Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 12:11:48 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Những ngày khói lửa  (Đọc 74967 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #80 vào lúc: 30 Tháng Tư, 2015, 09:46:32 pm »

Bộ đội ta phục kích xa đường nên được an toàn trong khi phi pháo của địch bắn phá rất dữ dội.

Khi chúng bắt đầu đi vào trận địa phục kích của ta, quân ta cũng bắt đầu vận động ra đường. Đã ra đến gần đường mà quân địch không hay biết gì hết. Loạt súng đầu tiên của ta làm bọn địch bất ngờ. Tiểu đoàn ngụy chỉ thương vong một số, số còn lại chạy tán loạn vào rừng. Tiểu đoàn Âu Phi và đại đội công binh bị thiệt hại nhiều hơn, nhưng cũng có một số không ít chạy vào rừng. Thế là một bộ phận địch bị tiêu diệt. Toàn bộ đoàn xe của chúng nằm phơi xác trên mặt đường.

Chúng tôi phán đoán: số quân ấy thế nào cũng sẽ tập họp lại trên đường 74. Bộ đội ta được tổ chức lại, bí mật phục kích trên đường lần nữa, chờ địch.

Lúc này, phi pháo của địch cũng ngừng hoạt động. Chúng sợ bắn nhầm vào quân chúng đang ẩn náu trong rừng. Chỉ có chiếc máy bay bà già vè vè trên không, hình như ra lệnh cho quân lính chúng trong rừng ra tập hợp lại.

Đúng như dự đoán, lúc 4 giờ chiều hôm ấy, lính ngụy cũng như lính Âu Phi, lần lượt từ trong rừng đi ra, mặt mày phờ phạc vì mệt, vì sợ. Khi trên đường đã có độ năm, sáu chục tên, yên tĩnh, không có gì xảy ra, bọn chỉ huy từ trong các bụi rậm mới thò đầu ra, đứng thẳng người huýt còi inh ỏi thúc giục bọn tàn quân tập hợp. Nào ngờ đâu, nơi tập hợp của chúng lại là nơi mồ chôn chúng. Giờ chết của chúng đã được định sẵn và sắp đến nơi mà chúng hoàn toàn không hay biết. Nửa giờ sau, quân lính tập hợp đầy đủ, xếp thành hai hàng dài gần nửa ki-lô-mét, ước chừng sáu, bảy trăm tên. Lập tức, ta nổ súng dồn dập từ ba hướng: trước mặt, sau lưng, và bên sườn địch. Đại bộ phận địch nằm rạp trên mặt đường. Một số chạy thục mạng vào rừng. Độ 15 phút, trận đánh kết thúc. Cả hai trận đánh, trưa và chiều hôm ấy ta tiêu diệt gần 600 tên địch, bắt sống 180 tên khác vừa ngụy, vừa Âu Phi. Ta phá hủy 78 xe.

Trời nhá nhem tối, ta thu quân và thu dọn chiến trường. Bọn địch sống sót chạy vào rừng, hôm sau, lần lượt tìm đường về Đông Hà, bộ đội địa phương và dân quân bắt thêm được mười mấy tên nữa.

Được tin viện binh bị diệt, bọn địch ở Nam Đông mất tinh thần, nháo nhác lo sợ. Thừa thắng, trung đoàn tập trung lực lượng tấn công tiêu diệt đồn Nam Đông luôn trong đêm ấy. Bọn địch trong đồn chống cự yếu ớt, hầu hết bị diệt và bắt sống. Một số ít chạy thoát.

Vị trí Nam Đông bị tiêu diệt là xóa bỏ được một chướng ngại trên hành lang Bắc - Nam. Chiến thắng ấy kéo theo sự tan rã một loạt tổ chức hội tề, hương vệ trong huyện Gio Linh. Đồng bào được tin chiến thắng reo mừng phấn khởi, từ nơi sơ tán lũ lượt kéo về làng cũ. Họ xây dựng lại chính quyền, đoàn thể. Dân quân, du kích chuẩn bị sẵn sàng đánh địch giữ làng. Cán bộ, bộ đội ra Bắc, vào Nam đến đây ăn ngủ an toàn, chuẩn bị vượt qua đường 9.

Sau đó không lâu, tôi có dịp đi qua đường 74 lại thấy đồng bào ở đây đông đúc, vườn tược được phát quang, khoai sắn, tiêu chè mọc lên xanh biếc. Hổ báo phải nhường chỗ cho trâu bò lui về rừng sâu núi rậm.

Chiến thắng Nam Đông - đường 74 lại thêm tiếng vang lớn. Trung đoàn 95 và các lực lượng vũ trang Quảng Trị, Gio Linh, Vĩnh Linh lại được đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi thư khen. Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu IV tặng cờ danh dự cho trung đoàn.

Cùng lúc trung đoàn 95 đánh Nam Đông, trung đoàn 18 ở Quảng Trị cũng lập nhiều chiến công xuất sắc ở Vạn Lộc, Hoàn Lão, và nhiều nơi khác. Ở Thừa Thiên, trung đoàn 101 và bộ đội địa phương, dân quân du kích đã tiêu diệt các vị trí Hương Căn, La Khê, An Truyền, Tuyên Nam, Kiên Kiến, san phẳng cả một hệ thống cứ điểm gồm hơn 10 đồn, bốt địch xung quanh thành phố Huế, mở rộng vùng căn cứ du kích đến Bao Vinh, ngay sát cửa ngõ của Huế, cố đô xưa. Nhân dân trong thành phố ra vào thăm hỏi bà con ở khu vực tự do, bọn giặc cũng không dám cấm đoán.



Sau chiến thắng Nam Đông - đường 74, vùng tự do của ba tỉnh Bình Trị Thiên nối liền nhau thành một dải chạy dài dọc theo núi Trường Sơn, trên đường số 1. Vùng tự do ấy vắt ngang qua các huyện Hương Thủy, Hương Trà, Quảng Điền, Phong Điền ở Thừa Thiên; Cam Lộ, Hướng Hóa, Vĩnh Linh ở Quảng Trị; Lệ Thủy, Quảng Ninh ở Quảng Bình. Vùng tự do ấy tiếp giáp với các vị trí địch trên đường số 1, có một khoảng cách rộng hẹp khác nhau bằng những khu vực tranh chấp.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #81 vào lúc: 30 Tháng Tư, 2015, 09:47:06 pm »

Mọi hoạt động ở vùng tự do gần như thật sự là tự do. Lâu lâu mới có vài chiếc máy bay của địch lướt qua rồi mất hút. Các cơ quan huyện hoạt động bình thường. Bộ đội tập luyện, canh gác ngày đêm có nền nếp. Công việc đồng áng, buôn bán, đi lại của nhân dân rất nhộn nhịp. Ở đây có trường học, có bệnh viện. Tối tối, các em nhỏ được các chú bộ đội tập hát, tập múa rất vui.

Địch thực sự đã co lại, không có những cuộc càn quét lớn ra vùng tự do. Chủ yếu, chúng mở các cuộc càn quét nhỏ xung quanh vị trí với lực lượng tại chỗ. Bọn ngụy quyền ở gần vị trí địch hầu hết là hai mặt, vừa làm việc cho địch, vừa làm việc cho ta. Những tên hội tề phản động thật sự thì vào ở trong các đồn địch, không dám về nhà mặc dầu nhà ở gần vị trí.

Trước tình hình ấy, Bộ chỉ huy mặt trận chúng tôi đặt thành vấn đề giải phóng đất đai nhằm mở rộng vùng tự do của ta, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch.

Hướng chính là vùng Quảng Trạch ở phía bắc Quảng Bình và là nơi tiếp giáp với vùng tự do Thanh Nghệ Tĩnh.

Từ khi giặc đánh chiếm ba tỉnh Bình Trị Thiên, chúng đã xây dựng ở đây, dựa vào con sông Gianh, một hệ thống phòng ngự khá vững chắc, kéo từ bờ biển đến tận chân núi Trường Sơn, mục đích để bảo vệ vùng chiếm được, ngăn chặn lực lượng của ta tấn công từ Thanh Nghệ Tĩnh vào; khống chế, cắt đứt đường giao thông liên lạc Bắc - Nam của ta và sẽ làm bàn đạp mở các cuộc tiến quân ra vùng tự do Liên khu IV khi có điều kiện. Do địa bàn chiến lược đó, lực lượng của địch ở đây khá nhiều và các đồn bốt cũng được xây dựng kiên cố.

Sau khi bàn bạc kĩ lưỡng, chúng tôi quyết định đánh vào hệ thống đó, chủ yếu là hai đồn quan trọng nhất Sen Bàng và Ba Đồn. Lực lượng của ta sử dụng trong các trận đánh này gồm có trung đoàn 95, trung đoàn 18, tiểu đoàn bộ đội địa phương Quảng Bình, 2 đại đội dân quân của hai huyện Bố Trạch, Quảng Trạch cùng với du kích quanh vùng.

Để đánh lạc hướng địch, Bộ chỉ huy chỉ thị cho trung đoàn 101 và bộ đội địa phương hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên đẩy mạnh mọi hoạt động để bọn địch không nghi ngờ gì việc ta tấn công ở phía bắc. trong lúc đó, trung đoàn 95, trung đoàn 18 bí mật hành quân ra tập kết ở vùng Ba Lùm, Ba Lòi.

Tối 20 tháng 5 năm 1952, Bộ chỉ huy mặt trận cùng với hai ban chỉ huy trung đoàn họp bàn kế hoạch. Cuộc họp ấy xác định lại quyết tâm phải tiêu diệt đồn Sen Bàng và bọn viện binh của địch lên đấy. Sau đó, sẽ tập trung lực lượng đánh vào các vị trí và viện binh của địch ở Ba Đồn và bắc sông Gianh.

Lực lượng sử dụng đánh đồn Sen Bàng là trung đoàn 95, một đại đội dân quân của huyện Bố Trạch và du kích vùng đó. Trung đoàn dùng tiểu đoàn 310, đại đội dân quân Bố Trạch đánh đồn. Tiểu đoàn 227 bố trí đánh viện. Tiểu đoàn 302 làm lực lượng dự bị.

Sen Bàng là một làng cách đường số 1 về phía tây chừng 6 - 7 ki-lô-mét và cách chân núi Ba Rền về phía đông vài ba ki-lô-mét. Làng nằm trên một ngọn đồi không cao lắm. Đồng bào ở đây hầu hết là công giáo. Địch đóng ở Sen Bàng chủ yếu là để ngăn chặn cán bộ, bộ đội của ta ra Bắc, vào Nam. Số lượng của chúng ở trong đồn là một tiểu đoàn. Binh lính là giáo dân phần lớn từ các nơi đến. Sen Bàng là một vị trí độc lập và cô lập, không có sự chi viện của các vị trí khác nếu bị tấn công. Sở dĩ địch duy trì vị trí ấy cho đến bây giờ là vì chúng dựa vào đồng bào công giáo ở đó làm tai mắt cho chúng. Đồn đóng gần nhà thờ.

Tối 25 tháng 3, trung đoàn bí mật kéo đến làm công tác chuẩn bị. Bọn địch ở trong đồn không hay biết gì. Chúng rất chủ quan. Chúng cứ tưởng rằng đồng bào công giáo trong làng là tai mắt đáng tin cậy. Việt Minh không thể nào lọt qua được. Chúng có biết đâu đại đa số giáo dân đều có lòng yêu nước. Những tên đội lốt tôn giáo làm tay sai cho chúng không phải là nhiều. Trong lúc hàng nghìn bộ đội ta rộn rịp trong làng chuẩn bị đánh đồn, lẽ nào không có một người nào biết? Thế nhưng tất cả đều yên tĩnh. Hình như mọi người lặng lẽ theo dõi những gì sẽ xảy ra.

2 giờ sáng ngày 23 tháng 5, súng của ta nổ dồn dập. Bọn địch trong đồn hốt hoảng, rối loạn, không kịp trở tay. Đột phá khẩu mở, bộ đội ta ập vào. Địch chống cự một cách tuyệt vọng. Cuộc chiến đấu diễn ra rất giòn giã, không đẩy nửa tiếng đồng hồ đã kết thúc. Địch bị tiêu diệt gọn. Thương vong của ta không đáng kể. Khi bộ đội ta đang thu dọn chiến lợi phẩm, đồng bào làng Sen Bàng đều thức dậy, kẻ thì đứng nhìn, người thì tham gia giúp bộ đội. Trừ những gia đình có người đi lính cho địch bị chết, hầu hết đều thản nhiên không ai bộc lộ thương tiếc bọn địch trong đồn.

Sau khi đồn Sen Bàng bị diệt, trung đoàn tập trung lực lượng, bố trí sẵn sàng đánh viện binh địch. Nhưng suốt ngày 23, địch trên ba tỉnh Bình Trị Thiên không có sự điều động nào khác thường. Bộ đội ta rút về khu tập kết, chuẩn bị cho các trận đánh khác.

Vùng Sen Bàng hoàn toàn giải phóng. Vùng tự do Lệ Thủy, Quảng Ninh, Bố Trạch, Tuyên Hóa của Quảng Bình nối liền với vùng tự do Thanh Nghệ Tĩnh.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #82 vào lúc: 30 Tháng Tư, 2015, 09:47:32 pm »

Trung đoàn kéo về phía bắc sông Gianh.

Địch đóng ở bắc sông Gianh gồm 4 vị trí: 2 vị trí chính và 2 vị trí phụ. Ba Đồn là một vị trí chính cách đường quốc lộ số 1 về phía tây độ hai ki-lô-mét, sát bờ bắc sông Gianh. Ở đây có chừng hai đại đội ngụy Vị trí phụ cách Ba Đồn 600 - 700 mét có khoảng 1 trung đội ngụy, một bộ phận hành chính.

Vị trí chính thứ hai đóng ở làng Mỹ Hòa cách đường quốc lộ số 1 về phía đông khoảng 500 mét, cách bờ bắc sông Gianh độ 200 mét. Địch ở đồn Mỹ Hòa không đầy hơn một đại đội. Vị trí phụ đóng gần sông Gianh độ một trung đội.

Bờ nam sông Gianh có một đồn địch đóng gần đường số 1, sát bờ sông. Ở đây có một tiểu đoàn địch vừa Âu Phi, vừa ngụy, có hai khẩu pháo 75 ly.

Địa hình ở bắc sông Gianh, khu vực địch đóng quân, toàn là những đồi cát, ruộng cát, rất trống trải. Có vài làng nằm bên bãi cát như làng Mỹ Hòa, làng Ba Đồn, Xóm Tuần… nhưng cũng không có cây cối gì. Những đồi cát, ruộng cát ấy chạy thẳng lên phía tây, tây bắc và bắc, sát dãy núi nằm chắn trước mặt gọi là núi Phụng Hoàng Sơn. Phía đông giáp biển. Phía nam là sông Gianh. Vùng này không có chỗ giấu quân. Nếu cần vài tổ trinh sát để tiếp cận địch, phải ở lẫn với đồng bào trong các làng. Những cũng không bảo đảm lắm vì cơ sở của ta ở đó yếu. Cho nên, muốn đánh các vị trí địch phải hành quân từ xa đến bố trí công kích ngay mới có thể giải quyết kịp trận đánh trong một đêm…

Tối 28 tháng 5, bộ đội ta đến bắc sông Gianh và chuẩn bị đánh địch ở đó. Trung đoàn 95 do đồng chí Lê Văn Tri chỉ huy dùng hai tiểu đoàn 227 và 310 cùng với lực lượng địa phương được tăng cường tiêu diệt đồn Ba Đồn. Tiểu đoàn 302 đánh vị trí phụ gần đấy.

Trung đoàn 18 do đồng chí Vương Tuấn Kiệt chỉ huy dùng một tiểu đoàn và bộ đội địa phương đánh đồn Mỹ Hòa. Một tiểu đoàn khác đánh vị trí phụ. Còn một tiểu đoàn làm dự bị.

Tất cả các đơn vị của ta đều nổ súng đêm 28. Trung đoàn 18 giữ được bí mật bất ngờ nên giải quyết nhanh chóng cả hai vị trí chính và phụ ở Mỹ Hòa. Địch trong hai đồn bị tiêu diệt gọn. Nhưng trung đoàn 95 bị lộ bí mật, địch trong đồn biết và sẵn sàng đối phó. Cuộc chiến đấu diễn ra tất gay go quyết liệt. Rạng sáng ngày 29, không giải quyết được dứt điểm vị trí Ba Đồn. Bộ đội ta phải rút đi bố trí chọn đánh quân tiếp viện. Tiểu đoàn 302 đã diệt gọn vị trí phụ của địch ở đó.

Trưa ngày 29, địch dùng lực lượng của các vị trí ở nam sông Gianh độ một tiểu đoàn gồm ngụy và Pháp đi tiếp viện cho Ba Đồn. Chúng sang sông và đi ngược lên Ba Đồn. Trong lúc đó, bọn ở Ba Đồn bỏ đồn, hành quân đi xuống. Hình như địch đã có kế hoạch và đã liên lạc với nhau. Mục đích của chúng tiếp viện là để đón bọn địch ở Ba Đồn rút về. Âm mưu đó ngoài sự phán đoán của ta. Chúng ta nghĩ rằng: địch sẽ tăng viện và cố thủ Ba Đồn. Nếu ngày 29 không có viện thì tối 29 ta sẽ đánh dứt điểm Ba Đồn. Nếu có viện, ta sẽ diệt viện, rồi sẽ diệt điểm. Việc bố trí lực lượng của ta là chuẩn bị theo phương hướng đó. Nhưng khi hai toán lính địch sắp gặp nhau cách vị trí Ba Đồn không đẩy 1 ki-lô-mét về phía đông thì chính đó lại là trận địa phục kích của ta. Ở đây, địa hình trống trải, chỉ có nhà dân ở dọc bờ sông kéo dài lên đến Ba Đồn. Khi hai toán quân địch sắp gặp nhau, ta lập tức nổ súng. Địch bị đánh bất ngờ, chạy lung tung. Bộ đội ta tấn công mãnh liệt, một phần lớn địch bị giết, một số chết đuối vì nhảy xuống sông, một số chạy thoát.

Thế là trận đánh ở phía bắc sông Gianh kết thúc thắng lợi.

Lần đầu tiên, trên chiến trường Bình Trị Thiên, bộ đội ta đã dùng sức mạnh diệt luôn 5 vị trí địch trong một tuần lễ, trong đó có hai vị trí quan trọng là Sen Bàng Và Ba Đồn. Cũng lần đầu tiên, bộ đội ta diệt điểm, diệt viện, phá vỡ một hệ thống phòng thủ hai huyện Tuyên Hóa và Quảng Trạch. Do đó vùng tự do của Quảng Bình được mở rộng từ núi đến đường số 1 và nối liền với vùng tự do Thanh Nghệ Tĩnh. Đường giao thông trong ra, ngoài vào được bảo đảm an toàn, đi lại thoải mái không phải leo Liên U, Ba Rền như trước nữa.



Trong thời gian trung đoàn 95 và 18 đánh ở phía bắc sông Gianh, ở miền nam Bình Trị Thiên, trung đoàn 101 cùng các lực lượng địa phương cũng giành được nhiều thắng lợi lớn. Trung đoàn đã phá nhiều cuộc càn của địch ở Phú Vang, Phú Lộc, ở đồng bằng Triệu Hải. Đặc biệt ở đèo Lăng Cô, trung đoàn đã lật nhào xuống biển một đoàn tàu quân sự 43 toa, trong đó có 6 toa chở đầy lính, gây cho địch nhiều thiệt hại lớn. Sau đó lại phá tan cuộc tấn công của địch lên chiến khu Dương Hòa, loại khỏi vòng chiến đấu trên 500 lính Âu Phi, bắt sống 57 tù binh, thu được hàng trăm súng các loại.

Nhưng vào cuối tháng 8, trung đoàn phạm phải một sai lầm rất nghiêm trọng. Do thiếu cảnh giác, ta đã lọt vào đơn vị một tên gián điệp. Hắn nắm được giờ hành quân và địa điểm trú quân sắp đến của chúng ta, báo cho địch biết. Địch liền điều động cả quân ứng chiến từ miền Bắc vào, dùng tàu đổ bộ đường biển chở gấp quân cơ động tác chiến Âu Phi và hơn 70 xe bọc thép lội nước vào Bình Trị Thiên phối hợp với các lực lượng tại chỗ gồm có 8 tiểu đoàn vây diệt trung đoàn 101. Tuy chúng không hoàn toàn thắng lợi nhưng đã gây cho trung đoàn những tổn thất nặng nề: nhiều cán bộ và chiến sĩ đã hy sinh, nhiều đồng chí khác bị thương.

Đây là bài học xương máu trung đoàn sẽ nhớ mãi.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #83 vào lúc: 30 Tháng Tư, 2015, 09:48:23 pm »

XXIII. XUÂN VỀ TRÊN NƯỚC BẠN

Tháng 9 năm 1953, tôi nhận được điện của Bộ Tổng tư lệnh gọi ra Việt Bắc để nhận nhiệm vụ quân sự Đông - Xuân.

Nhận được điện, tôi có rất nhiều suy nghĩ.

Sau bao nhiêu năm chiến tranh, hết thất bại này đến thất bại khác, thực dân Pháp đã đến giờ “hấp hối” đúng như tên cuốn hồi ký của Na-và viết sau chiến tranh (L’agonie de l’Encochine). Để cứu vãn tình thế ngắc ngoải, chính phủ Pháp đã phải đưa tướng Na-va, “nhân tài quân sự” bậc nhất của nước Pháp sang thay Sa-lăng làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương.

Na-va cũng muốn làm rạng danh nước Pháp, tìm “lối thoát danh dự” bằng những thắng lợi quân sự, cứu vãn tình trạng nguy ngập của quân độ Pháp trên chiến trường.

Theo tình báo cho biết thì kế hoạch của Na-va chia làm hai bước: trong Đông - Xuân 1953 - 1954 giữ thế phòng ngự chiến lược, tránh quyết chiến ở miền Bắc, thực hiện tiến công chiến lược ở miền Nam. Vào Đông - Xuân sau 1954 - 1955, có khối chủ lực cơ động đã được tăng cường mạnh mẽ, sẽ tập trung toàn bộ lực lượng chuyển sang tiến công chiến lược trên chiến trường miền Bắc, giành thắng lợi quyết định, kết thúc chiến tranh.

Trước kế hoạch của địch, chắc Bộ Tổng tư lệnh đã có kế hoạch đối phó nên mới triệu tập cán bộ chỉ huy các chiến trường ra Việt Bắc để phổ biến cụ thể hơn.

Tôi vội vã lên đường. Từ chiến khu Ba Lòng vượt qua đường số 9 rồi đến vùng tự do Vĩnh Linh, Quảng Bình ra Đức Thọ. Lần này, tôi không phải trèo Liên U, Ba Rền nữa. Tôi nghỉ lại Khu ủy ở đóng ở Thanh Chương. Từ đó, đi xe đạp ra Thanh Hóa, lên Hòa Bình và cứ theo đường dây liên lạc đến cơ quan Tổng Quân ủy. Đến đây, tôi gặp nhiều cán bộ ở các chiến trường khác cũng về để nhận nhiệm vụ.

Tối đến, trong lúc nằm nói chuyện với các đồng chí đến trước, tôi được biết vừa rồi Bộ chính trị Trung ương Đảng đã họp và đề ra chủ trương trong Đông Xuân 1953 - 1954, ta phải giữ vững quyền chủ động đánh địch trên cả hai mặt trận chính diện và sau lưng địch. Cụ thể, trên mặt trận chính diện, ta sẽ sử dụng bộ đội chủ lực mở ba cuộc tấn công lớn nhằm mục đích:

- Tiêu diệt quân địch đang chiếm đóng Lai Châu, giải phóng hoàn toàn khu vực Tây Bắc, phối hợp cùng quân giải phóng Lào, giải phóng Phong-xa-lỳ, Ta sẽ đề nghị với bạn Lào và Cam-pu-chia phối hợp với bộ đội Việt Nam tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch ở Trung Lào, Hạ Lào, đông bắc Cam-pu-chia, mở rộng vùng giải phóng, đánh thông đường chiến lược Bắc - Nam.

- Đoạt lấy địa bàn chiến lược Tây Nguyên, trước hết là bắc Tây Nguyên, phá tan âm mưu củng cố và “bình định” miền Nam của địch.

Trên mặt trận sau lưng địch, phát triển mạnh chiến tranh du kích, thu hẹp vùng chúng kiểm soát.

Làm như vậy là trong khi Na-va tập trung lớn lực lượng cơ động chiến lược ở đồng bằng Bắc bộ để củng cố thế đứng chân của chúng ở đồng bằng, tránh quyết chiến ở miền Bắc thì ta đánh lên hướng tây với ba đòn chiến lược là Tây Bắc, Phong-xa-lỳ, Trung Hạ Lào, Tây Nguyên.

Hướng tây là hướng địch đang có nhiều sơ hở. Lực lượng tại chỗ của chúng yếu. Nhưng hướng tây lại là hướng chiến lược rất quan trọng, thậm chí có ý nghĩa quyết định tới chiều hướng phát triển của chiến tranh. Do đó, địch không thể nào bỏ được. Bắt buộc chúng phải bị động phân tán lực lượng đối phó với ta. Như thế, sẽ tạo ra cho chúng ta có nhiều điều kiện thuận lợi để tiêu diệt sinh lực địch.

Nếu làm như vậy ta sẽ đập tan được âm mưu củng cố miền Nam, bình định đồng bằng của địch, mở các vùng tự do của ta xuống đồng bằng mà không cần tập trung chủ lực lớn đánh vào đó. Âm mưu xây dựng lực lượng cho những trận quyết chiến chiến lược vào Đông - Xuân sau 1954 - 1955 của địch cũng sẽ bị đổ vỡ. Ta có điều kiện để đưa cuộc kháng chiến của ta đến thắng lợi hoàn toàn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #84 vào lúc: 30 Tháng Tư, 2015, 09:49:13 pm »

Nghe các đồng chí phân tích như vậy, tôi càng sáng tỏ vấn đề. Sáng hôm sau, tôi đến gặp anh Văn(1) Bí thư Tổng Quân ủy. Anh cũng cho tôi biết chủ trương của Trung ương. Và anh nói, đại ý: Đông Dương là một chiến trường. Pháp dùng Lào làm bàn đạp đưa quân đến chiếm đóng các tỉnh Tây Bắc chúng ta. Gần đây, cũng từ đó, chúng đổ quân xuống Điện Biên Phủ. Lào cũng là căn cứ tiếp tế cho quân chiếm đóng của Pháp ở Nà Sản, Sơn La, Điện Biên Phủ. Việc phối hợp giữa nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia trong cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Pháp, kẻ thù chung của cả ba nước, là một yêu cầu tất yếu., khách quan. Vì vậy, nhiệm vụ của quân đội ta không phải chỉ đánh địch ở Việt Nam, mà phải phối hợp chiến đấu với quân và dân Lào, Cam-pu-chia.

Sau đó, anh giao nhiệm vụ cho chúng tôi, trong Đông - Xuân phải mở mặt trận Trung Hạ Lào và Đông Cam-pu-chia nhằm hai mục đích:

1. Phối hợp với chiến trường chính bằng cách tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, buộc địch phải kéo quân cơ động về chiến trường Bắc Bộ vào đối phó, đồng thời chống âm mưu địch đánh phá hậu phương ta, bảo vệ vùng tự do Thanh Nghệ Tĩnh.

2. Phối hợp với quân dân hai nước bạn, giúp bạn phát triển du kích chiến tranh, mở rộng vùng giải phóng và xây dựng các lực lượng vũ trang, các cơ sở kháng chiến của bạn.

Anh Văn bảo tôi sang Bộ Tổng tham mưu để bàn bạc cụ thể. Sau khi làm việc với Bộ Tổng tham mưu xong, tôi về nhà anh Văn ở trên đồi cọ, ở lại hai hôm. Anh Văn dặn thêm nhiều điều nhằm bảo đảm cho chiến dịch thắng lợi. Anh nhấn mạnh đến nhiệm vụ quốc tế của bộ đội ta, tinh thần hiệp đồng, đoàn kết chiến đấu và bình đẳng tương trợ giữa ta và bạn. Đó là một yêu cầu chính trị của quân đội ta.

Về nhiệm vụ quân sự, anh Văn nói kỹ về mũi vu hồi xuống A-tô-pơ. Mũi này sẽ có tác dụng lớn nhưng có nhiều khó khăn, phải chú ý giữ bí mật và an toàn. Cần chuẩn bị cho bộ đội thật đầy đủ, chọn cán bộ phụ trách bảo đảm đi đến nơi và hoàn thành nhiệm vụ. Anh dặn tôi bàn kỹ với Liên khu ủy Liên khu IV, tăng cường chỉ đạo Bình Trị Thiên. Bộ đội địa phương sẽ thay thế cho sư đoàn 325 khi đi vắng. Phải có kế hoạch phòng thủ Thanh Nghệ Tĩnh, đề phòng địch đánh vùng tự do của ta và là hậu phương của chiến dịch.

Để chủ động tình hình, sư đoàn 325 để lại một trung đoàn làm lực lượng dự bị của Liên khu. Bộ sẽ tăng cường cho chiến dịch trung đoàn 66 của sư đoàn 304. Về chỉ huy, anh Hoàng Sâm làm tư lệnh, tôi làm chính ủy và lấy cơ quan sư đoàn 325 làm cơ quan chiến dịch. Về hậu cần, Bộ đã giao cho Liên khu IV phụ trách. Điều quan trọng là thường xuyên liên lạc với Bộ.

Trong đời bộ đội, tôi cũng đã nhiều lần nhận nhiệm vụ đi chiến dịch. Nhưng chưa lần nào trong lòng cảm thấy phấn chấn, rạo rực như lần này. Tôi không nghĩ rằng đây là chiến dịch cuối cùng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhưng chắc chắn là một chiến dịch lớn mà thắng lợi sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với chiến trường cả ba nước Đông Dương.

Thời gian rấp rồi! Tôi về Nghệ An làm công tác chuẩn bị.

Lúc này, trung đoàn 18, trung đoàn 101 và cơ quan Bộ đã ra vùng Thanh Nghệ Tĩnh. Riêng trung đoàn 95 còn ở lại Bình Trị Thiên một thời gian.

Trong lúc chờ anh Hoàng Sâm vào, tôi tranh thủ báo cáo với Liên khu ủy chủ trương của Tổng quân ủy về chiến dịch Trung Hạ Lào và Đông Cam-pu-chia. Tôi nhắc lại lời anh Văn đã dặn. Sau đó, cán bộ sư đoàn họp để quán triệt mệnh lệnh của Tổng Quân ủy. Mọi người đều tin tưởng, phấn khởi trước tình hình tình hình mới và biểu lộ quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của trên giao. Đồng thời, anh em cũng lo lắng:

1. Địch có thể thọc ra Nghệ Tĩnh đánh phá hậu phương chiến dịch. Nếu trường hợp ấy xảy ra thì nhất định sẽ ảnh hưởng đến chiến dịch.

2. Khi chiến dịch phát triển xa, việc bổ sung quân số và tiếp tế cho bộ đội sẽ gặp khó khăn.

Anh em lo lắng hai vấn đề ấy là chính đáng. Hội nghị Liên khu ủy đã thảo luận hai vấn đề này.

Vấn đề thứ nhất, Liên khu ủy nhận định rằng, chiến trường chính vẫn là Bắc bộ. Đại bộ phận lực lượng cơ động địch đang tập trung ở đó. Nhưng chúng cũng phải đề dành một phần để củng cố cụm cứ điểm Điện Biên Phủ. Khả năng của địch mở cuộc hành quân ra Nghệ Tĩnh hay làm gì lớn ở Bình Trị Thiên không nhiều. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải cảnh giác và có kế hoạch sẵn sàng đối phó với mọi tình huống. Hiện nay, ở Bình Trị Thiên, mỗi tỉnh có một đến hai tiểu đoàn bộ đội địa phương. Mỗi huyện có một đến hai đại đội dân quân tập trung, có thể thay thế chủ lực đảm nhiệm chống càn và bảo vệ mùa được. Ở Thanh Nghệ Tĩnh, bộ đội địa phương và dân quân du kích cũng đã được xây dựng tương đối mạnh. Lại có trung đoàn 95 làm lực lượng cơ động của Liên khu thì cũng có thể bảo đảm đánh bại các cuộc hành quân của địch và bảo vệ an toàn vùng tự do.

Vấn đề thứ hai về công tác hậu cần cho chiến dịch. Liên khu đã có kế hoạch và đã giao cho một đồng chí ủy viên phụ trách. Khi bộ đội hoạt động trong đất bạn thì sẽ dựa vào nhân dân nước bạn. Việc này sẽ bàn với cán bộ của bạn.

Như thế là anh em yên lòng.


(1) Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #85 vào lúc: 30 Tháng Tư, 2015, 09:50:02 pm »

Khi anh Hoàng Sâm vào, chúng tôi sắp xếp lại cơ quan. Anh Hoàng Minh Thi làm Chủ nhiệm chính trị. Anh Phùng Duy Phiên làm Tham mưu trưởng. Anh Trân Chí Cường làm Chủ nhiệm hậu cần.

Về kế hoạch của chiến dịch, chúng tôi chia làm ba đợt: đợt 1 đánh Trung Lào, đợt 2 đánh Hạ Lào. Đợt ba đánh xuống Đông Cam-pu-chia.

Về sử dụng lực lượng: đợt 1, chúng tôi dùng trung đoàn 101 và trung đoàn 66 vừa được bổ sung vào hướng đường số 12, trung đoàn 18 vào hướng đường số 9, tiểu đoàn 436 độc lập được tăng cường, đánh vu hồi hướng Hạ Lào.

Tháng 12-1953, sư đoàn xuất phát.



Ngày 12 tháng 12, chúng tôi cùng bộ đội vượt sông Nam Đàn. Ý định lúc đầu của Bộ chỉ huy chiến dịch là cho trung đoàn 66 từ La Khê thẳng lên biên giới diệt vị trí Ba-na-phào có một tiểu đoàn ngụy, 2 tiểu đoàn của trung đoàn 101 vòng qua Ba-na-phào lên đường 12 đánh viện binh địch ở đó. Tiểu đoàn 319 thọc lên đường số 8 đánh địch ở Lạc Sao, Cam Cớt và vòng xuống đường 12 phối hợp với 2 tiểu đoàn 101. Nhưng khi nghe địch tăng cường Ba-na-phào và đường 12 bằng lực lượng Âu Phi, chúng tôi thay đổi kế hoạch: 66 tiến lên bao vây Ba-na-phào, 101 lại Châu Lễ, vượt qua mấy dãy núi xuống đường 12, vu hồi phối hợp với 66 tiêu diệt Ba-na-phào.

Tháng Chạp, ở Liên khu IV trời mưa phùn gió bấc, đường lầy lội rất khó đi. Lên đèo Mụ Giạ, mây núi âm u, gió lạnh. Nhưng nhìn xuống Ba-na-phào thì nhà cửa ruộng đồng vui trong nắng vàng rực rỡ. Qua khỏi biên giới, thời tiết thay đổi hẳn, không khí khô hanh mát mẻ gần giống như trời xuân trên đất Việt.

Khi trung đoàn 101 vượt qua mấy dãy núi thình lình tổ trinh sát của ta đi trước bắt gặp 3 thằng Tây. Anh em bắn một loạt và hô “hô-lê-manh” (giơ tay lên). Ba thằng Tây, một chết, một thoát, một bị thương, ta bắt. Tên tù binh đó chính là viên quan tư tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn B.T.A.27. Khi tên tù binh được đưa lên gặp đồng chí Hoàng Văn Thái, chính ủy trung đoàn, đồng chí Thái bảo hắn lột lon quan tư vứt đi. Hắn không lột và nói: “Chỉ có Chính phủ Pháp mới có quyền lột lon hắn”. Đồng chí Thái đánh một bạt tai và nói “Vất lon đi! Mày khai thật sẽ được bảo toàn tính mạng, không khai thì chết”. Tên quan tư sợ hãi, vất lon và khai: chúng từ chiến trường Bắc bộ mới vào đây hai ngày. Lực lượng của chúng gồm một GM2, một tiểu đoàn pháo đóng trên đường 12. Tiểu đoàn của hắn là B.T.A.27, và một tiểu đoàn pháo đóng ở Khăm He. Một tiểu đoàn nữa tăng cường cho vị trí Ba-na-phào. Cơ quan chỉ huy GM 2 và một tiểu đoàn đóng ở ngã ba Nhom-ma-rạt.

Kế hoạch chiến đấu của trung đoàn là dùng tiểu đoàn 328 nhanh chóng bí mật tiếp cận, tiêu diệt tiểu đoàn B.T.A.27 vào đêm sau. Tiểu đoàn thứ hai vòng lên phía tây Khăm He để chặn viện.

Lúc 3 giờ sáng ngày 22 tháng 12, tiểu đoàn 328 cách địch độ 40 - 50 mét phát hiện thấy chúng đang ngủ ngổn ngang trên đường 12. Bộ đội ta nổ súng. Địch bị đánh bất ngờ, chống cự lại lẻ tẻ. Trong khi đánh nhau một xe đạn pháo của địch để gần đó trúng đạn nổ tung. Ta tưởng pháo của địch bắn. Địch cũng tưởng pháo của ta bắn. Trận chiến đấu chỉ nửa giờ là kết thúc. Tiểu đoàn B.T.A.27 bị tiêu diệt hoàn toàn. Gần 100 tên địch bị bắt sống, 60 xe của chúng bị phá hủy. Đại đội pháo của địch ở gần đó cũng bị tiêu diệt. Ta thu được toàn bộ vũ khí, đạn dược, trong đó có 4 khẩu pháo 105 ly còn nguyên vẹn. Rất nhiều rượu, thuốc lá và đồ hộp.

Bị mất liên lạc với B.T.A.27, lúc gần sáng ngày 22, một tên quan tư Pháp và hai lính ngồi trên xe gíp từ Ba-na-phào chạy lên Khăm Hẹ. Bộ đội ta ở đó bắt gặp, quét một loạt liên thanh, cả ba đều chết. Lục giấy tờ trong cặp tên quan tư, chúng ta biết hắn là tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn Âu Phi mới tăng cường cho Ba-na-phào. Những giấy tờ xác nhận lời khai của tên tiểu đoàn trưởng BTA.27 là đúng. Chúng tôi lại biết thêm ở Lạc Sao, Cam Cớt cũng có hai tiểu đoàn Âu Phi mới được tăng cường.

Sau khi được báo cáo, Bộ chỉ huy chiến dịch ra lệnh cho trung đoàn 101 lập tức tiến vào Nhom-ma-rạt để tiêu diệt tiểu đoàn còn lại và bộ chỉ huy GM2 của địch. Nhưng sáng ngày 23, bọn địch ở Nhom-m-rạt đã bỏ chạy về Thà Khẹt. Chúng chỉ để lại đó một đại đội để ngăn chặn ta. Cũng trong đêm 22 sáng 23, được tin GM2 bị tiêu diệt, bọn địch ở Lạc Sao, Cam Cớt đốt phá xe cộ chạy bộ về Thà Khẹt. Bộ đội ta lên Nhom-ma-rạt chỉ gặp một đại đội địch ở đó. Ta tiêu diệt ngay. Tất cả bọn địch ở Thà Khẹt trong những ngày 24 và 25 đều rút chạy hết về Xa-va-na-khẹt.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #86 vào lúc: 30 Tháng Tư, 2015, 09:50:51 pm »

Sáng ngày 24, trung đoàn 66 tấn công vào Ba-na-phào, nhưng địch ở đó đã rút chạy trước rồi. Trung đoàn chỉ để lại một bộ phận nhỏ, chiếm Ba-na-phào, còn đại bộ phận truy kích địch theo đường Tà Cui. Chiều 24, trung đoàn gặp địch và đánh nhau một trận quyết liệt trên đường Tà Cui - Thà Khẹt. Bọn địch bị tiêu diệt một bộ phận, còn lại chạy tán loạn. Trung đoàn tiếp tục tiến về hướng Nhom-ma-rạt.

Sáng ngày 27 tháng 12, trung đoàn trưởng Trần Văn Bành ngồi ô-tô cắm cờ đỏ sao vàng chạy vào Thà Khẹt không gặp một trở ngại nào. Thà Khẹt được giải phóng. Toàn tỉnh Khăm Muộn được giải phóng. Lần đầu tiên tên đất bạn, một tỉnh đã được giải phóng hoàn toàn. Nhân dân và cán bộ địa phương gặp bộ đội Việt Nam rất phấn khởi, tiếp đón niềm nở. Tối ngày đó, nhân dân và bộ đội đốt lửa múa lăm vông mừng chiến thắng trong thị xã Thà Khẹt. Bà con Việt kiều ở biên giới Thái Lan nghe tin bộ đội ta vào giải phóng Thà Khẹt cũng sang xem và cùng múa, hát chào mừng thắng trận. Đồng chí Khăm Phay, đại biểu của Pha-thét Lào cùng với chúng tôi, tham gia cuộc vui với các bạn Lào - Việt.

Mở đầu chiến dịch vào ngày 22 tháng 12, đúng ngày thành lập Quân đội ta, chúng ta đánh thắng giòn giã làm cho ngày hội mừng giải phóng Thà Khẹt càng thêm có ý nghĩa. Tình nghĩa quân dân, tinh thần đoàn kết Việt - Lào càng đậm đà, sôi nổi.

Sau giải phóng Thà Khẹt, bộ đội ta có thêm một số lừa ngựa dùng vào vận tải. Anh Hoàng Sâm, tôi, anh Hoàng Minh Thi khỏi phải hành quân bộ vì có ngựa đi.

Trong 5 ngày chiến đấu, ta đã tiêu diệt được 2 tiểu đoàn Âu Phi, gần 2 tiểu đoàn ngụy, quét hết địch trên đường 8, đường 12 và toàn bộ hệ thống ngụy quân, ngụy quyền trong toàn tỉnh Khăm Muộn.

Chúng ta đã chia cắt địch giữa Thượng Lào và Hạ Lào.

Chúng tôi bắt đầu có kế hoạch phối hợp với bạn và giúp bạn xây dựng vùng giải phóng.

Bị thua to ở Lào, Na-va vội vã điều GM1, một số tiểu đoàn lẻ, 1 binh đoàn dù từ Bắc bộ và Nam bộ lên Xa-van-na-khẹt. Lực lượng cơ động của địch ở đây đã lên tới 16 tiểu đoàn, không kể 4 tiểu đoàn pháo và cơ giới.

Thế là Na-va bắt buộc phải phân tán binh lực và theo sự phân tích của Đại tướng Võ Nguyên Giáp “Xê-nô đã trở thành nơi tập trung binh lực thứ 3 của địch, sau đồng bằng Bắc bộ và Điện Biên Phủ”.

Chúng tôi rất vui mừng, vì cứ như đồng chí Bí thư Tổng Quân ủy nói “Kéo 5 tiểu đoàn ứng chiến của địch từ Bắc bộ lên Trung Hạ Lào là thành công”. Nay con số đó đã vượt quá ba lần.

Sau chiến thắng Thà Khẹt, chúng tôi định tranh thủ thời cơ địch đang hoang mang tháo chạy, phát triển chiến dịch xuống đường 9, giải phóng Xa-van-na-khẹt. Nhưng Tổng quân ủy chỉ thị: “Chưa nên đánh Xa-van-na-khẹt vì không chắc thắng. Chiến dịch còn dài, phải bảo toàn lực lượng!”.

Chấp hành chỉ thị ấy, chúng tôi dùng 2 trung đoàn 66 và 101 giải quyết những vị trí lẻ, đánh thẳng xuống đường số 9, kết hợp với trung đoàn 18 từ Quảng Trị đánh lên.

Trung đoàn 18 đã tiêu diệt một loạt vị trí từ Đông Hà đến Rào Quán, Khe Sanh, phá sập 17 cầu, 18 cống, trong đó có các cầu Rào Quán, Mai Lĩnh, Khe Sanh giải phóng cả huyện Hướng Hóa thuộc tỉnh Quảng Trị. Tiếp đó, trung đoàn đánh lên Sê-pôn. Trung đoàn 66 đánh Mường Phìn thắng lợi.

Hệ thống cứ điểm đường 9 của địch hoàn toàn bị tan vỡ. Địch ở Xa-van-na-khẹt bị cô lập. Địch ở Hạ Lào cũng bị uy hiếp. Chúng tôi cho một tiểu đoàn của trung đoàn 66 vòng xuống phía nam, cắt đường 13, bao vây Xa-van-na-khẹt.

Vì thắng lợi liên tiếp nên nảy sinh tư tưởng chủ quan trong các đơn vị. Việc lãnh đạo tư tưởng của Bộ chỉ huy chiến dịch và của các cấp ủy không kịp thời. Do đó, gây nên một số tổn thất.

Trong trận bản Pun, trung đoàn 101 bị tiêu hao nặng mà không diệt gọn được địch. Ở đó, có một tiểu đoàn lính ngụy, gần đó lại có một tiểu đoàn pháo và đại bộ phận của GM1. Địch đã tạm thời củng cố vị trí chiếm đóng của chúng. Nhưng trung đoàn lại xem địch như kẻ thua trận rút chạy, dừng chân thôi. Vì thế, công tác chuẩn bị không đầy đủ, kết quả trận đánh, tuy địch bị thiệt hại, ta cũng bị tiêu hao.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #87 vào lúc: 30 Tháng Tư, 2015, 09:53:34 pm »

Trung đoàn 66 cũng phải trả một giá rất đắt cho tư tưởng chủ quan đánh giá không đúng về địch. Bộ đội đã bao vây Tà Khống mộ tuần lễ. Địch ở đây phòng thủ kiên cố, có công sự vững chắc. Một hôm, ta bắt được một tù binh. Nó khai: binh sĩ trong Tà Khống đang rất hoang mang, có nhiều hiện tượng chuẩn bị tháo chạy. Trung đoàn vội tin là thật., tổ chức tấn công Tà Khống ngay trong đêm 25 tháng 12. Địch đối phó rất mạnh. Bộ đội ta bị thương vong nhiều, không chiếm được đồn, phải rút. Trung đoàn 66 mất một thời gian chấn chỉnh.

Bài học đau xót ở hai trận bản Pun và Tà Khống đã được phổ biến ngay cho các đơn vị. Đối với cán bộ trong chiến dịch lúc bấy giờ, cái từ bản Pun, Tà Khống cũng gần như đồng nghĩa với chủ quan, khinh địch.

Sau đó, có lệnh của Bộ Tổng tư lệnh rút trung đoàn 66, cả anh Hoàng Sâm và anh Hoàng Minh Thi về nhận nhiệm vụ mới. Từ đó cho đến hết chiến dịch, chỉ còn lại lực lượng của sư đoàn 325 (thiếu trung đoàn 95), và tôi trở lại cương vị là Tư lệnh kiêm Chính ủy sư đoàn.



Chỉ trong hai tháng, ta đã giải phóng được một vùng rất rộng từ đường số 8 đến đường số 9. Bạn không có đủ cán bộ và lực lượng để bảo vệ và xây dựng vùng giải phóng. Chúng tôi phải giúp bạn mở lớp ngắn ngày cho cán bộ cơ sở của bạn. Lúc đầu, chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn vì thiếu phiên dịch. Nhưng không bao lâu, do sự cố gắng của bạn và ta, cùng sinh hoạt, cùng học tập, trên tinh thần đồng chí anh em giúp đỡ nhau, những khó khăn đó cũng được giải quyết. Đồng chí Khăm Phay đã nói rất đúng: giải phóng đất đai là một việc khó, nhưng xây dựng và bảo vệ vùng giải phóng càng khó hơn.

Để lại Trung Lào trung đoàn 18 cùng với bộ đội bạn ở đấy tiếp tục xây dựng và củng cố vùng mới giải phóng, chúng tôi tiến xuống Hạ Lào.



Khi bộ đội xuống dưới đường 9, việc tiếp tế từ Liên khu IV không thể tiếp tục vì đường xa, phương tiện thô sơ không thể bảo đảm. Chúng tôi phải khai thác tiếp tế tại chỗ. Chính phủ Trung ương Lào đã chỉ thị cho cán bộ và nhân dân Lào hợp tác và giúp đỡ bộ đội Việt Nam. Dựa vào chỉ thị ấy, chúng tôi cho đoàn cán bộ đi trước, xuống Hạ Lào gặp các cơ quan của bạn để giải quyết vấn đề tiếp tế. Bộ đội ta đi đến đâu thì gạo, lợn đã tập trung sẵn ở đó. Lúc mới gặp, nhân dân bạn thấy bộ đội ta thì đứng nhìn. Nhưng qua những câu chuyện thăm hỏi, dần dần rất thân mật. Chúng tôi thấy trong bà con vận tải có nhiều người từ huyện Tà Ôi, Mường Nòn đến. Họ rất nhiệt tình, nghe nói tiếp tế cho bộ đội Việt Nam đánh Pháp là tình nguyện đi. Họ không kể đường xa, trèo đèo, lội suối. Trong họ, già có, trẻ có, trai có, gái có. Người nhỏ, gầy nhưng rất khỏe. Có người gùi trên 30 - 40 ki-lô-gam lương thực, không có gì tỏ ra khó nhọc lắm.

Có lần tôi hỏi:

- Bà con đi có mệt lắm không?

Họ trả lời:

- Không. Bộ đội Việt Nam sang đây đánh Pháp không mệt, chúng tôi chỉ đi có mấy ngày, có gì đâu mà mệt.

Tôi thấy cảm động. Khi bộ đội ta tạm biệt, tiếp tục cuộc hành quân, họ xin đi theo phục vụ.

Lần đầu tiên, tôi được tiếp xúc rộng rãi với các tầng lớp nhân dân qua nhiều địa phương của nước bạn. Đi đến đâu, chúng ta cũng được tiếp đón niềm nở, thân mật. Họ coi chúng ta như người thân, thái độ đối xử rất chân thành và tin cậy. Họ sẵn sàng giúp đỡ chúng ta những gì có thể giúp được. Họ nói: cầu mong bộ đội mau chóng đánh hết giặc Pháp để người Lào, người Việt được độc lập, tự do.

Lực lượng chúng tôi xuống Hạ Lào trên 5.000, tiến theo hai đường: một là theo đường 23 xuống Xa-ra-van. Hai là theo mé đông đường 13 xuống Lào Ngăm. Trên đường hành quân, trời nắng, rất hiếm nước, bộ đội hái những quả me khô, nhấm cho đỡ khát. Đi dưới rừng cây khoóc, dẫm lên lá khô, nghe kêu lạo xạo. Tôi nói với một chiến sĩ đi bên cạnh: nếu thế này thì bộ đội ta phục kích hay tiếp cận địch vào lúc ban đêm rất khó giữ bí mật. Không khéo làm trò “lạy ông, tôi ở bụi này!”.

Khi bộ đội ta đến Xa-ra-van thì địch ở đó đã tổ chức phòng thủ khá chu đáo trong bốn bức thành kiên cố, có nhiều hàng rào dây thép gai. Địch ở Làm Ngăm đã rút về Thà Tăng. Bộ đội ta lập tức bao vây Xa-ra-van và tấn công tiêu diệt địch ở Thà Tăng. Địch ở Bát xoòng đến cứu nguy cho bọn chúng, bị ta diệt luôn một bộ phận. Tất cả bọn địch ở vùng này đều co lại. Xa-ra-van, Bát-xoòng, Pát-xế, Không-xê-dôn không dám ra ngoài.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #88 vào lúc: 30 Tháng Tư, 2015, 09:53:57 pm »

Qua Lào Ngăm, Thà Tăng, chúng tôi thấy ruộng đất màu mỡ trải rộng mênh mông, cây cối tốt tươi. Nhiều vùng đất còn bỏ hoang, không người khai khẩn. Những đám cà phê chín đen dày đặc, không người hái. Những bãi ngô, mỗi cây hai, ba quả khô rục, không ai bẻ. Những quả bí to tướng nằm sóng sượt bên bờ rẫy không ai nhìn tới. Từ trong cổng vườn, các cụ già, các chị phụ nữ tươi cười hiền hậu, các em nhỏ ngây thơ đứng nhìn chúng tôi đi qua. Có người cất tiếng chào “Xam bay!” “Lào Việt Xa-ma-khi!”. Chúng tôi vui vẻ đáp “Xa-ma-khi! Xa-ma-khi!”.

Tôi nghĩ bụng, những người dân cần cù chất phác ấy rồi đây được làm chủ đất nước mình, làm chủ tài nguyên phong phú của mình thì không bao lâu sẽ xây dựng được một nước Lào văn minh và giàu mạnh…

Đến Xa-ra-van, chúng tôi gặp lại tiểu đoàn 436.

Tiểu đoàn 436 của trung đoàn 101 đã làm nhiệm vụ độc lập, ngay từ đầu chiến dịch, thọc sâu xuống vùng A-tô-pơ.

Lúc giao nhiệm vụ, anh Văn đã nói với tôi về tầm quan trọng của mũi này trong chiến dịch.

Trong kế hoạch tác chiến Đông - Xuân 1953 - 1954, Bộ chính trị Trung ương Đảng có đề ra một điểm: “Phải đoạt lấy địa bàn chiến lược Tây Nguyên, trước hết là bắc Tây Nguyên để phá tan âm mưu củng cố và bình định miền Nam của địch. Trung ương cũng đã chỉ rõ: “Lực lượng ta có phát triển vào Tây Nguyên thì mới giành được thế chiến lược quan trọng nhất miền Nam. Nếu khu chiến lược đó ở trong tay địch thì cục diện miền Nam rất khó cải biến”.

Tây Nguyên, Hạ Lào và đông bắc Cam-pu-chia nằm sát cạnh nhau. A-tô-pơ là một vùng cuối của Hạ Lào giáp ranh cả ba biên giới: phía đông giáp tỉnh Công Tum của ta, phía Nam giáp các tỉnh Xtung-Treng và Ra-na-ta-ki-ri của Cam-pu-chia. Trong lúc bộ đội ta ở Liên khu V đánh Công Tum, nếu ta mở mặt trận ở A-tô-pơ sẽ gây cho địch nhiều khó khăn lớn. Vì vậy, Bộ Tổng tư lệnh quyết định cho mũi thọc sâu đánh thật bất ngờ để tạo chiến thắng trên chiến trường miền Nam.

Múi thọc sâu đó, Bộ Tổng tư lệnh giao cho sư đoàn 325 chúng tôi đảm nhiệm. Và Bô cũng đã tính toán, cân nhắc thấy không cần nhiều lắm, chỉ một tiểu đoàn là đủ.

Chúng tôi chọn tiểu đoàn 436 có khả năng đánh công kiên khá nhất của trung đoàn 101. Tiểu đoàn này đánh phục kích, tập kích, vận động đều tốt, có thể hoàn thành nhiệm vụ trên giao.

Vè cán bộ, chúng tôi chọn anh Lê Kích, trung đoàn phó xuống làm tiểu đoàn trưởng, anh Nguyễn Minh Đức, phó chính ủy trung đoàn xuống làm chính trị viên tiểu đoàn. Anh Kích và anh Đức trước kia có công tác ở Hạ Lào, nay đi làm nhiệm vụ đó càng thuận lợi. Anh Sơn và anh Định, tiểu đoàn trưởng và chính trị viên tiểu đoàn xuống làm cấp phó.

Tiểu đoàn 436 được tăng cường một đại đội trợ chiến, một trung đội thông tin có đài vô tuyến điện 15 oát. Các đại đội đều được bổ sung quân số, trang bị đầy đủ. Trước khi lên đường, chúng tôi đến kiểm tra các mặt trong công tác chuẩn bị và động viên anh em khắc phục khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ. Tất cả cán bộ, chiến sĩ của tiểu đoàn rất tin tưởng và phấn khởi.

Theo chỉ thị của Tổng Quân ủy, các tỉnh của Liên khu IV, Liên khu V phải tích cực sẵn sàng cung cấp lương thực, dân công, bảo đảm cho tiểu đoàn hành quân đến đích. Những ngày đầu đã có 1.500 dân công của Nghệ An, Hà Tĩnh mang vác súng đạn, lương thực cùng đi với tiểu đoàn. Đến Ba Lòng, có 1.500 dân công của Quảng Trị - Thừa Thiên chờ sẵn để thay thế cho dân công Nghệ Tĩnh.

Theo kế hoạch ban đầu, tiểu đoàn 436 hành quân đến Hướng Hóa thuộc Quảng Trị, lên đánh địch ở Xa-ra-van rồi tiến xông A-tô-pơ.

Nhưng kế hoạch ấy bị lộ, phải hủy bỏ. Tiểu đoàn phải quay trở lại, đi sâu dọc núi Trường Sơn vào Quảng Nam rồi rẽ sang A-tô-pơ. Đây cũng là một cuộc xẻ đường lần thứ 2 của bộ đội Bình Trị Thiên. Chính con đường mòn này, năm năm sau, năm 1959, cán bộ chiến sĩ Đại đoàn vinh dự được vào tham gia phai phá, mở thành con đường mang tên Bác - đường Hồ Chí Minh - đường chi viện cho miền Nam chống Mỹ.

Anh em trong tiểu đoàn rất lo vì không xác định được thời gian đi đường. Nhưng nhờ sự chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời của Tổng Quân ủy, nên cán bộ tỉnh Quảng Trị và đồng chí Bí thư huyện ủy Hướng Hóa đã đến với tiểu đoàn, trực tiếp giải quyết các khó khăn về lương thực, dân công và cả người dẫn đường rất chu đáo. Dọc đường hành quân, thỉnh thoảng anh chị em lại gặp các bà con dân tộc đứng đón bộ đội bên những gùi gạo đầy. Các cụ già nói: “Theo lệnh Bác Hồ, dân bản đem gạo đến giúp bộ đội ăn đánh Pháp”.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #89 vào lúc: 30 Tháng Tư, 2015, 09:54:26 pm »

Đến tây Quảng Nam, có nơi đồng bào đang đói, họ vẫn gùi sắn ra đường đón bộ đội. “Dân bản phải ăn củ rừng, chỉ đem giúp bộ đội ít sắn thôi!”. Thật là cảm động! Anh em ta cám ơn và san bớt lại cho đồng bào ít gạo, muối của mình.

Vừa đến biên giới Việt - Lào ở tỉnh Quảng Nam, tiểu đoàn đã gặp người của Ban cán sự Hạ Lào đến đón và đưa về chiến khu ở Bô-lô-ven. Đến đây, tiểu đoàn 436 có thêm một đại đội quân tình nguyện Lào và một đội đặc công phối thuộc.

Trong khi cho anh em nghỉ vài ngày lấy sức, ban chỉ huy tiểu đoàn tranh thủ nghiên cứu tình hình địch vùng này.

A-tô-pơ có một tiểu đoàn ngụy do bọn Pháp chỉ huy và 4 lô cốt bảo vệ sân bay. Đồn tiền tiêu của chúng có một “đại đội xung kích” (Compagnie de choc) đóng ở bản Pui. Bọn địch ở đây rất chủ quan và có nhiều sơ hở vì chúng chưa bị đánh lần nào.

Trước tết âm lịch, bộ đội ta vượt sông Xê-kông để sang A-tô-pơ. Nhân dân Lào đem đến rất nhiều thuyền nan để cho bộ đội vượt sông trong đêm tối. Bộ đội qua hết, bà con mỗi người kéo một cành lá xóa hết dấu chân trên bãi cát để giữ bí mật hoàn toàn cho trận đánh.

Sáng 30 tết, tiểu đoàn 436 đánh trận đầu tiên trên đất bạn, diệt gọn “đại đội xung kích” của địch ở bản Pui, bắt sống 80 tên, đánh sập 2 lô cốt ở sân bay. Chiều 30 tết, tiểu đoàn tiến vào bao vây thị xã A-tô-pơ, địch ở đây rất hoang mang. Cán bộ cơ sở của ta phối hợp vận động gia đình binh lính ngụy kêu gọi chồng con ra hàng. Trước khí thế của bộ đội ta, bọn chỉ huy Pháp khiếp sợ, rút chạy ngay trong đêm 30 tết.

Sáng mồng một tết, quân ta tiến vào thị xã giữa tiếng hoan hô nhiệt liệt của nhân dân địa phương. Bà con Việt kiều hân hoan mừng bộ đội ta chiến thắng giữa lúc đang tưng bừng đón xuân trong hương trầm ngào ngạt.

Gặp bà con kiều bào, bộ đội ta rất mừng nhưng cũng chỉ kịp nói vài lời chúc tết ngắn ngủi thì phải chia tay ngay vì vội lên đường truy kích địch. Chiều mồng một tết, anh em đến Bô-lô-ven thì nhận được điện của Bộ Tổng tư lệnh quyết định tặng thưởng tiểu đoàn 436 Huân chương Quân công hạng ba về thành tích giải phóng A-tô-pơ. Anh em rất phấn khởi lại tiếp tục chạy đuổi kịp địch, giết tại chỗ thêm 30 têm, bắt sống 25 tên, có một tên quan ba phòng nhì của phân khu A-tô-pơ - Xa-ra-van. Bọn sống sót chạy tan tác…

Đến đây, tiểu đoàn 436 gặp lại trung đoàn 101. Toàn thể cán bộ, chiến sĩ rất hồ hởi, vui mừng như con một nhà đi xa, nay lại sum họp. Họ kể cho nhau nghe chặng đường chiến đấu vừa qua của họ: Đường số 8, đường 12, đường 6, Thà Khẹt, A-tô-pơ… Họ kể thêm cho nhau nghe những tin tức đã nhận được ở quê hương Bình Trị Thiên, ở Thanh Nghệ Tĩnh. Nơi đây, nọ lại được ăn tết đầu xuân của đoàn quân Quang Trung ngày trước.

Ở Hạ Lào, cũng như ở Trung Lào, bạn đã có Ủy ban kháng chiến khu, có đồng chí Khu trưởng chỉ đạo dân chính và đồng chí Tư lệnh chỉ đạo công tác quân sự. Ta có ban cán sự và một đoàn cán bộ giúp bạn làm công tác dân vận. Anh Cầu, Bí thư Ban cán sự Hạ Lào và Đông Cam-pu-chia lên đây giúp bạn từ năm 1949, rất am hiểu tình hình địa phương. Tôi biết anh Cầu từ mùa thu năm 1945 trên đường đi dự đại hội toàn quốc của Đảng ở Tân Trào. Đã chín năm anh em lại được gặp nhau, rất mừng. Ở Bô-lô-ven tôi còn gặp nhiều đồng chí khác trong Ban cán sự. Chúng tôi lại họp Ban cán sự để thông báo tình hình cho nhau và trao đổi một số chủ trương công tác trong thời gian tới.

Trong một buổi họp do Ban cán sự triệu tập, tôi thấy nhiều đồng chí đóng khố, tóc dài, mình trần đen bóng, đến họp. Tôi cứ tưởng đó là cán bộ địa phương được mời đến tham dự. Nhưng khi nghe các đồng chí ấy phát biểu mới biết các đồng chí ấy là cán bộ Việt Nam sang công tác, lòng tôi rất cảm phục. Hầu hết các đồng chí ấy khi xuống cơ sở đều phải chan hòa với nhân dân địa phương về phong tục, sinh hoạt. Xây dựng được lòng tin cậy lấy nhau giữa nhân dân ba nước Việt - Lào - Campuchia cũng khá gian khổ. Đã gần một trăm năm bọn thực dân Pháp thực hiện chính sách chia để trị, ra sức dựng lên bức tường ngăn cách, reo rắc nghi ngờ giữa các dân tộc anh em. Chúng khuyến khích, nuôi dưỡng những sự thù hằn giữa các dòng họ trong một nước mà lắm lúc chỉ do chuyện giành nhau một con suối, một đám rẫy… Những cán bộ dân vận Việt Nam đã cùng với cán bộ địa phương đến tận từng bản, từng nhà, giải thích cho nhân dân hiểu được ai là bạn, phải đoàn kết giúp đỡ, ai là thù phải tập trung sức đánh đuổi. Đối với một dân tộc bị kẻ thù kìm hãm, sống trong cảnh đói dốt làm cho họ hiểu được quyền con người, không phải là chuyện đơn giản. Nếu không phải là cán bộ cách mạng có tinh thần quốc tế cao cả, có tình cảm giai cấp vô sản sâu sắc thì không thể hy sinh cuộc sống riêng tư của mình, chịu đựng gian khổ như thế. Họ phải rời bỏ gia đình, xa nơi chôn nhau cắt rốn, cùng ăn, cùng ở với nhân dân bạn hết năm này qua năm khác để chống quân xâm lược, giành lại độc lập, tự do cho mỗi nước. Cuộc sống âm thầm ấy của anh em ít được ai biết đến, nhưng tinh thần yêu nước, tinh thần quốc tế cao cả của họ đáng khâm phục biết bao nhiêu.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM