Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 09:07:08 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Những nẻo đường thời gian  (Đọc 31999 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #70 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 02:00:21 pm »

Chương tám: Về Tổng cục Kỹ thuật



 Ngày 20 tháng 12 năm 2004, tôi nhận được điện triệu tập về Bộ Quốc phòng nhận nhiệm vụ mới. Hôm đó, Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng tổ chức trao quyết định thăng quân hàm cấp tướng và quyết định bổ nhiệm chức vụ đối với một số cán bộ cao cấp. Tôi được trao quyết định của Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm giữ chức Phó Chủ nhệm Tổng cục Kỹ thuật về Chính trị. Cùng nhận quyết định bổ nhiệm cùng đợt với tôi có anh Đàm Trại, Phó Tư lệnh về Chính trị Quân khu 1 nay giữ chức Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; anh Nguyễn Đình Hậu, Phó Tư lệnh về Chính trị Binh chủng Thông tin nay giữ chức Phó Chủ nhiệm Tổng cục Công nghiệp quốc phòng về Chính trị và nhiều anh khác nữa.
 Sau khi nhận quyết định ở Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương - Bộ Quốc phòng, tôi được anh Lê Văn Dũng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị mời lên giao nhiệm vụ cụ thể. Anh Dũng nói khát quát về vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Tổng cục Kỹ thuật, cả trong chỉ đạo ngành kỹ thuật toàn quân và trong quản lý lãnh đạo, chỉ huy nội bộ Tổng cục.  Đồng thời, anh nêu lên  một số vấn đề về tình hình của Tổng cục Kỹ thuật cần chú ý khi mới về trên cương vị chủ trì công tác đảng, công tác chính trị. Cùng tham gia  buổi làm việc hôm đó có anh Nguyễn Đăng Sáp, Cục trưởng Cục Cán bộ và anh Nguyễn Văn Việt, Phó Hiệu trưởng về Chính trị Trường Sĩ quan Lục Quân 1.

Thực ra, đến lúc đó việc thuyên chuyển khỏi Trường Sĩ quan Luc quân 1, không còn bất ngờ đối với tôi. Bởi lẽ, ngày 27 tháng 5 năm 2004, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ký quyết định bổ nhiệm anh Nguyễn Văn Việt, Đại tá, Chủ nhiệm chính trị Học viện Chính trị quân sự về giữ chức Phó Hiệu trường về Chính trị Trường Sĩ quan Lục quân 1. Trước khi anh Việt về Trường, anh Phạm Văn Long, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị và anh Nguyễn Đăng Sáp, Cục trưởng Cục Cán bộ đã trao đổi, thông báo với tôi về dự báo ý kiến đề xuất của cơ quan và ý định của thủ trưởng cấp trên về công tác của tôi trong thời gian tới. Anh Việt về Trường từ tháng 6 nhưng mãi đến cuối tháng 12 năm 2004 mới nhận bàn giao công việc. Trong khoảng thời gian đó, mặc dù chưa điều hành công việc theo cương vị chủ trì, nhưng anh đã dành thời gian nắm tình hình Nhà trường và tham gia công tác trong Đảng ủy và Ban Giám hiệu. Tôi với anh Việt quen biết nhau từ mấy năm trước. Anh tham gia chiến đấu ở chiến trường Tây Nguyên trong chiến tranh chống Mỹ rồi về học ở Học viện Chính trị, được giữ lại làm giáo viên và cán bộ chính trị ở Học viện. Anh Việt là người có năng lực, kinh nghiệm trong chỉ đạo công tác đảng, công tác chính trị, nhất là ở nhà trường.
Từ Bộ Quốc phòng tôi trở về Trường để bàn giao công việc và chia tay với anh em. Hôm tổ chức chia tay tôi, Ban Giám hiệu có mời đại diện lãnh đạo các địa phương trên địa bàn đóng quân như Thị ủy, Ủy ban nhân thị xã Sơn Tây; Huyện ủy, Ủy ban nhân dân các huyện Phúc Thọ, Thạch Thất,…(Hà Tây), Thị ủy, Ủy ban nhân dân thị xã Hòa Bình, các xã trong vùng và các đơn vị bạn. Hơn bốn năm công tác ở Trường, trên cương vị của mình, tôi đã cùng với tập thể Đảng ủy và Ban Giám hiệu lãnh đạo,chỉ huy thực hiện nhiệm vụ giáo dục-đào tạo và một số nhiệm vụ khác đạt được một số kết quả. Tôi phấn khởi và có phần tự hào về quãng thời gian công tác ở Trường Sĩ quan Lục quân 1. Đây là kỷ niệm đẹp về một thời quân ngũ.
Phút chia tay, nhìn lại căn nhà nhỏ tĩnh lặng mấy năm trời khuya sớm vào ra; nhìn lại những giảng đường, hội trường, thao trường, bãi tập, một thời sôi động gắn bó; đặc biệt là nhìn lại anh em đồng đội, những gương mặt thân quí đã cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, đồng tâm hiệp lực xây dựng Nhà trường trong mấy năm trời, lòng tôi bồi hồi xúc động. Tôi lưu luyến những kỷ niệm trên mảnh đất này - mảnh đất Xứ Đoài với núi Tản, sông Đà đã để lại ấn tượng đặc biệt sâu sắc trong tâm hồn tôi; lưu luyến những tình cảm chân thành quí mến mà mọi người đã dành cho tôi.
 Nhiều năm sau này, mỗi dịp được anh Nguyễn Quốc Khánh rồi anh Trần Quốc Phú, Hiệu trưởng, Nguyễn Văn Việt, Chính ủy và các anh trong Ban Giám hiệu mời về Trường dự các ngày lễ ( ngày Khai giảng năm học, ngày Thành lập trường, ngày Nhà giáo Việt Nam,…), tôi rất mừng và có cảm giác như về lại đại gia đình mình vậy.
Ngày 10 tháng 1 năm 2004, tôi có mặt ở Tổng cục Kỹ thuật. Tiễn tôi từ Trường Lục quân về Tổng cục Kỹ thuật có anh Lê Viết Anh, Phó Chủ nhiệm chính trị; anh Nguyễn Tiến Phúc, Trưởng ban Cán bộ và Nguyễn Văn Hoàn lái xe. Xe bon bon trên con đường Láng – Hòa Lạc quen thuộc với cự ly gần 40 km, thời gian đi trên dưới 45 phút mà mỗi tuần hai lần tôi qua lại trước và sau ngày nghỉ, trong vòng hơn 4 năm trời. Trong đời biết bao lần chia tay, vậy mà khi anh em lên xe quay về Trường Sĩ quan Lục quân 1, lòng tôi không khỏi bịn rịn, bùi ngùi trước những con người suốt mấy năm trời gắn bó.

***

Như mọi cán bộ khi đến nhận nhiệm vụ ở một đợn vị mới, việc đầu tiên là phải tìm hiểu về lịch sử hình thành, chức năng nhiệm vụ, tổ chức biên chế, tình hình đơn vị và những đặc điểm lớn chi phối. Nôm na là cần có sự hiểu biết ban đầu về công tác và những người cộng tác trên cương vị mới. Hơn nữa, đối với tôi ngành kỹ thuật là một địa hạt mới, một lĩnh vực mới mà trước đây tôi chưa bao giờ trải qua.
Vũ khí, trang bị kỹ thuật là nhân tố đặc biệt quan trọng tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội và tiềm lực quốc phòng của đất nước. Thời nào cũng vậy, có quân đội là có vũ khí và trang bị kỹ thuật. Có vũ khí, trang bị kỹ thuật thì tất yếu phải có công tác bảo đảm kỹ thuật. Sự phát triển của công tác kỹ thuật luôn luôn gắn liền với sự phát triển lực lượng của quân đội. Vũ khí, trang bị kỹ thuật càng hiện đại, đòi hỏi công tác kỹ thuật càng tinh vi, càng lớn. Công tác kỹ thuật là một mặt của công tác quân sự, là một trong những nhân tố quan trọng bảo đảm cho quân đội xây dựng và chiến đấu thắng lợi.
 Theo lịch sử, ngành kỹ thuật của quân đội ta lần lượt được hình thành và phát triển từ nhỏ lẻ, phân tán trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, dần dần lớn mạnh đủ sức đảm nhiệm chuyên trách từng lĩnh vực hoạt động kỹ thuật và trở thành những chuyên ngành như Quân giới, Quân khí, Xe- Máy...Trong kháng chiến chống Pháp và gần hết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cơ quan cấp chiến lược của ngành kỹ thuật đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ huy trực tiếp của  Bộ Quốc phòng-Tổng Quân ủy; sau đó là Tổng cục Cung cấp (từ năm 1955 trở đi đổi tên là Tổng cục Hậu cần).
Bước vào thời kỳ cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, do yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội chính qui hiện đại, do trang bị quân đội ta ngày càng phát triển về số lượng và phức tạp về kỹ thuật, từ tháng 7 năm 1973, Quân ủy Trung ương đã quyết nghị phải tiến tới thành lập một cơ quan chuyên trách công tác trang bị kỹ thuật và sản xuất quốc phòng. Trên cơ sở đó, ngày 5 tháng 4 năm 1974, Quân ủy Trung ương đã ra Nghị quyết về việc đề nghị thành lập Tổng cục Kỹ thuật trực thuộc Bộ Quốc phòng để đáp ứng yêu cầu bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật cho quân đội trong tình hình mới. Nghị quyết Quân ủy Trung ương đã xác định chức năng, nhiệm vụ: ” Tổng cục Kỹ thuật là cơ quan giúp Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng chỉ đạo công tác quản lý và bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật cho các lực lượng vũ trang, nghiên cứu khoa học kỹ thuật quân sự và trực tiếp quản lý các xí nghiệp quốc phòng. Tổng cục Kỹ thuật căn cứ vào đường lối chủ trương của Trung ương  về nhiệm vụ chiến đấu và xây dựng của lực lượng vũ trang, căn cứ vào nghị quyết của Quân ủy Trung ương, yêu cầu cụ thể của kế hoạch tác chiến và xây dựng lực lượng vũ trang của Bộ Tổng Tham mưu mà thực hiện nhiệm vụ của mình”.
 Sau khi có Nghị quyết của Quân ủy Trung ương, được sự đồng ý của Bộ Quốc phòng, Tổng cục Hậu cần đã chuyển dần một bộ phận thuộc Bộ Tham mưu, Cục Chính trị, Cục Quân giới, Cục Quân khí, Cục Quản lý xe máy,…để hình thành cơ quan Tổng cục Kỹ thuật hoạt dộng theo chức năng nhiệm vụ mới. Theo đề nghị của Quân ủy Trung ương, ngày 18 tháng 7 năm 1974, Bộ Chính trị ra Nghị quyết thành lập Đảng bộ Tổng cục Kỹ thuật gồm các đảng bộ cơ quan, đơn vị tiếp nhận từ Tổng cục Hậu cần ( Bộ Tham mưu, Cục Chính trị, Văn phòng và các cục: Quân giới, Quân khí, Quản lý xe máy, Vật tư, các trường, viện, nhà máy, xí nghiệp…) và đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương. Sau đó, ngày 10 tháng 9 năm 1974, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 211/CP thành lập Tổng cục Kỹ thuật. Tổng cục Kỹ thuật có nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ đạo công tác quản lý trang bị và bảo đảm kỹ thuật trong toàn quân, nghiên cứu kỹ thuật quân sự và trực tiếp quản lý các xí nghiệp quốc phòng.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #71 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 02:00:59 pm »

 Tổng cục Kỹ thuật ra đời đáp ứng những kịp thời những yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đánh dấu bước phát triển mới quan trọng của quân đội ta trong việc chỉ đạo tập trung thống nhất công tác kỹ thuật trong tình hình mới. Ngay sau khi thành lập, Tổng cục đã chủ động bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật cho chiến trường Miền Nam, góp phần xứng đáng vào thắng lợi vẻ vang của quân và dân ta- giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo về Tổ quốc, Tổng cục nhanh chóng xây dựng lực lượng, hình thành hệ thống quản lý kỹ thuật theo ba cấp: chiến thuật, chiến dịch, chiến lược và hoạt động có hiệu quả.
Tháng 12 năm 1987, thực hiện chủ trương quản lý và bảo đảm kỹ thuật theo chuyên ngành của Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng, Tổng cục Kỹ thuật đã từng bước chuyển giao các đơn vị trực thuộc Tổng cục về trực thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng tham mưu. Theo đó, Cục Ô tô-máy kéo-trạm nguồn, Cục Vũ khí, Viện Kỹ thuật quân sự về trực thuộc Bộ Quốc phòng; Cục Quản lý kỹ thuật về trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu. Các chức năng nhiệm vụ của Tổng cục Kỹ thuật trước đây được chuyển về Tổng cục Công nghiệp quốc phòng và các cục chuyên ngành trực thuộc Bộ Quốc phòng đảm nhiệm. Trên thực tế, Tổng cục Kỹ thuật đã giải thể, chỉ còn một cơ quan đảm nhiệm công tác kế hoạch bảo đảm kỹ thuật, khoảng hơn mười cán bộ do anh Phan Thanh Liêu phụ trách.
Sau hơn một năm thực hiện quản lý và bảo đảm kỹ thuật theo 10 chuyên ngành kỹ thuật, Bộ Quốc phòng nhận thấy cơ chế này sớm bộc lộ nhiều hạn chế, không phát huy được vai trò của các cấp trong công tác kỹ thuật. Để kiện toàn hệ thống quản lý, chỉ huy, chỉ đạo bảo đảm kỹ thuật toàn quân, ngày 24 tháng 4 năm 1989, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành quyết định qui định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức mới của Tổng cục Kỹ thuật. Tiếp đó, ngày 16 tháng 4 năm 1993, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra quyết định chấn chỉnh tổ chức Tổng cục Kỹ thuật: Cục Quân khí, Cục Quản lý xe máy, Cục Tiêu chuẩn-Đo lường- Chất lượng  thuộc Bộ Quốc phòng được chuyển về trực thuộc Tổng cục Kỹ thuật. Đến năm 1999, thực hiện Nghị quyết 07/BCT của Bộ Chính trị và Nghị quyết 33/ĐUQSTW của Dảng ủy quân sự Truan ương về chấn chỉnh tổ chức lực lượng quân đội, Cục Kỹ thuật binh chủng trực thuộc Tổng cục Kỹ thuật được thành lập. Từ đó, Tổng cục Kỹ thuật bước vào giai đoạn phát triển mới.
 Như vậy là, trong mọi thời kỳ, bảo đảm kỹ thuật là một nhu cầu tất yếu khách quan; công tác kỹ thuật là một lĩnh vực không thể thiếu trong việc xây dựng và duy trì sức mạnh chiến đấu của quân đội và tiềm lực quốc phòng của đất nước. Nhưng loại hình, qui mô, cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động và mối quan hệ phối hợp của cơ quan chỉ đạo cấp chiến lược lại có sự phát triển trong từng giai đoạn.

