây ra cái chết vô nghĩa của hàng ngàn binh sỹ. Nghĩa vụ của ngài ở cương vị tư lệnh Tập đoàn quân là cứu mạng họ, và còn quan trọng hơn bởi ngài đã tự cứu mạng mình bằng cách đầu hàng”.

             Paulus, bồn chồn nghịch hộp thuốc là gạt tàn được đặt trên bàn cho ông dùng, né tránh câu trả lời bằng cách gắn vào một thể thức:

           “Ngay cả khi tôi ký vào mệnh lệnh, họ cũng sẽ bất tuân. Bởi khi tôi đầu hàng, thì tư lệnh của tôi cũng bị họ tự động bãi bỏ”.

          “Nhưng vài giờ trước ông còn là tư lệnh của họ”

         “Từ lúc quân của tôi bị chia làm hai nhóm
” Paulus khăng khăng:

         “Tôi chỉ còn là tư lệnh của túi kia trên lý thuyết. Lệnh được đưa trực tiếp từ đại bản doanh Quốc trưởng và mỗi nhóm được chỉ huy bởi một viên tướng khác nhau”.

           Cuộc thảo luận trở nên “xà quần”. Cái tật máy ở mặt khi lo lắng của Paulus trở nên nhiều hơn, cũng như Voronov, vốn biết Stalin đang chờ ở điện Kremlin để nghe kết quả, cũng bắt đầu cho thấy sự căng thẳng. Môi trên của ông giật giật, di chứng của một cú đụng xe ở Belorussia. Paulus, trong chiến thuật ngăn chặn của mình, còn tuyên bố rằng cho dù ông có ký vào giấy đi nữa thì nó cũng có thể bị xem là giả mạo. Voronv trả lời rằng, trong trường hợp đó, một trong những vị tướng dưới quyền của ông ta có thể mang ra làm nhân chứng cho chữ ký, và ông ta có thể được gửi vào túi phía bắc với giấy tờ đảm bảo tính xác thực. Nhưng Paulus, dù lý luận cùn, vẫn trung thành với việc từ chối ký. Sau cùng Voronov cũng phải chấp nhận rằng những nổ lực hơn nữa để thuyết phục ông ta là vô nghĩa.

          “Tôi phải thông báo với ngài rằng, thưa ngài Thống chế

          Dyatlenko dịch “vì ông từ chối cứu mạng sống cho thuộc hạ, ông sẽ phải chịu trách nhiệm nặng nề trước nhân dân và tương lai nước Đức

           Paulus nhìn vào bức tường, phiền muộn và im lặng. Trong “tư thế đau khổ” này, chỉ có tật máy mặt mới chỉ ra được suy nghĩ của ông.Sau đó Voronov đưa cuộc thẩm vấn trở nên thân thiện bằng cách hỏi Paulus rằng chỗ ở tạm thời có được vừa ý không và rằng ông có cần chế độ ăn đặc biệt nào phù hợp với bệnh tật của mình không. “Việc duy nhất tôi xin ở ngài” Paulus trả lời “là cho tù binh chiến tranh được ăn uống và được chăm sóc y tế”.Voronov giải thích rằng: “điều kiện ở mặt trận sẽ gây khó khăn cho việc tiếp nhận và đối phó với lượng tù binh lớn như vậy”, nhưng rằng họ sẽ làm tất cả những gì có thể. Paulus cảm ơn ông, đứng dậy, nắm tay chào lần nữa.

         Hitler nhận được tin lúc ở tại Hang sói, nơi được bảo vệ chặt chẽ sâu trong một khu rừng Đông Phổ, một kiến trúc mà tướng Jodl mô tả là nửa như tu viện, nửa như trại tập trung. Lúc đó, ông ta không đập bàn, mà chỉ im lặng nhìn vào đĩa súp.Tiếng nói cùng cơn giận của ông ta trở lại vào ngày hôm sau.

           Thống chế Keitel, tướng Jeschonnek, Jodl và Zeitzler được triệu tập đến dự cuộc họp trưa của Quốc trưởng. “Bọn chúng đã đầu hàng chính thức, vô điều kiện” Hitler nói trong sự giận dữ hoài nghi: “Thay vì tập hợp anh em, thiết lập cứ điểm phòng thủ con nhím, và dành cho nhau phát đạn sau cùng. Như các anh biết rằng một phụ nữ danh giá, sẽ tự khóa mình trong phòng và tự bắn vào đầu ngay khi nghe vài lời bình luận lăng nhục, nên tôi không thể đánh giá cao một người lính lại sợ làm điều đó và thích làm tù binh hơn”.

         “Tôi cũng chẳng hiểu được

         Zeitzler đáp lời, người mà cách thể hiện trong trường hợp này làm mọi người khác ngạc nhiên khi biết ông đảm bảo với Manstein rằng sẽ thuyết phục Quốc trưởng quan tâm đúng đắn đến Tập đoàn quân VI.

      “Tôi vẫn giữ quan điểm rằng điều này không đúng; có lẽ ông ta bị thương nặng”.
Logged
huytop
Thành viên
*
Bài viết: 919


« Trả lời #87 vào lúc: 07 Tháng Tám, 2015, 05:55:57 pm »

       Hitler cứ trở đi trở lại việc Paulus không chịu tự tử mãi.  Rõ ràng, điều này hoàn toàn làm hoen ố câu chuyện hoang đường Stalingrad trong tưởng tượng của ông ta.

      “Việc này làm tổn thương tôi ghê gớm bởi chủ nghĩa anh hùng của đại đa số binh sỹ bị vô hiệu bởi một kẻ yếu ớt tầm thường đơn lẻ … Cuộc sống là gì? Là quốc gia. Dù gì thì mỗi cá nhân cũng phải chết … Điều làm tôi đau lòng nhất, về mặt cá nhân, là tôi vẫn phong hắn ta làm thống chế. Tôi muốn cho hắn tâm nguyện sau cùng. Lý ra hắn có thể tự giải phóng mình khỏi mọi phiền não, vào cõi tiếng tăm muôn đời, bất diệt cùng đất nước, nhưng hắn thích đến Moscow hơn.

     Ở túi phía bắc, những gì còn lại của sáu sư đoàn dưới quyền tướng Strecker vẫn tiếp tục chống cự. Tại sở chỉ huy quân đoàn XI đặt ở khi xí nghiệp máy kéo Stalingrad, Strecker gửi điện về: “Các đơn vị đang chiến đấu mà không có hỏa lực mạnh yểm trợ và hậu cần. Quân lính gục ngã vì kiệt sức. Những người bị lạnh đến chết cóng vẫn không buông vũ khí. Strecker”.

          Thông điệp của ông mạnh mẽ, nhưng lộ rõ việc chống kiểu nói rập khuôn của Nazi. Hitler nhận được điện tín này sau buổi họp với Zeitzler, đã hồi đáp trong buổi chiều muộn “Tôi mong phía bắc Kessel sẽ đứng vững đến cùng”. Để nhấn mạnh tầm nhìn xa, Hitler ra một chỉ thị của Quốc trưởng sau đó một chút: “Quân đoàn lục quân XI phải kháng cự cho đến cùng để trói càng nhiều lực lượng địch càng tốt, tạo điều kiện cho các chiến dịch ở những mặt trận khác”.

        Bốn Tập đoàn quân Liên Xô được tái bố trí để nhanh chóng xuyên thủng túi sau cùng. Với sự tập trung của 300 đại bác trên chừng nửa dặm, quận nhà máy bị đập nát ra từng mảnh một lần nữa. Những boongke nào còn lại cũng bị phá hủy trong tầm ngắn, một số bởi đại bác, một số bởi súng phun lửa và đôi khi là xe tăng lái thẳng lên và đưa nòng súng vào lỗ châu mai.Strecker tin rằng, hoàn toàn để giúp Manstein, có lý do về mặt quân sự để tiếp tục chiến đấu, nhưng ông cương quyết từ chối bất kỳ ý tưởng về sự tự sát nào cho mục tiêu tuyên truyền. Trong đầu ông, rõ ràng xác định đúng trách nhiệm của một sỹ quan, như đoạn hội thoại với một quản trị trưởng trung đoàn ngay trước giây phút sau cùng cho thấy:

           “Khi đến lúc đó”

            Viên quản trị trưởng đoan chắc với ông “chúng tôi sẽ tự sát”

           “Tự sát?” Strecker la lên.

          “Vâng, thưa tướng quân! Đại tá của tôi cũng sẽ tự bắn mình. Ông tin là chúng tôi không nên để bị bắt”

          “Này, để tôi nói với anh vài thứ. Anh sẽ không tự sát, cả đại tá của anh cũng thế. Anh sẽ đi vào tù cũng với quân của anh và sẽ làm mọi thứ có thể để đưa ra gương tốt”

         “Ý ngài là…”
mắt viên sỹ quan trẻ sáng lên “tôi không phải tự sát”.

              Strecker dùng gần như cả đêm mồng 1 tháng Hai ở sở chỉ huy trung đoàn của một người bạn cũ, đại tá Julius Muller. Chỉ một ngọn đèn cầy thắp sáng trong góc hầm trong lúc một nhóm nhỏ hiện diện nói với nhau về trận đánh vừa qua, về những người bạn cũ và về về cuộc sống trong tù phía trước. “Không ai phàn nề về những gì trải qua” Strecker ghi nhận “không ai nói với vẻ cay đắng”. Đầu giờ sáng, Strecker đứng dậy “Muller, tớ đi đây” ông nói “Cậu và quân của cậu sẽ ở cùng với Chúa”. Strecker rất đồng tình với miêu tả của Thomas Carlyle về Đức Chúa là “Vị thống chế đúng nghĩa”. Rõ ràng, hình ảnh thiên đường của ông là một nơi có mệnh lệnh quân sự hoàn hảo.“Chúng tôi sẽ hoàn thành nhiệm vụ của mình, thưa tướng quân” Muller trả lời lúc họ siết tay nhau.

           Strecker đã từ chối các yêu cầu được đầu hàng từ các sư đoàn trưởng thuộc quyền, nhưng rồi lúc 4h sáng ngày 2 tháng Hai, tướng von Lenski và Lattmann yêu cầu Strecker một lần nữa cho việc đó. Strecker lần nữa, lại từ chối. Lúc đó Lenski bảo rằng một sỹ quan của ông đã điều đình điều kiện với phía Nga. Strecker thấy không có gì để tiếp tục. Ông và Groscurth thảo bức điện cuối cùng: “Quân đoàn Lục quân XI với sáu sư đoàn thuộc quyền đã thực hiện nhiệm vụ cho đến người cuối cùng trong các trận chiến nặng nề. Nước Đức muôn năm!”.

           Bức điện này đã được cụm tập đoàn quân sông Đon nhận. Sau này Strecker khẳng định rằng ông và Groscurth đã cố ý bỏ qua bất kỳ sự tung hô Hitler nào, nhưng phiên bản ghi nhận và gửi về Đông Phổ kết thúc bằng câu “Quốc trưởng muôn năm!”. Mọi người phải hiểu rằng đó là mưu mẹo để bức điện được dễ chấp nhận hơn ở Hang sói.

          Khi hai người lính Nga xuất hiện trông khá lưỡng lự ở cửa vào boongke chỉ huy, Groscurth hét to với họ để đem một vị tướng về. Strecker sau này viết rằng phần lớn lính của họ “chỉ vừa đủ chưa chết”.

          Các phóng viên ngoại quốc được dạo một vòng quanh quận nhà máy vài ngày sau đó. Thông tín viên Anh quốc, Alexander Werth viết “Địa hình nguyên thủy của vùng đất này thế nào không ai có thể nói. Bạn lượn lên và xuống, rồi lại lên và xuống; đó là những con dốc tự nhiên hay là bề mặt của một tá hố bom chồng lên nhau; không ai biết được. Giao thông hào chạy xuyên qua các phân xưởng của nhà máy, xuyên qua các xí nghiệp; ở đáy chiến hào vẫn còn nằm đó xác quân Đức đông cứng màu xanh, xác quân Nga đông cứng màu xám, những mảnh xác người đông cứng; nón trận bằng thiếc của Đức, của Nga nằm lăn lóc cùng gạch vỡ; những chiếc nón đó nửa vùi trong tuyết. Ở đây có cả dây thép gai, có mìn nửa lộ thiên, khay đạn pháo, nhiều vụn vữa, và mảnh tường, cùng những mớ ngoằng nghèo hỗn độn rầm thiếc han rỉ. Làm thế nào mà người ta có thể sống ở đó, thật khó tưởng tượng”.

           Sáng ngày 2 tháng Hai bắt đầu bằng sương mù dày đặc, nhưng sau đó bị ánh mặt trời xua tan và gió làm tung lên những đám bụi tuyết. Lúc tin về đợt đầu hàng cuối cùng lan khắp tập đoàn quân 62, pháo sáng được bắn lên đầy bầu trời trong một cuộc trình diễn ứng tác. Thủy thủ thuộc giang đoàn Volga cùng lính bên bờ trái chạy ù sang trên lớp băng, tay mang theo bánh mì, gà mèn thức ăn cho những thường dân bị khốn trong hầm, trong hố gần 5 tháng qua.

          Từng nhóm, từng người đi đến ôm nhau trong niềm vui sướng. Âm thanh dịu bớt đi trong không khí lạnh. Không thiếu bóng người trong cái khung cảnh không màu của đống đổ nát, nơi thành phố tưởng chừng như đã bị bỏ hoang và chết chóc. Kết cục đột ngột, bất ngờ nên những người bảo vệ thấy khó tin nổi rằng trận chiến Stalingrad cuối cùng cũng đã kết thúc. Khi họ nghĩ về điều đó, nhớ về những người ngã xuống, việc họ sống sót làm họ kinh ngạc. Trong từng sư đoàn được gửi qua sông Volga, còn không hơn một vài trăm người sống sót. Tính toàn thể trận chiến Stalingrad, phía Hồng quân có đến 1,1 triệu thương vong, trong đó 485,751 người hi sinh.

          Grossman nhìn lại năm tháng qua: “Tôi nhớ về con đường rộng, bẩn thỉu dẫn đến ngôi làng đánh cá bên bờ sông Volga – con đường của vinh quang và cái chết – và những hàng quân im lặng hành quân dọc trên đó trong đám bụi ngột ngạt của tháng Tám, trong đêm trăng tháng 9, trong những cơn mưa sũng nước tháng Mười và tuyết tháng Mười một. Họ hành quân với bước chân nặng nề - pháo thủ chống tăng, xạ thủ đại liên, ngay cả bộ binh – họ hành quân với sự im lặng dữ dội, trang nghiêm. Tiếng động duy nhất từ các hàng quân là tiếng va lanh canh của vũ khí và nhịp bước chân đi".

           Chẳng còn mấy đặc điểm nhận biết của thành phố có trước những đợt ném bom của Richthofen vào một trưa tháng 8 ấy. Stalingrad giờ còn nhỏ hơn cả một bộ xương cháy xém, mòn vẹt. Mốc duy nhất còn lại là một đài phun nước với tượng các cô bé, cậu bé đang nhảy quanh. Điều này như là phép mầu đáng ngại sau khi có quá nhiều nghìn trẻ em đã chết trong đám đổ nát chung quanh.
Logged
huytop
Thành viên
*
Bài viết: 919


« Trả lời #88 vào lúc: 07 Tháng Tám, 2015, 07:57:59 pm »

                                                                                       XXIII


                                                                          ĐỪNG NHẢY NỮA ! STALINGRAD ĐỔ RỒI

 

           Trưa ngày 2 tháng Hai, một phi cơ trinh sát quần vòng trên thành phố. Thông điệp vô tuyến từ viên phi công được gửi ngay tức khắc cho thống chế Milch: “Không còn dấu hiệu chiến đấu ở Stalingrad”.

           Sau lần thẩm vấn đầu tiên của Voronov và Rokosovsky với Paulus, đại úy Dyatlenko quay lại làm việc với các viên tướng khác. Ngược với mong đợi của anh, họ phản ứng theo nhiều cách khác nhau. Tướng Schlomer, người lãnh quyền chỉ huy quân đoàn xe tăng XIV thay tướng Hube, khập khiễng đến dựa trên một cây gậy và khoát một chiếc áo jacket độn bông của Hồng quân. Ông chinh phục người thẩm vấn bằng sức mê hoặc dễ dàng và lời bình luận về “tên hạ sỹ thất học trong các vấn đề quân sự” và “bọn hám lợi ngu đần trong các tùy tòng của hắn ta”. Tướng Walther von Seydlitz, mặt khác, người mà NKVD “sau này nhận ra là một người phòng thủ bất tuân lệnh Quốc trưởng có năng lực nhất trong Suốt thời kỳ bị vây”, ông cư xử “theo một cách rất kín đáo”.

          Với Stalin, 91 nghìn tù binh, trong đó có 22 viên tướng Đức là chiến tích tốt hơn nhiều so với cờ hay vũ khí hạng nặng. Paulus, vẫn trong tình trạng bị sốc, trước tiên từ chối xuất hiện trước cánh báo chí gửi từ Moscow xuống. Nhưng đại tá Yakimovich của phương diện quân Sông Don bẻ lại “Chúng tôi có luật lệ riêng. Ông phải làm những gì được bảo”. Tuy vậy, một sự dàn xếp đã được chấp nhận. Rằng Paulus không phải trả lời câu hỏi từ các phóng viên, ông chỉ phải chường mặt ra để chứng minh rằng ông đã không tự sát.

           Các thông tín viên ngoại quốc khá ngạc nhiên trước sự xuất hiện của các tướng Đức “Họ trông có vẻ khỏe mạnh, ngay cả khó thở cũng không” Alexander Werth viết “Rõ ràng, trong sự kiện bi thảm Stalingrad, khi những người lính chết đói, thì họ vẫn liên tục được ăn uống ít, nhiều như bình thường. Người duy nhất có vẻ mặt kém chính là Paulus. Ông trông nhợt nhạt và bệnh hoạn, và má trái bồn chồn co giật”.

           Những cố gắng đặt câu hỏi không thành công mấy. “Trông như ở sở thú vậy” Werth viết “ở đó những con thú được đưa ra trình diễn cho công chúng và những con khác hờn dỗi”. Tướng Deboi rõ ràng rất hài lòng, và ngay lập tức bảo với phóng viên nước ngoài - “như thể bảo chúng tôi đừng sợ” – rằng ông ta là người Áo. Tướng Schlomer là người thư thái nhất. Ông quay sang một trong những người bắt giữ và vỗ lên cầu vai mới của viên sỹ quan, thiết kế này mới được Stalin đưa ra, la lên với vẻ mặt ngạc nhiên kiểu hoạt hình: “Gì vậy – kiểu mới à?”. Còn tướng von Arnim thì lại bận tâm nhất về hành lý của mình, thứ mà ông nghĩ rằng lính Hồng quân đã thó. “Các sỹ quan thì cư xử đứng đắn”, ông tuyên bố, nhưng lính thì ông mô tả là “những tên cướp trơ trẽn”.

          Sự căng thẳng của việc bị bắt cũng gây ra những hành vi không đường bệ trong hai căn nhà nông dân ở Zavarykino. Vào một buổi sáng Adam khiêu kích có chủ đích thượng úy Bogomolov bằng kiểu chào Quốc xã và “Heil Hitler”. Tuy vậy, tướng Schmidt mới là người mà phía Nga không thích nhất. Bogomolov bắt ông ta phải xin lỗi người nữ cấp dưỡng bị ông ta làm cho khóc khi phục vụ bữa trưa cho họ. Vài ngày sau, có một vấn đề trong ngôi nhà izba dành cho các vị tướng còn lại. Trung úy Spektor của đội bảo vệ số 2 gọi phôn cho Bogomolov, xin anh đến nhanh chóng. Có một trận đánh lộn. Bogomolov viết “Khi tôi mở cửa ra, tôi thấy một viên tướng Đức đang túm chặt tay một viên tướng Rumani. Khi viên tướng Đức trông thấy tôi, ông ta bỏ đi, và rồi viên tướng Rumani đấm ông ngay vào miệng. Hóa ra trận cãi nhau ấy là về những thìa, dĩa, và dao của tay tướng  Rumani, mà ông ta tuyên bố rằng tay tướng Đức ráng lấy đi”. Bogomolov, khinh bỉnh hoài nghi, mỉa mai cảnh báo trung úy Spektor “nếu ông ta vẫn tiếp tục có những hành vi như vậy, cứ tịch thu thìa”.

         Sự kình địch và ghét nhau ngấm ngầm giữa các viên tướng giờ công khai ra. Tướng Heitz và tướng Seydlitz ghét nhau càng nhiều hơn sau việc Seydlitz cho các sư đoàn trưởng thuộc quyền được tự quyết về việc đầu hàng. Còn Heitz, đã lệnh cho binh sỹ của mình chiến đấu “cho đến viên đạn cuối cùng”, lại tự đầu hàng, và sau đó chấp nhận ăn tối với tướng Schumilov ở sở chỉ huy tập đoàn quân 64. Ông ta cũng ở đó cả đêm. Rốt cuộc, khi ông nhập bọn với những viên tướng bị bắt khác ở Zavarykino, đã có phản ứng bởi ông ta tới với vài chiếc valy được đóng cẩn thận sẵn cho việc ở tù. Khi thẳng thắn hỏi về lệnh chiến đấu đến cùng của mình, ông ta trả lời rằng cũng đã muốn tự sát, nhưng bị tham mưu trưởng của ông ngăn lại.

        Với Wehrmacht, đây là lúc để tính toán thiệt hại, Đội đặc nhiệm của thống chế Milch ước tính rằng họ mất 488 phi cơ vận tải và 1000 thành viên phi hành đoàn trong cả chiến dịch không vận. Sư đoàn Cao xạ số 9 bị tiêu diệt, cùng với các đội mặt đất khác, không thấy có nói gì về thiệt hại của Không đoàn 4 với lượng máy bay ném bom, tiêm kích và Stukas trong chiến dịch.

         Lượng thiệt hại về phía Lục quân hiện vẫn không chắc chắn, nhưng rõ ràng trận Stalingrad là thất bại thảm khốc nhất cho tới giờ trong lịch sử nước Đức. Tập đoàn quân VI và Tập đoàn quân xe tăng IV trên thực tế là bị xóa sổ. Chỉ tính riêng trong vòng vây, có tới chừng 60.000 người đã bị giết kể từ khi chiến dịch Uranus mở màng và chừng 130.000 người bị bắt. (Sự lộn xộn, một lần xuất hiện chủ yếu là do con số thống kê lượng người Nga trong quân phục Đức). Con số này là chưa kể tới những thiệt hại quanh Stalingrad từ giữa tháng Tám đến tháng Mười một, cả bốn Tập đoàn quân đồng minh bị tiêu diệt, và lực lượng giải cứu bị đánh bại của Manstein cùng thiệt hại gây ra bởi chiến dịch Sao Thổ nhỏ. Tính gộp chung, phe Trục phải mất hơn nửa triệu người.

         Việc đưa cái thảm họa này ra cho công chúng Đức là một thách thức mà Goebbels phải làm nổi lên năng lực cuồng tín, sử dụng tất cả tài năng của ông cho việc bóp méo sự thật một cách không biết xấu hổ. Nhà cầm quyền không hề công nhận Tập đoàn quân VI bị vây cho đến tận ngày 16 tháng Giêng, khi nói rằng “quân ta vài tuần nay đã chiến đấu anh dùng trước những trận công kích của quân thù từ mọi hướng”. Và giờ, chọn hướng đối ngược, tuyên bố rằng không còn một ai sống sót.

           Goebbels vận động các đài phát thanh vào báo chí cùng hành động vì quốc gia trong nỗi thương đau thượng võ. Ông hướng dẫn các báo cách viết miêu tả về bi kịch đã đổ ra. Họ phải nhớ rằng mỗi từ viết về trận chiến xúc động này sẽ được đi vào lịch sử. Báo chí phải dùng từ Bolsevik chứ không được dùng từ người Nga. “Cả bộ máy tuyên truyền của Đức phải tạo ra một huyền thoại về chủ nghĩa anh hùng ở Stalingrad và nó sẽ chiếm một vị trí cao quí nhất trong lịch sử nước Đức”. Riêng thông cáo quân đội, phải diễn đạt theo cách “hướng đến những thế kỷ sau”. Nó phải ngang bằng với bài diễn văn của Ceasar trước quân của ông, với lời yêu cầu của Frederick Đại đế đến các vị tướng trước trận Leuthen, và với lời kêu gọi của Napoleon trước lính cận vệ hoàng gia của mình.

         Thông cáo được phát ra như một tuyên bố đặc biệt trên sóng phát thanh hai mươi bốn giờ sau khi Strecker đầu hàng. ”Tổng hành dinh quốc trưởng, ngày 3 tháng 2 năm 1943. Bộ tổng tư lệnh tối cao Lục quân thông báo rằng trận Stalingrad đã kết thúc. Làm đúng lời thề của mình trước đất nước, cả Tập đoàn quân VI dưới sự lãnh đạo mẫu mực của thống chế Paulus đã ngã xuống trước quân địch đông vượt xa về số lượng…. Nhưng sự hi sinh của Tập đoàn quân VI sẽ không bị lãng phí. Là bức tường bảo vệ cho sứ mệnh lịch sử của chúng ta với Châu Âu, họ đã không đầu hàng trước sự tấn công của sáu Tập đoàn quân Soviet…. Họ đã hy sinh để nước Đức được sống”. Lời nói dối của nhà cầm quyền đã phản tác dụng, đặc biệt là với thông tin rằng mọi thành viên thuộc Tập đoàn quân VI đều đã chết cả. Không thông báo nào về 91000 tù binh mà phía chính quyền Liên Xô đã công bố, mà tin này cũng nhanh chóng lan ra khắp thế giới. Chắc chẳn, có nhiều người hơn bình thường chuyển sang nghe đài ngoại quốc.Lệnh ban hành một kỳ quốc tang kéo dài ba ngày, các địa điểm vui chơi giải trí phải đóng cửa, tất cả các đài phát thanh cử các bài nhạc trang nghiêm, tuy nhiên báo chí bị cấm viền trang màu đen và không treo cờ rủ.

          Ban An ninh SS không lường hết được ảnh hưởng lên tinh thần dân chúng. Họ cũng biết thư từ vòng vây đã mô tả những nổi kinh hoàng và cực nhọc, về cơ bản là mâu thuẫn với cái nói khoa trương của nhà cầm quyền về thảm họa. Một người báo cáo “Những lá thư vĩnh biệt của các chiến sỹ Stalingrad đã gieo rắc  nỗi buồn to lớn không chỉ với gia đình, họ hàng mà cả trong một cộng đồng dân cư rộng, ảnh hưởng nhiều như vậy là do những lá thư đó được chuyển quanh nhanh chóng. Tình cảnh của những tuần chiến đấu sau cùng được mô tả (trong thư) ám ảnh gia đình, họ hàng cả ngày lẫn đêm”. Sự thật là Goebbel đã dự đoán được việc đó từ khá sớm, và đã quyết định ngăn chặn bưu thiếp gửi từ những người đã bị bắt làm tù binh. Trong nhật ký, ngày 17 tháng Chạp, ông viết: “Trong tương lai, thiệp gửi bà con họ hàng sẽ không được phát nữa, vì nó cung cấp phương tiện xâm nhập nước Đức cho tuyên truyền Bolsevik”.
Logged
huytop
Thành viên
*
Bài viết: 919


« Trả lời #89 vào lúc: 27 Tháng Chín, 2015, 06:05:29 pm »

          Nhưng những cố gắng của phía Liên Xô cho thấy phải rất mạnh mẽ để ngăn chặn. Các trại tù binh của NKVD cung cấp bưu thiếp, nhưng vì nhà cầm quyền Đức không cho phép chúng vào, nên các nội dung trên đó được sao chép và in ra ở dạng nhỏ hơn, nhiều dòng trên chỉ một tờ giấy, và thả chúng ngay trên các tuyến quân Đức như là truyền đơn. Khi đã thả được, nhiều lính Đức ở tiền tuyến nhặt lên, dù có thể bị phạt nặng, rồi gửi thư khuyết danh đến những địa chỉ có trong danh sách nhằm báo rằng người nhà của họ còn sống. Họ ký tên bên dưới là “một người đồng bào” hay chỉ là “XXX”. Đôi khi, trong sự sợ hãi nhà cầm quyền, các gia đình còn nhận được cả bản sao của truyền đơn Liên Xô và liên lạc với người khác cùng cảnh ngộ.

          Bản thân Paulus dường như phán đoán được trước khi đầu hàng rằng hệ thống cai trị có thể sẽ cố chuyển thảm họa Stalingrad thành một thứ huyền thoại về việc bị-đâm-sau-lưng mới (Khó có thể nói điều này thúc đẩy ông từ chối các điều kiện đầu hàng đưa ra vào ngày 9 tháng Giêng hay không). Tuy vậy, ở thời điểm này, kẻ giơ đầu chịu báng cho việc thất bại không phải những người Cộng sản hay Do thái như năm 1918, mà là Bộ tổng tham mưu và giới quí tộc, vốn vẫn gần gũi trong suy nghĩ nhân dân.

          Những ai bước vào tuyến lửa với sự nghi hoặc về một cơn bão phía trước.Otto, Furst von Bismark, đặc sứ Đức tại Rome, trốn đi nghỉ mát cùng vợ vào lúc cuối tháng Giêng, nhằm tránh những cuộc ăn mừng chính thức nhân ngày kỷ niệm chế độ Quốc xã lần thứ mười. Cũng như các nhà ngoại giao Đức ở xa Berlin, ông ta không biết nhiều về những điều khủng khiếp của thất bại ở Stalingrad. Đêm 31 tháng Giêng, họ ở khách sạn Palace tại St Moritz thì một cú phôn khẩn từ đại sứ Đức ở Berne được nối máy. Viên đại sứ cảnh báo “Đừng nhảy nhót nữa! Stalingrad đổ rồi”. Họ đều biết St Moritz là nơi nghỉ dưỡng ưu thích của các sỹ quan SS cao cấp. Không cần phải nói thêm gì nữa.

         Đường lối của Bộ tuyên truyền về tướng lĩnh và binh sỹ cùng chiến đấu vai kề vai thay đổi nhanh chóng. Ngày 18 tháng Hai, Goebbels tổ chức một cuộc tập hợp lớn ở sân vận động Berlin, với khẩu hiệu: “Chiến tranh tổng lực – Cuộc chiến ngắn nhất!”. Một băng rôn vĩ đại mang lời kêu gọi nối tiếng từ năm 1812: “Cuộc chiến của chúng ta - Hãy hét: Nhân dân cùng đứng dậy, xông lên thoát khỏi kiềm tỏa”. Bối cảnh lịch sử rất khác nên điều này hoàn toàn không thích hợp trừ những ủng hộ viên tận tụy nhất của chế độ.Từ trên bục, Goebbels gào lên “Các bạn có muốn một cuộc chiến tổng lực không?”. Thính giả của ông tru lên trả lời. “Các bạn có quyết tâm đi theo Quốc trưởng và chiến đấu để chiến thắng với bất kỳ giá nào không?”. Một lần nữa đám đông trung thành lại rú lên.

       Trong những tuần sau sự kiện Stalingrad, Goebbel lên một chương trình nghị sự. Ông yêu cầu kết thúc biện pháp thỏa hiệp, với sự tổng động viên, nhưng chủ nghĩa hình thức hầu như quan trọng hơn với các biện pháp hấp tấp. Lớp đồng phủ lên cổng Brandenburg bị gỡ ra phục vụ cho công nghiệp chiến tranh. Các sự kiện thể thao chuyên nghiệp bị cấm. Các cửa hàng xa xỉ phẩm, kể cả kim hoàn, bị đóng cửa. Tất cả các tạp chí thời trang bị đình bản. Goebbels còn tổ chức cả một chiến dịch chống thời trang, với ý niệm rằng phụ nữ không cần làm đẹp, bởi họ muốn “những người lính chiến thắng trở về”.

       Có tin đồn lan truyền rằng ngay cả uống tóc cũng sẽ bị cấm. Hitler, người cuồng nhiệt tin rằng thiên chức của phụ nữ là để làm đẹp, phản đối điều này, và Goebbel buộc phải thông báo rằng: “phụ nữ không nhất thiết phải làm mình xấu xí”. Việc trao đổi hàng-hàng, dấu hiệu đầu tiên của một nền kinh tế thời chiến, lan truyền nhanh chóng. Ví dụ như, bàn chải cọ sàn nhanh chóng được đổi với vé xem hòa nhạc Furtwangler.Hộp đêm và các nhà hàng sang trọng, như là Hotcher, Quartier Latin, Neva Grill, Peltzers Atelier và Tuskulim ở Kurfurstendamm bị đóng cửa. Khi mở cửa lại, khách hàng được khuyến khích tự giới hạn mình ở những món Feldkuchengerichte – “các món ăn ở bếp dã chiến” – để thể hiện tình đoàn kết với binh sỹ ở nước Nga, rất có khả năng là ý tưởng lấy cảm hứng từ việc chống béo phì của Zeitzler. Tuy nhiên, Goering đã sắp đặt để Horcher, nhà hàng ưa thích của ông ta được mở cửa lại với danh nghĩa Câu lạc bộ sỹ quan Không quân.

      Thông điệp nửa kín nửa hở rằng tầng lớp sỹ quan cao cấp, tham nhũng phản bội lý tưởng Quốc xã được lan truyền theo nhiều cách. Và không lâu sau đó, thành viên các gia đình hoàng gia Đức bị yêu cầu từ chức ở mọi chức vụ. Ngay cả việc cưỡi ngựa trong vườn Tiergarten cũng bị cấm.

        Ngày càng nhiều khẩu hiệu tuyên truyền của Quốc xã xuất hiện trên các bức tường, nhưng người dân Berlin yếm thế thích nhất là bức graffiti: “Thích chiến tranh thì hòa bình sẽ tệ hơn”. “Kiên trì” là từ được dùng nhiều nhất trong bộ từ vựng tuyên truyền. Nỗi lo sợ cho tương lai lớn dần, trên tất cả là quyết tâm trả thù hung bạo của nước Nga. Một chủ quán trọ ở Rừng Đen, nguyên là lính mặt trận phía Đông nói với Christabel Bielenberg rằng “Nếu chúng ta chỉ phải trả một phần tư những gì chúng ta đang làm ở Nga và Balan, Frau Doktor, thì chúng ta phải chịu đựng và chúng ta đáng phải chịu”.

        Những người Đức không thích Quốc xã, chỉ nhận ra nghịch lý kỳ cục khi quá rõ ràng. Cuộc xâm lược Liên Xô làm người Nga bảo vệ chủ nghĩa Stalinít. Giờ mối đe dọa bại trận buộc người Đức bảo vệ chế độ của Hitler và sai phạm rùng rợn của nó. Sự khác biệt ở đây, là người Nga có một lãnh thổ rộng lớn để lùi, trong khi nước Đức phải đối diện với chiến tranh ở cả hai mặt trận, với những trận ném bom rải thảm và cấm vận. Để làm mọi thứ tệ hơi, Roosevelt và Churchill, tại Casabalanca đã tuyên bố ý định của họ về việc chiến đấu cho đến khi phe Trục đầu hàng vô điều kiện. Điều này làm cho cánh tay của Goebbels thêm dài vô tận.

        Về phía những người chống đối, với hàng đống lý do từ do dự và bất đồng đến chuyển hướng thiếu may mắn, đã không xoay sở hành động đúng lúc. Quá trễ để thuyết phục phía Đồng Minh rằng có nhiều khả năng dân chủ trong chế độ Nazi cũng như sự chống đối táo bạo của các tướng lĩnh sợ thất bại. Các thành viên chống đối, dù biết rõ điều này, nhưng vẫn nuôi hi vọng rằng Stalingrad ít nhất cũng sẽ cung cấp ngòi nổ cho một cuộc nổi dậy, nhưng không một viên tư lệnh quân đội nào sẵn sàng chuyển động. Những người cấp bậc kém hơn, nhưng quyết tâm cao hơn, những sỹ quan sẵn sàng chấp nhận nguy cơ cao, nếu cần thì hi sinh tính mạng cho nỗ lực, nhưng Hitler, dường như có được chiếc mũi rất thính với mối nguy hiểm, được bảo vệ rất tốt và thường thay đổi kế hoạch vào phút chót.
       
        Dấu hiệu bất mãn công khai duy nhất sau sự sụp đổ ở Stalingrad đến từ một nhóm nhỏ sinh viên Munich, được biết dưới cái tên Hoa Hồng Trắng. Ý tưởng của họ phát tán đến các sinh viên khác ở Hamburg, Berlin, Stuttgart và Viên. Ngày 18 tháng Hai, sau một chiếc dịch phát truyền đơn và kẻ biểu ngữ trên tường kêu gọi lật đổ chủ nghĩa Quốc xã, Sophie Scholl và em trai cô, Hans, bị bắt sau khi rải truyền đơn ở trường đại học Ludwig-Maximilian ở Munich. Bị Gestapo tra tấn và sau đó bị xử án tử hình bởi Roland Freisler ở phiên đặc biệt tại Tòa án Nhân dân Munich, cả hai chị em bị treo cổ. Một số thành viên khác, bao gồm cả giáo sư Triết học, Kurt Huber, cũng chịu số phận tương tự.

       Rất nhanh sau lượt đầu hàng cuối cùng ở Stalingrad, Hitler gặp thống chế Von Manstein,  sỹ quan cao cấp đầu tiên đứng ngoài vòng thân cận của ông ta. Manstein thảo ra các biện pháp ông buộc phải làm để tránh sự sụp đổ toàn diện ở phía nam nước Nga. Hitler muốn ra lệnh ông này không được rút lui thêm nữa, nhưng Manstein hiểu rằng, trong điều kiện hiện nay, ông có thể đặt ra giới hạn. Trong suốt buổi thảo luận, Hitler bảo rằng ông ta sẽ chịu trách nhiệm một mình về sự kiện Stalingrad, rồi lập tức tránh né sự thú tội của mình bằng cách nói thêm rằng ông sẽ qui một số trách nhiệm lên Goering; nhưng kể từ khi ông ta chỉ định viên Thống chế Đế chế ấy vào vị trí kế nhiệm, ông không thể đổ trách nhiệm vụ Stalingrad cho ông ấy. (Ông ta) cũng không nhắc chút nào đến sách lược rối như canh hẹ của mình cũng như những nỗ lực thu tóm quyền điều khiển các chiến dịch từ xa. Hitler vẫn dành cho Paulus sự buộc tội cao nhất. Ông bảo với Goebbels rằng sau chiến tranh, sẽ đưa Paulus và các tướng lĩnh thuộc quyền ra tòa án binh vì đã không tuân theo lệnh dứt khoát của ông ta, chống cự cho đến viên đạn sau cùng.

         Lúc này Hitler hiếm khi đứng trước bàn, như thói quen của mình. Ông cũng thích ngồi ăn một mình hơn. Tướng Guderian nhận thấy ông ta thay đổi nhiều: “Tay trái ông run rẩy, lưng còng, cái nhìn chằm chằm, mắt lồi ra nhưng thiếu vẻ tinh anh trước kia, gò má thì nổi lấm tấm đốm đỏ”. Nhưng khi Hitler gặp Milch, ông ta lại cho thấy không có hối tiếc chút gì với sự thiệt hại nhân mạng to lớn ở Stalingrad. Ông có thể chỉ nghĩ đến việc vươn lên lần nữa cho dù phải mất nhiều người hơn. “Chúng ta sẽ kết thúc chiến tranh trong năm nay” ông ta nói với Milch “Do đó tôi quyết định tổng động viên tất cả sức mạnh của người dân Đức”.

         Ở Nga, sự hả hê dữ dội với chiến thắng bùng ra một cách tự phát cũng như có xếp đặt. Chuông điện Kremlim gõ vang báo tin Paulus đầu hàng. Những bài nhạc Nga hùng dũng được phát trên sóng vô tuyến và thông cáo được truyền đi khắp mặt trận trên từng tờ báo. Họ tán dương “bài học lịch sử nghiêm khắc” đã dạy cho “bọn tướng lĩnh phiêu lưu Đức” bởi những Hannibal của Hồng quân trong cuộc chiến Cannae hiện đại. Stalin được mô tả như là nhà lãnh đạo khôn khéo và kiến trúc sư vĩ đại của chiến thắng.

         Nhuệ khí ở Liên Xô lên cao thật sự. Ở khắp mọi nơi, người ta hỏi nhau về tin tức sau cùng của trận chiến bên bờ sông Volga. Khi chiến thắng của trận đánh kinh hoàng đó đến, họ bảo nhau: “Không thể ngăn chặn nổi một quân đội đã làm được những điều ở Stalingrad”. Họ cũng đùa với nhau trong niềm vui thú về sự trả giá của kẻ thù bị bại trận. “Tôi tò mò không biết một thống chế bị bắt trong hầm cảm thấy thế nào?” một người bày tỏ. “Sau trận Stalingrad, không một người lính nào còn lo ngại về kết quả của cuộc chiến” một sỹ quan bị thương nói. Các sư đoàn Stalingrad được điều đến các tập đoàn quân, các phương diện quân khác để tăng nhuệ khí thêm.

         Ngay sau đó, Stalin được phong chức Nguyên soái Liên Xô bởi Chủ tịch đoàn Sô viết tối cao Liên Xô, một dạng hiện đại của kiểu Napoleon tự tấn phong hoàng đế cho mình. Lịch sử chiến tranh đột nhiên thay đổi. Những thảm họa trong năm 1941 được viết lại như thể đó là một phần của một kế hoạch khéo léo do Stalin nghĩ ra. Hình ảnh, tên tuổi của Stalin được giữ tránh xa báo chí trong thời kỳ tệ hại đó, nhưng giờ “vị thuyền trưởng vĩ đại của nhân dân Liên Xô”, “Nhà tổ chức thiên tài của chiến thắng” trở lại vị trí. Tất cả những thảm họa, những điều xấu xa bị đổ cho những người khác, đúng hơn, như là những triều thần bị đổ lỗi trong thời kỳ Sa hoàng. Illya Ehrenburg, với tính nhạo bám cay độc, nhận xét rằng nhân dân “cần phải tin”. Ngay cả tù nhân trong trại Gulag cũng viết thư cho người Cha vĩ đại của nhân dân, nhận thức rằng Người đã làm đúng trong các phiên xử oan sai kinh khủng, không tưởng tượng được dưới Chủ nghĩa Cộng Sản. Không nhà lãnh đạo nào có ảnh hưởng hơn Beria.

          Tướng lĩnh Hồng quân được thăng thưởng rõ. Việc bỏ hệ thống chỉ huy song đôi của chính trị viên cách đây không lâu, được làm cho hoàn chỉnh với việc sắp đặt lại có qui cũ các cấp bậc binh lính, sỹ quan. Lối nói trại “commander” cũng bỏ.

          Như tướng Schlomer đã ghi nhận với sự thích thú, cầu vai – biểu tượng cấp bậc vốn từng bị vài đám đông Bolsevik trong các cuộc hành hình năm 1917 đóng đinh ghim vào thi thể những người theo chế độ Sa hoàng – nay được phục hồi. (Vải viền vàng được đặt bí mật từ Anh quốc, và bị ngạc nhiên, phản đối bởi giới chức ở đó). Một người lính thuộc một sư đoàn Cận vệ nghe được tin về cầu vai từ một người đánh giày già ở ga xe lửa: “Họ đang bắt đầu dùng cầu vai vàng một lần nữa”, ông lão nói với anh trong vẻ giận dữ không tin được “Cứ như bọn Bạch vệ”. Những người lính đồng đội cũng rất ngạc nhiên khi anh ta kể lại lúc quay về tàu. “Tại sao lại (dùng) trong Hồng quân nhỉ?” họ hỏi. Những lời xì xầm kiểu đó bị bỏ qua. Những huân chương mới của cuộc Chiến vệ quốc vĩ đại – Huân chương Suvorov và Kutuzov – cũng được tặng cho các sỹ quan cao cấp trong trận chiến.

        Tuy vậy, thành tựu tuyên truyền lớn nhất, là vươn ra xa khỏi biên giới Liên Xô. Câu chuyện về sự hy sinh của Hồng quân gây ảnh hưởng mạnh mẽ trên toàn thế giới, đặc biệt ở lục địa Châu Âu đang bị chiếm đóng. Ảnh hưởng tác động lên các hoạt động kháng cự ở mọi nơi và chi phối các chính sách hậu chiến ở Châu Âu đáng kể. Chiến công của Hồng quân nâng cao hình tượng của các đảng viên và hấp dẫn những cảm tình viên càng thêm đông đảo.

        Ngay cả những người bảo thủ cũng không thể tránh việc tán dương chủ nghĩa anh hùng của Hồng quân. Tại Anh, vua George VI đặt rèn Thanh gươm Stalingrad để tặng cho thành phố ấy. Tinh thần dân chúng và binh sỹ cũng được tăng cao bởi những đoạn phim tài liệu ca ngợi chiến thắng, với cảnh lập lòe của Paulus cùng những hàng tù binh dài, vắt ngang qua thảo nguyên tuyết phủ. Ai cũng biết người Nga đang gánh sức mạnh quân sự chính của nước Đức, và rằng mặt trận phía Đông đang làm chảy máu quân đội Đức đến chết, rõ ràng nhiều hơn xa so với bất kỳ nơi nào ở phía Tây. Hồng quân sẽ tiến lên, như một sỹ quan đã hét vào mặt các tù binh, cho đến khi nào Berlin cũng như thành Stalingrad đổ nát.

Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM