XXIV. VÀI DÒNG SUY NGHĨ
Trong những ngày còn đánh Mỹ, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã gợi ý cho tôi nên viết lại cuộc kháng chiến chống Pháp ở Bình Trị Thiên. Tôi thấy cũng cần. Đáng tiếc là cả thời kỳ đánh Pháp ở Bình Trị Thiên, tôi không ghi nhật ký. Song những ấn tượng về cuộc đấu tranh gian khổ và anh dũng của quân dân Bình Trị Thiên trong thời kỳ đó vẫn còn in đậm trong ký ức tôi, không thể nào quên được.
Đã hơn 30 năm qua, mỗi lần có dịp nhắc đến cuộc kháng chiến chống Pháp, tôi lại nhớ đến những gì đã diễn ra trên chiến trường Bình Trị Thiên. Cũng ít thấy một chiến trường nào, đất hẹp, núi biển gần sát nhau, hai đầu hai ngọn đèo cao chặn lại, bị kẻ thù chiếm đóng, khủng bố, đánh phá ác liệt liên miên, mà lại có một sức sống, chiến đấu kiên cường, bền bỉ như thế!
Đầu năm 1947, sau khi mặt trận Huế vỡ, thế giặc đang thịnh, tràn đến đâu, chiếm đóng đến đó, tàn sát dân lành, đốt phá nhà cửa, xây đồn bốt, lập hội tề. Lực lượng kháng chiến bị dồn ép cùng cục. 2.500 đảng viên trước ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ chỉ còn non 1.000. Chính quyền cách mạng ở thôn xã đại bộ phận bị mất. Quần chúng hầu hết nằm trong vùng chúng kiểm soát. Mỗi tỉnh chì còn vài nghìn người chạy dạt lên núi, sống trong cải đói rét. Quân và dân gặp vô vàn khó khăn chồng chất, tưởng chừng không có cách gì vượt qua nổi. Anh Nguyễn Chí Thanh gọi đó là “thời kỳ tan rã”.
Thế nhưng cuộc kháng chiến khôn bị dập tắt, mà vẫn tồn tại, khôi phục và phát triển. Chỉ hai năm sau “thời kỳ tan rã”, số đảng viên đã lên tới ba vạn. Cơ sở chính quyền thôn xã khôi phục lại gần hết. Quần chúng trong vùng ta kiểm soát từ chỗ vài nghìn lên đến 5 vạn trong mỗi tỉnh.
Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân đều phát triển. Phong trào tự túc lương thực, tự túc vũ khí, xóa nạn mù chữ được đẩy mạnh khắp nơi.
Do đâu có được những thắng lợi to lớn ấy? Đại hội đại biểu Đảng ở Liên khu IV năm 1949 đã biểu dương phong trào kháng chiến Bình Trị Thiên và rút ra mấy bài học chính. Đó là tinh thần tự lực tự cường, chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn và dũng cảm chiến đấu. Đúng. Ở một dải đất hẹp, kinh tế nghèo, hạn hán, lũ lụt thường xuyên đe dọa, địch o ép bốn phía, trong lúc sự chi viện của Liên khu IV cũng như của Trung ương còn hạn chế, quân và dân Bình Trị Thiên không còn cách nào khác là phải tự khắc phục để sống và chiến đấu. Những đức tính ấy vốn là bản chất truyền thống của quân dân Bình Trị Thiên. Nhưng làm cho bản chất và truyền thống ấy trở thành sức mạnh thực tế trong điều kiện chiến trường lúc bấy giờ trước hết hết phải nói là do sự lãnh đạo của Đảng ta. Đường lối, chính sách dúng đắn của Đảng được các Tỉnh ủy của ba tỉnh Bình Trị Thiên xây dựng một cách tài tình và sáng tạo trong tình hình cụ thể của tỉnh mình. Do đó đã đoàn kết được mọi người, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, miền xuôi miền ngược, trong Đảng ngoài Đảng, chính quyền, quân đội thành một khối vững chắc tựa thành đồng. Sự đoàn kết nhất trí ấy đã giúp cho quân và dân Bình Trị Thiên, vượt qua mọi hoàn cảnh hiểm nghèo, tiến lên giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đó cũng chính là sự thể hiện một nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong việc xây dựng lực lượng cách mạng của nhân dân ta mà Hồ Chủ tịch luôn luôn nhắc đến.
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công.
Có nhân dân anh hùng mới có quân đội anh hùng. Và quân đội anh hùng lại làm vẻ vang thêm truyền thống cách mạng của quê hương. Đồng bào Bình Trị Thiên rất lấy làm tự hào về lực lượng vũ trang mình. Anh bộ đội Bình Trị Thiên mang trong người đầy đủ phẩm chất cao quý của người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam mà đồng bào cả nước đã gọi một cách trìu mến “Anh bộ đội Cụ Hồ”.
Kinh tế của Bình Trị Thiên chưa phát triển. Những năm đầu kháng chiến bộ đội ở đây vẫn phải chân đất, mũ nan đi đánh giặc, cướp vũ khí của giặc để trang bị cho mình. Dù có lúc phải ăn đói mặc rách, bộ đội vẫn một lòng “trung với Đảng, hiếu với dân”. Trong đơn vị thì cán bộ, chiến sĩ trên dưới một lòng, lúc khó khăn cũng như khi thuận lợi luôn luôn chia ngọt sẻ bùi, nhường cơm xẻ áo, nhượng nhịn, giúp đỡ nhau như anh em một nhà. Đối với kẻ thù thì cương quyết tấn công không lùi một bước. Đối với nhân dân thì kính yêu, thân thiết như người con, người em hiếu thảo.
Là quân đội chiến đấu và đội quân công tác, bộ đội Bình Trị Thiên biết cách đánh giặc bằng quân sự, lại biết các đánh giặc bằng địch vận, biết cách giúp cán bộ địa phương xây dựng cơ sở cách mạng, biết giúp đồng bào tăng gia sản xuất và biết dạy cho các em nhỏ học hành ca múa.
Hình ảnh cao quý “Anh bộ đội Cụ Hồ” cũng như kỷ niệm đầm ấm về tình quân dân đoàn kết chiến đấu luôn luôn là nguồn động viên sâu sắc với người dân Bình Trị Thiên. Điều đó đã giúp cho đồng bào tăng thêm lòng tin, tăng thêm sức mạnh, vượt qua muôn vàn thử thách, kiên trì đấu tranh với một tinh thần dũng cảm hy sinh không bờ bến suốt trong 3.000 ngày chống Pháp rồi đến 20 năm chống Mỹ, góp phần cùng với cả nước đưa sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc đến toàn thắng.
Bình Trị Thiên đã trở thành biểu tượng về một chiến trường gian khổ, ác liệt, giàu tinh thần chiến đấu bất khuất. Đồng bào cả nước đã dành cho Bình Trị Thiên những tình cảm thương yêu, quý mến.
Trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày nay, cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân Bình Trị Thiên phát huy truyền thống của mình, đang cố gắng đóng góp nhiều nhất cho sự nghiệp cách mạng. Truyền thống đó là toàn quân một ý chí, quân với dân là một ý chí, không ngừng nâng cao sức mạnh và sẵn sàng chiến đấu, tích cực tham gia xây dựng kinh tế, làm tròn nhiệm vụ, mãi mãi xứng đáng với lòng tin yêu của Đảng, của nhân dân.
*
* *
Với tập sách nhỏ này, tôi không có tham vọng kể lại toàn bộ cuộc kháng chiến chống Pháp ở Bình Trị Thiên. Tôi chỉ muốn nêu lên một số chuyện về hoạt động của các lực lượng vũ trang nhân dân ở đó. Xin chân thành cảm ơn các đồng chí, các bạn trong và ngoài quân đội đã giúp tôi hoàn thành cuốn sách này.
Hà Nội, 1984