Đến thời điểm tôi được điều về, thì Tổng cục Kỹ thuật là cơ quan đầu ngành về công tác kỹ thuật của Quân đội. Tổng cục Kỹ thuật có ba chức năng cơ bản: Một là, tham mưu cho Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ quốc phòng về công tác bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho quân đội; Hai là, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra công tác bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật đối với các đơn vị trong toàn quân; Ba là, lãnh đạo, chỉ huy toàn diện các đơn vị thuộc Tổng cục trong công tác quản lý và bảo đảm kỹ thuật theo phân công, phân cấp. Ba chức năng đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong mối tác động qua lại.
Tổ chức của Tổng cục thời kỳ này có thể chia thành bốn khối: Khối cơ quan; Khối kỹ thuật chuyên ngành; Khối trường, viện nghiên cứu; Khối doanh nghiệp quốc phòng. Khối cơ quan có Văn phòng Tổng cục,  Bộ Tham mưu, Cục Chính trị, Cục Hậu cần, và một số cơ quan trực thuộc (như Thanh tra, Điều tra hình sự, Tài chính, Tạp chí Kỹ thuật và Trang bị, Ban Biên soạn lịch sử-Tổng kết,…). Khối kỹ thuật chuyên ngành có bốn cục: Quân khí, Xe-Máy, Kỹ thuật binh chủng và Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất lượng. Khối trường, viện có; Trường Cao đẳng kỹ thuật Vin-hem-pich; Trường Kỹ thuật miền Trung; Viện Kỹ thuật cơ giới quân sự. Khối nhà máy xí nghiệp quốc phòng có: Z133, Z153, Z151 và Xí nghiệp liên hợp Z751. Quân số đông, với nhiều loại hình tổ chức, địa bàn đóng quân trải rộng trên nhiều địa phương trong cả nước -  nhiều đơn vị đóng quân ở vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi.
Lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục Kỹ thuật hồi đó có anh Đỗ Đức Pháp, Chủ nhiệm; Phó Chủ nhiệm là các anh:  Đinh Danh Nghiêm, Võ Minh Cẩm, Nghiêm Sĩ Chúng, Bế Quốc Hùng. Qua công việc, tôi đã quen biết các anh từ trước, sau này khi cùng công tác với nhau càng gắn bó hơn. Anh Đỗ Đức Pháp quê ở Đức Phổ, Quảng Ngãi; là Cục trưởng Cục Quân khí, ngày 28 tháng 10 năm 1994 anh được bổ nhiệm Phó Chủ nhiệm TCKT và ngày 1 tháng 2 năm 2002 anh được bổ nhiệm giữ chức Chủ nhiệm TCKT thay anh Nguyễn Hoa Thịnh. Anh Đinh Danh Nghiêm quê ở xã Gia Thủy, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình; là sinh viên khóa 1 của Trường Đại học Kỹ thuật quân sự (nay là Học viện kỹ thuật quân sự) khi tốt nghiệp anh đi B vào tận chiến trường Nam Bộ; sau giải phóng Miền Nam anh được điều đến một đơn vị cơ sơ ở gần biên giới phía Bắc rồi về cơ quan Cục Quân khí; ngày 17 tháng 11 năm 2000 anh được bổ nhiệm từ Cục trưởng Cục Quân khí lên Phó chủ nhiệm TCKT. Anh Võ Minh Cẩm, tiến sĩ ngành kỹ thuật động cơ máy bay, quê ở huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi; trước khi được bổ nhiệm Phó Chủ nhiệm TCKT ( ngày 17 tháng 11 năm 2000), anh là Phó Chủ nhiệm Kỹ thuật Quân chủng Phòng không - Không quân. Anh Nghiêm Sĩ Chúng được bổ nhiệm Phó Chủ nhiệm kiêm Tham mưu trưởng TCKT từ ngày 1 tháng 2 năm 2002. Trước đó, anh đã có hơn 22 năm công tác ở Việt Bắc, nhiều năm làm Chủ nhiệm Kỹ thuật Quân khu 1; quê gốc ở xã Đức Yên, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh nhưng anh lại sinh ra ở Đà Lạt. Tôi đều đã về cả hai nơi đó. Anh Bế Quốc Hùng quê ở Cao Bằng nhưng suốt mấy chục năm quân ngũ lại gắn bó với biển cả, trưởng thành  từ cơ sở lên lên Thuyền trưởng tàu chiến đấu, rồi đến Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân. Sau hơn một năm kể từ ngày tôi về Tổng cục, Bộ Quốc phòng điều động anh Nguyễn Hữu Thìn, Phó Tư lệnh về Chính trị Quân khu 2 về làm Phó Chính ủy Tổng cục. Hiện nay anh Thìn là Trung tướng, Chỉnh ủy Tổng cục Kỹ thuật.
Ngày 10 tháng 1 năm 2005, tôi về Tổng cục Kỹ thuật thì ba ngày sau được Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương triệu tập dự hội nghị quán triệt triển khai thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị  về tổ chức Đại hội Đảng các cấp trong quân đội tiến tới Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ VII, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X. Ở thời điểm ấy, anh Hoàng Anh Tuấn, Bí thư Đảng ủy Tổng cục đi công tác ở phía Nam chưa về; mà tôi thì chưa nhận bàn giao, chưa bổ sung vào Đảng ủy, do đó chưa đủ tư cách điều hành việc triển khai. Nhưng nếu đi họp về mà không triển khai sớm thì không kịp tiến độ theo qui định của trên. Vì vậy, để giữ nguyên tắc, tôi xin ý kiến của anh Đỗ Đức Pháp, Phó Bí thư Đảng ủy Tổng cục.
Anh Pháp nói với tôi rằng:
-  Nguyên tắc thủ tục là vậy. Nhưng theo quyết định của trên, thì anh là người chủ trì triển khai chuẩn bị đại hội đảng các cấp trong Tổng cục. Cho nên, trong khi anh Tuấn chưa về, anh cứ triệu tập Cục Chính trị và các cơ quan lên trao đổi trước và phân công việc chuẩn bị.
Sau khi xin ý kiến của anh Pháp, tôi mời anh Lê Văn Lai, Cục trưởng Cục Chính trị, anh Quách Dũng, Phó chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng ủy và mấy anh em ở Cục Chính trị  bước đầu trao đổi việc chuẩn bị để khi anh Tuấn đi công tác về kịp triển khai. Bước đầu nêu lên mấy việc phải làm: Chuẩn bị Chỉ thị của Thường vụ Đảng ủy Tổng cục về việc quán triệt và thực hiện chỉ thị của trên; Kế hoạch của Thường vụ Đảng ủy; Hướng dẫn của Cục Chính trị, của Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy,…Dự kiến chọn đảng bộ làm điểm để rút kinh nghiệm ở cả  cấp cơ sở và cấp trên cơ sở. Bàn việc tuyên truyền cổ động, văn hóa văn nghệ chuẩn bị chào mừng đại hội.
  Những ngày tôi mới về, anh Đỗ Đức Pháp bố trí thời gian trực tiếp dẫn tôi đến thăm - thực chất là ra mắt các cơ quan, đơn vị của Tổng cục Kỹ thuật đóng quân ở các khu vực nội ngoại thành Hà Nội. Khi đến các cơ quan đơn vị, anh Pháp vắn tắt giới thiệu tôi với anh em; sau đó lãnh đạo, chỉ huy đơn vị báo cáo một số nét chính về tình hình đơn vị rồi dẫn tôi đi thăm các cơ sở, chỗ ăn, ở, sinh hoạt, nơi làm việc. Nhiều anh lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị biết tôi từ khi tôi còn làm Cục trưởng Cục Chính sách – Tổng cục Chính trị. Từ cách đặt vấn đề của anh Pháp và qua tiếp xúc trao đổi bước đầu với mọi người từ lãnh đạo, chỉ huy đến cán bộ, nhân viên những nơi đến thăm, tôi nhận thấy ở họ đều toát lên một thái độ chân thành, cởi mở, thân thiện, nghiêm túc và có năng lực, phong cách làm việc tốt. Điều đó bước đầu làm tôi tự tin, yên tâm phấn khởi trên cương vị công tác mới.
Từ ngày 19 đến 22 tháng 1 năm 2005, theo kế hoạch đã xác định, tập thể Thủ trưởng Tổng cục nghe lãnh đạo, chỉ huy các nhà máy Z153, Z133, Z551 (sau này gọi là Z 151), Z 751 báo cáo kế hoạch sản xuất - kinh tế - tài chính - xã hội năm 2005. Nhà máy Z153 do anh Phú làm Giám đốc, anh Long làm Bí thư Đảng ủy; Nhà máy X133 do anh Lâm Thanh làm Giám đốc, anh Thiện Lưỡng làm Bí thư Đảng ủy; Nhà máy Z551 do anh Sơn làm Giám đốc, anh Chất làm Bí thư Đảng ủy; Liên hợp xí nghiệp Z751 do anh Đặng Quốc Dũng là Tổng Giám đốc, anh Phạm Ngọc Kha làm Bí thư Đảng ủy.
Mới về Tổng cục mà được nghe các nhà máy bảo vệ kế hoạch, đối với tôi là một dịp may. Qua mấy ngày nghe lãnh đạo, chỉ huy các nhà máy báo cáo, đại diện các cơ quan có liên quan của Tổng cục trình bày ý kiến thẩm định, các Thủ trưởng Tổng cục tham gia ý kiến và Chủ nhiệm Tổng cục kết luận, tôi hiểu được đặc điểm, tính chất, tình hình nhiệm vụ, những khó khăn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ và kết quả đạt được của khối nhà máy quốc phòng thuộc Tổng cục Kỹ thuật.
Các nhà máy quốc phòng của Tổng cục thuộc loại doanh nghiệp công ích, thực hiên chế độ hạch toán hoàn toàn. Có nhiệm vụ sửa chữa vừa (trung tu) và sửa chữa lớn (đại tu) các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật trong quân đội từ toàn bộ vũ khí, đạn dược bộ binh đến các loại pháo mặt đất, pháo phòng không, ô tô, máy phát điện, xe tăng, thiết giáp.
   Nhìn chung, các trang, thiết bị và dây chuyền công nghệ của các nhà máy được hình thành từ nhiều năm trong chiến tranh giải phóng, riêng Xí nghiệp liên hợp Z751 là tiếp thu từ Lục quân công xưởng của quân đội ngụy. Đồng thời mấy năm gần đây, Nhà nước và Bộ Quốc phòng đã đầu tư chiều sâu về  khả năng công nghệ nhằm tăng thêm năng lực, chất lượng sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật và sản xuất vật tư kỹ thuật cho các nhà máy.
Vũ khí, trang bị kỹ thuật đưa vào sửa chữa phần nhiều đều bị hư hỏng nặng; mất đồng bộ nghiêm trọng; vật tư kỹ thuật, phụ tùng thay thế rất khó khăn, vì phần đông các nước sản xuất đã thôi sản xuất các loại vũ khí, trang bị đó. Tổ chức biên chế các phân xưởng, xí nghiệp của các nhà máy theo qui trình công nghệ của dây chuyền sản xuất. Đội ngũ sĩ quan được đào tạo theo chuyên ngành được bố trí làm cán bộ quản lý các cấp và các cơ quan chuyên môn. Công nhân sản xuất thuộc diện biên chế là quân nhân chuyên nghiệp hoặc công nhân quốc phòng. Phần đông là thợ cơ khí và điện lực, đều được đào tạo cơ bản, sử dụng đúng ngành nghề. Tuổi đời và tuổi nghề cao. Công nhân trực tiếp sản xuất thì bình quân bậc thợ là 6,3/7. Trong khi đó, với điều kiện công nghệ và yêu cầu của mặt hàng sửa chữa chỉ đòi hỏi công nhân bình quân bậc thợ là 4,5/7. Quân số hiện có của các nhà máy cao hơn quân số định biên; tỷ lệ gián tiếp cao (bình quân khoảng 20%) vì có những chức danh ở các nhà máy bên ngoài dân sự không có. Là nhà máy sửa chữa, không làm hàng loạt đại trà mà là sửa chữa đơn chiếc. Có khi một khẩu pháo, một chiếc xe tăng không hoạt động được đưa từ đơn vị về sửa chữa. Đến nhà máy tháo dỡ ra kiểm tra thì phát hiện chỉ vì hỏng hóc một vài chi tiết máy móc. Mà chi tiết máy móc đó không có trong dự trữ, không bán trên thị trường, do đó Nhà máy phải nghiên cứu thiết kế gia công đơn chiếc. Tất cả những điều đó làm cho giá thành sản phẩm cao lên.
Trong điều kiện ngân sách quốc phòng hạn hẹp, số lượng vũ khí, trang bị kỹ thuật đưa vào sửa chữa không nhiều, chưa dùng hết công suất nhà máy (thông thường được khoảng 60%). Để tận dụng công suất thiết bị, máy móc và lực lượng lao động hiện có, lãnh đạo chỉ huy các nhà máy đã xoay xở tìm các đơn hàng sản xuất theo thế mạnh của mình để góp phần tham gia xây dựng kinh tế đât nước, tăng sản phảm xã hội; đồng thời tăng thu nhập, cải thiện đời sống cán bộ, công nhân viên nhà máy trong điều kiện không còn áp dụng chế độ cung cấp. Một số mặt hàng kinh tế của các nhà máy có uy tín với khách hàng, đã thành thương hiệu trên thị trường.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #72 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 02:01:40 pm »

Là nhà máy sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật đáp ứng yêu cầu huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của quân đội, nên yêu cầu đặt ra trước hết, trên hết là phải bảo đảm chất lượng, giảm tối thiểu sản phẩm đã qua sửa chữa phải sửa chữa lại nhiều lần (hồi tu). Giải quyết việc làm, tiền lương, thu nhập đối với công nhân viên là mục tiêu hàng đầu trong lãnh đạo của cấp ủy đảng các nhà máy. Để góp phần nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao đời sống của công nhân viên chức, đòi hỏi lãnh đạo phải không ngừng đổi mới qui trình công nghệ, chấp hành kỷ luật lao động, sắp xếp lại lực lượng lao động theo hướng giảm lực lượng gián tiếp, giảm biên chế dôi dư; động viên mọi người trong biên chế hăng hái lao động sản xuất nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả; thực hiện đầy đủ các qui định về Luật Doanh nghiệp. Công tác đảng, công tác chính trị đối với các nhà máy quốc phòng vừa phải thực hiện yêu cầu như đối với một đơn vị thường trực của quân đội, vừa phải phù hợp với đặc điểm, tính chất của một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Với những đặc điểm đó, có thể nói, lãnh đạo chỉ huy các nhà máy sửa chữa thuộc Tổng cục kỹ thuật khá vất vả; phải không ngừng vươn lên, năng động, sáng tạo mới có thể đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
Qua một thời gian ngắn tìm hiểu công việc bước đầu, ngày 31 tháng 1 năm 2005, tôi chính thức nhận bàn giao từ người tiền nhiệm là Thiếu tướng Hoàng Anh Tuấn. Chúng tôi quen biết nhau đã khá lâu. Khi tôi công tác ở Văn phòng Tổng cục Chính trị rồi Cục Chính sách, thì anh Hoàng Anh Tuấn là Bí thư Đảng ủy, Phó Cục trưởng về chính trị Cục Xe máy, Chủ nhiệm Chính trị rồi Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật về Chính trị. Trong chiến tranh chống Mỹ, anh Tuấn hoạt động ở tuyến lửa Đoàn 559 từ rất sớm tận đến ngày toàn thắng. Anh là người trưởng thành qua nhiều cương vị, có nhiều kinh nghiệm về công tác chính trị đối với ngành kỹ thuật. Cuộc bàn giao giữa anh Tuấn và tôi diễn ra nghiêm túc mà tình cảm dưới sự chứng kiến của Thủ trưởng và các cơ quan Tổng cục.
Sau khi nhận bàn giao, Đảng ủy Tổng cục đề nghị và được Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương ra quyết định chỉ định tôi vào Đảng ủy Tổng cục Kỹ thuật, tham gia Thường vụ, giữ chức Bí thư Đảng ủy. Kể từ ngày 1 tháng 2 năm 2005, tôi bắt tay vào công việc theo chức trách nhiệm vụ.
Trên cương vị mới, cùng với Đảng ủy và Thủ trưởng Tổng cục, tôi có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo toàn bộ các hoạt động của Tổng cục và Đảng bộ Tổng cục, trong đó chủ trì về công tác đảng, công tác chính trị. Trước mắt, trong thời gian mới nhận nhiệm vụ, tôi xác định chương trình công tác là: Đồng thời với việc tham gia cùng tập thể Đảng ủy- Thủ trưởng Tổng cục lãnh đạo, chỉ huy các mặt công tác thường xuyên theo phạm vi chức trách nhiệm vụ, phải tranh thủ mọi điều kiện để nắm thật chắc tình hình toàn diện các cơ quan, đơn vị trong toàn Tổng cục Kỹ thuật. Không nắm vững tình hình đơn vị thì không thể lãnh đạo, chỉ đạo có hiệu quả được.
Từ đầu tháng 2 đến hết tháng 5 năm 2005, tôi đã bố trí thời gian lần lượt nghe các cơ quan Bộ Tham mưu, Cục Chính trị, Cục Hậu cần, Cục Quân khí, Cục Xe –Máy, Cục Kỹ thuật binh chủng, Cục Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất lượng, Văn phòng, Viện Kỹ thuật cơ giới quân sự và một số cơ quan khác thuộc Tổng cục báo cáo. Nội dung báo cáo của các cơ quan, đơn vị là xoay quanh về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức biên chế, kết quả hoàn thành nhiệm vụ, những vấn đề nổi cộm cần tập trung giải quyết. Bộ Tham mưu do anh Nghiêm Sĩ Chúng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục kiêm Tham mưu trưởng, Tham mưu phó là các anh:Nguyễn Đình Thắng, Hoàng Định, một thời gian có thêm anh Cao Sơn Hải; Cục Chính trị do anh Lê Văn Lai, một thời gian sau anh Thái Xuân Dương làm Cục trưởng, anh Nguyễn Xuân Sản và anh Bùi Văn Tuất làm Cục phó; Cục Hậu cần do anh Trần Trung Cộng làm Cục trưởng, anh Nguyễn Quang Ngọc làm cục phó, một thời gian sau Anh Trương Khắc Trung làm Cục trưởng, anh Trần Minh Quang làm Cục phó;  Cục Quân khí do anh Nguyễn Minh Đức làm Cục trưởng, anh Ngữ làm Cục phó về Chính trị, anh Nho, anh Thành làm Cục phó; Cục Xe - máy do anh Hà Hữu Diên, một thời gian sau là anh Lê Hữu Thục làm Cục trưởng, anh Nguyễn Văn Thoa làm Cục phó về Chính trị, anh Hoàng Dũng và anh Trần Văn Tường làm Cục phó; Cục Kỹ thuật binh chủng do anh Phạm Dũng Tiến làm Cục trưởng, anh Thái Xuân Dương, một thời gian sau anh Trương Công Lượng làm Cục phó về Chính trị, anh Lưu Thụ và anh Bùi Quang Giới làm Cục phó; Cục Tiêu chuẩn-Đo lường- Chất lượng do anh Nguyễn Văn Tách làm Cục trưởng, anh Vũ Chính Nghĩa, anh Trần Văn Đạt, anh Lê Quang Vinh và anh Nguyễn Đức Quang làm Cục phó; Văn phòng Tổng cục do anh Ngô Lê Tư làm Chánh Văn phòng, anh Nguyễn Văn Lân làm Phó Văn phòng. Viện Kỹ thuật cơ giới quân sự do anh Trần Hùng Nam sau đó là anh Lê Hồng Phương làm Viện trưởng, các anh Trần Hoài Nam, Lê Hồng Phương, sau đó là Đặng Văn Minh và Mai Khoa làm Viện phó.

 Nghe xong các đơn vị phía Bắc, tôi cùng một vài anh em vào miền Trung  nghe Trường Dạy nghề số 6 vào miền Nam nghe Trường Cao đẳng Kỹ thuật Vin-hem-pích và Xí nghiệp liên hợp Z751 báo cáo. Trường Dạy nghề số 6 đóng ở Nha Trang do anh Dương Văn Dền làm Hiệu trưởng, anh Nguyễn Đăng Bảy làm Bí thư Đảng ủy. Trường Cao đẳng kỹ thuật Vin-hem-pích ( sau này đổi tên là Trường Sĩ quan Kỹ thuật quân sự ) do anh Lê Sĩ Đào làm Hiệu trưởng, anh Bùi Quang Lại sau đó là anh Trần Ngọc Lan làm Bí thư Đảng ủy. Xí nghiếp liên hợp Z751 do anh Đặng Quốc Dũng làm Tổng Giám đốc, anh Phạm Ngọc Kha làm Bí thư Đảng ủy (Sau này là anh Nguyễn Khắc Thắng, Tổng Giám đốc; anh Nguyến Đăng Khắc làm Bí thư Đảng ủy, Chính ủy). Khi làm việc với lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị, đồng thời với việc nghe báo cáo tình hình chung, theo phạm vi thẩm quyền và điều kiện cho phép, tôi còn trực tiếp giải quyết một số đề nghị của các đơn vị.
  Tại các buổi làm việc với các đơn vị, sau khi nghe báo cáo bằng văn bản của lãnh đạo chỉ huy, ý kiến bổ sung của các cơ quan hữu quan, bao giờ tôi cũng dành nhiều thời gian đề nghị các thành viên tham gia tọa đàm trao đổi. Tôi thường nêu lên các câu hỏi có tính then chốt để cùng nhau nghiên cứu thảo luận, có khi lật đi lật lại, thậm chí đặt ngược lại vấn đề, tạo được không khí tranh luận sôi nổi trên một số vấn đề trọng tâm chí cốt. Bằng cách trực diện đó, tôi cho rằng, thông tin đa dạng hơn, nhận thức thu được thường nhiều hơn, ấn tượng khắc dấu sâu hơn, thực chất hơn, động viên được tự do tư tưởng, làm cho tư duy khoáng đạt hơn, không bị gò bó vào sự xơ cứng hành chính hóa, quan liêu hóa trong quá trình làm việc. Cũng chính vì vậy, trong nhiều trường hợp đã thành thói quen, tôi thường đề nghị người lãnh đạo, chỉ huy khi báo cáo những vấn đề cơ bản của đơn vị thì không cần phải dùng giấy tờ tài liệu. Vì đó là những kiến thức, những thông tin thường trực mà người lãnh đạo, chỉ huy phải trực tiếp nắm thật chắc như cơm ăn nước uống hằng ngày. Dựa vào cơ quan chức năng là đúng, nhưng người lãnh đạo, chỉ huy phải quản lý chắc tình hình, không nhất thiết cái gì cũng cứ phải hỏi cơ quan. Càng ở cơ sở, việc nắm tình hình càng phải thật chắc, thật cụ thể, tỉ mỉ, không thể chung chung.
Qua làm việc với các cơ quan chức năng của Tổng cục và các cục kỹ thuật chuyên ngành, bước đầu cho tôi một bức tranh toàn cảnh về Tổng cục Kỹ thuật nói riêng và việc bảo đảm kỹ thuật trong toàn ngành nói chung.
Vũ khí, trang bị kỹ thuật trong biên chế của quân đội ta là một tài sản có giá trị cao, một lực lượng vật chất rất lớn và quí hiếm, được hình thành từ nhiều nguồn, đa hệ, nhiều nhãn mác. Có loại do ta thu được từ chiến lợi phẩm trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ; có loại do nền công nghiệp quốc phòng của ta sản xuất, chế tạo hoặc cải tiến; có loại mới mua sắm thêm sau này để từng bước hiện đại hóa quân đội trước yêu cầu của tình hình mới;  còn lại đại bộ phận là do nguồn của Liên Xô, Trung quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em viện trợ trong những năm ta đánh Mỹ. Cùng với thời gian, do quá trình khai thác sử dụng, do tác động của môi trường,…nên các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật đều khó tránh khỏi mất đồng bộ, xuống cấp theo một mức độ nhất định. Trong khi đó, điều kiện nền công nhiệp quốc phòng của đất nước chưa phát triển, còn nhỏ bé, phân tán, công nhệ chưa hiện đại, khả năng sản xuất vũ khí mới và phụ tùng thay thế rất hạn chế; nguồn ngân sách quốc phòng hạn hẹp chưa đáp ứng được yêu cầu nghiên cứu cải tiến, sửa chữa, đồng bộ và mua sắm vũ khí, trang bị kỹ thuật.
 Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu - cả tình huống chiến tranh thông thường và chiến tranh đchj sử dụng vũ khí công nghệ cao -  huấn luyện chiến thuật, kỹ thuật, hợp đòng quân binh chủng và các nhiệm vụ khác của Quân đội, đòi hỏi Nhà nước và Bộ Quốc phòng phải có sự đầu tư rất lớn về ngân sách, vật tư, lực lượng cho công tác kỹ thuật.
Việc bảo quản, bảo dưỡng, niêm cất, khai thác, sửa chữa, cải tiến vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện có phải được tiến hành một cách khoa học theo một qui trình công nghệ chặt chẽ. Vũ khí, trang bị kỹ thuật càng hiện đại, phức tạp thì đòi hỏi công tác kỹ thuật càng cao hơn. Tôi được biết, quân đội ở các nước phát triển có vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại, ngân sách quốc phòng vốn đã rất lớn mà tỷ lệ ngân sách quốc phòng dành cho công tác kỹ thuật rất cao (có nước ngân sách bảo đảm kỹ thuật chiếm tới 20% trong ngân sách quốc phòng). Đối với nước ta, do điều kiện nền kinh tế tài chính của đất nước còn khó khăn, ngân sách quốc phòng đã  hạn hẹp lại phải lo bảo đảm đời sống bộ đội, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và nhiều nhiệm vụ quan trọng khác, nên mặc dù đã có rất nhiều cố gắng so với trước nhưng ngân sách bảo đảm kỹ thuật của quân đội vẫn còn hạn chế, so với nhu cầu còn là khoảng cách khá lớn. Vấn đề đặt ra là tiếp tục động viên cán bộ, nhân viên ngành kỹ thuật phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, tự lực, tự cường, khắc phục mọi khó khăn, bảo đảm quản lý, khai thác vũ khí, trang bị kỹ thuật tốt, bền, tiết kiệm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật ở các cơ sở quản lý, bảo quản, sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật được đào tạo cơ bản, có phẩm chất chính trị, trách nhiệm chính trị và năng lực chuyên môn đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Đáp ứng yêu cầu của thế bố trí chiến lược; đồng thời nhằm bảo đảm an toàn, chống cháy nổ, các kho vũ khí, đạn dược cấp chiến lược với một trữ lượng tương đối lớn, đều phải bố trí ở vùng sâu, vùng núi, xa các khu dân cư, các trung tâm văn hóa xã hội, các khu công nghiệp. Vì vậy, đời sống sinh hoạt và công tác của cán bộ, nhân viên ngành quân khí có rất nhiều khó khăn như: xa các trung tâm y tế, chợ búa, trường học, môi trường văn hóa xã hội,…Cùng với công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, cần có chính sách và sự động viên kịp thời để mọi người an tâm công tác lâu dài.
Về công tác cán bộ, thời gian tôi mới về Tổng cục, bước vào năm 2005,  nổi lên hai vấn đề lớn đặt ra phải giải quyết: Một là, đánh giá lại toàn bộ đội ngũ cán bộ để Thường vụ Đảng ủy Tổng cục xem xét quyết định giữ lại hay chuyển ra theo Quyết định 77/QP ngày 4 tháng 4 năm 2004 của Bộ Quốc phòng  thực hiện Luật Sĩ quan năm 1999. Hai là, chuẩn bị sắp xếp cán bộ chủ trì các cấp để chuẩn bị Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ VIII và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X. Đó là hai vấn đề then chốt có mối quan hệ với nhau và đều có tác động lớn đến tổ chức lãnh đạo, chỉ huy của các cơ quan, đơn vị trong toàn Tổng cục.
Đây là năm đầu tiên thực hiện Quyết định 77/QP của Bộ Quốc phòng. Tinh thần chung của quyết định là những cán bộ đã hết tuổi phục vụ tại ngũ theo qui định của Luật sĩ quan năm 1999 thì thực hiện chế độ nghỉ hưu. Đối với những cán bộ sức khỏe và năng lực còn tốt, đơn vị  chưa có người thay thế, thì giữ lại phục vụ tại ngũ ở tuổi dự bị hạng một. Đối với cán bộ khoa học kỹ thuật đầu ngành, thì giữ lại phục vụ tại ngũ ở tuổi dự bị hạng hai.
Là năm triển khai đại hội Đảng các cấp, theo qui định bằng văn bản của Ban Tổ chức Trung ương và Tổng cục Chính trị: cán bộ tham gia cấp ủy mới, thì cùng với những tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực và cơ cấu, còn phải có độ tuổi thích hợp. Trong tổng số đội ngũ cán bộ tỷ lệ trẻ khoảng 20%. Trong cấp ủy cần có tỷ lệ cán bộ trẻ khoảng 10%. Những người mới vào cấp ủy lần đầu phải có độ tuổi tham gia được hai khóa, cá biệt phải hết một khóa. Người tái cử phải được một khóa. Bí thư, Phó Bí thư phải tham gia được ít nhất 2/3 nhiệm kỳ. Vì vậy,  vấn đề đặt ra đối với công tác cán bộ là phải rà soát lại toàn bộ đội ngũ để bảo đảm thực hiện đúng qui định của trên, bảo đảm vừa đổi mới vừa có tính kế thừa tạo ra sự ổn định và phát triển vững chắc.
Qua nghiên cứu, tôi nhận thấy rằng, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy kỹ thuật và cán bộ chuyên môn kỹ thuật của các đơn vị thuộc Tổng cục được đào tạo cơ bản, phần lớn trưởng thành trong chống Mỹ và sau năm 1975, chất lượng chính trị tốt, trải nghiệm qua thực tiễn, có năng lực chỉ huy và năng lực chuyên môn trong quản lý, bảo quản, sửa chữa, khai thác vũ khí, trang bị kỹ thuật ở các đơn vị. Tuy nhiên, mặt hạn chế là: Đội ngũ cán bộ kỹ thuật ở cơ sở còn thiếu về số lượng đào tạo cơ bản, chưa đồng bộ về cơ cấu ngành nghề; ở các cơ sở nghiên cứu, các cơ quan chỉ đạo còn  thiếu chuyên gia đầu ngành giỏi. Cán bộ làm công tác quản lý chỉ huy kỹ thuật ở các cấp thì tuổi đã cao, nguồn kế cận thay thế mỏng. Trước tình hình đó, nếu thực hiện triệt để việc nghỉ hưu đối với cán bộ theo qui định về độ tuổi, sẽ có sự hẫng hụt nhất định, đặc biệt là sẽ khó đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Vì vậy, chúng tôi đã yêu cầu cơ quan cán bộ nắm lại tình hình cụ thể của từng đơn vị, từng con người trong phạm vi Tổng cục quản lý để đề xuất với Thường vụ Đảng ủy Tổng cục và đề nghị lên trên phương án giải quyết hợp lý nhất.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #73 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 02:02:37 pm »

 Theo nguyên tắc, công tác cán bộ là công tác của tập thể cấp ủy - của Thường vụ Đảng ủy hoặc Đảng ủy tùy theo phạm vi trách nhiệm. Trên cơ sở nguyên tác đó, phải tiến hành thực hiện đúng qui trình theo qui định để bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ. Bí thư Đảng ủy là người chịu trách nhiệm trước cấp ủy trong việc chỉ đạo cơ quan cán bộ, cơ quan chính trị căn cứ vào chỉ đạo, hướng dẫn của trên và nghiên cứu cụ thể tình hình đơn vị, xây dựng phương án để báo cáo tập thể cấp ủy thông qua. Trên thực tế có trường hợp khi giải quyết thực hiện đúng nguyên tắc nhưng không thực hiện đúng qui trình, dẫn đến những phức tạp sau khi có quyết định triển khai.
Ngày 18 tháng 3 năm 2005, tôi làm việc với anh Lê Văn Lai, Cục trưởng Cục Chính trị, anh Phùng Bách Thắng, Trưởng phòng Cán bộ , anh Nguyễn Văn Bút, Phó phòng Cán bộ và mấy anh em ở Phòng Cán bộ. Theo báo cáo của Cục Chính trị và Phòng Cán bộ, thì trong tổng số sĩ quan của Tổng cục Kỹ thuật ở thời điểm đó có 17%  đến và quá hạn tuổi phục vụ tại ngũ theo qui định của Luật Sĩ quan. Đối với số này, các đơn vị đề nghị giữ lại kéo dài thời hạn phục vụ tại ngũ: 82%; giải quyết nghỉ hưu: 18%. Qua nghiên cứu thẩm định đề nghị của các đơn vị, Cục Chính trị đề nghị giữ lại kéo dài: 67%, giải guyết nghỉ hưu: 33%. Trong tổng số quân nhân chuyên nghiệp diện cơ quan cán bộ quản lý, thì số đã hêt tuổi phục vụ tại ngũ chiếm: 17,2%; đơn vị đề nghị giữ lại kéo dài: 15,6%, nghỉ hưu là: 0,16%; Cục Chính trị đề nghị giữ lại kéo dài: 11%, nghỉ hưu là: 0,62%.
Ngày 22 tháng 3 năm 2005, Thường vụ Đảng ủy đã họp bàn về công tác cán bộ xoay quanh việc triển khai thực hiện Quyết định 77/QP của Bộ Quốc phòng và chuẩn bị một bước kiện toàn nhân sự đáp ứng đại hội đảng các cấp. Sau khi nghe tôi báo cáo khái quát về tình hình đội ngũ cán bộ và dự kiến hướng triển khai giải quyết theo chỉ đạo của trên; anh Phùng Bách Thắng, Trưởng phòng Cán bộ thừa ủy nhiệm của Cục Chính trị báo cáo về nhân sự cụ thể, Thường vụ Đảng ủy đã thảo luận kỹ. Có ý kiến là:  “Cần nghiên cứu thật kỹ. Hết hạn tuổi phục vụ mà cho ra hết thì không có người làm việc. Ngược lại, nếu cho ra nhỏ giọt như lâu nay, để tích tụ lại, là sẽ già hóa đội ngũ cán bộ và kẹt cho sự phát triển của lớp cán bộ kế cận”, “ Quân nhân chuyên nghiệp cố gắng giữ anh em đến 30 năm công tác thì cho nghỉ”. Có ý kiến phát biểu: “ Năm đầu thực hiện quyết định 77/QP có nhiều vấn đề khó. Để bảo đảm công bằng, cán bộ cơ quan và cán bộ cơ sở đều giải quyết như nhau trên cùng tiêu chí. Cùng tuổi như nhau nhưng cấp Cục khác cấp Phòng; cấp Trưởng khác cấp Phó”, “ Ai có năng lực tốt mà đã trải qua chiến đấu, nhiều năm lăn lộn cơ sở thì giữ lại thêm một thời gian”, “Đối với số cán bộ trẻ có năng lực thì mạnh dạn đề bạt, bổ nhiệm, nhưng đồng thời phải bồi dưỡng, giáo dục, tránh tư tưởng chủ quan”… Sau nhiều ý kiến thảo luận qua lại, Thường vụ nhất trí quyết nghị: Đối với cán bộ đã đến và quá tuổi phục vụ tại ngũ theo hạn định của Luật thì giữ lại 55%, còn  lại sẽ chuyển ra. Trước mắt, giải quyết nghỉ hưu đợt 1 năm 2005 là 64 cán bộ, trong đó có 11 cán bộ chủ trì cấp trực thuộc Tổng cục. Đồng thời với giải quyết số chuyển ra, Thường vụ đã bàn bạc quyết nghị bổ nhiệm (theo thẩm quyền) và đề nghị trên bổ nhiệm cán bộ theo phân cấp quản lý. Đây là đợt chuyển ra và sắp xếp lại với số lượng lớn hơn các năm trước, do đó, phải tiến hành làm tốt công tác tư tưởng đối với cán bộ.
 Trước khi triển khai quyết nghị của Thường vụ Đảng ủy Tổng cục, ngày 23 tháng 3 năm 2005, tôi và anh Đỗ Đức Pháp đã làm việc với anh Nguyễn Đăng Sáp, Cục trưởng Cục Cán bộ để tranh thủ ý kiến của cơ quan cấp trên. Sau khi nghe chúng tôi trình bày quyết nghị của Thường vụ Đảng ủy Tổng cục Kỹ thuật, anh Sáp biểu thị sự nhất trí và nhấn mạnh thêm rằng: Việc triển khai công tác cán bộ của Tổng cục là đúng nguyên tắc, kịp thời, thể hiện đúng tư tưởng chỉ đạo của Thường vụ Quân ủy Trung ương và Tổng cục Chính trị  trong việc thực hiện quyết định 77/QP và các văn bản hướng dẫn về công tác cán bộ chuẩn bị cho Đại hội Đảng các cấp. Đồng thời, anh Sáp thông báo một số tình hình chung, nhấn mạnh một số điểm cần chú ý trong công tác cán bộ như: Chuẩn bị nhân sự cấp ủy các cấp, cùng với tiêu chuẩn, cơ cấu, thì phải lưu ý đến độ tuổi. Cán bộ chủ trì tham gia cấp ủy còn độ tuổi công tác được ít nhất 2/3 nhiệm kỳ Đại hội. Nên bố trí cán bộ chủ trì (chỉ huy trưởng và chính trị) lệch tuổi đời để lệch thời điểm nghỉ hưu theo chế độ. Nói chung, so với các đơn vị trong toàn quân, cán bộ chủ trì cấp Cục trở lên của Tổng cục Kỹ thuật có độ tuổi cao hơn. Điều này là do tính chất đặc thù của ngành kỹ thuật và do nhiều năm dồn lại. Nay phải giải quyết dần từng bước. Số lượng và tiến độ giải quyết chuyển ra cũng như đề nghị bổ nhiệm của Thường vụ Đảng ủy Tổng cục là phù hợp, Cục Cán bộ sẽ nghiên cứu báo cáo lên trên.
Để kịp thời triển khai công tác cán bộ, đồng thời kết hợp chặt chẽ giữa công tác cán bộ với công tác tư tưởng và công tác chính sách, sau hội nghị Thường vụ Đảng ủy, tôi đã phổ biến trong hội nghị giao ban chính trị của Tổng cục. Thành phần giao ban chính trị bao gồm các đồng chí cán bộ chủ trì công tác đảng, công tác chính trị của các đơn vị đầu mối (bí thư đảng ủy, phó chỉ huy về chính trị và chủ nhiệm chính trị) và chỉ huy các cơ quan có liên quan. Sau khi nêu lên tình hình đội ngũ cán bộ của Tổng cục, phổ biến các qui định của trên về việc thực hiện quyết định 77/QP, các văn bản chỉ đạo chuẩn bị nhân sự Đại hội Đảng các cấp, tôi đã thông báo quyết nghị của Thường vụ Đảng ủy: Tư tưởng chỉ đạo là thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, từng bước thận trọng; không hữu khuynh nhưng phải phù hợp với tình hình thực tế của đơn vị. Việc giải quyết cán bộ chuyển ra là công việc thường xuyên, song do nhiều nguyên nhân chi phối, năm 2005 có số lượng chuyển ra nhiều hơn các năm trước, nhất là đối với cán bộ chủ trì các cấp. Trong công tác tư tưởng, yêu cầu các đơn vị phải chủ động tích cực làm cho cán bộ nhận rõ tính tất yếu, qui luật khách quan, từ đó có sự thanh thản nhất trí với quyết định của tổ chức, giữ vững sự đoàn kết trong đơn vị. Về phía lãnh đạo, chỉ huy và cơ quan chính trị các đơn vị phải thống nhất nhận thức: Với phạm vi, tính chất, mức độ khác nhau, nhưng có thể nói rằng, mọi cán bộ trong suốt mấy chục năm phục vụ tại ngũ, trên từng cương vị công tác, đều đã có những đóng góp xứng đáng đối với đơn vị, với Tổng cục Kỹ thuật nói riêng và đối với Quân đội nói chung. Khi chuẩn bị chia tay đơn vị để về với cuộc sống đời thường, dù bất cứ ai, trong bước ngoặt của cuộc đời cũng khó tránh khỏi bâng khuâng, thậm chí là hụt hẫng. Vì vậy, yêu cầu các đơn vị phải chú ý lãnh đạo thật tốt, tuyệt đối không để vấn đề gì phát sinh, ảnh hưởng đến tư tưởng và tình cảm giữa anh em đang công tác đối với cán bộ sắp nghỉ. Riêng đối với cán bộ thuộc diện sắp nghỉ, nhất là  số cán bộ chủ trì, cần xác định trách nhiệm và thái độ công tác đến tận cùng, nghĩa là đến khi có thông báo chính thức bằng văn bản của trên. Hơn nữa, còn có trách nhiệm đầy đủ trong việc bàn giao giữa cũ và mới. Đây vừa là trách nhiệm vừa là tình cảm đối với đơn vị,  nơi mình đã có nhiều năm gắn bó.
Trên cơ sở quán triệt các chỉ thị, quyết định của trên và sự chỉ đạo của Thường vụ Đảng ủy Tổng cục, lãnh đạo, chỉ huy, cơ quan chính trị, cơ quan cán bộ các cấp đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, chủ động làm tốt các khâu, các bước, kết hợp chặt chẽ công tác cán bộ với các mặt công tác khác, nhất là thực hiện đúng nguyên tắc, qui chế, qui trình, bảo đảm dân chủ, công khai, công bằng trong công tác cán bộ, nên mặc dù trong một thời gian ngắn giải quyết chuyển ra và thực hiện việc bổ nhiệm thay thế với số lượng nhiều hơn các năm trước, nhưng nhìn chung toàn Tổng cục là ổn định, nội bộ đoàn kết thống nhất. Tôi cho rằng, đây là một thành công, vừa đảm bảo sự phát triển vừa giữ được sự ổn định nhất định của đội ngũ cán bộ - nhân tố quan trọng góp phần tạo nên sức mạnh của các đơn vị trong thời gian tới.
 Ngày 27 tháng 1 năm 2005, Thường vụ Đảng ủy Tổng cục Kỹ thuật tổ chức hội nghị quán triệt Chỉ thị của Đảng ủy quân sự Trung ương, hướng dẫn của Tổng cục Chính trị và Chỉ thị, Kế hoạch của Thường vụ Đảng ủy Tổng cục về tổ chức đại hội đảng. Thành phần dự hội nghị là các đồng chí Bí thư Đảng ủy, cán bộ đầu ngành cơ quan chính trị, cơ quan ủy ban kiểm tra của các đảng bộ trực thuộc Đảng ủy Tổng cục. Các đại biểu dự hội nghị nhất trí cao với nội dung, yêu cầu tổ chức đại hội đảng các cấp và thể hiện quyết tâm triển khai tổ chức đại hội cấp mình đạt kết quả tôt nhất.
Với cương vị Bí thư Đảng ủy Tổng cục, tôi xác định việc chỉ đạo đại hội đảng các cấp trong Tổng cục và việc chuẩn bị Đại hội Đảng bộ Tổng cục lần thứ VII nhiệm kỳ 2005-2010 là một nhiệm vụ trọng tâm của cả năm 2005. Trách nhiệm còn nặng nề hơn đối với tập thể Thường vụ Đảng ủy và Cục Chính trị Tổng cục cũng như cá nhân tôi là trong kế hoạch chỉ đạo đại hội đảng toàn quân, Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương chọn Đảng bộ Tổng cục Kỹ thuật làm điểm cho khối các cơ quan Bộ ở cả ba cấp: Cơ sở, cấp trên trực tiếp cơ sở và cấp Tổng cục.
Việc chuẩn bị mọi mặt cho Đại hội Đảng bộ Tổng cục Kỹ thuật được tiến hành song song với việc chỉ đạo đại hội đảng bộ từ cấp cơ sở đến cấp trực thuộc  Tổng cục. Đồng thời với nhiệm vụ trọng tâm đó,  tôi cùng với các anh Thủ trưởng Tổng cục phải trực tiếp giải quyết kịp thời các công việc thường xuyên khác theo phạm vi chức năng, nhiệm vụ - đặc biệt là việc chỉ đạo các đơn vị bảo đảm an toàn tuyệt đối trên mọi phương diện.
Có hai việc lớn phải tiến hành để chuẩn bị Đại hội Đảng bộ Tổng cục lần thứ VII:  Một là, chuẩn bị Báo cáo chính trị của Đảng ủy để xin ý kiến tham gia của đại hội cấp dưới trực tiếp và thông qua Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương. Hai là, chuẩn bị nhân sự cấp ủy mới. Việc chuẩn bị nhân sự cấp ủy mới thì thực hiện theo qui định của trên, từ khâu phát hiện đến khâu bỏ phiếu tín nhiệm. Về Báo cáo chính trị, Thường vụ Đảng ủy Tổng cục thành lập Tiểu ban văn kiện do tôi phụ trách chung với sự tham gia của các anh: Lê Văn Lai, Cục trưởng Cục Chính trị; Nguyễn Đình Thắng, Phó Tham mưu trưởng Tổng cục; Ngô Lê Tư, Chánh Văn phòng Tổng cục; Phạm Tiến Ích, Trưởng phòng Tổ chức- Cục Chính trị. Ngày 17 tháng 2 năm 2005, Tiểu ban văn kiện họp phiên thứ nhất bàn về bố cục đề cương và phân công. Theo phân công, tôi chịu trách nhiệm chung, giữ vai trò như Tổng biên tập, anh Lê Văn Lai và anh Phạm Tiến Ích biên soạn phần công tác đảng, công tác chính trị và phần xây dựng đảng; anh Nguyễn Đình Thắng phụ trách biên soạn phần công tác chuyên môn thể hiện trên 6 mặt công tác theo Điều lệ Công tác Kỹ thuật Quân đội nhân dân Việt Nam và phần xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện; anh Ngô Lê Tư chịu trách nhiệm biên soạn các phần còn lại trong Báo cáo chính trị của Đảng ủy Tổng cục; đồng thời, cùng với anh Phạm Tiến Ích, có trách nhiệm tổng hợp các phần và dựng thành báo cáo.
Theo kế hoạch, ngày 22 tháng 2 năm 2005, Thường vụ Đảng ủy Tổng cục họp nghe Tiểu ban văn kiện báo cáo đề cương Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng bộ Tổng cục. Sau khi nghe Tiểu ban báo cáo, các đồng chí trong Thường vụ đã cho ý kiến: Phần kiểm điểm phải căn cứ vào Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ vừa qua, đồng thời dựa vào thực tế đã và đang diễn ra ở các đơn vị để đánh giá một cách khái quát nhất, cô đọng nhất trên các mặt công tác chủ yếu có tác động lớn đến nhiệm vụ chính trị của Tổng cục; không mang tính kể lể công việc. Trên cơ sở ba chức năng và sáu mặt công tác kỹ thuật, có thể chia làm ba hoặc bốn phần. Phải đánh giá khách quan trung thực kết quả đạt được qua các chủ trương lớn. Ví dụ: việc đầu tư chiều sâu cho các nhà máy, việc nghiên cứu sản xuất vật tư kỹ thuật, sản xuất phụ tùng, việc triển khai đồng bộ vũ khí, trang bị kỹ thuật đối với các đơn vị đủ quân, việc quản lý số lượng, chất lượng kho tàng, chống cháy nổ,... Về bài học kinh nghiệm phải nghiên cứu lựa chọn thể hiện thật chính xác, có ý nghĩa chỉ đạo cho thời gian tới. Phần phương hướng phải bám sát sự chỉ đạo của trên, nắm chắc tình hình, dự báo sát đúng, để xác định phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu, nội dung giải pháp phù hợp. Thường vụ cũng xác định các mốc thời gian để Tiểu ban văn kiện triển khai thực hiện.
Trách nhiệm của Thường vụ Đảng ủy Tổng cục về chỉ đạo đại hội đảng các cấp trong Tổng cục có mấy việc phải tiến hành: Quán triệt ý nghĩa của đại hội đảng trong tất cả các đơn vị; chỉ đạo đảng bộ làm điểm để rút kinh nghiệm chung; dự và chỉ đạo đại hội các đảng bộ cơ sở; thông qua đề án đại hội của Đảng ủy, dự và chỉ đạo  đại hội Đảng bộ các đơn vị trực thuộc Tổng cục.
 
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #74 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 02:03:01 pm »

Trước hết, chỉ đạo các cấp ủy đảng tổ chức quán triệt, thực hiện nghiêm túc các Chỉ thị của trên, làm tốt công tác chuẩn bị, đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục cho đảng viên, quần chúng nhận thức đầy đủ sâu sắc ý nghĩa của đại hội đảng - coi đây là một đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong cán bộ, đảng viên, quần chúng toàn Tổng cục. Quá trình tổ chức thảo luận đóng góp ý kiến vào các văn kiên đại hội là quá trình học tập tiếp thu các quan điểm, chủ trương, biện pháp lãnh đạo của Đảng được thể hiện trong dự thảo văn kiện Đại hội X của Đảng và dự thảo các văn kiện đại hội đảng cấp trên. Về báo cáo chính trị của đảng bộ các cấp phải đánh giá đúng kết quả thực chất, trực diện, không tô hồng thành tích, không nêu khuyết điểm, hạn chế một cách chung chung đúng với mọi không gian, thời gian, đơn vị; tìm nguyên nhân, xác định rõ trách nhiệm; đồng thời đề ra phương hướng, mục tiêu, biện pháp sát đúng, thiết thực để lãnh đạo trong nhiệm kỳ tới. Làm tốt công tác chuẩn bị nhân sự để bầu vào cấp ủy, bảo đảm đủ tiêu chuẩn, thực sự tiêu biểu của đảng bộ về phẩm chất, đạo đức, năng lực và có cơ cấu hợp lý. Đại hội Đảng các cấp đều thực hiện cả 4 nội dung: Thảo luận đóng góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện Đại hội X của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng bộ cấp trên trực tiếp; tổng kết thực hiện nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ qua, xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ nhiệm kỳ tới; bầu cấp ủy mới va bầu đại biểu đi dự Đại hội Đảng cấp trên.
Theo kế hoạch, Thường vụ Đảng ủy đã chọn Đảng bộ Kho KT 887 thuộc Cục Kỹ thuật binh chủng tiến hành đại hội điểm để rút kinh nghiệm chỉ đạo chung. Ngày 14 và ngày 15 tháng 6 năm 2005, Đại hội Đảng bộ Kho KT887 nhiệm kỳ 2005-2008 đã được tiến hành. Đến dự và chỉ đạo Đại hội có Trung tướng Phạm Hồng Thanh, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Đại tá Nguyễn Văn Lâm, Cục phó Cục Tổ chức- TCCT và một số cán bộ thuộc bộ phận thường trực Ban Chỉ đạo Đại hội Đảng của Đảng ủy Quân sự Trung ương. Thay mặt Thường vụ Đảng ủy Tổng cục, tôi và anh Đỗ Đúc Pháp đến dự và chỉ đạo Đại hội. Là đại hội điểm nên đại biểu đảng viên chỉ có 57 người đại diện cho 177 đảng viên trong toàn đảng bộ; trong lúc đó khách mời dự đại hội là 85 người, bao gồm: các đồng chí bí thư các đảng bộ trong toàn Tổng cục và các cơ quan hữu quan. Sau khi kết thúc Đại hội, Thường vụ Đảng ủy Tổng cục và đại diện các cơ quan đã họp rút kinh nghiệm đại hội.
Việc chuẩn bị đại hội giữ vai trò rất quan trọng. Để đại hội các cấp đạt kết quả tốt, Thường vụ Đảng ủy cấp trên phải thông qua việc chuẩn bị của cấp dưới trực tiếp. Khi thông qua tập trung vào hai vấn đề: Báo cáo chính trị và dự kiến nhân sự. Ngay từ đầu tháng 4 năm 2005, thực hiện kế hoạch đã dược xác định, các đồng chí ủy viên Thường vụ Đảng ủy Tổng cục theo sự phân công  thông qua văn kiện đại hội và các mặt công tác chuẩn bị của các đảng ủy trực thuộc. Tôi  cùng cán bộ chủ trì các cơ quan có liên quan thông qua báo cáo của một số đảng ủy như: Cục Quân khí, Cục Xe-Máy, Cục Kỹ thuật binh chủng,Cục Tiêu chuẩn-Đo lường- Chất lượng và một số đơn vị khác.

Đến giữa năm 2005, cán bộ chủ trì cấp Tổng cục có sự thay đổi. Theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, anh Đỗ Đức Pháp, Chủ nhiệm Tổng cục và anh Nghiêm Sĩ Chúng, Phó Chủ nhiệm kiêm Tham mưu trưởng Tổng cục nghỉ chuẩn bị hưu từ ngày 1 tháng 7 năm 2005. Ngày 21 tháng 6 năm 2005, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ký quyết định bổ nhiệm Thiếu tướng Trương Quang Khánh, Phó Tư lệnh Quân khu 1 giữ chức Quyền Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật; bổ nhiệm Đại tá Nguyễn Châu Thanh, Chủ nhiệm Kỹ thuật Quân khu 7 giữ chức Tham mưu trưởng Tổng cục Kỹ thuật (đến đầu năm 2007, anh Nguyễn Châu Thanh được bổ nhiệm Phó Chủ nhiệm kiêm Tham mưu trưởng và được thăng quân hàm Thiếu tướng). Trước đó, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ký quyết định bổ nhiệm Đại tá Thái Xuân Dương, Cục phó về Chính trị Cục Kỹ thuật binh chủng giữ chức Chủ nhiệm Chính trị Tổng cục thay Đại tá Lê Văn Lai nghỉ chuẩn bị hưu.

 Thực hiện quyết định của trên, ngày 6 tháng 7 năm 2005, tại Sở Chỉ huy Tổng cục, lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục và các đại diện các cơ quan tổ chức buổi tiếp đón anh Trương Quang Khánh; bàn giao Chủ nhiệm Tổng cục giữa anh Đỗ Đức Pháp với anh Trương Quang Khánh; chia tay anh Đỗ Đức Pháp và anh Nghiêm Sĩ Chúng. Thay mặt lãnh đạo, chỉ huy và các cơ quan Tổng cục - đồng thời là thay mặt toàn Tổng cục - tôi đã phát biểu ý kiến nói lên sự trân trọng của Tổng cục Kỹ thuật đối với sự đóng góp xứng đáng trong nhiều năm qua trên từng cương vị của anh Đỗ Đức Pháp, Chủ nhiệm; anh Nghiêm Sĩ Chúng, Phó Chủ nhiệm kiêm Tham mưu trưởng Tổng cục; bày tỏ tình cảm sâu nặng của mọi người đối với hai anh trong suốt quá trình chung sống. Tiếp đó, thay mặt lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục, tôi nói lời chào mừng anh Trương Quang Khánh trên cương vị mới được bổ nhiệm. Mong rằng, với phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm và trách nhiệm của mình, anh Khánh sớm nhập vai nhanh trên cương vị mới, cùng tập thể Đảng ủy và Thủ trưởng Tổng cục đoàn kết một lòng lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục hoàn thành nhiệm vụ Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng giao phó.
 Sau  một thời gian ngắn, ngày 19 tháng 9 năm 2005, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định bổ nhiệm anh Trương Quang Khánh giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật.
Tôi quen biết anh Trương Quang Khánh đã khá lâu, từ khi anh ấy là Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng, rồi Tư lệnh Binh chủng Công binh. Suốt thời gian ba năm cùng công tác với nhau trên cương vị chủ trì Tổng cục Kỹ thuật, trong lãnh đạo, chỉ huy cũng như trong đời sống sinh hoạt, trong tình cảm riêng, giữa tôi và anh Khánh luôn đồng cảm với nhau trên nhiều phương diện. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của Tổng cục và cương vị, chức trách của từng người, chúng tôi thường xuyên bàn bạc trao đổi một cách chân thành, thẳng thắn, nhờ đó đều có sự gắn bó, cùng tiếng nói chung, đồng tâm hiệp lực trong quản lý, lãnh đạo, chỉ huy đơn vị. Sự đoàn kết chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc giữa hai cán bộ chủ trì Tổng cục được anh em cơ quan, đơn vị tin tưởng, là chỗ dựa trong khi triển khai thực hiện nhiệm vụ. Đến tháng 1 năm 2008, cấp trên điều động anh Trương Quang Khánh giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Công nghiệp quốc phòng và sau đó một thời gian ngắn anh được Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Anh Trương Quang Khánh là Ủy viên Trung ương Đảng khóa X, đại biểu Quốc hội khóa XII.

Sau khi chỉ đạo đại hội điểm ở Đảng bộ Kho KT887, các đồng chí Ủy viên Thường vụ Đảng ủy đi dự và chỉ đạo đại hội của các đảng bộ.  Theo kế hoạch phân công, tôi đã dự và chỉ đạo đại hội các đơn vị: Đảng bộ Văn phòng Tổng cục ( ngày 16 tháng 6 ); Đảng bộ Kho J106- Cục Xe máy ( ngày 25-26 tháng 6 ); Đảng bộ X 1- Cục Kỹ thuật binh chủng ( ngày 12 tháng 7 ); Đảng bộ Kho K331- Cục Quân khí (  ngày 14 tháng  7 ) và một số Đảng bộ khác.
Đồng thời với việc chỉ đạo đại hội cấp cơ sở, Thường vụ Đảng ủy còn thông qua đề án đại hội đảng của các Đảng ủy và sau đó dự, chỉ đạo đại hội các Đảng bộ trực thuộc Đảng ủy Tổng cục Kỹ thuật.
Ngày 8 tháng 9 năm 2005, Đại hội Đảng bộ Cục Quân khí được tiến hành. Đây là đại hội được Thường vụ Đảng ủy Tổng cục Kỹ thuật và Ban Chỉ đạo của Quân ủy Trung ương chọn làm điểm đối với đảng bộ cấp trên trực tiếp cơ sở, là cấp cục ở cơ quan Bộ Quốc phòng. Đảng bộ Cục Quân khí là một đảng bộ có số đảng viên đông, gồm nhiều đầu mối đảng bộ cơ sở, nhiều loại hình tổ chức ( cơ quan, trường, xí nghiệp, kho tàng,…), địa bàn đóng quân trải rộng trên cả ba miền, chức năng nhiệm vụ lớn, cả đối với nội bộ và đối với toàn quân. Cơ quan cấp trên dự và chỉ đạo có anh Phạm Hồng Thanh, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị cùng một số cán bộ phái viên của Tổng cục Chính trị. Các đồng chí trong Thường vụ Đảng ủy Tổng cục đến dự và chỉ đạo đại hội. Đại hội Đảng bộ Cục Quân khí diễn ra sôi nổi, giữ đúng nguyên tắc thủ tục, đạt kết quả tốt trên tất cả các nội dung. Kết quả và kinh nghiệm rút ra từ đại hội Đảng bộ Cục Quân khí đã góp phần cho Thường vụ Đảng ủy Tổng cục và cơ quan cấp trên trong việc chỉ đạo chung.
Ngày 28 tháng 9 năm 2005, thực hiện chỉ thị của Tổng cục Chính trị, Tổng cục Kỹ thuật đã tiến hành hội nghị tổng kết công tác đảng, công tác chính trị 5 năm (2000-2005). Đến dự và chỉ đạo hội nghị có Trung tướng Phạm Văn Long, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị và đại biểu các cơ quan chức năng thuộc Tổng cục Chính trị. Thành phần tham gia hội  nghị có các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy, chủ nhiệm chính trị các đơn vị và các cơ quan, cơ sở thuộc Tổng cục Kỹ thuật.
Sau Báo cáo tổng kết do anh Thái Xuân Dương, Chủ nhiệm Chính trị Tổng cục trình bày, có nhiều ý kiến phát biểu tham luận sôi nổi. Hội nghị nhất trí với nội dung Báo cáo tổng kết về kết quả đạt được của công tác đảng, công tác chính trị 5 năm qua; những hạn chế, khuyết điểm. Đồng thời nêu ra các bài học kinh nghiệm trong tiến hành công tác đảng, công tác chính trị. Hội nghị nhất trí với phương hướng, nhiệm vụ, chủ trương và biện pháp chính tiến hành công tác đảng, công tác chính trị trước tình hình mới. Anh Phạm Văn Long, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị đã phát biểu ý kiến chỉ đạo Hội nghị. Thay mặt thủ trưởng Tổng cục Kỹ thuật phát biểu bế mạc hội nghị, tôi đã nhấn mạnh một số điểm cần chú ý trong tiến hành công tác đảng, công tác chính trị, đặc biệt là trước thềm đại hội đảng tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X.
***
  Đồng thời với việc chỉ đạo đại hội đảng các cấp, Thường vụ Đảng ủy và Thủ trưởng Tổng cục tập trung lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị trong Tổng cục triển khai thực hiện các nhiệm vụ theo chức năng. Ngày 3 tháng 10 năm 2005, tôi và anh Trương Quang Khánh cùng một số cán bộ đi công tác ở Tây Nguyên. Từ Hà nội chúng tôi đi máy bay vào Đà Nẵng, rồi chuyển tiếp lên Plây-Cu, Gia Lai. Khi xuống sân bay  Plây-Cu, giữa một chiều nắng đẹp trời trên cao nguyên hùng vĩ, tôi gặp anh Tạ Ngọc Dũng, Cục trưởng Cục Kỹ thuật Quân đoàn 3 ra đón. Hỏi ra mới biết, anh Dũng vốn là cán bộ của Sư đoàn 324, tôi phấn khởi vì gặp lại người cùng đơn vị cũ. Ngày 4 tháng 10, Đoàn cán bộ Tổng cục Kỹ thuật làm việc với Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 do anh Nguyễn Trung Thu, Tư lệnh, anh Trần Quốc Phú, Phó Tư lệnh cùng các cơ quan của Quân đoàn. Sau khi làm việc với Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, chúng tôi đi kiểm tra các đơn vị kỹ thuật đóng quân trên địa bàn. Tây Nguyên là địa bàn chiến lược, các lực lượng bảo đảm kỹ thuật cấp chiến dịch, chiến lược được bố trí đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ theo thế bố trí chung.
Đây là lần đầu tiên tôi đến thăm và làm việc với các đơn vị thuộc Tổng cục Kỹ thuật đóng ở Tây Nguyên. Trong điều kiện đóng quân ở vùng sâu, vùng xa, vùng rừng núi có nhiều khó khăn trong công tác và đời sống sinh hoạt,  nhưng mọi cán bộ, chiến sỹ đều xác định tốt nhiệm vụ. Công tác chuyên môn nghiệp vụ, công tác bảo đảm đời sống cũng như công tác đảng, công tác chính trị đều được các đơn vị cơ sở triển khai chủ động tích cực và đạt được kết quả tốt.
Trong công việc của mình, tôi xác định việc thường xuyên tăng cường kiểm tra các cơ sở kỹ thuật ở các vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi là một trong những trọng điểm. Trong thời gian công tác ở Tổng cục Kỹ thuật, tôi đã nhiều lần đến kiểm tra, chỉ đạo các đơn vị cơ sở trong toàn Tổng cục, nhiều hơn cả là các đơn vị đóng ở địa bàn Tây Nguyên. Lần nào cũng vậy, khi làm việc với lãnh đạo, chỉ huy; kiểm tra các cơ sở kỹ thuật và nhất là khi tiếp xúc với cán bộ, nhân viên, chiến sỹ ở cơ sở, tôi đều chia sẻ với những khó khăn, thiếu thốn trong môi trường công tác; đồng thời cũng thật sự phấn khởi trước tinh thần khắc phục khó khăn, đạt được những kết quả trong công việc của các đơn vị và trước thái độ thân tình mộc mạc, miệng nói tay làm của anh em ở cơ sở.
***
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #75 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 02:03:47 pm »

 Sau khi hoàn thành đại hội đảng bộ các cấp trực thuộc, từ ngày 11 đến ngày 13 tháng 10 năm 2005, Đại hội Đảng bộ Tổng cục Kỹ thuật lần thứ VII, nhiệm kỳ 2005-2010 đã được tiến hành. Tham dự Đại hội có 200 đại biểu đại diện cho 9.284 đảng viên của 15 đảng bộ trực thuộc Đảng bộ Tổng cục. Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quôc phòng; Trung tướng Phạm Hồng Thanh, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị và đại diện các cơ quan của Đảng ủy Quân sự Trung ương, các cơ quan chức năng của Tổng cục Chính trị tới dự và chỉ đạo Đại hội. Đại hội Đảng bộ Tổng cục Kỹ thuật được Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương chọn làm điểm cấp trực thuộc Đảng ủy Quân sự Trung ương.
Tại Đại hội đã có nhiều ý kiến tham luận sôi nổi đóng góp nhiều ý kiến vào dự thảo các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trình Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X  và dự thảo báo cáo của Đảng ủy Quân sự Trung ương trình Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ VIII. Đặc biệt lần này, khi thảo luận các dự thảo văn kiện của Trung ương, có nhiều ý kiến phân tích khá sâu sắc để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận mới. Nhất là tranh luận xoay quanh hai vấn đề then chốt:  Một là, cụm từ “không bóc lột” thêm vào hay không thêm vào trong Lời nói đầu của Điều lệ Đảng; giữ nguyên hay bỏ cụm từ đó trong Điều nói về Tiêu chuẩn đảng viên trong Điều lệ Đảng. Hai là, vấn đề đảng viên được làm kinh tế tư nhân không giới hạn về qui mô.
Đại hội nhất trí với báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ Tổng cục về kết quả lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, nhiệm kỳ 2000-2005 là: Được sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, toàn diện, kịp thời của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, Đảng bộ Tổng cục Kỹ thuật đã lãnh đạo thực hiện tốt chức năng tham mưu cho Đảng ủy Quân sự Trung ương-Bộ Quốc phòng về công tác kỹ thuật quân sự; chỉ đạo tổ chức triển khai toàn diện các nội dung công tác kỹ thuật trong toàn quân; lãnh đạo các cơ quan đơn vị trong Tổng cục, bảo đảm kịp thời số lượng, chất lượng, đồng bộ vũ khí, trang bị kỹ thuật cho nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, diễn tập và các nhiệm vụ khác của Quân đội. Bảo đảm an toàn về người và vũ khí, trang bị kỹ thuật; đặc biệt là không để xẩy ra cháy nổ, mất mát. Tham mưu cho Bộ nhiều kế hoạch chiến lược. Thực hiện qui hoạch xây dựng, củng cố hệ thống kho tàng; đầu tư nâng cao hệ thống sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật. Làm tốt chức năng tham mưu tổ chức hệ thống ngành kỹ thuật và qui hoạch đào tạo, huấn luyện đội ngũ cán bộ, nhân viên kỹ thuật trong toàn quân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Xây dựng Tổng cục vững mạnh về chính trị, tư tưởng; nội bộ đoàn kết thống nhất, quyết tâm khắc phục khó khăn, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Công tác xây dựng Đảng bộ đạt được nhiều kết quả quan trọng. Cấp ủy, tổ chức đảng được kiện toàn củng cố vững chắc, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ; nền nếp sinh hoạt được giữ vững, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu có nhiều tiến bộ; đội ngũ cán bộ, đảng viên có bước phát triển mới về chất lượng đáp ứng yêu cầu lãnh đạo thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của Tổng cục.
Qua thảo luận, Đại hội thống nhất cao về phương hướng nhiệm vụ lãnh đạo nhiệm kỳ mới 2005-2010: Nắm chắc thực trạng vũ khí, trang bị kỹ thuật để làm tốt công tác tham mưu cho Bộ về qui hoạch trang bị đến năm 2010 và những năm tiếp theo. Tập trung bảo đảm kỹ thuật, khai thác sử dụng có hiệu quả các chủng loại vũ khí, trang bị hiện có; trọng tâm là bảo đảm đủ số lượng, chất lượng, đồng bộ cho các đơn vị sẵn sàng chiến đấu. Đẩy mạnh nghiên cứu cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật phù hợp với cách đánh và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Tiếp tục đầu tư xây dựng củng cố hệ thống kho tàng phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của quân đội trong thời kỳ mới. Thực hiện khẩu hiệu hành động “Chất lượng, chính qui, an toàn, quyết thắng”; tiếp tục phát huy truyền thống “ Chủ động, sáng tạo, tự lực. tự cường”; phát huy thành tích đã đạt được, tiếp tục xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh đủ sức lãnh đạo Tổng cục Kỹ thuật vững mạnh toàn diện, thực hiện tốt chức năng tham mưu cho Đảng ủy Quân sự Trung ương – Bộ Quốc phòng về công tác kỹ thuật quân sự; chỉ đạo các đơn vị toàn quân thực hiên các nhiệm vụ công tác kỹ thuật; lãnh đạo cá cơ quan đơn vị trong Tổng cục thực hiện toàn diện các mặt công tác, thường xuyên bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện và các nhiệm vụ khác của quân đội.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 15 đồng chí: Nguyễn Mạnh Đẩu, Trương Quang Khánh, Đinh Danh Nghiêm, Võ Minh Cẩm, Bế Quốc Hùng, Nguyễn Châu Thanh, Phạm Dũng Tiến, Nguyễn Minh Đức, Thái Xuân Dương, Hoàng Định, Trần Trung Cộng, Nguyễn Văn Thoa, Nguyễn Văn Tách, Trần Ngọc Lan, Đặng Quốc Dũng.
Trong phiên họp đầu, Ban Chấp hành đã bầu Ban Thường vụ gồm năm người: Nguyễn Mạnh Đẩu, Trương Quang Khánh, Đinh Danh Nghiêm, Võ Minh Cẩm, Bế Quốc Hùng. Tôi được bầu làm Bí thư, anh Trương Quang Khánh làm Phó Bí thư Đảng ủy. Ban Chấp hành Đảng bộ đã bầu Ủy ban kiểm tra Đảng ủy gồm 9 người do tôi làm Chủ nhiệm, anh Tô Đăng Diện làm Phó Chủ nhiệm.
Đại hội Đảng bộ Tổng cục Kỹ thuật lần thứ VII đã thành công tốt đẹp. Kết quả của Đại hội đã mở ra một trang mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ lãnh đạo xây dựng Tổng cục Kỹ thuật vững mạnh toàn diện, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao trong thời kỳ mới, xứng đáng là cơ quan chiến lược đầu ngành về công tác kỹ thuật quân sự của Quân đội.
***

Mọi quốc gia trên thế giới, cùng với thực lực vũ khí, trang bị kỹ thuật bảo đảm thường xuyên cho lực lượng vũ trang thường trực làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, bao giờ cũng phải có lực lượng dự trữ chiến lược. Đó là yếu tố không thể thiếu của tiềm lực quân sự, tiềm lực quốc phòng. Trong chiến tranh giải phóng trước đây cũng như trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Đảng và Nhà nước ta thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân. Trong thời bình, ngoài việc bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng thường trực của Quân đội làm nhiệm vụ thường xuyên, ngành kỹ thuật còn có nhiệm vụ quản lý, bảo dưỡng, niêm cất một khối lượng lớn vũ khí, trang bị kỹ thuật. Trong trường hợp phải đối phó với một cuộc chiến tranh xâm lược do kẻ địch gây ra, thì mỗi địa phương là một pháo đài, mỗi đường quê góc phố là một chiến lũy, mỗi người dân là một chiến sỹ cầm súng chiến đấu bảo vệ quê hương, bảo vệ Tổ quốc.  Bảo đảm an toàn vũ khí, trang bị kỹ thuật - đặc biệt không để xảy ra cháy nổ, mất mát ở các kho vũ khí, đạn dược - là vấn đề quan tâm hàng đầu, thường xuyên của lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục Kỹ thuật qua các thời kỳ. Để bảo đảm an toàn, có rất nhiều việc phải làm. Về mặt quân sự thì phải thực hiện chặt chẽ công tác cảnh vệ, bảo vệ, điều lệ đóng quân canh phòng; phòng chống cháy, nổ. Về công tác chuyên môn thì phải thực hiện đầy đủ, nghiêm ngặt mọi chế độ công tác; thực hiện việc kiểm định, bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa,…Về công tác chính trị phải tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao tinh thần trách nhiệm cho mọi cán bộ, nhân viên, chiến sỹ ở tất cả các bộ phận trong các kho vũ khí, trang bị kỹ thuật; thực hiên tốt chế độ phòng gian bảo mật. Đồng thời, phải phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền, các tổ chức đoàn thể địa phương làm tốt công tác dân vận trên địa bàn đóng quân. Kinh nghiệm chỉ ra rằng, việc bảo vệ các cơ sở kỹ thuật có nhiều biện pháp, trong đó tiến hành công tác dân vận góp phần xây dựng cơ sở chính trị vững chắc trên địa bàn đóng quân, tạo ra vành đai an toàn bằng sức mạnh lòng dân là bền vững nhất, cơ bản nhất. Nhận rõ điều đó, trong hai năm 2006-2007, Tổng cục Kỹ thuật đã tiến hành hai hội nghị công tác xây dựng vành đai an toàn ở khu vực Gia Lai và Đồng Nai. Mặc dù điều kiện có nhiều khó khăn, việc bảo đảm an toàn về con người và vũ khí, trang bị kỹ thuật, không để xảy ra cháy nổ, mất mát trong nhiều năm liền, là một thành công lớn của Tổng cục Kỹ thuật.
***
Hoạt động công tác đảng, công tác chính trị bao gồm nhiều lĩnh vực: tổ chức, tuyên huấn, cán bộ, bảo vệ, chính sách, dân vận, thanh niên, công đoàn, phụ nữ,…. Lĩnh vực nào cũng  giữ vai trò, vị trí quan trọng. Vì vậy, cấp ủy và  người chủ trì về chính trị phải lãnh đạo, chỉ đạo tiến hành đồng bộ, phát huy sức mạnh tổng hợp. Trong các lĩnh vực hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, thì công tác cán bộ là đặc biệt quan trọng, là khâu then chốt. Xây dựng đội ngũ cán bộ là điều kiện quyết định việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của các đơn vị. Trong năm 2006, thực hiện chủ trương của Đảng ủy Quân sự Trung ương và hướng dẫn của Tổng cục Chính trị, Đảng ủy Tổng cục Kỹ thuật đã chỉ đạo tiến hành tổng kết công tác cán bộ 5 năm (2001-2005) và phương hướng, nhiệm vụ công tác cán bộ 5 năm (2006- 2010) ở các cấp trong Tổng cục.
Qua tổng kết ở các cấp đến tổng kết ở cấp Tổng cục đều đã thống nhất đánh giá tình hình đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ; xác định phương hướng, mục tiêu và giải pháp trong thời gian tới. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ Tổng cục Kỹ thuật được hình thành từ nhiều năm, có đủ về số lượng, cơ cấu tương đối hợp lý, chất lượng tốt, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Công tác cán bộ đã kịp thời đáp ứng nhu cầu cán bộ cho các yêu cầu nhiệm vụ gắn với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Công tác quản lý, qui hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng và thực hiện chính sách cán bộ đạt được nhiều kết quả tích cực. Các quan điểm, nguyên tắc, qui trình về công tác cán bộ đều được thực hiện bảo đảm chặt chẽ. Nguyên tắc tập trung dân chủ được thực hiện đầy đủ, bảo đảm khách quan, chính xác, công tâm, không có biểu hiện tư tưởng gia trưởng, độc đoán, cục bộ trong công tác cán bộ. Mọi vấn đề về công tác cán bộ đều được cấp ủy các cấp dân chủ thảo luận, quyết định theo đa số, đúng thẩm quyền, theo phân công, phân cấp cán bộ. Do vậy, đã phát huy được trí tuệ của tập thể và vai trò trách nhiệm của cá nhân phụ trách đối với cán bộ cán bộ.
Tuy nhiên, qua tổng kết cũng chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm trong công tác cán bộ. Về đội ngũ cán bộ thì: Một số cán bộ chủ trì ở cơ sở năng lực chỉ huy điều hành còn hạn chế, thiếu sâu sát, cụ thể. Khả năng tham mưu đề xuất, chỉ đạo, hướng dẫn đơn vị của một số cán bộ cơ quan còn hạn chế, chưa sâu sát; chưa cập nhật kiến thức khoa học công nghệ ứng dụng vào thực tiễn. Số cán bộ có trình độ cao, chuyên gia đầu ngành trên các lĩnh vực không nhiều,…Trong công tác cán bộ, thì : Một số cấp ủy có biểu hiện cục bộ, khép kín; chưa chủ động tạo nguồn cán bộ để bố trí, sắp xếp ở những vị trí còn thiếu so với biên chế. Trong tuyển dụng một số trường hợp chất lượng còn hạn chế. Việc điều hành qui hoạch cán bộ chưa kiên quyết, nguồn cán bộ chủ trì còn mỏng. Một số đơn vị tính chiến đấu chưa cao trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
Phương hướng, mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ 5 năm (2005- 2010) của Tổng cục đã được xác định là: Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ số lượng, cơ cấu hợp lý, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ năng lực ngày càng cao; vừa giữ được cán bộ qua chiến đấu, vừa đạt được độ tuổi theo Luật định. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ chủ trì lãnh đạo, chỉ huy kế tiếp vững chắc ở tất cả các cấp; thực hiện có hiệu quả chế độ một người chỉ huy gắn với chế độ chính ủy, chính trị viên trong Tổng cục.
Để thực hiện được phương hướng, mục tiêu nói trên, tại Hội nghị tổng kết công tác cán bộ của Tổng cục đã thống nhất những chủ trương, giải pháp chính: Tập trung giải quyết số lượng hợp lý, điều chỉnh cơ cấu cân đối, đồng bộ gắn với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ theo yêu cầu nhiệm vụ phát triển của Tổng cục. Thực hiện đồng bộ nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng toàn diện đội ngũ cán bộ, trước hết là chất lượng chính trị; trọng tâm là nâng cao trình độ cán bộ chủ trì lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ tham mưu kỹ thuật, cán bộ nghiên cứu, giảng dạy. Thực hiện tốt qui hoạch cán bộ chủ trì các cấp, bảo dảm vững chắc về chính trị trong quá trình chuyển tiếp các thế hệ cán bộ. Thực hiện đúng quan điểm, nguyên tắc, qui trình, qui chế trong công tác cán bộ; chăm lo xây dựng ngành cán bộ phát huy truyền thống “Trung thành, tận tụy, công tâm, gương mẫu, chủ động, sáng tạo”.Thực hiện tốt công tác chính sách cán bộ. Thực hiện tốt hơn chức năng tham gia quản lý cán bộ ngành kỹ thuật toàn quân.
***

 
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #76 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 02:04:37 pm »

Những năm qua, mặc dù có nhiều khó khăn do chuyển đổi cơ chế quản lý, do tác động của mặt trái cơ chế thị trường, do nguồn vật tư phụ tùng bảo đảm cho sửa chữa còn thiếu, ngân sách có hạn,…nhưng các nhà máy của Tổng cục Kỹ thuật đã chủ động khắc phục khó khăn, tổ chức thực hiện, cơ bản hoàn thành kế hoạch sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật và sản xuất vật tư kỹ thuật đáp ứng yêu cầu huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị trong toàn quân. Tuy nhiên, với nhiều lý do, vũ khí, trang bị kỹ thuật sau sửa chữa chất lượng vẫn còn thấp, tỷ lệ hồi tu và phải sửa chữa lại cho đơn vị vẫn còn cao. Chất lượng vật tư kỹ thuật có lô, có loại, từng năm chất lượng không ổn định. Đơn vị sử dụng còn nhiều ý kiến về chất lượng, độ tin cậy và tuổi thọ, nhất là đối với chất lượng sửa chữa ô tô.
Để đảm bảo số lượng, chất lượng vũ khí, trang bị kỹ thuật đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của quân đội, từ năm 2001, Đảng ủy Tổng cục Kỹ thuật đã có Nghị quyết chuyên đề về lãnh đạo nâng cao chất lượng sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật và sản xuất vật tư kỹ thuật. Đầu năm 2007, Thường vụ Đảng ủy Kỹ thuật có chủ trương chỉ đạo các đảng bộ trong toàn Tổng cục tiến hành tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết chuyên đề đó.
Qua chỉ đạo việc tổng kết ở các đơn vị trong Tổng cục, trực tiếp theo dõi tổng kết ở Xí nghiệp liên hợp Z751 và chủ trì tổng kết ở cấp Tổng cục, tôi nhận thấy rằng: Trong 5 năm (2001-2006), điều kiện chung có nhiều khó khăn, phức tạp, các đảng bộ thuộc Tổng cục đã quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm Nghị quyết, đạt được nhiều kết quả thiết thực. Đã thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng về các mặt công tác: quản lý, kỹ thuật, vật tư, chất lượng sản phẩm, chế độ chính sách. Tổ chức sắp xếp lại việc quản lý sửa chữa, sản xuất, đầu tư công nghệ, hoàn thiện biên soạn qui trình công nghệ và các qui trình về quản lý kỹ thuật, giải quyết tốt các vướng mắc về công tác kỹ thuật. Duy trì hệ thống quản lý chất lượng và từng bước hoàn thiện cả về cơ cấu tổ chức, trình độ nhân lực, phương pháp hoạt động. Công tác nghiên cứu khoa học công nghệ, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật luôn luôn được quan tâm đầu tư, góp phần tích cực nâng cao chất lượng sản phẩm. Kết quả là, chất lượng sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật và sản xuất vật tư kỹ thuật hàng năm luôn giữ được ổn định, tỷ lệ sản phẩm hồi tu sau sửa chữa và tỷ lệ vật tư kỹ thuật hỏng dưới tỷ lệ cho phép và ngày càng giảm. 100%  mặt hàng quốc phòng có phiếu công nghệ tiêu chuẩn cơ sở ngành. Mọi xí nghiệp đều có chương trình kiểm soát chất lượng theo qui trình.
Tuy vậy, vẫn còn một số hạn chế nổi lên là: chất lượng sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật vẫn còn thấp so với yêu cầu. Việc nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ mới còn hạn chế. Một số loại vũ khí, trang bị kỹ thuật còn thiếu tài liệu công nghệ. Có đơn vị, có lúc chưa thật chặt chẽ trong việc kiểm tra và nghiệm thu sản phẩm. Một số mục tiêu về sản xuất vật tư kỹ thuật chưa đạt.
Qua tổng kết ở cấp Tổng cục đã chỉ ra những vấn đề cần tập trung chỉ đạo trong thời gian tới: Kiện toàn tổ chức phù hợp với chức năng nhiệm vụ. Tính toán lại biên chế trên tinh thần giảm biên chế nói chung và tỷ lệ lao động gián tiếp nói riêng. Tăng cường đầu tư trang, thiết bị công nghệ. Trong đầu tư chiều sâu phải chú ý đến việc khai thác có hiệu quả. Đào tạo nâng cao trình độ tay nghề cho cán bộ công nhân viên. Tăng cường kiểm tra KCS, chấn chỉnh kịp thời những sai sót. Đổi mới phương thức bảo đảm vật tư kỹ thuật trong từng nhà máy và cả trong toàn Tổng cục. Kịp thời khuyến khích lợi ích tinh thần, vật chất đối với những tập thể, cá nhân đạt chỉ tiêu chất lượng cao và có sáng kiến cải tiến kỹ thuật đem lại hiệu quả.
***

 Ngày 20 tháng 7 năm 2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 51/NQ-BCT về tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là một chủ trương lớn có ý nghĩa chiến lược, vừa cơ bản vừa cấp thiết, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cả trước mắt và lâu dài, nhằm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội; nâng cao chất lượng hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị và hiệu lực của chế độ một người chỉ huy, bảo đảm cho quân đội luôn luôn là lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Tổ quốc và nhân dân, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Cuối năm 2005 và đầu năm 2006, Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương đã tổ chức quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị và tập huấn việc triển khai thực hiên đối với lãnh đạo, chỉ huy và cơ quan các đơn vị đầu mối toàn quân.
Ngày 3 tháng 5 năm 2006, Tổng cục Kỹ thuật đã tổ chức tập huấn cho cán bộ chủ trì các đơn vị đầu mối trực thuộc Tổng cục. Qua nghiên cứu học tập, mọi người đều nhất trí với chủ trương của trên được thể hiện trong các nguyên tắc và nội dung của Nghị quyết. Vấn đề mới mà mọi người cho rằng cơ bản nhất là: Trên cơ sở bảo đảm sự lãnh đạo vững chắc, toàn diện, xuyên suốt của các tổ chức đảng, trong quân đội thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên.
Quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị và Nghị quyết của Đảng ủy Quân sự Trung ương, Đảng ủy Tổng cục Kỹ thuật đã ra Nghị quyết xác định chủ trương, biện pháp tổ chức quán triệt, tuyên truyền học tập, xác định trách nhiệm chính trị của toàn Đảng bộ, của cấp ủy, chỉ huy và cơ quan các cấp. Trên cơ sở đó, xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện với phương châm: Tích cực, chủ động, đồng bộ, vững chắc, có qui trình, bước đi phù hợp. Là đơn vị kỹ thuạt, các loại hình tổ chức: trạm, xưởng, xí nghiệp, nhà máy, phân kho, kho, tổng kho, cơ quan…đều mang tính đặc thù. Sự xác định các đơn vị đặc thù kỹ thuật tương đương với tổ chức cơ bản của Quân đội ở các đơn vị thường trực chiến đấu (đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn) đều có tính tương đối. Việc xác định vị trí bố trí chức danh chính ủy, chính trị viên là căn cứ vào qui định của Bộ. Quá trình thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên phải là quá trình từng bước nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy và tổ chức đảng, công tác điều hành của người chỉ huy và hiệu lực của công tác đảng, công tác chính trị, từ đó nâng cao chất lượng toàn diện của  đơn vị bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ.
Đảng ủy Quân sự Trung ương chọn ngày 19 tháng 5 năm 2006, kỷ niệm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, làm ngày toàn quân đồng loạt thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên theo Nghị quyết của Bộ Chính trị. Ngày đó, cùng với các anh Chính ủy các Tổng cục, Quân khu, Quân chủng, Học viện…, tôi được Thủ tướng Chính phủ quyết định bổ nhiệm giữ chức Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật. Như vậy là, tôi may mắn được làm người Chính ủy đầu tiên của Tổng cục Kỹ thuật theo cơ chế mới. Tôi coi đây là vinh dự lớn đồng thời là trách nhiệm nặng nề. Tiếp đó, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ký quyết định bổ nhiệm Chính ủy các cục thuộc Tổng cục Kỹ thuật; Thủ trưởng Tổng cục Kỹ thuật ký quyết định bổ nhiệm Chính ủy, Chính trị viên đối với các đơn vị theo phân cấp quản lý cán bộ.
Sau hơn một năm thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Tổng cục Kỹ thuật, qua chỉ đạo theo dõi, bước đầu chúng tôi rút ra một số vấn đề:
Một là, Về nhận thức của cán bộ, đảng viên, quần chúng trong toàn Tổng cục đều quán triệt tạo được sự đồng thuận, nhất trí tin tưởng. Việc bố trí sắp xếp chính ủy, chính trị viên đáp ứng được số lượng theo qui định biên chế của Bộ. Đội ngũ chính ủy, chính trị viên các cấp đều nhận rõ trách nhiệm phấn đấu, từng bước khẳng định được vai trò, vị trí trên cương vị mới.
Hai là, Vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng được giữ vững và tăng cường, thực sự là nhân tố quyết định cho việc hoàn thành mọi nhiệm vụ của đơn vị. Hiệu lực của người chỉ huy được tăng cường trên cơ sở nền tảng sự lãnh đạo của tổ chức đảng, vai trò phối hợp của chính ủy, chính trị viên. Hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị được phát huy, bảo đảm cho từng đơn vị và toàn Tổng cục luôn vững vàng về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Ba là, Mối quan hệ giữa người chỉ huy và chính ủy, chính trị viên thể hiện được sự tôn trọng, gắn bó chặt chẽ trên tinh thần đoàn kết, thống nhất, tin cậy giúp đỡ lẫn nhau trong thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ huy đơn vị.
Tuy nhiên, đối chiếu với yêu cầu của Nghị quyết, cho thấy còn bộc lộ một số hạn chế:
- Bên cạnh đại đa số các đồng chí chính ủy, chính trị viên có nhiều cố gắng phấn đấu nâng cao trình độ toàn diện, xứng đáng là người chủ trì về chính trị của đơn vị, là người cùng với người chỉ huy có trách nhiệm và quyền hạn cao nhất trong đơn vị, thì vẫn còn một số đồng chí vẫn theo “đường mòn, lối cũ”; chưa thoát ra khỏi tâm lý, thói quen của thời kỳ làm cấp phó chỉ huy về chính trị. Ở một số cơ quan, đơn vị có đồng chí chính ủy, chính trị viên chỉ tập trung vào các vấn đề cụ thể có tính nghiệp vụ của công tác đảng, công tác chính trị; không có tầm bao quát chung, thậm chí chưa coi đó là nhiệm vụ của mình phải cùng gánh vác với người chỉ huy.
- Do quán tính của cơ chế cũ, trong nhận thức tư tưởng, phong cách, phương pháp làm việc của một số cán bộ chỉ huy và cơ quan chức năng vẫn coi chính ủy, chính trị viên như cấp phó chỉ huy về chính trị trước đây, nhất là trong việc xây dựng kế hoạch công tác chung của đơn vị. Ở một số nơi, thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình chưa mạnh dạn, thẳng thắn, chân thành, nên đoàn kết nội bộ chưa vững chắc, chuyển biến chưa mạnh.
Một năm - quãng thời gian còn là ngắn để triển khai một chủ trương lớn trên bình diện rộng, có nhiều việc phải làm. Quá trình thực hiện có ưu điểm và còn hạn chế là chuyện bình thường. Tựu trung lại, một cơ chế đúng muốn trở thành hiện thực thì phải thông qua sự vận hành đồng bộ của tổ chức và những con người cụ thể. Vấn đề đặt ra là, các cấp có thẩm quyền cần sớm xây dựng và ban hành các văn bản pháp qui (Điều lệnh, Điều lệ,Qui chế, chức trách nhiệm vụ ) nhằm cụ thể hóa, pháp chế hóa Nghị quyết; đồng thời cần tiếp tục bồi dưỡng đội ngũ chính ủy, chính trị viên có phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong tương xứng với yêu cầu của chức trách, nhiệm vụ.
***

Cuối năm 2007, thực hiện chương trình toàn khóa, Đảng ủy Quân sự Trung ương ban hành Nghị quyết chuyên đề về lãnh đạo công tác kỹ thuật trong tình hình mới. Đây là một văn kiện quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và trưởng thành của Quân đội ta nói chung, của ngành kỹ thuật Quân đội nói riêng – lần đầu tiên Đảng ủy Quân sự Trung ương có một Nghị quyết chuyên đề dành riêng cho công tác kỹ thuật.
Ngay từ cuối năm 2006, Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương giao cho Thường vụ Đảng ủy và Thủ trưởng Tổng cục Kỹ thuật nghiên cứu chuẩn bị. Thường vụ Đảng ủy và Thủ trưởng Tổng cục coi đây là một thời cơ lớn, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ của lãnh đạo chỉ huy các cấp cả về nhận thức quan điểm và các điều kiện bảo đảm về nhân lực, ngân sách, vật tư đối với công tác kỹ thuật trong thời gian tới. Tổng cục đã tích cực triển khai chuẩn bị các văn kiện: Báo cáo thực trạng; xây dựng tờ trình; dự thảo Nghị quyết. Vấn đề đặt ra là phải có một bản báo cáo chính xác về thực trạng vũ khí, trang bị kỹ thuật và khả năng công tác bảo đảm kỹ thuật; tác động của tình hình chung, nhiệm vụ công tác kỹ thuật trước yêu cầu bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật trong sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện và các nhiệm vụ khác của Quân đội trong các tình huống; xác định những vấn đề thuộc về nhận thức quan điểm, nguyên tắc, tư tưởng chỉ đạo trong công tác bảo đảm kỹ thuật; xác định mục tiêu, phương hướng và những nội dung giải pháp công tác kỹ thuật trong thời kỳ mới.
Thường vụ Đảng ủy và Thủ trưởng Tổng cục đã thành lập Tổ Văn kiện do anh Võ Minh Cẩm, Ủy viên Thường vụ Đảng ủy, Phó Chủ nhiệm Tổng cục phụ trách, đảm nhiệm chuẩn bị báo cáo, dự thảo tờ trình, dự thảo nghị quyết. Quá trình chuẩn bị, Thường vụ Đảng ủy và các cơ quan Tổng cục đã nhiều lần tham gia ý kiến vào dự thảo văn kiện; Tổng cục đã tổ chức xin ý kiến của các anh Trương Khánh Châu, Nguyễn Hoa Thịnh, Đỗ Đức Pháp, Hoàng Anh Tuấn,…nguyên là lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục qua các thời kỳ; tổ chức hội thảo với các cơ quan có liên quan ở Bộ, với Cục Kỹ thuật các Quân khu, Quân chủng…
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #77 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 02:05:06 pm »

Một ngày cuối năm 2007, Đảng ủy Quân sự Trung ương đã họp thông qua Nghị quyết. Là Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật, tôi được mời dự họp. Sau khi nghe anh Trương  Quang Khánh, Chủ nhiệm Tổng cục báo cáo, Đảng ủy Quân sự Trung ương đã thảo luận sôi nổi. Nhiều ý kiến đánh giá cao về kết quả công tác kỹ thuật trong những năm qua - nhất là từ khi nguồn viện trợ từ các nước anh em không còn nữa – nhấn mạnh vị trí, tầm quan trọng của công tác kỹ thuật trước yêu cầu nhiệm vụ của Quân đội trong thời kỳ mới; xác định những vấn đề về quan điểm, tư tưởng chỉ đạo cũng như mục tiêu, phương hướng và các nội dung, giải pháp chính trong thời kỳ mới. Anh Phùng Quang Thanh, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương đã kết luận. Trước khi kết luận, thay mặt Đảng ủy Quân sự Trung ương, anh Thanh đã biểu dương, hoan nghênh Thường vụ Đảng ủy- Thủ trưởng Tổng cục Kỹ thuật đã có nhiều cố gắng kịp thời báo cáo và xây dựng dự thảo nghị quyết có chất lượng tốt. Tinh thần cơ bản của Nghị quyết chuyên đề là: Sau khi xác định vai trò, vị trí của vũ khí, trang bị kỹ thuật và công tác kỹ thuật đối với yêu cầu nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội và tiềm lực quốc phòng của đất nước; đánh giá thực trạng vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện có của quân đội ta, đánh giá kết quả công tác kỹ thuật trong thời gian qua; Nghị quyết đã xác định phải tập trung nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kỹ thuật trong thời kỳ mới nhằm bảo đảm kịp thời và đầy đủ vũ khí, trang bị kỹ thuật có chất lượng tốt, đồng bộ cho lực lượng vũ trang nhân dân, đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN; tạo được sự chuyển biến cơ bản, toàn diện về nhận thức, về tổ chức, hệ thống cơ sở kỹ thuật và cơ chế quản lý chỉ đạo công tác kỹ thuật tinh gọn, thống nhất, đồng bộ và hiệu quả, phù hợp với tổ chức lực lượng Quân đội trong tình hình mới. Nghị quyết xác định mục tiêu chính của công tác kỹ thuật là giữ gìn, khai thác sử dụng tốt vũ khí, trang bị kỹ thuật; qui hoạch xây dựng hệ thống kho tàng các cấp phù hợp với Quyết tâm bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; tiếp tục đầu tư củng cố hệ thống sửa chữa các cấp, làm chủ công nghệ sửa chữa, đẩy mạnh sản xuất vật tư kỹ thuật; đầu tư nâng cao hệ số kỹ thuật cho vũ khí, trang bị kỹ thuật. Nghị quyết chỉ rõ: công tác kỹ thuật là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cấp ủy và người chỉ huy các cấp; cần phát huy tinh thần “chủ động, sáng tạo, tự lực, tự cường” của toàn ngành kỹ thuật gắn với với huy động sức mạnh tổng hợp của các cấp các ngành trong và ngoài quân đội. Trên cơ sở phương hướng, mục tiêu và quan điểm cơ bản, Nghị quyết của Đảng ủy Quân sự Trung ương đã xác định những nhiệm vụ và giải pháp lớn nhằm thực hiện tốt công tác kỹ thuật trong tình hình mới.
Để quán triệt và đưa Nghị quyết vào cuộc sống, Tổng cục Kỹ thuật là cơ quan tham mưu chủ trì xây dựng nhiều Chương trình, nhiều Dự án, Đề án và Kế hoạch để giải quyết toàn diện các vấn đề trọng tâm của ngành kỹ thuật quân đội. Đó là những vấn đề hệ trọng, vừa cơ bản, vừa cấp thiết.

 Cuối 2007, cùng với nhiều anh khác, tôi được Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương mời lên gặp mặt để dự báo là sẽ được nghỉ chuẩn bị hưu vào đầu năm 2008. Thực ra, đối với tôi theo tuổi chính thức là chưa đến lúc nghỉ. Nhưng như phần đầu tôi đã nói, khi nhập ngũ năm 1964, tôi đã khai tăng thêm một tuổi. Thuở đó, trường hợp như tôi không phải là hy hữu. Thế hệ chúng tôi là vậy. Những năm đất nước có chiến tranh, lớp lớp trai tráng hăm hở tòng quân lên đường chiến đấu, họ coi đó là bổn phận và là một vinh dự lớn. Với tôi, sau mấy chục năm quân ngũ, đến thời điểm đó việc chuẩn bị nghỉ ngơi là hoàn toàn đúng.
Tại buổi gặp mặt, sau khi nêu mục đích, phổ biến một số văn bản qui định của Ban Bí thư và Chính phủ, anh Phùng Quang Thanh, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã trình bày chủ trương của Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng. Cuối cùng, anh Thanh đề nghị mọi người phát biểu ý kiến. Từ lòng mình, tôi đã từ tốn nói rằng: Trước hết, tôi biểu thị sự nhất trí cao với chủ trương của trên, cám ơn Thường vụ Quân ủy Trung ương đã mời chúng tôi đến để phổ biến về việc này. Về phần mình, tôi thanh thản và cho rằng, đến lúc này được về nghỉ  hưu là hợp qui luật, đúng qui định; đúng quyền lợi; đồng thời còn là trách nhiệm, nghĩa vụ.
***
Tổng cục Kỹ thuật - bến cuối trong cuộc đời binh nghiệp 45 năm của tôi. Quả thực, khi mới về nhận nhiệm vụ, tôi có nhiều lo lắng vì trước đó tôi chưa từng công tác ở một đơn vị kỹ thuật. Tôi lo lắng bởi yêu cầu nhiệm vụ của Tổng cục thì cao - cả đối với chức năng tham mưu cho Đảng ủy Quân sự Trung ương - Bộ Quốc phòng về công tác kỹ thuật quân sự; chức năng chỉ đạo toàn quân và cả đối với nhiệm vụ quản lý, lãnh đạo, chỉ huy toàn diện các đợn vị thuộc Tổng cục. Tổ chức biên chế thì lớn, bao gồm nhiều chức năng nhiệm vụ với nhiều loại hình hoạt động; quân số thì đông, nhiều đối tượng phục vụ; các đơn vị đóng quân trải rộng trên nhiều địa bàn; tính chất có nhiều khó khăn, phức tạp.

 Tròn 3 năm công tác ở Tổng cục  Kỹ thuật, tôi đã thường xuyên nhận được sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, giúp đỡ của Thủ trưởng và cơ quan cấp trên; được tập thể Đảng ủy – Thủ trưởng Tổng cục phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, đoàn kết một lòng; được các cơ quan, đơn vị trong Tổng cục nhiệt thành ủng hộ, tạo điều kiện trên nhiều mặt.  Nhờ đó, tôi đã nỗ lực phấn đấu thực hành nhiệm vụ theo cương vị chức trách, đạt được những kết quả nhất định. Tôi rất mừng vì những việc đã làm được trong chặng cuối cùng của cuộc đời quân ngũ. Nôm na theo cách nói dân dã, tôi đã hạ cánh an toàn sau một quãng đường tít tắp mấy mươi năm phục vụ quân đội.
Sau khi tôi nghỉ hưu theo chế độ, thủ trưởng Tổng cục Kỹ thuật là các anh: Nguyễn Châu Thanh, Chủ nhiệm; Nguyễn Hữu Thìn, Chính ủy; Nguyễn Minh Đức, Phó Chủ nhiệm; Phạm Dũng Tiến, Phó Chủ nhiệm kiêm Tham mưu trưởng;  Hoàng Bằng, Phó Chính ủy; Đoàn Nhật Tiến, Phó Chủ nhiệm. Đó là một tập thể mạnh. Với tôi, cùng với quan hệ công việc, trong đời sống tình cảm, các anh lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục đều là những người thân quí.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #78 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 02:05:36 pm »

 Thay lời kết

 Hơn sáu mươi tuổi đời, chẵn 45 năm quân ngũ, ôn lại những nẻo đường đã qua, hiện lên trong tâm trí tôi như những thước phim quay chậm. Những thước phim lung linh sắc mầu thời gian, bao kỷ niệm, ký ức, những ảnh hình thân thuộc. Tương tư gõ vào kỷ niệm. Tôi bồi hồi nhớ về quê hương, gia đình yêu dấu, nhớ lại cánh đồng chiêm mùa một nắng hai sương, với hạt gạo củ khoai cha mẹ tảo tần nuôi tôi từng ngày khôn lớn; nhớ lại những người thân, bè bạn một thuở thiếu thời hồn nhiên, trìu mến.
Tròn 16 tuổi, đất nước có chiến tranh, tôi ra đi đồng hành cùng đồng đội trên những nẻo đường chiến đấu khốc liệt, đầy gian khổ, hy sinh. Chia tay đồng đội, trên mình mang thương tích, rời chiến trường tôi trở về hậu phương được đảm nhận phần việc của các anh - những người đi chiến đấu trao lại, đối với tôi là một vinh dự.
 Tôi bâng khuâng hồi tưởng những ngày đầu chập chững về Cục Chính sách - Tổng cục Chính trị được các bậc cha chú, đàn anh dìu dắt, từng bước trưởng thành. 25 năm bao gắn bó nghĩa tình, bao suy tư trăn trở và cả niềm vui được góp phần nhỏ bé của mình vào sự lớn mạnh của ngành chính sách quân đội.
Tôi rạo rực nhớ lại những năm tháng công tác ở Trường Sĩ quan Lục quân 1 nắng gió thân thương - Đó là nơi đào luyện sĩ quan chỉ huy - tham mưu cấp phân đội, bậc đại học, vừa hồng vừa chuyên của quân đội ta. Trong tương lai, chắc rằng trong số sĩ quan trẻ đó sẽ có người trở thành cấp tướng, như gần 200 cựu học viên của Trường trong chiều dài lịch sử 65 năm qua. Quãng thời gian ở Trường Sĩ quan Lục quân 1 đã để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn tôi, trọn đời không thể quên.
Tôi nhớ lại những đơn vị, những con người ở Tổng cục Kỹ thuật từ cơ quan đến cơ sở, từ nhà máy đến nhà trường, từ Việt Bắc gió ngàn đến Trường Sơn, Tây Nguyên hùng vĩ, từ người thợ trẻ miệt mài bên cỗ máy, đến cô thủ kho chuyên cần với nước da xanh xạm trong các kho vũ khí, đạn dược,…Tất cả ở họ đều vì một mục tiêu chung: Đảm bảo vũ khí, trang bị kỹ thuật - một thành tố đặc biệt quan trọng tạo nên sức mạnh chiến đấu của Quân đội và tiềm lực quốc phòng của Đất nước.
Tôi bồi hồi xúc động nhớ lại những chặng đường đã qua, biết bao người đã đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi cùng tôi trong chiến đấu và trong cuộc sống - mà nay nhiều người không còn nữa.
Cuốn hồi ký này, trước hết con xin được dâng lên Cha Mẹ kính yêu, đã sinh thành dưỡng dục con nên người. Tôi  tưởng nhớ đến đồng đội -  những người anh, người bạn chiến đấu đã anh dũng hy sinh. Tôi xin cám ơn các bậc cha chú, bậc đàn anh, người thân, đồng đội và bạn bè, trên mọi nẻo đường, với nhiều phương diện, đã giúp tôi trưởng thành.
Viết những dòng hồi ký này, được đắm mình trong các miền ký ức, tôi xin kể lại những gom góp nhỏ nhoi của tôi trên NHỮNG NẺO ĐƯỜNG THỜI GIAN. Xin được giải bày cùng bạn đọc những kỷ niệm đơn sơ trong một cuộc đời bình dị. Bụi thời gian phủ lấp, rất có thể đã làm cho trí nhớ của tôi không thật chính xác, đầy đủ trên một số sự kiện cụ thể. Mong được mọi người đại xá!
Tôi chân thành cám ơn những người ruột thịt, những người bạn thân thiết đã khích lệ, động viên và sẻ chia cùng tôi trong quá trình viết hồi ký ; xin cám ơn Đại tá Lê Hải Triều đã giúp tôi trong việc triển khai; xin cám ơn Nhà xuất bản Quân đội nhân dân đã cho ra mắt bạn đọc cuốn sách của tôi.

                                               
               
Mỹ Đình - Hà Nội, hè năm 2010
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #79 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 02:06:03 pm »

NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
23- Lý Nam Đế - Hoàn Kiếm Hà Nội
Chịu trách nhiệm xuất bản:     PHẠM BÁ TOÀN
Chịu trách nhiệm bản thảo : NGUYỄN DUY TƯỜNG
Biên tập : BÙI GIANG LONG
Số trang : 504. Số lượng in 2.100
Số xuất bản 296-2010/CXB/145-40/QĐND
Nộp lưu chiểu : 8 - 2010
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM