Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 06:16:33 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Những nẻo đường thời gian  (Đọc 32014 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 01:13:49 pm »



Hồi ký Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu: "Những nẻo đường thời gian" được đăng tải ngay trên blog của Ông: http://nguyenmanhdau.blogspot.com. Tôi đã được gặp, được biết và khâm phục Ông không phải vì là một người tướng lĩnh của QĐ NDVN mà vì ở Ông có một tấm lòng và những hành động cao cả vì đồng đội, vì các AHLS đã ngã xuống. Xin phép và giới thiệu với bạn đọc cuốn hồi ký của Ông.
« Sửa lần cuối: 09 Tháng Hai, 2021, 09:51:44 am gửi bởi ptlinh » Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #1 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 01:14:34 pm »

LỜI GIỚI THIỆU
   
                                    
LÊ KHẢ PHIÊU
Nguyên Tổng Bí thư BCHTW Đảng Cộng sản VN
Nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐNDVN



Tôi biết Nguyễn Mạnh Đẩu đã khá lâu. Lần đầu tiên vào cuối năm 1969, khi tôi chủ trì Hội nghị tập huấn trợ lý thanh niên các đơn vị thuộc Quân khu Trị Thiên, thì Nguyễn Mạnh Đẩu là Trợ lý thanh niên của Trung đoàn 8 – Sư đoàn 324. Hồi đó anh còn rất trẻ, nhưng đã trực tiếp trải qua chiến đấu 5 năm ở chiến trường.
Từ một chàng trai tình nguyện nhập ngũ khi chưa đủ tuổi, Nguyễn Mạnh Đẩu đã gắn bó cả cuộc đời với quân ngũ. Anh đã tham gia nhiều trận chiến đấu ác liệt, và sau này giữ nhiều cương vị trong quân đội: Cục trưởng Cục Chính sách, Phó Hiệu trưởng về chính trị Trường Sĩ quan Lục quân 1, rồi Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật.
Nguyễn Mạnh Đẩu là một cán bộ nhiệt tình, xông xáo, quyết đoán, có tầm nhìn và sống nghĩa tình, nên ở mọi vị trí công tác, anh đều để lại dấu ấn cho đơn vị và ấn tượng, tình cảm tốt đẹp cho đồng chí, đồng đội. Cuốn Hồi ký “Những nẻo đường thời gian” đã tái hiện những chặng đường chiến đấu, công tác anh đã đi qua. Do sự phong phú về vốn sống và sự trải nghiệm gắn với những vị trí công tác khác nhau, nên cuốn sách là tư liệu để chúng ta hiểu hơn cuộc sống và hoạt động của nhiều loại hình tổ chức trong quân đội: đơn vị chiến đấu cấp phân đội, cơ quan cấp chiến lược của Bộ Quốc phòng, học viện nhà trường quân đội.
Phần kể về thời kỳ tham gia chiến đấu những năm tháng chiến tranh chống Mỹ cứu nước, tác giả cho ta những hình ảnh chân thực và cảm động nhất về những người chiến sĩ đặc công trong gian khổ ác liệt, sự dũng cảm hy sinh và nghĩa tình đồng đội. Phần kể về thời kỳ công tác ở các cơ quan chiến lược, chúng ta có thấy nhiều điều, đặc biệt là thời kỳ ở Cục Chính sách, với cương vị Cục trưởng Cục Chính sách đã tham mưu cho Tổng cục Chính trị, Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng và Nhà nước nhiều chủ trương, chính sách quan trọng, có ý nghĩa lớn. Đây không chỉ là hoạt động của cơ quan, mà qua đó, ta hiểu được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và Quân đội về công tác chính sách đối với bộ đội và những người có công qua các cuộc chiến tranh cách mạng của dân tộc. Thời kỳ công tác ở Trường Sĩ quan Lục quân 1 cũng như sau này đảm nhiệm cương vị Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật, chúng ta lại được gặp ở Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu những phẩm chất đáng quý về trí tuệ và nhân cách của cán bộ quân đội ta.
Cuốn Hồi ký “Những nẻo đường thời gian" do chính tác giả thể hiện, nên các câu chuyện được tái hiện sinh động, chân thực và có chiều sâu, có nhiều tư liệu quý, rất nên đọc và nghiên cứu.
      
Hà Nội, ngày 30 tháng 6 năm 2010
[/i]
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #2 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 01:17:17 pm »

MỘT SỐ BÀI VIẾT VỀ CUỐN HỒI KÝ " NHỮNG NẺO ĐƯỜNG THỜI GIAN"



KHÚC CA XƯA VANG VỌNG ĐẾN BÂY GIỜ
(Báo An ninh cuối tháng, số 113, tháng 12/ 2010)

Khánh Linh (Việt Hà)


Giữa tháng 11 năm nay, bà Phạm Thị Lan, 81 tuổi, quê ở xã Cẩm Thăng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, có chồng là liệt sĩ Nguyễn Hoán, nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 3, Sư đoàn 324, hy sinh trong chiến trường Quảng Trị năm xưa đã khăn gói lặn lội từ trong Hà Tĩnh ra  Hà Nội tìm Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu, nguyên Chính ủy Tổng cục Kỹ Thuật khi đọc được cuốn hồi ký ông viết về chồng mình. Gặp ông mà ngẹn ngào, rưng rưng. Có những người con đã trang trọng đặt cuốn hồi ký đó lên bàn thờ bố, với một niềm ngưỡng vọng, vì lần đầu tiên kể từ khi nhận được tờ giấy báo tử lạnh lùng, họ được biết một chân dung về cha mình đầy đủ, cảm động và chân thực đến thế. Và rất nhiều, rất nhiều câu chuyện cảm động đã và sẽ còn khi chiến tranh đã lùi xa, thời gian đã phủ bụi lên quá khứ.

Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu ngồi trầm ngâm trong ngôi nhà nhỏ của mình khi lần dở lại những dòng ký ức. Hình như đối với ông, ký ức chưa bao giờ đi xa...
Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu rời xa chốn quan trường cách đây gần năm. Hơn 45 năm gắn với cuộc đời binh nghiệp, giờ đây ông mới có những khoảng lặng cho riêng mình, cởi bỏ khỏi chiếc áo phong sương của một đời lính, thanh thản với niềm vui tuổi già. Nhưng một người lính đã từng đi qua trận chiến như ông và may mắn được trở về, vẫn thấy mình mắc nợ với cuộc đời, với đồng đội. Câu chuyện với Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu giờ là câu chuyện của ký ức, về những ngày xa xưa… và nó vẫn hiện về mồn một trong ông. Một vị tướng đi qua nhiều cuộc chiến tranh, cả thời chiến lẫn thời bình như ông, thì câu chuyện không phải là của ngày hôm nay, mà đó là những ký ức, vẫn còn nguyên vẹn, tươi rói như mới chỉ xảy ra ngày hôm qua. Bởi ông còn lưu giữ trong mình quá nhiều những kỷ niệm, về đồng đội năm xưa, những con người vô danh đã bị cuốn trôi trong lớp bụi của thời gian
Ông sinh ra ở một miền quê nghèo của Nghệ An nắng cháy, xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, một cậu bé quê tinh nghịch, thông minh. Quê hương của Nguyễn Mạnh Đẩu là một vùng cát pha, những con người phải quằn mình trước khắc nghiệt của khí hậu, là những ngày theo cha đi ăn cơm tập thể bộ đội, và đầm mình thỏa thích trong dòng sông Lèn thơ mộng, có lần suýt chết đuối vì không biết bơi. Đó là một tuổi thơ dữ dội với nhiều biến cố trong đời sống riêng của gia đình, khiến cậu bé Đẩu sớm trưởng thành, đĩnh đạc.  Lần đầu tiên nhìn thấy máy bay Mỹ, khi đó Nguyễn Mạnh Đẩu tròn 16 tuổi, cậu nằng nặc xin thêm một tuổi và trốn cha đi bộ đội. Ngày lên đường nhập ngũ của Đẩu vì thế không có người đưa tiễn, cậu bé sống mũi cay cay, khi nhìn thấy vòng tay ấm áp của những người thân tiễn người đi chiến trận. Lúc đó, cậu mới chạnh lòng. Nhưng ý đã quyết, Nguyễn Mạnh Đẩu trở thành chiến sĩ giải phóng quân hoạt động trên những vùng chiến ác liệt, Lào, Quảng Trị - Thừa Thiên.  Và trong những ngày cận kề với cái chết, ông đã viết nhật ký, viết với tâm thế của một người lính ra trận không xác định ngày về. Những dòng nhật ký được viết vội sau từng trận đánh, của một chàng trai trẻ muốn dành niềm tự hào cho cha, và trong những trang đầu tiên của cuốn nhật ký, ông viết, “Sau khi tôi hy sinh, hãy gửi lại cho cha để ông có quyền tự hào về con trai mình, đã sống và chiến đấu trên tuyến đầu.” Nhưng cuốn nhật ký đã bị lưu lạc và ông may mắn được trở về. Đó là khi ông tham gia chiến dịch đường Chín Nam Lào, đại đội đặc công của ông được giao nhiệm vụ đánh vào cao điểm 550, nhằm tiêu diệt lữ đoàn 147 của địch. Ông đã bị thương nặng, đến nỗi nhiều người nghĩ rằng ông đã hy sinh. Một đồng đội đã cầm cuốn nhật ký, và gửi lại nơi hậu cứ. Nhưng sau một trận oanh tạc của máy bay Mỹ, người lính ấy cũng đã bị thương và bỏ lại một chân ở chiến trường, và ông đã không thể giữ lại cuốn nhật ký.
Hơn 40 năm đã đi qua, nhưng đến bây giờ, ông vẫn nhớ như in từng dòng nhật ký đó. Chuyện cách đây một, hai năm có thể quên, nhưng câu chuyện hào sảng của một chàng trai 20 tuổi đi vào chiến trận với tâm thế lãng mạn, lạc quan đó thì làm sao có thể quên. Đó là những tháng ngày chiến đấu vô cùng ác liệt mà những người lính như ông đứng mong manh giữa sự sống và cái chết. Rất nhiều đồng đội ông đã bỏ lại thân xác của mình nơi rừng sâu heo hút. Có nhiều chiến thắng, nhưng có rất nhiều hy sinh, có những cái chết của đồng đội còn ám ảnh ông đến tận bây giờ. Khe Sanh, đường Chín, không có trận chiến nào khốc liệt hơn thế, và hình ảnh đồng đội, những chiến sĩ liên lạc vượt nguy hiểm khi gặp được đơn vị đã đói lả chỉ còn thoi thóp, những cái bắt tay của đại đội trưởng bộ binh trước giờ xung trận và mãi mãi không trở về… Tất cả đều trở thành nỗi ám ảnh trong tâm khảm Nguyễn Mạnh Đẩu. Ông đã không thể đi tiếp cùng đồng đội trong cuộc  tiến về giải phóng miền Nam mà lùi lại hậu cứ, về công tác ở Tổng cục Chính trị năm 1972. Và sau này đảm nhiệm nhiều cương vị khác nhau: Cục trưởng Cục Chính sách - Tổng cục Chính trị, Phó Hiệu trưởng về Chính trị Trường Lục quân 1 và Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật. Trở về thời bình, mang tâm thế của một chiến binh đã từng đi qua chiến trận, hiểu được nỗi mất mát, hy sinh, hiểu được cái giá của hòa bình đã trả bằng biết bao máu xương của đồng đội, dù bận trăm công ngàn việc ở những cương vị mới, nhưng Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu vẫn dành một góc riêng cho đồng đội năm xưa. Nhiều câu chuyện buồn thời hậu chiến đã được ông tìm hiểu, hóa giải, về những vấn đề chính sách. Có những việc ông làm được, nhưng có những việc ông đã bó tay vì sự đã rồi, nhìn đồng đội âm thầm chịu thiệt thòi mà đau xót… Từ Cục Chính sách, ông được điều về Trường Sĩ quan Lục quân 1, nơi đào tạo những sĩ quan vừa hồng, vừa chuyên của quân đội. Và sau  cùng của cuộc đời binh nghiệp, ông tham gia lãnh đạo, chỉ đạo công tác bảo đảm kỹ thuật vũ khí, trang bị kỹ thuật - một thành tố đặc biệt quan trọng góp phần tạo nên sức mạnh chiến đấu của Quân đội và tiềm lực quốc phòng của Đất nước - không kém phần  khó khăn.
 Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu đã cầm bút từ sự thôi thúc, viết để tri ân, báo đáp những đồng đội trong mấy chục năm trường. Cuốn hồi ký do chính tự tay ông chấp bút đã tái hiện lại một không gian lịch sử hào hùng nhưng cũng đầy bi tráng của dân tộc. Ông tâm sự:  “Hơn 60 tuổi đời, chẵn 45 năm quân ngũ, ôn lại những nẻo đường đã qua, hiện lên trong tâm trí tôi như những thước phim quay chậm. Những thước phim lung linh sắc màu thời gian, bao kỷ niệm, ký ức, những hình ảnh thân thuộc. Tương tư gõ vào kỷ niệm. Tôi bồi hồi nhớ về quê hương, gia đình yêu dấu, nhớ lại cánh đồng chiêm mùa một nắng hai sương, với hạt gạo củ khoai, cha mẹ tảo tần nuôi tôi từng ngày khôn lớn, nhớ lại người thân bè bạn một thời hồn nhiên, trìu mến…”. Nguyễn Mạnh Đẩu đã viết bằng cảm xúc trực tiếp của một người đi qua cuộc chiến, nếm trải những mất mát đau thương của đồng đội, vì thế cuốn hồi ký thực sự làm lay động lòng người. Đó không chỉ là những hào quang của chiến thắng, mà có cả sự mất mát, cả những đau thương. Ông viết bằng cả sự chiêm nghiệm về cuộc đời. Những nẻo đường thời gian của ông không viết nhiều về mình mà đầy ắp những sự kiện về cuộc chiến, về đồng đội, bởi với ông, sự sống còn hôm nay của Nguyễn Mạnh Đẩu có một phần xương máu của đồng đội ông năm xưa. Kể cả những hồi ức trong thời bình, ông cũng khiêm nhường nép mình trong dòng chảy chung của dân tộc. Chuyện đời, chuyện thế sự, lúc buồn lúc vui, âu cũng là lẽ thường tình. Có một nhà văn Pháp đã nói rằng, viết hồi ký là khi đã đến lúc thấy những khát vọng, những hoài vọng về cuộc đời đã cạn kiệt. Thế nên quá khứ với Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu không phải là hào quang của chiến thắng, của những đối đãi trọng vọng khi còn chức tước. Quá khứ của ông được viết nên bằng máu và nước mắt của đồng đội, là nỗi day dứt còn đó về những mất mát thời hậu chiến, là những dự định con dang dở… Giống như trên một chuyến tàu, đã đến lúc dừng ga, và bước xuống, trong tư thế của một kẻ sĩ luôn biết người biết ta, thấu hiểu thời cuộc. “Trên tàu / Người giàu ngồi chễm chệ toa sang / kẻ nghèo hèn ngồi bệt toa đen / Vốn thế / Một diện tích nhỏ nhoi rành rẽ / Phân biệt Anh, Tôi / Xuống tàu / tất cả như nhau / còn ai hay số ghế chỗ ngồi /quên lãng/ Đoàn tàu đầy ắp lữ hành… 
 Nhưng đằng sau những chiến công của một vị tướng đã đi qua thời chiến và thời bình ấy, vẫn thấy bóng dáng của một tâm hồn thi sĩ. Tâm hồn ấy được nuôi dưỡng từ miền quê nghèo cát trắng quê ông. Như một bài thơ nói lên cảm xúc về hồi ức của ông khi trở lại chiến trường xưa :
“...Những cánh rừng cao su bạt ngàn
Gợi lại cho ta một thời trận mạc
Người lính kiêu hùng có trái tim biết hát
Khúc ca xưa vang vọng đến bây giờ
....”
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #3 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 01:18:02 pm »

Đọc sách NHỮNG NẺO ĐƯỜNG THỜI GIAN
(Hồi ký của Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu
Nhà xuất bản Quân Đội 2010)



Nhà thơ Lê Văn Vọng


          Tập hồi ký “Những nẻo đường thời gian” của tác giả Nguyển Mạnh Đẩu kể về quãng đời gian lao thử thách, phấn đấu tự hào của một người chiến sĩ Quân đội Nhân Dân. Người thanh niên Nguyễn Mạnh Đẩu 16 tuổi đã khai tăng tuổi để đủ tuổi nhập ngũ lên đường đi chiến đấu. Qua tháng năm, qua nhiều chiến trường, trận đánh, đảm nhiệm nhiều cương vị trong chiến đấu, công tác, từ một anh lính binh nhì sau chặng đường 45 năm phấn đấu lên đến Trung tướng.
Tập sách dược chia làm 8 chương và lời kết. Ở chương 1 tác giả dành nhiều tâm huyết nói về quê hương, gia đình và quãng đời ấu thơ. Ai cũng có một tuổi thơ, một vùng quê của riêng mình. Nhưng cái tuổi thơ của tác giả ở một vùng quê nghèo: Xã Nghi Hợp, Nghi Lộc( Nghệ An) lại làm người đọc khó quên. Nghi Lộc không chỉ là vùng đất hiếu học mà còn giàu truyền thống yêu nước. Người đọc sẽ nhận ra ở đây nhiều nhân vật có công với nước như Nguyễn Xí ( 1397- 1465), một đại thần của bốn đời vua Lê, từ Lê Thái Tổ đến Lê Thánh Tông. Ông là một vị tướng trụ cột đã giúp Lê Lợi trong cuộc trường kỳ kháng chiến 10 năm chống quân Minh (1418 – 1428). Sau đó ông phò tá Vua Lê Thánh Tông, vị vua nổi tiếng anh minh trong lịch sử đất nước gây dựng xã tắc, giữ gìn và mở mang bờ cõi, chấn hưng đất nước. Dưới thời cách mạng, trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược bảo vệ Tổ quốc, Nghi Lộc cũng nổi tiếng là huyện có nhiều tướng lĩnh, khoảng 20 người từ Thiếu tướng đến Thượng tướng. Mảnh đất giàu truyền thống ấy đã tạo nên niềm tự hào, sức bật để chàng thanh niên Nguyễn Mạnh Đẩu luôn hoàn thành nhiệm vụ được giao, khi xông pha nơi trận mạc cũng như lúc bị thương không còn đủ sức chiến đấu phải lui về hậu phương công tác. Các chương 2, 3, 4 ghi lại thời kì chiến đấu ở các chiến trường: Lào, Quảng Trị - Thừa Thiên, Đường 9 - Nam Lào… Đó là quảng thời gian từ 1964 – 1971 là thời kì khó khăn quyết liệt nhất của bộ đội ta trên chiến trường miền Nam. Lúc cao điểm lực lượng quân Mĩ lên tới 500.000 người và hơn 1 triệu quân ngụy với đủ các loại vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại, từ pháo đài bay B52, xe  tăng M41 đến hàng rào điện tử Mắc – Na – Ma – Ra .v.v. . Chiến trường Quảng Trị - Thừa Thiên được coi là nơi so tài thử sức giữa lực lượng ta và địch, vì thế cũng là nơi có thể nói là ác liệt nhất. Những địa danh, những trận đánh đã đi vào lịch sử chiến đấu oai hùng của quân đội ta mà mỗi khi nhắc tới ai cũng tự hào: Cồn Tiên, Dốc Miếu, Khe Sanh, Đường 9 – Nam Lào…
          Người chiến sĩ nào khi ra trận cũng phải đối mặt với gian khổ hi sinh; nhưng ở cái “chảo lửa” này sự thử thách sẽ nghiệt ngã, ác liệt hơn nhiều nơi khác. Trong “Những nẻo đường thời gian” tác giả kể lại rất nhiều trận đánh khi anh là chiến sĩ bộ binh, khi là chiến sĩ đặc công. Có trận thắng dòn dã, song cũng có nhiều trận quân ta bị thiệt hại nặng nề không hoàn thành nhiệm vụ như trận đánh cao điểm 817 – Tà Tách, nhiều mũi chiến đấu hi sinh không còn một người. Trước sự ác liệt ấy có những con người đã bộc lộ sự hèn nhát, giả ốm, tự thương, thậm chí chạy sang hàng ngũ địch để giữ mạng sống. Trong “Những nẻo đường thời gian” cuộc sống sinh hoạt, chiến đấu của các chiến sĩ ngoài chiến trường cũng được tác giả mô tả khá sinh động. Gian khổ, ác liệt, thiếu thốn, bệnh tật, chết chóc… Song bao trùm lên tất cả là tình đồng chí, đồng đội, mối quan hệ thân ái, chí tình  giữa cấp trên cấp dưới… coi nhau như anh em một nhà. Điếu thuốc bẻ đôi, nhường nhau ngụm nước, sẻ chia niềm vui, nỗi buồn. Những trang viết chân thực súc tích về tình đồng chí đồng đội làm người đọc cảm động. Đó cũng chính là điểm tựa vững chắc, tin cậy để người chiến sĩ vượt qua thử thách hoàn thành nhiệm vụ.
          Ngày đó ai cũng biết cả miền Bắc nhất là vùng khu 4 luôn phải gồng mình chống  trả cuộc đánh phá  tàn bạo của không quân Mĩ. Trên khắp quê hương từ thành thị đến thôn quê không ngày nào không có những cuộc ném bom và không ngày nào không có người ngã xuống vì bom đạn địch. Những người lính từ chiến trường Quảng Trị - Thừa Thiên thường được gọi là những người “ăn cơm Bắc, đánh giặc Nam”. Sau thời gian chiến đấu gian khổ, quân số hao hụt, các đơn vị lại được lệnh hành quân ra miền Bắc để bổ sung lực lượng, học tập và bồi dưỡng sức khỏe. Trong “Những nẻo đường thời gian” tác giả cũng đề cập tới cuộc chiến tranh  phá hoại của đế quốc Mĩ trên vùng đất Quảng Bình, Hà Tĩnh nơi đơn vị anh đóng quân sau khi từ chiến trường ra. Qua lời kể ta biết cuộc sống người dân những nơi này còn muôn vàn khó khăn, nhưng họ vẫn sẵn sàng  dành nơi ăn chỗ nghỉ cho bộ đội, sẵn sàng dành cân thóc cuối cùng, đứa con trai duy nhất cho cuộc kháng chiến giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
          Cuốn hồi kí cũng dành một phần đáng kể dể nói về quãng thời gian 35 năm tác giả công tác ở cơ quan Tổng Cục Chính Trị, Trường Sĩ quan Lục quân I và Tổng Cục Kỹ Thuật với các vị trí công tác: Trợ lý, Cục trưởng Cục Chính Sách, Phó hiệu trưởng về chính trị Trường Sĩ quan Lục quân I, Chính ủy Tổng Cục Kỹ Thuật.
Công tác chính sách quân đội là một công việc hết sức khó khăn, phức tạp, đòi hỏi người làm phải có đức hi sinh và lòng kiên trì. Song cao hơn cả là cái tâm và cái tình. Do hoàn cảnh đất nước chiến tranh kéo dài, hàng chục vạn trường hợp thương binh, liệt sĩ và gia đình có công bị tồn đọng, chưa được giải quyết chế độ đãi ngộ. Đó là một thiệt thòi đối với những người có cống hiến cho cách mạng. “Những nẻ đường thời gian” cho ta thấy một đội ngũ những người làm công tác chính sách quân đội tận tụy, giàu lòng nhân ái, thấm nhuần đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc; từ lãnh đạo, chỉ huy, trợ lý ở cơ quan tới những chiến sĩ các đội qui tập hài cốt liệt sĩ trên các chiến trường Việt Nam, Lào, Campuchia. Nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước họ ngày đêm làm việc với một tâm nguyện là đem lại quyền lợi chính đáng cho hàng chục vạn thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ, góp phần tạo nên niềm tin và sức mạnh của quân đội ta.
Đề cập tới thời gian công tác ở Trường Sĩ quan Lục quân I, tác giả dành những trang viết vừa trân trọng vừa tình cảm. Đây là ngôi trường đầu tiên của quân đội ta, được thành lập theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Tuyên Quang – Thủ đô gió ngàn với tên gọi ban đầu là Trường Quân chính kháng Nhật. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Trường Sĩ quan Lục quân I được mang tên: Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn, một danh tướng kiệt xuất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Trải qua tần 60 năm xây dựng và hoạt động. Trường Sĩ quan Lục quân I đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền, trong  hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, làm nhiệm vụ Quốc tế và trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Từ ngôi trường này hang vạn đồng chí đã trở thành cán bộ trung, cao cấp của Đảng, Nhà nước và Quân đội. Hàng trăm người trở thành tướng lĩnh, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Người đọc cũng dễ dàng nhận ra, niềm tự hào của tác giả khi được công tác ở một ngôi trường có bề dày lịch sử, niềm vui được cống hiến sức mình vào công việc đào tạo lớp sĩ quan cho quân đội; cũng như sự lớn mạnh của nhà trường. Hồi ký “Những nẻo đường thời gian” còn cho ta hiểu sự hình thành và phát triển của Tổng cục Kỹ thuật. Đây là một “binh chủng” không thể không có trong việc xây dựng và duy trì sức mạnh chiến đấu của quân đội và tiềm lực quốc phòng của đất nước. Ngay từ buổi đầu sơ khai, những cán bộ kỹ thuật, công nhân quốc phòng đã có những đóng góp đáng kể cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Cùng với sự lớn mạnh của quân đội ta và yêu cầu bức thiết của cuộc chiến đấu chống xâm lược với những vũ khí, khí tài hiện đại, cán bộ chiến sĩ Tổng cục Kỹ thuật đã vượt qua khó khăn, gian khổ, những hi sinh mất mát hoàn thành tốt nhiệm vụ. Họ là những người “giữ lửa” đã, đang ngày đêm âm thầm làm việc, đảm bảo sức chiến đấu cho bộ đội mọi lúc, mọi nơi.
          Với 500 trang hồi ký, tác giả Nguyễn Mạnh Đẩu đã “dắt” người đọc qua NHỮNG NẺO ĐƯỜNG THỜI GIAN cho họ thấy được sự phấn đấu, trưởng thành của một người chiến sĩ trong sự yêu thương, giúp đỡ chí tình, chí nghĩa của đồng chí, đồng đội đã một thời cùng vào sinh ra tử và chung lưng đấu cật - cái cao quý nhất không gì có thể sánh được, nhất là trong cơ chế thị trường hôm nay. Từ đó có thể nhận ra sự phát triển lớn mạnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam và cái giá mà dân tộc ta phải trả cho cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại.
          Viết hồi ký “Những nẻo đường thời gian” tác giả Nguyễn Mạnh Đẩu không cường điệu cũng không né tránh những khó khăn gian khổ trong đời sống chiến trường và những hi sinh tổn thất của bộ đội ta trong chiến đấu. Anh trung thực kể lại những gì đã xảy ra với tâm thế của người trong cuộc bằng cách nhìn khách quan, biện chứng, song không dửng dưng lạnh lùng.
          Đất nước  ta đã trải qua một cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ, đánh thắng nhiều tên đế quốc sừng sỏ tàn bạo. Có được cuộc sống hôm nay chúng ta không thể quên những năm tháng hào hùng, sự hi sinh lớn lao của dân tộc. Quân đội ta giờ đây đã, đang xây dựng tiến lên chính qui hiện đại. Quyển hồi ký “Những nẻo đường thời gian” rất cần cho mọi người, nhất là lớp thanh niên và những ai đã, đang là người lính và sắp bước vào cuộc đời làm lính./.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #4 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 01:18:48 pm »

Bạn đọc viết ngày 3 tháng 4 năm 2012
 


Kính gửi:  Anh NGUYỄN MẠNH ĐẨU,


     Những nẻo đường thời gian  giúp em nhớ lại những kỷ niệm về quê hương, về tuổi thơ.  Giống y chang quê em vậy. Trong  Cải cách ruộng đất, làng em cũng có người bị đấu tố oan uổng, rồi bị bắn. Cũng có thành phần địa chủ kháng chiến, vì con cái hoạt động CM. Cũng có người hoạt động 2 mang, bị qui là Quốc dân Đảng, rồi xử bắn, rồi được sửa sai…Sau đó là Tổ đổi công, HTX nông nghiệp cấp thấp, cấp cao...Em cũng từng tham gia rất tích cực trong Đội thiếu niên, cũng đánh trống, cầm loa đi đến từng ngõ xóm, hô khẩu hiệu, rồi HTX măng non, rồi cắm trại... Tết đến, sáng mồng một, từng gia đình tập trung, kéo cờ, chào cờ, hát quốc ca rất nghiêm chỉnh. Xong, mọi nhà đều kéo ra sân HTX để chào cờ tập trung, tham gia các trò chơi. Em nhớ trong trang đầu của quyển Tập đọc lớp một có hình ảnh một buổi chào cờ, dưới ghi câu thơ: Nghiêm trang chào lá quóc kỳ/ Tình yêu đất nước ta ghi vào lòng. Anh giúp em nhớ lại bài thơ Chú đi tuần của Trần Ngọc: Chú đi tuần đêm nay/Hải Phòng đang giấc ngủ say/Cây rung theo gió, lá bay xuống đường...
     Mười sáu tuổi đã lên đường nhập ngũ. Và 7 năm, anh cùng đồng đội đã trải qua bao trận chiến đấu vô cùng ác liệt, vô cùng dũng cảm. Cứ nghĩ đến các cháu ở độ tuổi 16-23 bây giờ, thì không hình dung nổi ngày ấy, anh, và cả thế hệ anh em mình có thể làm được những điều vĩ đại đến thế? Em cũng có một anh trai ( sinh năm 1927), tham gia đoàn quân Nam Tiến năm 1945, hy sinh tại Phú Phong, Bình Định năm 1947.
     Những trang viết của anh thật sinh động và cảm động. Em rất cảm phục!
     Em cảm nhận rằng, việc anh làm Cục trưởng Cục Chính sách – TCCT cứ như là một sứ mệnh mà Nguyễn Mạnh Đẩu được đồng đội - những người đã khuất và những người còn sống - uỷ thác. Em cũng đã được nghe anh hát Cục ca rồi đấy nhé!
    Có thể nói:  Trong suốt cuộc đời quân ngũ của mình, anh  có quyền tự hào rằng, mình có quyền tự hào về sự lựa chọn đó!
    Rất cảm ơn anh! Em chúc anh sức khoẻ, may mắn, hạnh phúc, viết đều tay!

                                                             
TRƯƠNG THANH
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #5 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 01:20:06 pm »

Nguyễn Mạnh Đẩu: Vị tướng nặng tình với đồng đội

( Bài của tác giả Xuân Lộc đăng ở Báo Năng lượng mới ngày 17/7/2012 )


(Petrotimes) - Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu sinh năm 1948 (xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc) - một miền quê nghèo của Nghệ An giàu truyền thống cách mạng và khoa bảng. Trọn cuộc đời quân ngũ, ông đã để lại dấu ấn trên từng cương vị.

Khai man tuổi để được… nhập ngũ

         Ngày 5 tháng 8 năm 1964, sau “Sự kiện vịnh Bắc Bộ”, đế quốc Mỹ cho không quân ồ ạt ném bom bắn phá Miền Bắc. Nhiều nơi ở thành phố Vinh và Bến Thủy bị máy bay oanh kích. Rất bất ngờ, chẳng ai biết trước.
        Ông bộc bạch: “Cuộc chiến tranh phá hoại khốc liệt của giặc Mỹ kéo dài gần một thập kỉ với biết bao đổ nát, tang tóc, ập đến những người dân lành đầu trần, chân đất quê tôi.  Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi nhìn thấy máy bay phản lực Mỹ”.
       Từ ngày đó quê ông bắt đầu bước vào cuộc sống thời chiến. Các gia đình đào hố phòng không trong nhà, trong vườn để tự vệ khi không quân địch oanh tạc vào làng. Dân quân luyện tập, canh gác trực chiến suốt ngày, từ trong xã ra tận bãi biển Cửa Lò. Mọi người được quán triệt, cùng với việc phòng tránh, đánh trả máy bay Mỹ, còn phải sẵn sàng đánh tàu chiến khi cập gần bờ. Đặc biệt là, sẵn sàng đánh quân địch đổ bộ bằng đường không và đường biển.
        Tháng 9 năm 1964, Nguyễn Mạnh Đẩu được các chú, các anh cho vào dân quân. Tập dân quân chừng nửa tháng, cậu được chọn làm liên lạc cho trung đội dân quân của làng. Nguyễn Mạnh Đẩu có nhiệm vụ truyền đạt mọi chỉ thị, mệnh lệnh từ trung đội xuống các tiểu đội và các báo cáo từ trung đội lên xã đội.
       Nguyễn Mạnh Đẩu nhớ lại: “Có lần, đang nửa đêm, chú Lê Văn Ngọc trung đội trưởng giao tôi ra Cửa Lò để truyền đạt mệnh lệnh cho tiểu đội canh gác ngoài đó. Mệnh lệnh thì dài, nhiều khoản mục, nhưng không được phép ghi lại bằng giấy. Chú Ngọc nói: Tập cho quen, ngộ nhỡ trên đường đi “kẻ địch” bắt được. Việc quân cơ, sống để dạ chết mang đi, không để lại dấu tích gì cả…”. Tôi phải nhập tâm, một mình đi bộ gần 5 cây số ra truyền đạt lại với chú Thanh Tùng không sót một chữ. Mọi người khen tôi vừa gan vừa có trí nhớ tốt. Ngày đó đi đêm từ làng này sang làng khác giữa đồng không mông quạnh, lại qua nhiều nghĩa địa, ai cũng sợ ma chứ không sợ trấn lột như bây giờ.
      Trong năm 1964, cấp trên đã triển khai mấy lần tuyển quân: đợt 1 tháng 4, đợt 2 tháng 8, tiếp đến đợt 3 là tháng 10. Nguyễn Mạnh Đẩu trúng tuyển đợt 3. Ông kể: “Đúng ra, vì tôi bị viêm amidan không qua được phòng khám tai mũi họng. Tôi xin phiếu khám khác và nhờ Phan Ngọc Thịnh, bạn cùng làng, khám thế ở phòng đó. Còn các phòng khác, tôi qua được. Đến phòng kết luận cuối cùng của Hội đồng Nghĩa vụ quân sự, tôi gặp anh Hoàng Văn Lượng, là anh  vợ của anh Thuần, con ông bác họ. Anh Lượng bảo tôi: Em chưa đủ tuổi, không đi được đợt này!”. Tôi năn nỉ xin và được anh đồng ý khai tăng thêm cho tôi một tuổi.Thế là từ đó, trong lý lịch quân nhân của tôi đều ghi sinh  năm 1947.
      Tròn 16 tuổi, nặng 48 kg, cao 1,62 m, Nguyễn Mạnh Đẩu đã trốn cha lên đường nhập ngũ. Ngày 15 tháng 10 năm 1964 là cột mốc bắt đầu sự nghiệp cuộc đời tôi -  mở đầu quãng đời đằng đẵng 45 năm quân ngũ. Ông tâm sự: “Đêm trước ngày lên đường, Ủy ban hành chính xã Nghi Hợp mời các thanh niên trúng tuyển dự liên hoan chia tay. Đêm dự liên hoan ở xã về, tôi tâm sự với mẹ. Mẹ tôi đã khóc rất nhiều. Suốt cả đêm hai mẹ con không tài nào ngủ được. Cha thì chưa về, chị thì thoát ly ở xa. Mẹ ở nhà với ba em còn nhỏ dại, thơ ngây… Sáng dậy, mẹ đưa cho tôi 7 đồng bạc trong số 12 đồng mẹ mới bán trái cây trong vườn. Phụ cấp binh nhì ngày đó là 5 đồng. Như vậy, số tiền mẹ cho tôi còn hơn một tháng phụ cấp. Tôi mặc cái áo xanh, chiếc quần ka-ki. Nhét vội 7 đồng bạc vào túi quần, tôi ôm choàng lấy mẹ trước giờ chia tay trong nước mắt.
      Ngày lên đường nhập ngũ của Nguyễn Mạnh Đẩu vì thế không có người đưa tiễn, cậu bé sống mũi cay cay, khi nhìn thấy vòng tay ấm áp của những người thân tiễn người đi chiến trận. Lúc đó, cậu mới chạnh lòng. Nhưng ý đã quyết, Nguyễn Mạnh Đẩu trở thành chiến sĩ giải phóng quân hoạt động trên những vùng chiến ác liệt, Lào, Quảng Trị – Thừa Thiên.

Tham gia những trận đánh ác liệt

        Lúc mới nhập ngũ, Nguyễn Mạnh Đẩu được biên chế vào Tiểu đội 1, Trung đội 2, Đại đội 2, Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 101, Sư đoàn 325B. Ngày 25 tháng 12 năm 1964, toàn đơn vị bắt đầu lên đường đi B. Đơn vị hành quân từ miền tây Quảng Bình vượt qua Đường 9 đi dọc Trường Sơn vào Miền Nam. Nhưng rồi trên chặng đường hành quân Nguyễn Mạnh Đẩu bị sốt rét nặng, đơn vị phải gửi lại điều trị ở một cơ sở quân y của trạm giao liên thuộc Đoàn 559.
       Khi khỏi bệnh, Nguyễn Mạnh Đẩu được điều động về Tiểu đoàn 929 hoạt động ở chiến trường Trung Lào. Tại chiến trường này, đơn vị ông  liên tục chiến đấu trên trục Đường 9 ở tỉnh Savanakhet (nước bạn Lào) nhằm bảo vệ hành lang phía tây của Đường dây Chiến lược 559.
     Sau gần 2 năm chiến đấu trên chiến trường Lào, đơn vị ông chuyển về hoạt động ở chiến trường Bắc Quảng Trị – từ khu vực Hồ Khê, Đá Bạc và qua các trục Đường 74, Đường 75 đến An Cát Khê, Trung An. Ông kể: “Sau khi đi xem xét một lượt địa hình trong toàn khu vực, theo chỉ thị của trên, Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 29 chúng tôi bố trí trận địa đón lõng quân địch ở khu vực Hồ Khê, Đá Bạc. Theo dự kiến, sau khi phát hiện có chủ lực của ta hoạt động ở phía Bắc Đường 9, quân Mỹ sẽ hành quân từ căn cứ Đầu Mầu ở Đường 9 đánh chiếm dọc theo triền núi đi về phía suối La La và Đồi Không Tên”.
       Quãng thời gian từ 1964 – 1971 là thời kì khó khăn, quyết liệt nhất của bộ đội ta trên chiến trường Miền Nam. Lúc cao điểm, lực lượng Mỹ lên tới hơn 500.000 quân và hơn 1 triệu quân ngụy với đủ các loại vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại. Chiến trường Quảng Trị-Thừa Thiên được coi là nơi “so tài đọ sức” giữa chủ lực ta và địch, vì thế đây là nơi ác liệt nhất. Những địa danh, những trận đánh đã đi vào lịch sử chiến đấu oai hùng của quân đội ta mà mỗi khi nhắc tới ai cũng tự hào: Cồn Tiên, Dốc Miếu, Khe Sanh, Đường 9-Nam Lào…
       Nguyễn Mạnh Đẩu tâm sự: “Ở chiến trường nào cũng vậy, đối với người lính khi ra trận luôn phải đối mặt với gian khổ, hi sinh. Nhưng quả thật, ở cái “chảo lửa” Quảng Trị-Thừa Thiên, thì sự thử thách nghiệt ngã, ác liệt hơn nhiều nơi khác. Ngoài nhiều trận đánh thắng giòn giã, cũng có một số trận quân ta bị thiệt hại nặng nề, như trận đánh Cao điểm 817- Ta Tách có mũi chiến đấu hi sinh không còn một người… Song bao trùm lên tất cả là tình đồng chí, đồng đội, mối quan hệ thân ái, chí tình  giữa cấp trên cấp dưới… coi nhau như anh em một nhà. Điếu thuốc bẻ đôi, nhường nhau ngụm nước, sẻ chia niềm vui, nỗi buồn. Đó cũng chính là điểm tựa vững chắc, tin cậy để người chiến sĩ vượt qua thử thách hoàn thành nhiệm vụ”.
       Cũng tại chiến trường Quảng Trị – Thừa Thiên Huế ác liệt này, người chính trị viên đại đội đặc công Nguyễn Mạnh Đẩu đã cùng đơn vị dũng cảm chiến đấu, lập nhiều chiến công xuất sắc. Bản thân ông đã không ít lần bị thương – có lúc vết thương quá nặng tưởng chừng không vượt qua nổi. Và trong những ngày cận kề với cái chết, ông đã viết nhật ký, viết với tâm thế của một người lính ra trận không xác định ngày về. Những dòng nhật ký được viết vội sau từng trận đánh, của một chàng trai trẻ muốn dành niềm tự hào cho cha. Ở trang đầu tiên của cuốn nhật ký, ông viết, “Sau khi tôi hy sinh, hãy gửi lại cho cha tôi, để ông có quyền tự hào về con trai mình, đã sống và chiến đấu trên tuyến đầu”. Nhưng rồi cuốn nhật ký đó đã bị lưu lạc.
       Đó là trong chiến dịch Đường 9- Nam Lào, đại đội đặc công của ông được giao nhiệm vụ phối hợp với đơn vị bạn đánh vào Cao điểm 550, nhằm tiêu diệt Lữ đoàn 147 của địch. Ông đã bị thương nặng, đến nỗi nhiều người tưởng rằng ông đã hy sinh. Ông Phạm Huy Chưởng (sau này là Thiếu tướng, Phó Tư lệnh Quân khu 4) là đồng đội của ông đã giữ lại cuốn nhật ký. Và trước khi đi chiến đấu, ông Chưởng đã gửi lại cuốn nhật ký đó cho một đồng đội khác ở hậu cứ. Nhưng sau một trận oanh tạc của máy bay Mỹ, người đồng đội ấy cũng đã bị thương bỏ lại một chân ở chiến trường và đã không thể giữ lại cuốn nhật ký.

Dấu ấn trên từng cương vị công tác

        Nguyễn Mạnh Đẩu đã trải qua nhiều trận chiến đấu ác liệt. Từ chiến trường Lào đến chiến trường Quảng Trị – Thừa Thiên Huế, đến chiến dịch Đường 9 – Nam Lào ròng rã 7 năm với nhiều chiến công.
      Tiếp đến, Nguyễn Mạnh Đẩu đã trải qua 35 năm công tác tại cơ quan Tổng cục Chính trị, Trường Sĩ quan Lục quân 1 và Tổng cục Kỹ thuật với các vị trí công tác: từ Trợ lý đến Cục trưởng Cục Chính sách, Phó Hiệu trưởng về Chính trị Trường Sĩ quan Lục quân 1 rồi sau cùng là Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật – Bộ Quốc phòng.
      Trải qua nhiều cương vị, Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu luôn nỗ lực phấn đấu, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, ông đã để lại nhiều dấu ấn trong thời kỳ ở Cục Chính sách. Với cương vị Cục trưởng Cục Chính sách, ông đã tham mưu cho Tổng cục Chính trị, Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng và Nhà nước nhiều chính sách quan trọng, hiệu quả, có ý nghĩa  lớn.
      Công tác chính sách là một mặt hoạt động của công tác chính trị trong quân đội. Đó là việc nghiên cứu đề đạt chính sách và chỉ đạo tổ chức thực hiện những chính sách đã ban hành đối với quân nhân khi tại ngũ cũng như khi chuyển ra ngoài quân đội. Hơn nữa, do hoàn cảnh đất nước trải qua nhiều năm chiến tranh, hàng chục vạn trường hợp thương binh, liệt sĩ và gia đình có công chưa được giải quyết chế độ đãi ngộ; hàng triệu người có chiến công chưa được khen thưởng.  Dưới sự lãnh đạo của Tổng cục Chính trị, Quân ủy Trung ương – Bộ Quốc phòng; nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, trên cương vị Cục trưởng trong một thời gian khá dài, Nguyễn Mạnh Đẩu đã cùng tập thể Cục Chính sách đã hoàn thành một khối lượng công tác lớn, với tính chất khó khăn, phức tạp, bức thiết, đem lại quyền lợi cho quân nhân đang tại ngũ và các đối tượng chính sách.
       Thời kỳ công tác ở Trường Sĩ quan Lục quân 1 cũng như sau này đảm nhiệm cương vị Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật, chúng ta lại được gặp ở Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu những phẩm chất đáng quý về trí tuệ và nhân cách của người cán bộ quân đội.
       Trường Sỹ quan Lục quân 1 được thành lập ngày 15/4/1945, theo Chỉ thị của Bác Hồ tại Tuyên Quang- Thủ đô gió ngàn- với tên gọi ban đầu là Trường Quân chính kháng Nhật. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Trường được mang tên là Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn, danh tướng kiệt xuất bậc nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Từ ngôi trường này, hàng vạn người đã trở thành cán bộ trung, cao cấp của Đảng, Nhà nước và Quân đội. Hàng trăm cán bộ, giáo viên, học viên của trường đã trở thành tướng lĩnh, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Được công tác ở một nhà trường có vị thế và bề dày truyền thống, Nguyễn Mạnh Đẩu luôn cảm thấy vinh dự. Trên cương vị được giao, ông đã cùng tập thể Đảng ủy- Ban Giám hiệu xây dựng nhà trường không ngừng lớn mạnh, thường xuyên hoàn thành tốt nhiệm vụ đào tạo sĩ quan chỉ huy tham mưu cấp phân đội cho quân đội.
        Bất kể thời bình hay thời chiến, ngành kỹ thuật quân sự là một “binh chủng” quan trọng của quân đội. Cán bộ, chiến sĩ ngành kỹ thuật quân sự là những người “giữ lửa”  ngày đêm âm thầm làm việc, đảm bảo sức mạnh chiến đấu của quân đội. Với Nguyễn Mạnh Đẩu, Tổng cục Kỹ thuật – Bộ Quốc phòng là chặng cuối cùng trong cuộc đời binh nghiệp. Trong thời gian đảm nhiệm cương vị Chính ủy Tổng cục, ông đã tâm đầu ý hợp, sát cánh đắc lực và hiệu quả với ông Trương Quang Khánh – Chủ nhiệm Tổng cục (sau đó là Ủy viên Trung ương Đảng, Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng) cùng tập thể lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục Kỹ thuật hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ Quân ủy Trung ương – Bộ Quốc phòng giao phó. Rất nhiều lần ông đã đến thăm và chỉ đạo công tác ở hầu hết các đơn vị trong toàn Tổng cục từ nhà máy đến nhà trường, từ cơ quan nghiên cứu đến các đơn vị cơ sở kho tàng đạn dược; từ Việt Bắc gió ngàn đến Trường Sơn, Tây Nguyên hùng vĩ. Ở nơi nào cũng vậy, ông đều phát huy trí tuệ, quy tụ trách nhiệm chính trị và tình cảm của cán bộ, chiến sĩ trong Tổng cục Kỹ thuật vào một một mục tiêu chung: Thường xuyên đảm bảo vũ khí, trang bị kỹ thuật – một thành tố đặc biệt quan trọng tạo nên sức mạnh chiến đấu của Quân đội và tiềm lực quốc phòng của Đất nước.

Thượng tướng Lê Khả Phiêu, nguyên Tổng Bí thư, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐNDVN đã viết: “Nguyễn Mạnh Đẩu là một cán bộ nhiệt tình, xông xáo, quyết đoán, có tầm nhìn và sống nghĩa tình, nên ở mọi vị trí công tác, anh đều để lại dấu ấn cho đơn vị và ấn tượng, tình cảm tốt đẹp cho đồng chí, đồng đội…"
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #6 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 01:21:34 pm »

Chương một: Quê hương, gia đình và thời thơ ấu
 
   
Tôi quê ở làng Đại Xá, xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
Nghệ An có diện tích 16.487 km2 là tỉnh lớn nhất Việt Nam, với số dân khoảng 3 triệu người (tính đến 1-4-2004). Theo sử sách, năm 628 vùng đất này gọi là châu Hoan rồi châu Diễn. Năm 1030, bắt đầu gọi là châu Nghệ An, rồi năm 1040 lại đổi lại là xứ Nghệ An. Thời Tây Sơn gọi là Nghĩa An trấn. Thời Gia Long đặt lại là Nghệ An trấn. Năm 1831, vua Minh Mệnh chia trấn Nghệ An làm hai tỉnh Nghệ An (bắc sông Lam), Hà Tĩnh (nam sông Lam). Năm 1976, sau khi thống nhất đất nước, trong xu thế chung, hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh sáp nhập lại thành tỉnh Nghệ Tĩnh. Đến năm 1991 lại tách ra như cũ.
 Nghệ An nằm trong vùng khí hậu gió mùa, có bốn mùa rõ rệt Xuân, Hạ, Thu, Đông. Từ tháng 4 đến tháng 8 âm lịch hàng năm chịu ảnh hưởng của gió tây nam (gió Lào) khô và nóng. Về mùa Đông chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc lạnh và ẩm ướt. Từ xa xưa, qua mọi thời đại, Nghệ An là quê hương của nhiều danh nhân tiêu biểu. Trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, Nghệ An đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc,  bảo vệ Tổ quốc.
 Nghi Lộc là huyện ven biển, với diện tích gần 39.000 hécta, số dân hơn 20 vạn người, có 1 thị trấn và 32 xã. Theo lịch sử thì từ năm 1490 đến năm 1831 gọi là huyện Chân Phúc. Từ năm 1832 đến năm 1888 gọi là huyện Chân Lộc. Từ năm 1889 trở đi gọi là huyện Nghi Lộc. Là nơi có bờ biển dài với hai cửa lạch thông ra biển Đông và có các tuyến giao thông huyết mạch của quốc gia, nên mọi cuộc chiến tranh đều đi qua vùng đất Nghi Lộc. Bao đời nay, những người con ưu tú của Nghi Lộc đã nối gót nhau cống hiến cho giang sơn đất nước, tô thắm thêm truyền thống quê hương.
Xã Nghi Hợp nằm ở phía đông huyện Nghi Lộc, có diện tích 386,52 hécta, với số dân 3.485 người; có ba làng: Đại Xá, Kỳ Sơn, Hợp Xá. Nghi Hợp có các đặc điểm lớn: Là xã duy nhất trong vùng không có người dân nào theo đạo Thiên Chúa. Trong kháng chiến chống Pháp chưa có lần nào giặc Pháp hoặc ngụy quân đặt chân đến. Trong chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, mặc dù nhân dân các xã trong vùng bị thương vong nhiều do máy bay Mỹ oanh tạc khốc liệt, bị pháo hạm từ tàu hải quân Mỹ bắn phá dữ dội, vậy mà ở đây không ai hề hấn gì. Duy chỉ một lần, năm 1968, máy bay Mỹ ném một quả bom trúng vào vườn ông Châu (Nguyễn Đình Mợi), cách nhà tôi khoảng 100 mét, nhưng lại chui sâu xuống lòng đất, không nổ. Mãi đến bây giờ cũng chưa ai đào lên. Suốt hai cuộc kháng chiến, ngay trên đất xã tôi không có người nào bị thương vong, không có cái nhà nào bị cháy - mặc dù thời đó Khu 4 là trọng điểm đánh phá của máy bay và tàu chiến Mỹ. Nhiều người cho rằng, sở dĩ có điều đó vì Nghi Hợp là quê hương của Nguyễn Xí, được Ngài che chở.
 Thái sư Cương quốc công Nguyễn Xí (1397 - 1465) - Công thần khai quốc thời Hậu Lê, là một đại thần của bốn đời vua Lê - từ Lê Thái Tổ đến Lê Thánh Tông. Ông là một viên tướng trụ cột của Lê Lợi, có công lớn trong 10 năm trường kỳ kháng chiến chống quân Minh (1418 - 1428). Là người chủ xướng trong cuộc binh biến ngày 6 tháng 6 âm lịch năm 1460 phế vua Thiên Hưng (tức Lê Nghi Dân), rước Lê Tư Thành lên ngôi báu –tức vua Lê Thánh Tông nổi tiếng trong lịch sử dân tộc (1442-1497). Tiếp đó, ông đã phò tá vua Lê Thánh Tông gây dựng xã tắc, gìn gìữ và mở mang bờ cõi, chấn hưng đất nước. Đó là thời kỳ hưng thịnh, rực rỡ nhất trong các triều đại phong kiến Việt Nam. Hiện nay trong xã có đền thờ Nguyễn Xí là di tích lịch sử đã được xếp hạng. Trong đền có bài văn điếu của vua Lê Thánh Tông khắc bằng chữ Hán trên một tấm bia đá rất to. Dưới bài văn điếu ghi Trạng nguyên Nguyễn Trực thảo. Thật là công bằng rành rọt, lời điếu của Vua đối với một đại thần, vẫn còn ghi lại ai là người soạn thảo văn bản. Nguyễn Trực (1414- 1474) -  Lưỡng quốc Trạng nguyên, người xã Bối Khê, huyện Thanh Oai (Hà Nội), xuất thân trong một gia đình nho học nhiều đời, ông nội và cha đều là khoa bảng.
 Từ tấm văn bia ngẫm kỹ toát lên mấy điều: Một vị vua anh minh; Một đại thần trung nghĩa; Một trạng nguyên học giả tài ba.
Làng Đại Xá là một làng nhỏ. Sau này, khi lớn lên đã đi qua nhiều vùng quê, tôi cứ tự hỏi tại sao làng mình, một làng nhỏ như vậy mà lại gọi là làng Đại. Xem lịch sử các dòng họ (gia phả), các chứng tích còn lại, tôi nghĩ rằng làng Đại Xá hình thành khoảng 300 trăm năm nay. Thuở ban đầu chắc chỉ là một xóm trại (ấp) do các ông tổ của các dòng họ: Lê, Nguyễn Văn, Nguyễn Gia, Phan Ngọc,..khăn gói từ các vùng quê khác đến lập cơ nghiệp, sinh con đẻ cái. Tính đến nay gia phả của các dòng họ trong làng cũng mới ghi được trên dưới mười đời. Trong làng có một cây đa duy nhất được coi là cổ thụ. Nghe kể, cây đa này do cố Lê Văn Tế đi chợ Sơn mang về trồng. Mà từ cố Tế đến nay cũng mới chỉ bốn đời.
Làng tôi trước đây có đền và chùa. Đền thờ Thành Hoàng. Cả đền, chùa mới có từ đầu thế kỷ 20, do những người cùng thế hệ ông nội tôi xây dựng. Được biết toàn bộ gỗ dựng đền được xẻ ra từ một cây lim to, các cụ mua tận Phủ Quỳ rồi chở bè về cách hơn trăm cây số. Khi tôi lớn lên đền, chùa còn đẹp lắm, đã trở thành nơi hội họp của làng và là chỗ học của học sinh. Ngày đó xung quanh đền, chùa là mấy lùm khá rộng rậm rạp với nhiều loại cây và đẹp tựa như hai vạt rừng nguyên sinh. Mùa hè đi dạo trong đó rất mát. Ở chùa còn có hai cây thị cao to, nhiều quả chín mọng thơm lựng.
 Từ sau Cách mạng Tháng Tám đến hết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, lệ làng là hàng năm cứ đến sáng mồng Một Tết Nguyên đán, cả làng tập trung chúc Tết và chúc thọ Cụ Hồ ở đền. Các cụ già khăn áo chỉnh tề, chân đi guốc mộc đến cửa đền đều hô to một cách cung kính: “Chào làng, chào Cụ Hồ”.  Ăn cỗ ở làng bao giờ cũng chia phần cho các chiến sĩ đang tòng quân. Phần ít thôi, một đĩa xôi, một miếng thịt luộc, hoặc gà hoặc lợn. Nhưng là một miếng giữa làng hơn một sàng trong bếp. Gia đình binh sĩ được mang suất phần đó về. Một việc nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn, góp phần tôn vinh các gia đình quân nhân tại ngũ, động viên bộ đội đang ngày đêm chiến đấu trên các chiến trường. Đến năm 1957 đền và chùa bị dỡ ra để lấy vật liệu xây trường phổ thông cấp I của xã. Cả lùm chùa và lùm đền đều đã bị phá để lấy đất tăng gia. Đến nay chẳng còn dấu tích gì nữa.
Đất không rộng, người không đông, kinh tế khó khăn, khí hậu thời tiết khắc nghiệt. Nói chung, tính cách người dân quê tôi cương trực, cần cù, hiếu học, tiết kiệm và đoàn kết. Những đặc trưng đó là do điều kiện địa lý, lịch sử, kinh tế và văn hóa hun đúc nên từ bao đời nay.
Không được thiên nhiên ưu đãi đồng ruộng phì nhiêu, mưa thuận gió hòa, quê tôi là vùng đất cát pha bạc mầu. Ruộng đồng chia làm hai mùa rõ rệt. Vụ mùa lúa được cấy ở ruộng nước và gieo hạt ở ruộng khô. Vụ chiêm thì chỉ cấy lúa ở ruộng nước, còn ruộng khô thì trồng khoai, ngô, đỗ, lạc, vừng,…Thu hoạch vụ chiêm vất vả lắm. Trời nắng chói chang. Gió Lào nóng bỏng. Công việc bộn bề. Phần đông người quê tôi, bất kể gái trai, da dẻ đều cháy đen trong những tháng hè. Xã tôi không có sông. Cách biển (Cửa Lò) khoảng hai cây số. Cách sông Cấm khoảng bốn cây số. Sông Cấm là con sông đào từ thời Hậu Lê.
Trong vùng có hai cái đập: đập Xã và đập Họ. Hai cái đập cách nhau một con đường, nói đúng hơn là một con đê. Nước đập Xã chảy sang đập Họ qua một cái cống (trẻn) để chảy ra biển. Trước đây cả hai đập còn sâu, rộng, nước trong xanh. Con trai, con gái lớn lên đều tập bơi và biết bơi từ hai cái đập này. Quanh năm đập được bảo vệ nghiêm ngặt không để bất cứ ai khai thác cá. Mỗi năm tổ chức đánh cá ở đập một lần (tiếng địa phương gọi là đánh đập) vào cuối tháng 6 âm lịch, sau khi đã thu hoạch xong vụ chiêm. Khi có hiệu lệnh phát ra, kẻng gõ dồn dập, trống khua ầm ỹ, hàng nghìn người trai, gái, già, trẻ đổ ra đập như đi trẩy hội. Có người dùng vó (chậm), lưới, nhủi. Còn phần đông là dùng nơm dàn hàng ngang hết đợt này đến đợt khác úp cá cứ như các khối duyệt binh, tuần hành trong các lễ hội. Đã qua hơn nửa thế kỷ, đến nay trong tôi cảm xúc vẫn còn tươi nguyên cái không khí vui  vẻ, nhộn nhịp, hối hả, nô nức của những lần đánh đập. Ở quê tôi bây giờ không còn đánh đập nữa.
Ông nội tôi  là Nguyễn Văn Hành, gọi trệch là Hiềng, sinh năm 1870, là con út trong một gia đình có ba anh em trai. Ông cả là Nguyễn Văn Ngơn (Xuơn), ông thứ hai là Nguyễn Văn Điền. Mặc dù như nhiều người cùng thế hệ, không được đi học, nhưng ông nội tôi lại thuộc rất nhiều câu thành ngữ, châm ngôn có tác dụng giáo dục sâu sắc, nhất là trong gia đình. Ông cũng thuộc lòng nhiều chuyện thơ nôm, nhiều điển tích lịch sử, cả ta lẫn Tàu. Bà nội tôi là Nguyễn Thị Thêu thua ông nội hơn mười tuổi. Sinh ra trong một gia đình không giàu có nhưng rất gia giáo. Bà là người siêng năng, tần tảo,đảm đang, chu toàn lo toan việc nhà, việc họ, việc làng. Bà giáo dục con cái rất khuôn phép, nghiêm khắc, mà lại rất công bằng và tình cảm.
Gia đình ông nội tôi theo nền nếp truyền thống nông thôn Việt Nam thuở đó. Nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ chồng chung sống dưới một mái nhà, quan niệm rằng tam đại, tứ đại đồng đường mới là phúc đức. Trong nhà mặc dù  ba người con trai đã lấy vợ, sinh con mà vẫn ở chung, làm chung và ăn chung với ông bà. Mọi việc trong gia đình đều do bà nội tôi điều hành, xoay xở. Một gia đình lớn hơn mười người, nhiều thế hệ với nhu cầu và tính cách khác nhau, mấy gian nhà tranh chật chội, công việc bộn bề, đời sống khó khăn vất vả, nhưng chung sống với nhau  thuận hòa. Ông bà mẫu mực, công bằng, nghiêm khắc, tình cảm; con cái đoàn kết gắn bó, chịu khó, chịu thương. Nhờ biết lo liệu làm ăn, siêng năng, cần kiệm, từ chỗ nghèo túng, gia đình khá dần lên. Có được như vậy cũng là nhờ sự lo toan, đảm đang, tần tảo của bà nội tôi. Như người xưa từng nói:  phúc đức tại mẫu. Hạnh phúc của một gia đình, nhất là sự thành đạt của các người con, trước hết tùy thuộc vào vai trò của người mẹ. Trong gia đình, ảnh hưởng của người mẹ đến các con thường là chủ yếu.
Bà cô cả của tôi tên là Nguyễn Thị Tuệ, lấy chồng người làng Kỳ Sơn. Trước đây có lần tôi nghe kể khi cô sinh con, hàng ngày bà nội tôi cứ khoảng 8 giờ tối cơm nước xong vội vã tất tả vào làng Kỳ Sơn để chăm cháu ngoại. Đến khoảng 4 giờ sáng bà lại bươn bả trở về nhà cho kịp gánh bánh đi bán phiên chợ sáng. Trên đường về có chỗ nước sâu phải bơi một mình giữa trời đêm, có khi còn mưa gió, rét mướt. Tôi cho rằng, bà làm được việc đó là xuất phát từ trách nhiệm, tình cảm và bản năng nữa. Vợ chồng cô tôi dù nghèo nhưng rất tốt tính.
 Mọi người trong gia đình đều nói rằng, bác Tần là người cường tráng, phúc hậu. Tôi không biết mặt bác, vì bác mất ba năm rồi tôi  mới sinh. Cha tôi kể, trong phong trào Xô Viết Nghệ An năm 1930-1931, mặc dù chưa phải đảng viên cộng sản nhưng bác Tần là quần chúng trung kiên chí cốt của phong trào. Bác đã dũng cảm hăng hái tham gia rải truyền đơn, biểu tình, trấn áp bọn phản cách mạng. Bác thường giấu truyền đơn trong gáng hàng mang đến rải ở chợ Sơn, chợ Quán, chợ Đình. Bác tham gia biểu tình, cùng nhân dân vây đánh đồn Pháp ở núi Cồn Thông (cuối xã tôi). Khi quân Pháp trong đồn dùng súng bắn dữ dội, phản kích trở lại, đoàn biểu tình chỉ có giáo mác, gậy gộc, thậm chí nhiều người chỉ tay không, bị thương vong nhiều và rút lui. Sau đó mấy tháng trong thoái trào của cách mạng, thực dân Pháp và tay sai ráo riết bắt bớ, đàn áp dã man những người tham gia. Ông bà tôi đã phải bố trí cho bác Tần trốn lên miền ngược một thời gian. Trong họ tôi có ông Nguyễn Văn Oanh, tôi gọi bằng chú, bị địch bắt. Ông Oanh là người có học lại cường tráng, kẻ địch tuyên truyền đã bắt được lãnh tụ Cộng sản. Ông bị giải đi tù ở Lao Bảo, Kon Tum, rồi bị hy sinh trong nhà tù. Đến nay mặc dù con cháu đã tìm mọi cách mà vẫn chưa tìm thấy mộ.
Anh Tần là con trai cả của bác Tần. Quê tôi trước đây là vậy, bố thường mang tên người con đầu. Anh Tần là người hiếu học, thông minh. Anh coi đọc sách là một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống. Tính cách anh Tần thẳng thắn, trung thực, thậm chí có lúc hơi thái quá. Tôi được anh Tần chăm sóc, bảo ban từ khi còn bé. Trọn đời anh em chúng tôi thương quí nhau như anh em ruột.
Chú Cát được ông bà nội tôi cho ăn học nhiều năm từ trường làng đến trường xã, cả chữ Nho và chữ Quốc ngữ. Chính khi học ở trường xã, chú được giác ngộ cách mạng trong phong trào học sinh. Ông Nguyễn Trường Khoát, sau này làm Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An trong kháng chiến chống Pháp, là thầy học đồng thời là người giác ngộ cách mạng cho chú. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 chú Cát nhập ngũ. Kết thúc chiến tranh chú chuyển ngành rồi nghỉ hưu ở thị trấn Vĩnh Trụ, tỉnh Hà Nam. So với những người cùng thời, chú Cát là người có học, giao lưu rộng, trải nghiệm nhiều, vốn sống phong phú. Chú rất quan tâm đến chúng tôi. Khi bày dạy các cháu, chú thường dẫn dụ giảng giải sâu sắc. Tôi nhớ hồi tôi lên mười tuổi, trong nhà treo tranh tứ bình. Chú đọc và giải thích rành rõ từng bức tranh:
“ Xuân thiên mai nhụy phô thanh bạch
Hạ nhật hồng hoa đấu hảo kỳ
Cúc ngạo thu tình hương vạn hộc
Tùng lăng đông tuyết ngọc thiên chi”.
 Nghĩa là: Giữa trời Xuân những bông mai vàng phô lên sự thanh bạch.Vào ngày Hè những bông hồng đua nhau đẹp như màu cờ. Những bông cúc cười tình tứ, tỏa hương giữa mùa Thu. Giữa mùa Đông tuyết trắng phủ, những cây tùng đẹp đẽ như những viên ngọc trời cho.
Quả là hay thật, thơ tả theo tranh, tranh họa theo thơ. Mãi đến bây giờ tôi vẫn nhớ, mặc dù tôi không biết tác giả bài thơ thất ngôn tứ tuyệt và những bức tranh tứ bình từ xưa là ai.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #7 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 01:22:01 pm »

 Cha tôi là Nguyễn Văn Được, tên thường gọi là Hòe, sinh ngày 10 tháng 10 năm 1914. Đến tuổi trưởng thành cha tôi rất khỏe. Sau này nhiều người trong làng kể lại rằng, hồi đó có một ông thầy cúng (có thể là thầy phù thủy) đi cả vùng mới chọn tìm được một người ngồi đồng. Khi lên đồng chẳng biết phép thuật của thầy cách nào mà cha tôi chân trần có thể bước lên giàn than lửa, lưỡi cày, lưỡi dao nung đỏ rồi nhảy phắt lên một cái bàn cao, miệng đọc sớ, tay cầm bút lông kê đơn thuốc chữa bệnh. Mặc dù không biết chữ nho, cũng không biết nghề thuốc, vậy mà cha tôi lại kê đơn thuốc chữa bệnh được cho nhiều người. Việc này, cả người kể, người nghe và cả cha tôi đều không giải thích được. Chỉ biết đó là một việc có thật. Dù không biết vì sao nhưng chắc chắn rằng, để làm được điều đó phải là người khỏe mạnh và có một năng lực nào đó, mà người bình thường không thể làm được.
Cha tôi kể, vào khoảng năm 1935, thực dân Pháp tuyển lính lê dương đi Ma- rốc, An-giê- ri, Tuy- ni- di. Cả xã Thượng Xá bắt đi khám tuyển rất đông mà chỉ trúng được hai người: ông Lưu - con trai cố Cu Trường và cha tôi. Bà nội tôi sợ con trai đi lính chết trận, nên đã bố trí cho cha tôi trốn lính. Ông Nguyễn Gia Khánh (Thựu) là hương bản cho người truy bắt không được, đã mắng te tát bà nội tôi:
- Bà đẻ ra con trai. Phận nam nhi hoặc là học lên để sau này đỗ đạt ra làm quan, hoặc đi lính sau này lập nên công trạng có thể làm tướng. Con bà đã không đi học để làm quan, chỉ còn mỗi con đường đi lính để may ra làm tướng. Tại sao bà không cho đi lính?
Bà tôi dõng dạc trả lời:
- Tôi không ước ao con làm quan, làm tướng gì cả! Mong được làm dân sống yên thân thôi. Đi lính làm tướng đâu chẳng thấy nhưng dễ phải chết trận lắm.
Vào đầu những năm 1940, thực dân Pháp và hào lý ở địa phương hà hiếp dân mình. Sưu cao, thuế nặng, phu phen, tạp dịch triền miên. Trong một lần cùng thanh niên trai tráng địa phương đấu tranh quyết liệt chống đi phu, cha tôi cùng ông Nguyễn Đình Phát và ông Lê Văn Tửu là ba người hăng hái trung kiên nhất, bị lính lệ bắt trói giải lên huyện đường, đánh đập tra tấn dã man. Xót con bị đòn đau, ông nội tôi cùng ông Nguyễn Đình Chía và ông Lê Văn Tế lên huyện đường xin được tha. Huyện đường cách nhà 7 cây số. Tới nơi gặp cả ông hương bản Nguyễn Gia Khánh (Thựu) đang khúm núm tấu trình tri huyện. Ông Khánh quay sang quát mắng ông nội tôi và các bô lão:
- Các người là phụ bất năng giáo tử (tức là cha không dạy được con). Chúng nó làm làm loạn, phải trị bằng được. Không trị để chúng nó làm giặc à?
 Một câu nói vừa lấy uy với dân lành, vừa tâng công lấy lòng thượng cấp. Cha tôi và mấy thanh niên bị giam ở nhà lao huyện mất một thời gian thì được tha.
Cũng thật lạ, làm hương bản cho chế độ cũ bao nhiêu năm, vậy mà đến ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, ông Khánh lại là Đảng viên Cộng sản quay sang giữ chức Phó Chủ tịch xã Xá Lệnh (gồm 3 xã ngày nay : Nghi Hợp, Nghi Xá, Nghi Quang). Còn cha tôi được đoàn thể cử giữ chức Đội phó Đội Tự vệ của xã. Đội Tự vệ ngày đó có chức năng bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ, với nhiệm vụ gần như công an và xã đội bây giờ gộp lại.
Mãi đến bây giờ tôi vẫn băn khoăn và chưa kịp hỏi cha tôi, phong trào đấu tranh lúc đó do quần chúng tự phát hay do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nếu do quần chúng tự phát thì thật đáng kính trọng và cũng thuận theo quy luật: có áp bức là có đấu tranh. Còn nếu do Đảng Cộng sản lãnh đạo, thì nghiễm nhiên theo chính sách hiện hành, cha tôi được suy tôn là lão thành cách mạng, hưởng chính sách ưu đãi người có công.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, cha tôi đi Giải phóng quân. Ông nhập ngũ ngày 6 tháng 4 năm 1946 vào Trung đoàn Nghệ An, còn gọi là Trung đoàn Đội Cung ( sau này đổi tên là Trung đoàn 57). Cùng tòng quân với ông, trong làng còn có ông Lê Văn Chưu và ông Lê Văn Lẫm. Gọi là trong làng nhưng thực ra ba nhà cách nhau trong vòng 50 mét. Ông Chưu sau giải phóng Miền Bắc chuyển ngành làm Bí thư Đảng ủy Nông trường Quyết Thắng ở Vĩnh Linh rồi về hưu ở quê, mất năm 2000. Ông Lê Văn Lẫm ở bộ đội liên tục. Trong chống Mỹ, ông Lẫm làm trung đoàn trưởng pháo cao xạ ở Bộ Tư lệnh Trường Sơn, hy sinh năm 1972, được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Ngày lên đường, cả ba gia đình đều đưa tiễn ở ga Cầu Cấm (bây giờ không còn ga này nữa). Gia đình ông Chưu có bà Chưu, ông Chương, ông Bằng. Gia đình ông Lẫm có bà Lẫm, ông Dụ (Dũng). Gia đình tôi có mẹ tôi và chú Cát. Mọi người chia tay nhau trong bịn rịn, lưu luyến nhớ thương. Tàu chuyển bánh, mỗi người đưa tiễn cầm một cành thông để vẫy cho đến khi đoàn tàu khuất bóng .
Bà Lẫm lúc đó 19 tuổi, mới cưới mấy tháng, chưa có con. Bà Chưu đã có hai con trai, anh Trân và anh Minh. Mẹ tôi mới có chị Hòe.
Trên đường quay về, bà Lẫm nói:
- Khổ thân chị Hoe! Từ nay anh ấy đi rồi, chị phải tự đi cày.
Mẹ tôi tủi thân, khóc nức nở.
Quê tôi trước đây có tục phụ nữ khi lập gia đình thì gọi theo tên chồng, với nhà bình dân sinh con trai đầu gọi bằng cu, sinh con gái đầu gọi bằng hoe, đặt trước tên người chồng. Mẹ tôi lúc đó gọi là chị Hoe Được.
Huấn luyện xong cha tôi được điều động vào Bộ đội Tiếp phòng quân đóng ở Hải Phòng do ông Lê Thiết Hùng làm Chỉ huy trưởng, ông Trần Văn Quang làm Chính ủy.
 Ông Lê Thiết Hùng quê ở xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, hoạt động cách mạng từ rất sớm, là con rể cụ Hồ Học Lãm, quê ở làng Quỳnh Đôi - nhà Cách mạng Việt Nam đồng thời là Tướng quân trong quân đội Quốc Dân Đảng. Ông Lê Thiết Hùng được Bác Hồ gửi đi học ở Trường Hoàng Phố. Thời kỳ Quốc Cộng liên minh chống Nhật, ông được tổ chức cử vào quân đội Tưởng Giới Thạch, với quân hàm Đại tá, giữ chức Sư đoàn trưởng. Sau khi về nước tham gia giành chính quyền, ngày 24 tháng 9 năm 1946 ông được phong quân hàm Thiếu tướng. Đây là vị tướng đầu tiên của quân đội ta. Ông Trần Văn Quang sinh ra trong một gia đình cách mạng ở xã Nghi Hoa, huyện Nghi Lộc; sau này là Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ tịch Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam nhiều năm.
 Tiếp phòng quân được tổ chức sau Hiệp định sơ bộ  6-3 giữa ta và Pháp, có nhiệm vụ canh gác đối xứng với quân Pháp ở các căn cứ, các công sở, ở các thành phố, thị xã. Sau một thời gian ngắn, Pháp trở mặt không thi hành Hiệp định, bắt đầu quay lại xâm lược nước ta. Các đơn vị Tiếp phòng quân đánh nhau với quân Pháp ngay từ đầu. Sau này cùng ông trở lại Hải Phòng, Kiến An, Thái Bình, Nam Định, tôi được cha tôi kể lại những ngày oanh liệt đó. Sau khi thất thủ ở Hải Phòng, các đơn vị của ta lùi dần về phía sau để bảo toàn lực lượng. Vừa rút lui vừa phá hoại giao thông để cản bước làm chậm tốc độ tiến công của quân Pháp. Các cụ lùi dần qua Cầu Rào, về Kiến An, Đồ Sơn, rồi Thái Bình, Nam Định. Thời gian trụ lại chiến đấu ở Thái Bình là lâu nhất. Chính thời gian đó cha tôi được Ủy ban Kháng chiến tỉnh Thái Bình tặng bằng khen về thành tích chiến đấu bắn cháy ca nô địch trên sông Thái Bình.
Cha tôi thuộc lòng từng địa danh vùng Đông Hưng, Vũ Thư cho đến cầu Tân Đệ. Có sự trùng hợp ngẫu nhiên, sau này con gái tôi, cháu Nguyễn Trần Thùy Vinh lấy chồng quê ở Thái Bình. Năm 2002, ông và vợ chồng tôi về thăm nhà thông gia lại đến đúng làng Ký Con, xã Đông Xuân - cái làng mà từ năm 1946 - 1947, cha tôi đã từng chiến đấu. Gần 60 năm trở lại, mặc dù cảnh vật đã có nhiều thay đổi, nhưng cha tôi vẫn nhận ra được những mốc chính từ Cầu Bo đến ngã ba Gia Lễ. Hỏi lại người xưa, lớp cũ chẳng ai còn. Lớp sau, những cụ già 70-80 tuổi khi nghe cha tôi nhắc lại những sự kiện, tên người, tên đất đều mừng mừng, tủi tủi. Cha tôi về lại Thái Bình, về làng Ký Con được ba lần.
Gần 2 năm chiến đấu, vì sức khỏe yếu (bị sốt rét, bị ngã đau lưng trong một lần vượt tường ), ngày 6 tháng 12 âm lịch năm 1947, cha tôi được đơn vị cho về nhà chữa bệnh. Mẹ tôi mang thai và sinh ra tôi trong dịp đó. Sau gần một năm cha tôi trở lại đơn vị.
Sau khi trở lại đơn vị cha tôi tham gia nhiều chiến dịch. Lúc đầu ông được biên chế vào đơn vị xung kích. Xung kích ngày đó, theo ông kể, mỗi tiểu đội có 7 người thì có 1 khẩu súng tuyn, 3 khẩu súng trường, còn lại là mã tấu, kiếm, giáo mác. Chỉ khi đánh nhau giáp la cà thì kiếm, mã tấu, giáo mác mới phát huy tác dụng. Còn khi địch ở xa, chỉ nằm nhìn mấy người có súng bắn thôi. Mấy năm sau ông được điều về làm tiểu đội trưởng thông tin điện thoại của Đại đội 164, Trung đoàn 57 Đại đoàn 304. Làm lính thông tin điện thoại trong chiến đấu theo ông rất vất vả, nguy hiểm.
Thông tin điện thoại là người luôn đi trước về sau trong mọi trận đánh. Trận đánh phát triển thuận lợi, kết thúc gọn gàng, thắng lợi giòn giã thì suôn sẻ. Trận đánh lùng nhùng, dở dang hoặc thất bại thì lính thông tin đi thu lại đường dây rất dễ thương vong, thậm chí có khi bị bắt. Cha tôi kể, có lần ông đi thu hồi đường giây, bị địch phát hiện và đuổi bắt. Ông chạy dọc bờ đê, may chui xuống cống ngầm mới thoát.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #8 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 01:22:29 pm »

 Năm 1950, cha tôi được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Ông tham gia các chiến dịch Hòa Bình, Hoàng Hoa Thám, Hà - Nam - Ninh và đến đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ ông giữ chức trung đội phó, chi ủy viên của Đại đội 164 Trung đoàn 57 Đại đoàn 304. Đại đội 164 do ông Hoàng Như Ấm làm chính trị viên. Trung đoàn 57 vây đánh cứ điểm Hồng Cúm giành thắng lợi lớn nhưng thương vong nhiều. Nói chung, chiến dịch Điện Biên Phủ là vậy. Sau này, cha tôi ra chơi với gia đình tôi ở Khu tập thể gia đình quân nhân ở 1A - Hoàng Văn Thụ - Hà Nội. Gần nhà tôi có ông Hoàng Như Ấm công tác ở Cục Khoa học quân sự - Bộ Tổng Tham mưu. Tình cờ một buổi sáng trông  thấy cha tôi đi dạo bộ,  ông Ấm reo lên:
- Ôi! anh Được! Anh đi mô đó ?
Cha tôi thốt lên:
- Ôi! Hoàng Như Ấm! Ở đây à? Mình ra chơi nhà con trai.
Ông Ấm cảm động nói:
-  Trời! ở đây bao nhiêu năm, biết nó lâu rồi mà đâu biết là con anh.
 Cha tôi kể ông Ấm là người Huế, ngày đó gầy gò bé nhỏ. Khi ông Ấm bị thương, cha tôi cõng ông bê bết máu với bùn.
Cuối năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, cha tôi về phép.Tôi nhớ một buổi chiều tháng Mười, trên cánh đồng Nạy đã gặt và cắt rạ xong, lũ chúng tôi  trần truồng như nhộng khoảng dăm, bảy đứa, mặt bê bết bùn, đang bốc đất be bờ ngăn ruộng để tát cá. Chơi là chính chứ thực ra chỉ bắt được mấy con cá rô, cá diếc bé tý tẹo để nướng và chấm muối ăn tại chỗ. Đang say sưa vừa tát cá vừa đùa nghịch thì có một chú bộ đội vai khoác ba lô đi qua, nửa như hỏi đường nửa như xem xét:
- Các cháu là con cháu người làng Đại Xá phải không?
 Một đứa lớn nhất bọn, hình như là anh Dần con bác Thuần, trả lời:
- Đúng đấy ạ, nhưng mà chú hỏi về nhà ai?
- Chú hỏi về nhà chị Hoe Được.
 Tự nhiên nghe có người nói tên mẹ mình, tôi nhanh nhẩu nói:
- Thế thì là nhà cháu.
Chú bộ đội giật mình, với ánh mắt vừa phảng phất đăm chiêu cảm động, vừa thẫn thờ mừng rỡ:
- Thế ra, con là Đấu đấy à. Dẫn cha về nhà đi con.
Nói rồi, cha tôi ôm choàng lấy tôi:
- Ôi! Con trai tôi đây rồi!
Tôi ngơ ngác trong vòng tay của ông. Rồi cả bọn trẻ cứ thế trần truồng lục tục dắt díu nhau kéo về nhà tôi.
 Đây là lần đầu tiên trong đời tôi biết mặt cha tôi. Một người trung niên đen xạm, quắc thước, khỏe mạnh, chân đi dép lốp, đầu đội mũ nan lợp vải, phía trước có quân hiệu. Lúc đó tôi tròn 6 tuổi. Về tới nhà, cha đưa tôi sang giếng cố Vận bên cạnh nhà múc nước kỳ cọ tắm gội. Ông xát xà phòng tắm lên khắp cả người tôi thơm phức. Đó là loại xà phòng Pháp, chiến lợi phẩm thu được ở trận địa trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Mãi đến bây giờ tôi vẫn nhớ mùi thơm đặc trưng của loại xà phòng đó. Cha tôi mang về nhiều thứ : ba lô, võng dù, màn tuyn, ca uống nước, bi đông, đèn pin, khăn mặt, máy lửa, dây dù các loại. Tất cả đều là chiến lợi phẩm. Cái gì cũng lạ đối với chúng tôi lúc đó.
  Ông nói:
- Đây là hàng tiếp tế của Mỹ, thả dù xuống cho lính Pháp bị vây hãm ở Điện Biên Phủ. Dù theo gió bay sang trận địa ta, bộ đội thu được.
Sau mấy bữa quan sát tôi thấy cứ mỗi buổi sáng ngủ dậy cha tôi đánh răng. Mà quê tôi thuở đó có ai biết đánh răng là thế nào đâu. Một lần tôi tò mò mở ra xem, đưa lên mũi ngửi thử thấy thơm, thè lưỡi liếm thử thấy ngọt, tôi đậy nắp lại  chạy vội sang nhà đứa bạn thân tên là Năm khoe:
- Cha tao mang về có loại kẹo gì vừa ngọt, vừa thơm, vừa cay, mày sang hai đứa ta cùng ăn.
Năm và tôi đi tắt qua mấy vạt vườn quay về nhà tôi. Tôi mang hộp thuốc đánh răng của cha tôi ra bóp cho mỗi đứa ăn một khúc. Ôi thôi! Cả hai đứa bị đau bụng và đi lỏng suốt một ngày vì ăn phải xà phòng. Phan Ngọc Năm là con trai út của ông Phan Ngọc Cường, người cùng làng. Ông Cường đi dân công ở Thượng Lào, bị sốt rét hy sinh năm 1953, được xác nhận liệt sỹ. Hồi nhỏ Năm cùng học và chơi thân với tôi. Học hết phổ thông trung học, Năm đi bộ đội, là con liệt sĩ được ưu tiên cử đi học khóa 1 Đại học Quân y. Năm học cùng khóa, cùng lớp với vợ tôi. Sau này mỗi lần gặp nhau ở Sài Gòn, kể lại chuyện ăn thuốc đánh răng, chúng tôi vừa buồn cười, vừa thấy tủi, thấy thương cho một thời.
Một lần khác, mấy đứa trẻ chúng tôi cãi nhau là dây dù Mỹ đốt có cháy không. Đứa bảo rằng cháy, đứa bảo không. Giữa buổi trưa anh Nam con bác Hưng dắt díu em sang chơi - em là anh Bắc, anh Bảy bây giờ - hăng hái đề xuất ý kiến, để tao thử xem sao. Vậy là đang lúc cha tôi ngủ say trên võng, anh Nam bò lại dùng một que lửa đốt thử. Tức thì, dây cháy queo, võng đứt phựt, cha tôi ngã uỵch xuống nền nhà. Giật mình, bị ngã đau bất ngờ, mất giấc ngủ trưa, cha tôi bực lắm nhưng vì mới về, lại là trò nghịch dại của con cháu trong nhà nên ông cố nén giận. Anh Nam sau này lớn lên vào bộ đội, tháng 8 năm 1964, đi chiến đấu ở chiến trường Miền Nam hy sinh  năm 1966 tại A Sầu, A Lưới tây Thừa Thiên.
Mấy ngày đầu cha tôi mới về, bà con, làng xóm thường tụ tập ở nhà tôi vừa ăn kẹo, ăn lạc rang, uống nước chè, vừa nghe cha tôi kể chuyện trong bộ đội, chuyện đánh giặc. Có bữa ngồi chơi đến khuya. Hồi đó quê tôi vẫn vậy. Hễ có một người đi thoát ly về phép là bà con hàng xóm đến thăm hỏi, chuyện trò rôm rả mấy đêm liền.
Cuối năm 1956, sau Cải cách ruộng đất cha tôi về phép. Ngày trả phép cha  mang tôi đi theo để trực tiếp chăm sóc dạy dỗ. Lúc đầu mẹ tôi không chịu vì sợ phải xa con trai. Cha tôi nói mãi mới được. Mẹ và chị Hòe đưa tiễn hai cha con. Cả nhà đi bộ vào Vinh, gần 20 cây số. Tôi chỉ tự đi được một vài quãng ngắn, còn lại là cha mẹ thay nhau cõng. Chị Hòe lon ton chạy theo sau. Đây là lần đầu tiên được đến Vinh, tôi thích lắm. Đường nhựa, ô tô, xe ngựa, phố xá, nhà lầu, đèn điện, nước máy - với tôi cái gì cũng mới lạ. Cha tôi thuê nhà trọ ngủ qua đêm để sáng ngày mai hai cha con đi ô tô ra Thanh Hóa, hai mẹ con đi bộ trở về nhà. Nhưng khi vào nhà trọ, chẳng hiểu sao, chị Hòe khăng khăng không chịu ngủ lại, nằng nặc đòi về nhà ngay. Chị kêu toáng lên, nếu mẹ không về, chị sẽ bỏ về một mình. Cha mẹ tôi đành chịu thua, tần ngần bịn rịn chia tay nhau. Mẹ ôm lấy tôi, khóc òa lên. Cái nhà trọ nhỏ bên cái hồ nhỏ, gần bến xe Vinh, cách đây đã hơn nửa thế kỷ, sau này mỗi dịp qua đó, tôi vẫn ngoái lại nhìn. Ký ức tuổi ấu thơ hằn sâu trong trí nhớ.
Sáng ngày hôm sau hai cha con mua vé ô tô đi Thanh Hóa. Gần 9 giờ xe mới chuyển bánh. Từ Vinh ra Thị xã Thanh Hóa chưa đầy 150 km, như bây giờ xe tốt chỉ chạy hơn 2 giờ đồng hồ. Nhưng ngày đó đường rất xấu, nhiều ổ gà, ổ trâu, lại còn phải qua bốn phà: Cấm, Giát, Hoàng Mai, Ghép. Mỗi lần qua phà, xe nối đuôi nhau xếp hàng dài, hành khách phải xuống xe. Là đứa trẻ hiếu kỳ, hiếu động, với lại cái gì cũng mới lạ, tôi chạy lung tung giữa đoàn người tứ xứ. Cha tôi sợ con bị lạc, cứ phải chạy theo. Khi đến bến phà Ghép, mưa phùn, trời lạnh, tôi trèo lên một mô đất cao bị trơn trượt ngã, mặt mũi quần áo lấm lem. Cha tôi phải dùng khăn mặt nhúng nước sông để lau cho tôi. Gần tối xe mới tới được Thị xã Thanh Hóa. Sau khi đã thuê được nhà trọ, hai cha con đi ăn tối. Dạo qua mấy dãy phố dưới ánh điện mờ, nhìn thấy nhiều nhà hàng treo lủng lẳng những con gà luộc, những bộ lòng lợn luộc béo ngậy, đang đói meo tôi thèm, đòi ăn. Hồi nhỏ ở quê, tôi chỉ được ăn thịt vào những bữa giỗ, Tết. Mà cũng chẳng nhiều nhặn gì. Mặc dù trong túi tiền rất ít, nhưng cha vẫn chiều tôi ăn uống no nê.
Sáng ngủ dậy, hai cha con đi tiếp ô tô về đơn vị của ông. Ngày đó cha tôi đang an dưỡng tại Đoàn điều dưỡng của Đại đoàn 304, đóng trong nhà dân ở huyện Hà Trung, Thanh Hóa, gần chợ Bình Lâm, cách Đò Lèn khoảng 5 km. Khi tới nơi tôi thấy một số cán bộ cũng mang con đến đơn vị. Các chú bộ đội trong đơn vị thương quí tôi, nhất là các chú cùng quê. Cả đơn vị ăn cơm trong một cái đình làng rất rộng. Cơm ăn chung còn thức ăn chia theo khẩu phần: đại táo, trung táo. Đại táo là suất ăn của cán bộ đại đội trở xuống. Trung táo là suất ăn của cán bộ tiểu đoàn, trung đoàn. Đến bữa ăn nhiều chú kéo tôi về mâm, hoặc gắp thức ăn sang mâm hai cha con. Hàng ngày, tôi được cha tôi và các chú dẫn đi chơi trong vùng. Khi ra chợ Bình Lâm, khi ra xem thợ đang thi công cầu Đò Lèn, khi leo núi, khi vãn cảnh chùa.
Vùng này cò nhiều cây vải cao to, sai quả. Quả to mà hạt cũng to. Không nhỏ hạt và ngọt như vải thiều bây giờ, nhưng cũng ngon. Có chú tên là Thắng quê ở xã Nghi Quang, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An là dân vùng biển rất giỏi bơi lặn. Chú đưa tôi ra tập bơi ở bến sông Lèn. Chú nói rằng, tập sơ bộ thôi, cứ quẳng xuống nước tự khắc biết bơi. Con chó, con trâu có tập bao giờ đâu mà cũng biết bơi. Chính vì vậy, có lần chú bế tôi ra giữa sông rồi thả ra. Tôi đã vùng vẫy, uống no nước, suýt chết đuối. Chú Thắng vội lao ra cứu. Về nhà, cha tôi quát chú Thắng một trận. Bà chủ nhà sợ tôi mất vía, đã lấy sàng gạo làm phép chao vía. Đi chơi với các chú bộ đội trẻ, tôi được bày dạy nhiều điều.
Cuối năm 1957, giống như hàng loạt nông dân mặc áo lính tham gia kháng chiến chống Pháp hồi đó, cha tôi được quân đội cho giải ngũ theo chế độ phục viên. Trước đó đơn vị giải quyết cho ông chuyển về Nông trường quân đội, nhưng ông không thích. Ông cho rằng ở nông trường cũng làm ruộng mà lại xa vợ con, về quê vẫn hơn. Ông phục viên trong đợt 8 vạn quân chuyển ra.
Quả thật, đó là một lớp người có công lao lớn mà chính sách đãi ngộ rất ít. Nhưng biết làm sao được. Buổi ấy đất nước mới thoát ra khỏi chiến tranh. Kinh tế tài chính còn khó khăn trăm bề. Người nông dân tòng binh đánh giặc. Giặc tan họ trở về ruộng đồng. “Tĩnh vi nông, động vi binh””. Triết lý sống của người Việt Nam ta tự ngàn xưa là vậy.
Ngày đó cha tôi đã 43 tuổi, văn hóa chưa hết lớp 4, mắt đã phải đeo kính lão, không còn đáp ứng được yêu cầu xây dựng quân đội chính qui trong thời bình. Ông trở về là phải. Ông tự nguyện hăng hái trở về như ngày nào ông hăm hở tình nguyện tòng quân, dẫu biết rằng rất có thể bỏ mình trong chiến trận. Ngày khoác ba lô về làng, thuở đó chưa có hợp tác xã, nghĩa là mọi người còn tự do làm ăn trên mảnh đất của mình. Cầm 350.000đồng tiền trợ cấp phục viên cha tôi nuôi chí làm giàu. Việc đầu tiên là ông mua cái sân gạch ở xã Nghi Thịnh. Vì đất ở hiện tại quá chật, không chăn nuôi được, ông có ý định chuyển nhà lên vạt ruộng ở Cửa Nghè đầu làng tôi. Ông trồng tre, trồng phi lao thành bờ bao đẹp lắm. Hồi đó từ cây đa đầu làng đến Cửa Nghè còn vắng vẻ. Vì thế mẹ tôi dứt khoát không đồng ý chuyển nhà lên ở giữa đồng.
Việc chuyển nhà không thành, cha tôi quay sang đầu tư sản xuất. Ông cho rằng, với hơn 1,2 mẫu đất ruộng cộng với đất vườn, hai vợ chồng, hai con  (chị tôi và tôi, ngày đó chưa có các em sau), với sức khỏe tốt, siêng năng, cần cù, tiết kiệm, làm ăn có kế hoạch lại có một lưng vốn tương đối khá, chắc là đời sống gia đình được cải thiện và từng bước đi lên. Nào ngờ, sự thể cuộc đời không như ông dự liệu.
 Năm 1958, quê tôi mọi nông dân đều vào hợp tác xã nông nghiệp. Tất cả ruộng vườn, trâu bò, nông cụ đều đưa vào hợp tác xã hết. Ai không vào hợp tâc xã thì chính quyền địa phương và nhân dân coi là phần tử xấu, chống lại chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Con cái đi học bị dị nghị. Thậm chí đi học, học nghề, đi thoát ly không được Ủy ban hành chinh xã xác nhận lý lịch, hoặc có xác nhận thì cũng nhận xét không ra gì.Trong Đội thiếu niên, trong Đoàn thanh niên có em nào cha mẹ không vào hợp tác xã thì bị để ý, bị cản trở đủ điều. Là gia đình đảng viên, dĩ nhiên cha mẹ tôi phải vào hợp tác ngay đợt đầu tiên.
Đúng là những năm đầu mới vào hợp tác xã quê tôi vui lắm. Làm ăn tập thể, sáng, trưa, chiều, tối đều có kẻng ra đồng và về làng. Ngày đó chưa có khoán. Sau từng buổi làm, từng đội xã viên tập trung ngồi ở bờ ruộng để tính công, bình công, chia điểm.Từ chỗ làm ăn riêng lẻ, lặng lẽ tùy nghi đi sớm về khuya mặc lòng, nay đi về có giờ giấc qui củ. Làm ăn tập thể, chuyện trạng, chuyện tiếu lâm ồn ào. Vui thì có vui nhưng vẫn nghèo. Thậm chí nghèo hơn trước.Cái nghèo được chia đều cho mọi người. Động lực không được khêu gợi và phát huy, kỹ thuật không có gì mới, thậm chí không cải tiến mà là cải lùi trong một số khâu sản xuất, dẫn đến năng suất lao động rất thấp.Thêm vào đó tệ quan liêu và nạn tham nhũng bắt đầu xuất hiện trong sản xuất, phân phối và lưu thông sản phẩm.
 Khi động lực lợi ích không được kích thích thì việc chây lười, làm ẩu, làm dối nổi lên. Dân số ngày càng tăng theo qui luật sau chiến tranh. Đất đai canh tác bị thu hẹp lại, vì phải dành cho đất ở, đất giao thông, đất thủy lợi và các công trình công cộng khác…Tất cả những điều đó tác động trực tiếp đến miếng cơm, manh áo người nông dân một nắng hai sương. Cũng may dù đời sống vật chất có khó khăn, thiếu thốn nhưng đời sống tinh thần, tình làng nghĩa xóm rất mặn nồng. Các tệ nạn hầu như không có. Thuở đó, quê tôi mọi người ra đồng, đồ đạc để ở nhà không cần khóa. Lúa, khoai, lạc, ngô phơi ở sân, nếu trời mưa bất chợt mà không kịp về thì đã có người hàng xóm sang thu dọn, cất đặt hộ.
 Điều đáng tiếc là sau năm 1954, hầu như quê tôi không còn đền, chùa. Tất cả đều đã bị dỡ bỏ. Theo đó, mọi tục lệ từ ngàn xưa đều bị xóa dần. Sau này nghĩ lại, tôi thấy cũng lạ lùng. Chống mê tín, dị đoan là đúng. Nhưng lại chống cả tín ngưỡng, phong tục văn hóa đã trở thành truyền thống tốt đẹp từ bao đời thì thật là sai lầm. Không có niềm tin, không ước mơ, thì con người dễ phân tâm, đời sống tâm linh sẽ nghèo nàn, tâm hồn khô cứng, tình cảm chai sạn. Đặc biệt là, con người sẽ không biết sợ. Ở đời sợ nhất là sống chung với những người không biết sợ. Một khi đã không biết sợ, thì dễ làm càn, làm ẩu, bất chấp qui luật, gây hậu quả xấu cho mình và cho xung quanh. Cũng may việc thờ phụng tổ tiên, ông bà ông vải trong các ngày giỗ, tết ở mỗi gia đình vẫn còn. Luân lý, đạo đức, thuần phong, mỹ tục còn được giữ lại và phát huy trong điều kiện mới.

Những năm về già, cha tôi thường ra Hà Nội ở với chúng tôi. Mặc dù tuổi đã cao nhưng ông vẫn còn khỏe, minh mẫn. Chúng tôi đưa ông đi tham quan nhiều nơi, cả ngoài Bắc và trong Nam. Hàng năm vào dịp hè, chúng tôi thường đưa ông đi nghỉ mát ở Cửa Lò, Đồ Sơn, Hạ Long. Cha tôi phát bệnh tiểu đường từ cuối năm 2006. Điều trị nhiều ngày, cả đông y và tây y, nhưng không khỏi, bệnh tình ngày một nặng hơn. Theo ý ông, ngày 14 tháng 5 năm 2008 (tức ngày 10 tháng 4 Mậu Tý), chúng tôi chuyển cha tôi về quê. Hơn một tháng sau, ngày 20 tháng 6 năm 2008 (tức ngày 17 tháng 5 Mậu Tý) cha tôi từ trần. Dù đã biết trước, nhưng chúng tôi hẫng hụt và tiếc thương ông vô cùng. Giữa một ngày hè nắng chói chang, gia đình, họ hàng, chính quyền đoàn thể ở địa phương, các đơn vị và bạn hữu của các con ông, từ nhiều nơi về dự lễ tang ông đông đủ, chu đáo, nghĩa tình.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #9 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 01:23:25 pm »

Mẹ tôi  tên là Trần Thị Tuấn, tiếng địa phương gọi là Tuớn,  sinh năm 1919, thua cha tôi 5 tuổi. Ông ngoại tôi là Trần Bá Huấn, thuở nhỏ là nho sinh. Nghe nói những người học chữ Nho thuở đó nếu thành đạt thì vào đời làm được bốn nghề: nho, y, lý, số (nho là làm thầy giáo; y là làm thầy thuốc; lý là địa lý; số là thầy xem tướng số). Ông ngoại tôi vừa làm thầy đồ vừa đi bắt mạch bốc thuốc vào tận Huế, Sài Gòn và ra Hà Nội. Ông thường đưa mẹ tôi theo trong những chuyến đi xa. Mẹ tôi có dáng người tầm thước, gương mặt đẹp, phúc hậu. Bà là người hiền lành tốt tính, trong quan hệ luôn lấy hòa khí làm trọng. Họ hàng nội ngoại, làng trên xóm dưới, cả một đời, mẹ tôi không mất lòng ai.
Khi sinh tôi được mấy tháng, cha tôi trở lại đơn vị, trong nhà chỉ còn ba mẹ con. Lúc đó chị Hòe mới hơn 5 tuổi, tôi thì còn ẵm ngửa. Mấy gian nhà tranh trống trếnh, thường bị dột lúc trời mưa to, tốc mái khi gió bão. Nhà nuôi một con bò, một miếng vườn nhỏ, mấy vạt ruộng độ dăm sào. Có ruộng được ông bà nội chia cho. Có ruộng do cha mẹ tôi mới tậu sau khi ra ở riêng.
 Một mình mẹ tôi lo việc cấy cày đồng áng. Bốn, năm tuổi, tôi đã lẽo đẽo bám theo mẹ ra đồng.  Mẹ tôi thường đặt tôi ở góc bờ ruộng trong lúc cày cấy. Mãi đến trưa, đến tối lại lẽo đẽo cõng về. Có bữa làm ở ruộng Cửa Nghè trời nắng quá, mẹ tôi bẻ một cành cây lá to để che cho tôi. Có bữa làm ở đồng Hạ Lang, mẹ gửi tôi ở nhà bà Hội Tuynh là dì ruột của mẹ. Thuở đó hầu như trẻ con quê tôi thường có tật đi theo cha mẹ ra đồng. Dù ngăn trở thế nào cũng đi theo bằng được. Có lẽ do ở nhà chẳng biết chơi với ai và cũng chẳng có gì để chơi cả. Ra đồng thoáng đãng, mát mẻ hơn.
Trong kháng chiến chống Pháp và những năm sau hòa bình lập lại ở Miền Bắc, cha tôi còn tại ngũ, mẹ tôi vừa làm lụng nuôi con vừa tham gia việc xã hội. Bà làm cán bộ phụ nữ xã Nghi Hợp. Năm 1955, Cải cách ruộng đất như một cơn bão bất thần tràn đến quê tôi. Mặc dù nhà nghèo, nhưng là cán bộ phụ nữ xã, mẹ tôi bị qui là đảng viên Quốc Dân đảng. Thực ra, không riêng gì mẹ tôi, không hiểu sao ngày đó hầu hết cán bộ ở địa phương đều bị quy là đảng viên Quốc Dân đảng. Những cán bộ chủ chốt của xã đều bị bắt giữ. Tôi còn nhớ hồi đó nhà bác Thuần cạnh nhà tôi có một con chó mực to tự nhiên bị chết. Chó đã được chôn ở vườn Cố Hợi được hai ngày rồi nhưng chẳng biết ai vu cáo, Đội Cải cách bắt đào bới lên, mổ ra khám nghiệm. Kết quả khám nghiệm là chó chết do thuốc độc ( sau này, khi đã lớn, tôi nghĩ, chắc là chó ăn phải bả chuột). Đội Cải cách cho rằng, mẹ tôi cùng mấy đảng viên khác dùng loại thuốc độc đó để mưu sát cán bộ Đội. Bà bị bắt giam giữ, xét hỏi mất mấy ngày. Tôi chẳng biết người ta xét hỏi cái gì và mẹ tôi khai báo thế nào cả, vì mãi về sau không thấy bà nói về chuyện đó.
Tôi còn bé bơ vơ, sang chơi với bạn bè nhà hàng xóm, kể cả một vài nhà bà con, đều bị xua đuổi. Một mình tha thẩn, tôi quay về nhà tủi thân òa khóc. Thực ra chẳng ai ghét tôi nhưng ngày đó họ sợ bị liên lụy bản thân. Với một đứa trẻ lên  bảy tuổi thì biết gì, làm được gì cơ chứ.
Hồi Cải cách ruộng đất quê tôi có nhiều trường hợp bị qui sai oan uổng. Có gia đình cũng nghèo, nhà tranh, vách nứa, có vài mẫu ruộng do cả một đời, thậm chí mấy đời cần mẫn và tằn tiện mới tậu được, con cái chẳng được học hành, quanh năm làm lụng vất vả lại là đảng viên, chẳng hiểu sao vẫn qui là địa chủ. Tương tự, nhà có người đi bộ đội, đi thoát ly làm cán bộ thì gọi là địa chủ kháng chiến.
Mãi sau này tôi mới biết vì chạy theo tỉ lệ do trên xác định, lại không dựa vào cấp ủy địa phương, chỉ dựa vào cốt cán xâu chuỗi rễ và mấy ông Đội điều từ nơi khác đến, không hiểu rõ tình hình thực tế, nên qui chụp lung tung. Hình như càng qui chụp được nhiều càng có thành tích, càng chứng tỏ “lập trương giai cấp vững vàng”. Ai đã qui là địa chủ, lập túc bị tịch thu toàn bộ gia tài điền sản. Có người bị chết oan, bị xử bắn, bị bức tử, bị tra tấn đến chết, hoặc có người quá căng thẳng mà tự vẫn. Xã tôi có hai người bị bắn trong cải cách.
Nếu nói trong mấy chục năm qua, cách mạng có lúc tả  khuynh,thì quả thật quê tôi luôn dẫn đầu của sự tả khuynh đó. Có một vấn đề hình như có tính qui luật: Ở đâu nghèo, ở đó có phong trào cách mạng cao, có nhiều cống hiến hy sinh trong chiến tranh, lại hay tả khuynh trên nhiều phương diện, và kết cục nơi đó  mãi mãi nghèo hơn vùng khác.
Tôi sinh rằm tháng Chín năm Mậu Tý (tức ngày 17 tháng 10 năm 1948). Tính ra là sau 9 tháng 9 ngày, kể từ khi cha tôi đặt chân về làng. Vì tôi là con trai (trước đó sinh ba chị gái) cha mẹ tôi và nói chung cả hai bên nội ngoại đều mừng lắm. Thật ra tên tôi lúc còn nhỏ là Đấu chứ không phải là Đẩu như sau này. Cha tôi nói đặt tên Đấu là để kỷ niệm đi chiến đấu về sinh con. Còn tên là Đẩu là vì ngày đầu tiên vào bộ đội, anh trợ lý quân lực khi lập danh sách quân nhân hỏi tên gì, tôi trả lời là Đấu. Khổ thay, tiếng Nghi Lộc phát âm không rõ, Đấu nghe thành Đẩu. Anh quân lực vào sổ và từ đó suốt đời tôi mang tên là Đẩu. Lúc đó với tôi được nhập ngũ là mừng rồi, mọi việc không lấy gì làm quan trọng. Bởi có về quê mọi người vẫn gọi tôi là Đấu. Người Nghi Lộc gốc khi phát âm không phân biệt dấu sắc với dấu hỏi, cũng như không phân biệt dấu nặng với dấu ngã.
 Năm 1953, có tin quân Pháp đổ bộ lên cảng Cửa Lò, lực lượng dân quân du kích ở lại bám trụ bảo vệ quê hương. Trung đội dân quân tiến hành tổ chức kiểm tra vũ khí đạn dược sẵn sàng chiến đấu. Chú Nguyễn Văn Bá - người bà con trong họ, ở cạnh nhà tôi - được cử ra ném thử lựu đạn. Hồi đó, dân quân mới được trang bị lựu đạn do công binh xưởng của ta chế tạo. Loại lựu đạn này khi ném phải dùng tay đập về phía sau ( hình như là để đập hạt nổ ) rồi ném lên phía trước. Chú Bá vừa đập lựu đạn vào phía sau đang dang tay để ném, không ngờ lựu đạn nổ ngay làm cụt cánh tay phải.
Ngoài lực lượng ở lại bám trụ chiến đấu, còn lại dân làng tôi gồng gánh, dắt díu bồng bế nhau đi tản cư lên mạn phía tây của huyện. Mẹ tôi quyết định sẽ tản cư lên nhà cậu Long (em trai út của mẹ) ở gần làng Đồn Kiều - cách nhà tôi khoảng 25 cây số. Mẹ tôi quẩy một gánh gồm lương thực, quần áo, nồi niêu, bát đĩa,…Mẹ nhờ anh Thuân, con anh cả của mẹ, quẩy một gánh khác. Gánh của anh Thuân, một đầu là tôi ngồi trong  một cái thúng với một tấm chăn mỏng để lót. Đầu kia là một hũ đựng mắm cua đồng. Chị gái tôi lọc cọc đi bộ phía sau. Mẹ con, cô cháu dắt díu nhau chạy giặc. Khi mới qua cầu Phương Tích (xã Nghi Phương bây giờ), đường gồ ghề mấp mô, gióng thì dài, anh Thuân thì thấp, sơ ý vấp phải hòn đá ở vệ đường làm tôi rơi lăn kềnh xuống đất, đầu bên kia hũ mắm cũng rơi uỵch vỡ tan, mắm chảy lênh láng ra đường. Vừa đau, vừa sợ, tôi khóc òa lên.  Mẹ tôi xuýt xoa trách anh Thuân vô ý. Anh Thuân lóng ngóng thanh minh là tại gióng cô dài. Năm đó anh Thuân chừng 16, 17 tuổi. Sau này nhiều lần về phép lên nhà  bên ngoại chơi, tôi được anh Thuân kể lại chuyện này như một kỷ niệm không bao giờ quên.
Năm lên 7 tuổi tôi bắt đầu đi học vỡ lòng. Thầy dạy chữ đầu tiên là ông Lê Văn Nhựa ở cạnh nhà tôi. Lớp học vỡ lòng ở nhà thờ họ Lê, trong nhà ông Nga Huỳnh. Ông Nhựa rèn chữ rất nghiêm khắc. Hễ trò nào viết sai, viết cẩu thả, viết xấu, tức thì ông bắt đưa tay lên bàn, dùng thước gỗ lim đánh khá đau. Chẳng riêng gì ông Nhựa, các cụ dạy học xưa là vậy. Nhờ thế mới có người viết chữ đẹp. Phần vì sợ thầy, phần vì chán học, tôi thường trốn. Hàng ngày, mẹ tôi cõng tôi đến lớp, mẹ quay về trước, tôi lẻn về sau, cứ thế mất một thời gian.
Cuối năm 1956, khi tôi đang ở với cha tôi tại Thanh Hóa, mẹ tôi viết thư khẩn thiết đòi cha cho tôi về quê để đi học. Ngày xin vào học, sau khi nghe cha tôi trình bày, cô giáo Nguyễn Thị Hiệp xếp tôi vào học lớp một. Cha tôi thì  xin được vào thẳng lớp hai. Nói mãi cô Hiệp đành chịu nhưng với một điều kiện là nếu không theo được thì phải xuống lớp dưới. Bởi thế, ngay từ bé tôi đã cùng học với các anh, các chị hơn tuổi. Với sĩ số 47 học sinh, tháng đầu tiên tôi được cô giáo xếp đội sổ, đứng thứ 47. Cô Hiệp định cho tôi xuống lớp, cha tôi năn nỉ xin cho ở lại vì cho rằng tôi mới về chưa quen. Từ tháng thứ hai trở đi tôi quen dần và học tốt hơn. Khi tôi học xong lớp 2 thì tất cả các lớp được chuyển vào Trường cấp I của xã ở làng Kỳ Sơn. Cô giáo Hiệp dạy tôi năm lớp 2, hơn 50 năm sau, tôi đến thăm nhà cô ở Hà Nội, cô vẫn nhớ ra.
Sau khi tốt nghiệp cấp I, tôi thi đậu vào Trường cấp II Nghi Khánh. Cha mẹ tôi rất mừng. Vì trong vùng hơn mười xã mà chỉ có một trường cấp II, người dự thi đông, số được nhận vào học ít. Cả lớp 4 của tôi ở Trường cấp I xã Nghi Hợp chỉ đậu có mấy người. Từ nhà tôi đến trường hơn 2 km. Ngày đó trường chỉ có mấy dãy nhà tranh vách nứa ở gần hai cây lim to. Giữa các lớp ngăn ra bằng một tấm vách, lớp bên này đọc bài , lớp bên kia nghe hết. Hình như đó vốn là doanh trại  của một đơn vị bộ đội Miền Nam tập kết vào năm 1955.
Khi tôi còn bé ở quê có nhiều bạn. Trong làng có lớp ít hơn tôi vài ba tuổi gồm:  Bảy, Phượng, Lam, Tấn, Ưng, Mai, Ba, Dinh, Thìn…Lớp cùng lứa có: Bắc, Hiền, Châu, Vĩnh, Anh, Thịnh, Liễu, Ngữ, Sĩ,…và có cả lớp trên như các anh:  Cần, Duệ, Dần, Nam, Ba, Tư, Minh, Dinh... Chúng tôi chơi với nhau hồn nhiên, vô tư bằng nhiều trò chơi: đá bóng, chơi khăng, nhiều hơn cả là chơi đánh trận giả. Lớn lên, bước vào thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, hầu như tất cả bạn bè cùng trang lứa với tôi đều gia nhập bộ đội, đi chiến đấu ở các chiến trường. Trong số ấy có nhiều người đã hy sinh hoặc bị thương. Bạn bè thuở đó, ngoài những người họ hàng ruột thịt, có Lê Văn Hiền là người gắn bó, thân thiết với tôi từ khi còn học vỡ lòng cho đến tận bây giờ.
 Đội thiếu niên ở làng được tổ chức qui củ, chặt chẽ và cũng vui lắm. Mỗi tháng một lần sinh hoạt đội. Mỗi tháng một lần Đội thiếu niên tập trung rước đuốc đi cổ động trong làng. Trước khi đi toàn đội tập trung ở Hội quán để kiểm tra quân số, phổ biến nội dung cổ động và cung đường đi. Trên đường đi, người đội trưởng cầm một tờ giấy trên đó ghi các câu khẩu hiệu và hô to.Các em thiếu niên đồng thanh hô, hòa theo tiếng trống ếch. Cả đoàn đuốc sáng trưng, tiếng hô rầm rộ đến từng ngõ xóm, bọn trẻ chúng tôi thích lắm. Sau khi rước đuốc mấy vòng trong làng, cũng là lúc đuốc tàn, toàn đội tập trung trở lại Hội quán để rút kinh nghiệm: quân số đủ không, ai không đi, tại sao, có xin phép không, đuốc đủ sáng không, hô khẩu hiệu đều không, to không. Khi các phương tiện thông tin chưa có nhiều như ngày nay, việc tổ chức cho thiếu niên đi rước đuốc cổ động vừa giúp ích cho việc tuyên truyên các chủ trương chính sách của lãnh đạo các cấp, vừa tạo ra ý thức tập thể cho thiếu niên ngay từ bé. Đội thiếu niên có tổ chức hợp tác xã măng non: trồng rau, nuôi lợn, nuôi gà. Dưới gốc đa làng là một dãy chuồng gà của hợp tác xã măng non. Hàng ngày từng đội viên được phân công cho gà, lợn ăn. Đến phiên trực em nào cũng lo lắng đến trách nhiệm, nhất là những ngày mưa gió, rét mướt. Hoạt động của Đội thiếu niên thường tập trung vào hai ngày trong năm: Mồng một tháng Sáu và Tết Trung thu, nhất là Tết Trung Thu.
Vào những ngày rằm, nhất là rằm tháng Tám, ánh trăng nơi thôn dã quê tôi đẹp lạ lùng. Trăng tròn vành vạnh giữa trời cao không một gợn mây. Ánh sáng vàng ruộm rắc xuống từng ngõ xóm, những lũy tre xanh, những bãi cát trắng phau, mịn màng. Gió thổi nhẹ, trời mát dịu, chúng tôi vui chơi hồn nhiên, thỏa thích. Vào hai ngày 1 - 6 và Tết Trung Thu, thiếu niên toàn xã tổ chức cắm trại, hội thi, hội thao, vui chơi, ngủ tập trung, ăn cơm tập đoàn, thích lắm. Thường tổ chức thi các môn: đồng diễn thể dục, các môn thể thao, thi cắm trại đẹp, thi báo tường, thi tín hiệu còi, cờ mooc-xờ. Công việc chuẩn bị được triển khai từ rất sớm, trước cả tháng. Một không khí vui tươi, thi đua sôi nổi tràn ngập trong các làng. Các cán bộ, bà con cô bác, các bậc phụ huynh ở từng làng đầu tư công sức cho việc luyện thi.  Các anh chị phụ trách rất quan tâm lo lắng.Việc chấm điểm trong các Hội đồng thi cũng gắt gao, nghiêm túc và công bằng. Trong các lần cắm trại, làng Đại Xá thường dẫn đầu tất cả các môn thi và đứng thứ nhất của xã Nghi Hợp. Đó là niềm vinh dự tự hào của thiếu niên làng chúng tôi qua nhiều thế hệ.
Năm tôi đang học lớp 6 thì được đi đón Bác Hồ về thăm quê lần thứ hai. Từ sáng sớm ngày 8 tháng 12 năm 1961, học sinh chúng tôi  đi bộ vào Vinh, xếp hàng ở cổng sân bay Chợ Dâu (bây giờ gọi là sân bay Vinh) để đón Bác. Đến 12giờ30 phút một chiếc máy bay Đa-cô-ta cánh  bạc xuyên  mây hạ cánh. Bác rời máy bay lên xe com-măng-ca mui trần. Chúng tôi ùa ra, tay vẫy cờ, hoa và đồng thanh hô to : Hồ Chủ tịch muôn năm. Bác giơ tay vẫy lại. Được biết ngày đó lãnh đạo tỉnh Nghệ An bố trí một chiếc xe du lịch mui trần kết hoa để đón Bác. Nhưng khi xuống máy bay, Bác lại lên chiếc xe mui bạt của Bộ Tư lệnh Quân khu 4. Ngồi vào xe, Bác bảo tháo bạt ra để Bác còn vẫy chào nhân dân ra đón. Xe kết hoa chạy sau để cụ Lê Nhu nguyên chủ tịch Uỷ ban kháng chiến tỉnh Nghệ An ngồi. Cụ Lê Nhu râu tóc bạc phơ, da dẻ hồng hào, nhiều người tưởng nhầm là Bác. Có người lại nói là đó là người đóng thế Bác, để nghi trang. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi vinh dự được tận mắt nhìn thấy Bác Hồ. Ngày đó Bác còn khỏe nhưng tôi đứng rất gần nhìn kỹ, thấy da mặt Bác đã có mấy chấm tím đen.Về nhà, hỏi người lớn thì biết đó là chấm đồi mồi - người già vẫn vậy. Không ngờ rằng, đó cũng là lần duy nhất tôi nhìn thấy Bác Hồ. Ngay sau đó mấy hôm, thầy Hoàng Văn Bàng, dạy văn lớp chúng tôi ra một bài thi kiểm tra :”Em hãy tường thuật buổi đón Bác Hồ về thăm quê”. Bài văn tôi được chấm điểm cao nhất lớp. Được thầy yêu cầu đọc cho cả lớp nghe chung. Chỉ là thành tích nhỏ nhưng tôi cảm thấy vinh dự, tự hào.
Mặc dù học giỏi năm lớp 7 ở Trường cấp II Nghi Khánh nhưng khi thi vào cấp III Nghi Lộc, tôi bị trượt. Tôi buồn vô cùng. Các thầy, cô và bạn bè tôi đều không nghĩ là tôi trượt. Mọi người động viên tôi, thôi thì học tài thi phận, khuyên tôi về nhà ôn, sang năm thi tiếp. Cả đời tôi, qua các trường, các bậc học, đây là lần thi trượt đầu tiên và duy nhất. Vừa buồn vừa xấu hổ, sĩ diện với bè bạn, lại cho rằng học bổ túc cũng được, miễn là tốt nghiệp được lớp 10 để đi xin việc, tôi quyết định xin vào học lớp 8 bổ túc văn hóa của Trường cấp III Nghi Lộc.
Chương trình Bổ túc văn hóa cũng cùng trường, cùng giáo viên, cùng giáo khoa như trường Phổ thông. Chỉ khác là chúng tôi chỉ học ba môn tự nhiên Toán, Lý, Hóa. Thời gian học là vào các buổi tối trong tuần. Hồi đó chưa có điện, lớp học được thắp sáng bằng đèn măng xông. Cùng học với tôi một lớp có Lê Văn Ba ngay cạnh nhà. Trường  cấp III  Nghi Lộc hồi đó ở thị trấn Quán Hành, gần chỗ huyện đội bây giờ, cách nhà khoảng 7 cây số, đi bộ hơn 1 tiếng đồng hồ. Hàng ngày, cứ đến 5 giờ chiều, tôi và Ba cắp sách đến trường. Học xong về đến nhà khoảng 10 giờ rưỡi đêm. Có bữa trời mưa, không về, ngủ lại trên bàn. Đêm rét quá, lấy tấm ni lông đắp.Vì đắp ni lông, mồ hôi hai anh em tụ lại chảy ròng ròng như người xông hơi.
Học xong lớp 8, tôi học tiếp lên lớp 9. Trong lý lịch bây giờ của tôi có ghi  hai bằng đại học: Kinh tế, Chính trị. Nhưng đó là chuyện sau này.

Logged

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM