Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 10:58:59 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Những nẻo đường thời gian  (Đọc 32001 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #20 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 01:28:54 pm »

 Sau khi tổng hợp tình hình chung, đến 18 giờ, Ban Chỉ huy tiểu đoàn  báo cáo Trung đoàn và đề nghị cho nắm lại địa hình, địch tình, để tối đến tổ chức tập kích quân địch đang đứng chân phía trước trận địa. Trung đoàn biểu dương tinh thần, kết quả chiến đấu của Tiểu đoàn 7 và  đồng ý với đề nghị của tiểu đoàn.
Đến 18 giờ 15 phút, anh Trần cho gọi anh Vận đại đội trưởng Đại đội 1, anh Nghiêm đại đội trưởng Đại đội 3 và anh Trường đại đội trưởng Đại đội 4 lên tiểu đoàn nhận nhiệm vụ. Trước khi các đại đội trưởng đến, tiểu đoàn trưởng Bùi Trần đã trao đổi thống nhất phương án tác chiến và nhiệm vụ của các đại đội với chính trị viên Nguyễn Văn Đào và tiểu đoàn phó Phan Hà. Sau khi nghe anh Sơn tiểu đội trưởng trinh sát báo cáo tình hình khu vực địch đóng quân ở phía trước, các đại đội bổ sung ý kiến. Tiểu đoàn trưởng Bùi Trần nói:
- Phương án tác chiến là, đúng 8 giờ tối, hỏa lực tiểu đoàn tập kích vào trung tâm trận địa địch chừng 10 phút. Sau đó, bộ binh sẽ chia làm hai mũi tấn công. Mũi chủ yếu đánh vào chính diện do Đại đội 1 đảm nhiệm. Mũi thứ yếu đánh thọc vào sườn phía đông bắc do Đại đội 3 (thiếu) đảm nhiệm. Tiểu đội trinh sát phải tăng cường bám nắm địch. Từ 7 giờ, các đại đội chuẩn bị tiếp cận địch, rút ngắn cự ly. Đại đội 4 nhanh chóng xác định mục tiêu cho cối và ĐKZ lấy phần tử sẵn sàng, có lệnh là nổ súng được ngay.
Tiếp lời anh Trần, anh Đào chậm rãi nói:
- Thành tích chiến đấu trong ngày của các đơn vị là tốt. Yêu cầu các đại dội kịp thời động viên anh em. Chú ý làm tốt công tác chính sách, thực hiện đúng việc thay thế kịp thời cán bộ do bị thương vong trong chiến đấu. Bất luận trong trường hợp nào cũng phải có người chỉ huy, lãnh đạo đơn vị.
Sau đó, anh Trần hỏi:
- Có ai ý kiến gì không?
Thấy mọi người nhất trí, anh nói thêm:
- Khi hoàn thành nhiệm vụ, các đơn vị tổ chức rút quân về khu vực tập kết ở Bình độ 100.
Anh Trần dứt lời, mọi người trở về đơn vị triển khai ngay các công việc.
Đúng 20 giờ, cối 82 ly, ĐKZ 75 ly của Đại đội 4 đồng loạt bắn. Cối đặt cách mục tiêu chừng hơn 800 mét bắn cầu vồng. ĐKZ đặt cách muc tiêu khoảng 300 mét ngắm bắn trực tiếp. Từ trên đài quan sát, trinh sát báo cáo về, đạn cối và ĐKZ bắn rất chụm, trúng mục tiêu. Hơn 10 phút, anh Trần hạ lệnh cho Đại đội 1 và Đại đội 3 xuất kích.
Cả hai hướng tấn công súng nổ giòn giã. Lúc này điện đài 2 oát bảo đảm liên lạc tốt giữa các đại đội và tiểu đoàn.
Sau gần nửa giờ chiến đấu, mũi thứ yếu do Đại đội 3 đảm nhiệm phát triển thuận lợi, đã đánh chiếm được khoảng một phần ba trận địa địch. Mũi tấn công chủ yếu của Đại đội 1 gặp khó khăn vì  bộ đội phải vượt qua địa hình trống trải một bãi cỏ tranh đã cháy trụi, bị hỏa lực địch bắn chặn, bộ đội thương vong. Chỉ mới Trung đội 1 của Đại đội 1 đánh chiếm được phần ngoài trận địa địch. Đôi bên đang ở thế giẳng co quyết liệt. Anh Trần hội ý nhanh với anh Đào và anh Hà, quyết định tung trung đội dự bị của tiểu đoàn vào tăng cường cho Đại đội 1 để nhanh chóng dứt điểm.
Anh Trần nói với tôi:
- Đẩu chạy nhanh đến gặp Hải trung đội trưởng Trung đội 1, Đại đội 3 truyền đạt mệnh lệnh: Trung đội 1 vào chi viện cho Đại đội 1. Đồng thời, Đẩu trực tiếp dẫn anh Hải đưa Trung đội 1 vào chiến đấu, vì Hải chưa thuộc địa hình, sợ bị lạc trong đêm. Khi dẫn Hải gặp được anh Vận đại đội trưởng Đại đội 1 tại trận địa, thì Đẩu quay về tiểu đoàn ngay, chờ nhiệm vụ mới.
Anh Trần vừa dứt lời, anh Đào nói luôn:
-  Còn mấy ngày nữa mới tổ chức lễ kết nạp, nhưng hôm nay, với tư cách Bí thư Đảng ủy tiểu đoàn, tôi  chính thức tuyên bố, từ giờ phút này, đồng chí Nguyễn Mạnh Đẩu trở thành đảng viên.
Anh Đào nói xong, tôi chỉ có một tiếng:
- Dạ !
Tay cầm khẩu AK đạn đã lên nòng, tôi nhảy phắt ra khỏi hầm lao về Trung đội 1 cách đó hơn 100 mét. Mặc dù đã gần 21 giờ, nhưng máy bay địch thả pháo sáng, cả trận địa sáng trưng như ban ngày. Trong khoảnh khắc, tôi gặp và nói rất ngắn với anh Hải:
- Tiểu đoàn ra lệnh cho trung đội anh chi viện cho Đại đội 1. Anh chỉ huy trung đội theo tôi đi ngay.
Anh Hải không nói gì, cứ thế chúng tôi chạy một mạch về hướng Đại đội 1. Xung quanh pháo cối  địch nổ rất gần, mảnh đạn bay rào rào và đạn thẳng địch bắn ra chiu chít. Băng qua bãi cỏ tranh đang cháy, vượt lên một đoạn dốc thoai thoải, chúng tôi lao về Đại đội 1 gặp anh Vận lúc đó đang cách địch khoảng hơn 50 mét. Khi gặp nhau, anh Vận như đã biết trước, chỉ nói với tôi một câu:
- Đẩu dẫn trung đội Hải lên rồi à, tốt quá. Thôi, em quay về tiểu đoàn đi.
 Tôi chỉ kịp cầm tay anh Vận và anh Hải rồi quay lại tiểu đoàn bộ. Sau lưng tôi, Trung đội 1 Đại đội 3 theo sự chỉ huy của anh Vận và anh Hải lao vào chiến đấu ngay.
Khi tiếp nhận lực lượng dự bị, anh Vận đã chỉ huy Trung đội 1 đánh thốc vào trận địa địch. Đại đội 1 và Trung đội 1 (Đại đội 3) dưới sự chỉ huy của anh đã hoàn thành nhiệm vụ đánh tan quân địch ở hướng chủ yếu. Nhưng gần đến phút chót, anh Vận hy sinh vì một loạt tiểu liên cực nhanh của địch. Tại Sở chi huy tiểu đoàn, khi nghe anh Trần thông báo, tôi đã ngẹn ngào khóc.Tôi không ngờ cái bắt tay lúc tôi quay về tiểu đoàn lại là thời khắc cuối cùng tôi vĩnh viễn xa anh Vận.
 Anh Vận quê ở huyện Yên Thành (hình như ở xã Vĩnh Thành thì phải), Nghệ An. Tốt nghiệp Sĩ quan Lục quân, anh được bổ sung vào tiểu đoàn chúng tôi khi còn chiến đấu ở Lào, làm trung đội trưởng thay anh Lê Đôn Quí. Một thời gian sau, anh lên đại đội phó. Vào chiến trường Miền Nam, anh được bổ nhiệm đại đội trưởng. Tôi cùng chung sống và chiến đấu với anh từ khi còn ở Đại đội 2. Anh là người cương trực, chân thành, chiến đấu dũng cảm lại được học hành cơ bản, nên luôn được cấp trên  tin tưởng và anh em trong đơn vị quí trọng.
Anh Lê Hồng Hải, nhập ngũ tháng 4 năm 1963, quê ở xã Quảng Phúc, huyện Quảng Trạch. Tỉnh Quảng Bình. Gia đình anh vốn theo đạo Thiên chúa. Bố anh là ông Lê Văn Hiến, được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang. Tôi quen thân anh Hải từ khi cả hai chúng tôi còn là liên lạc. Anh Hải làm liên lạc tiểu đoàn, còn tôi là liên lạc đại đội. Trong trận chiến đấu ngày 20 tháng 3 năm 1971 ở Cao điểm 550 của Chiến dịch Đường 9- Nam Lào, anh Hải làm Chính trị viên Tiểu đoàn 9 bộ binh, còn tôi làm Chính trị viên Đại đội 20 đặc công của trung đoàn. Kết thúc chiến tranh, anh Hải làm Chính ủy Trung đoàn 24 - Sư đoàn 304, được cấp trên cử đi học Khóa 1- Học viện Cao cấp. Ra trường, anh được bổ nhiệm làm Sư đoàn phó-Tham mưu trưởng, rồi Sư đoàn phó Chính trị Sư đoàn 304 - Quân đoàn 2.
 Tháng 8 năm 1978, khi tôi ở Khu tập thể gia đình quân nhân 1A, Hoàng Văn Thụ, Hà Nội. Lúc đang giặt giũ ở bể nước công cộng, thấy một người mang quân hàm Trung tá đến chơi nhà anh Vũ Cao, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 341 ở dãy bên cạnh nhìn thấy tôi chạy ra hô toáng lên:
- Ơ!  Đẩu, có phải Đẩu không?
Tôi ngạc nhiên nhìn lại, té ra là anh Trực –Hoàng Trung Trực quê ở xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, trước đây cùng ở với tôi một trung đội. Anh Trực nói với tôi rằng, cùng Trung đoàn  ngày đó, có mấy người cùng ra học ở Học viện Cao cấp. Hôm Thứ 7 tới sẽ rủ nhau lên đây chơi.
Đến tối Thứ 7, sau khi đã cơm nước xong, tôi nghe có người gõ cửa, mở ra thì là Anh Hải. Chúng tôi ôm choàng lấy nhau, ngẹn ngào khóc như hai đứa trẻ.
 Anh Hải nói:
- Sợ Trực nhầm với người khác vì trong đơn vị mọi người nghe tin Đẩu hy sinh trên tuyến chuyển thương từ đầu năm 1971 rồi. Hôm nay lên đây, đề nghị mọi người đứng ngoài chờ, mình vào trước xem thử có đúng không.
Nói rồi, anh Hải gọi mọi người cùng vào nhà, chuyện trò ríu rít sau 7 năm trời gặp lại.

Sau khi bị thất bại ở Hồ Khê, Đá Bạc, lực lượng còn lại của địch rút về Đường 9. Hai ngày sau, từ khu vực tập kết, anh Trần dẫn chúng tôi gồm mấy anh đại đội trưởng và một số trung đội trưởng và mấy anh em trinh sát, liên lạc trở lại trận địa xem xét đối chiếu để rút kinh nghiệm. Cả một vùng bị bom đạn cày xới ngổn ngang, đồ dùng cả hai bên vứt lại bừa bãi, nhiều nơi lửa còn cháy âm ỉ. Ở giữa sườn đồi, nhiều xác lính Mỹ, cả da trắng và da đen, bị cháy queo, có thể trúng đạn B40 hoặc đạn ĐKZ, còn nằm vất vướng ở trận địa. Cách đó không xa, chúng tôi thấy mấy thi thể tử sỹ ta mà khi rút đơn vị chưa kịp đưa ra. Mặc dù đã bị biến dạng nhiều, nhưng trong số đó, tôi vẫn nhận ra một số anh, như anh Mai Ngọc Quyến, trung đội trưởng Trung đội 2, Đại đội 1 quê ở xã Văn Hóa, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình. Anh Quyến vốn là trinh sát tiểu đoàn, người cao, trắng, có chiếc răng khểnh. Chúng tôi tổ chức khâm liệm các anh vào võng rồi chuyển về an táng ở khu vực đã chuẩn bị.
Hoàn thành nhiệm vụ ở khu vực núi Hồ Khê - Đá Bạc, cả tiểu đoàn lui về  khu vực Bình độ 100, chuẩn bị cho trận chiến đấu tiếp theo. Dự kiến là sau khi bị thất bại, địch sẽ tiếp tục đưa quân lên với số lượng và qui mô lớn hơn, đánh sâu hơn vào vùng giải phóng của ta. Toàn tiểu đoàn tập trung củng cố lực lượng, bổ sung trang bị vũ khí, lương thực, hoàn thiện phương án tác chiến, xây dựng công sự trận địa,…Đài quan sát của tiểu đoàn đặt ở cao điểm 88, phía tây làng An Cát Khê, ngày đêm thường xuyên bám sát các động thái trong khu vực.
Ngày 20 tháng 5 năm 1967 là một ngày trọng đại trong cuộc đời tôi. 19 tuổi đời, hơn 2 năm tuổi quân, trải qua rèn luyện thử thách ở chiến trường, tôi vinh dự được kết nạp vào Đảng. Ngày đó, được vào Đảng là điều thiêng liêng, niềm tự hào đối với thế hệ trẻ chúng tôi.
Lúc 17 giờ, toàn thể chi bộ tiểu đoàn bộ tập trung ở một khúc suối cạn dưới chân Bình độ 100 để tổ chức lễ kết nạp Đảng viên mới. Hôm đó kết nạp hai người: tôi và Trần Công Thuận bạn thân của tôi, quê ở xã Thanh Cát, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, tiểu đội phó trinh sát. Trước khi buổi lễ bắt đầu, anh Phan Hà tiểu đoàn phó thông báo việc chốt chặn địch ở các hướng, dự kiến các tình huống có thể xảy ra và xác định các phương án xử lý. Tiếp đến phần tuyên bố lý do của anh Trần Văn Thuyết trung đội trưởng thông tin, chi ủy viên, cả chi bộ đứng dậy chào cờ, không hát Quốc tế ca, Lễ kết nạp bắt đầu. Anh Ngô Đình Nựu chính trị viên phó tiểu đoàn, Bí thư chi bộ, đọc vắn tắt lý lịch cùng đơn xin vào Đảng của tôi. Mời anh Phan Hà là người giới thiệu tôi vào đảng đứng dậy phát biểu. Anh nói  rất nghiêm túc, ngắn gọn, chân thành:
- Tôi, Phan Hà, phó bí thư chi bộ, tiểu đoàn phó, quê xã Diễn Kỷ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, là người giới thiệu đồng chí Nguyễn Mạnh Đẩu vào Đảng. Tôi xin bảo đảm về mọi mặt, đồng thời có trách nhiệm sẽ tiếp tục bồi dưỡng đồng chí Đẩu trở thành người Đảng viên chính thức.
Tiếp theo là anh Trần Ngọc Lợi, Bí thư Chi đoàn thanh niên đọc biên bản giới thiệu của chi đoàn. Cuối cùng là lời tuyên thệ của tôi. Trong giờ phút thiêng liêng, trước cờ Đảng, trước chi bộ, tôi nắm chặt tay, xúc động ngẹn ngào nói lên lời hứa quyết tâm tự đáy lòng mình.
Tiếp sau phần kết nạp tôi, là kết nạp anh Trần Công Thuận. Thủ tục vẫn như trước. Người giới thiệu anh Thuận vào Đảng là Anh Ngô Đình Nựu. Với chất giọng mộc mạc chân quê, anh Nựu nói:
- Tôi, Ngô Đình Nựu, một vợ ba con, quê xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, Bí thư chi bộ tiểu đoàn bộ, chính trị viên phó tiểu đoàn, là người giới thiệu đồng chí Trần Công Thuận vào Đảng,….
Buổi lễ kết nạp Đảng tại trận địa diễn ra khoảng 30 phút nhưng rất trọng thị, nghiêm túc, thực hiện đầy đủ mọi nguyên tắc thủ tục. Tôi cảm thấy thiêng liêng.
Trên đường về hầm, tôi hỏi anh Nựu:
- Này anh, có phải hôm đánh địch ở Hồ Khê, các anh nghĩ rằng, khi dẫn trung đội 1 của anh Hải xuất kích, em có khả năng hy sinh. Nên trước khi em lên đường, anh Đào chính trị viên tiểu đoàn đã tuyên bố em chính thức trở thành Đảng viên phải không anh? Mà hôm nay sao lại phải kết nạp lại? 
- Đúng đấy, trong giờ phút hiểm nguy mà quang vinh đó, vào sinh ra tử là chuyện khó tránh khỏi, bọn mình thống nhất là, tuyên bố trước để nếu có hy sinh, cậu cũng đã là người đảng viên Cộng sản đích thực. Nhưng hôm nay có điều kiện vẫn cứ tiến hành việc kết nạp cho đúng với nguyên tắc thủ tục. Nếu không, sau này khi xác định Đảng tịch, ngộ nhỡ có người không hiểu thực tế chiến trường, gây nghi ngại phức tạp ra, không cần thiết.
Anh Nựu vui vẻ trả lời .
Tôi nói nửa đùa, nửa thật:
- Như thế là, nếu hy sinh, em được vào Đảng trước 5 ngày so với em còn sống.
          Cả hai chúng tôi cùng cười.

Anh Phan Hà về tiểu đoàn chúng tôi từ tháng 5-1965 giữ chức Tham mưu phó tiểu đoàn rồi lên Tiểu đoàn phó. Sau khi anh Bùi Trần hy sinh, anh Hà được bổ nhiệm Tiểu đoàn trưởng. Quê anh cách quê tôi khoảng 30 km. Ở chiến trường ngoài tình đồng chí, anh còn coi tôi là đồng hương. Có điều gì tôi làm chưa tốt, anh thẳng thắn bày dạy đến nơi đến chốn. Anh sống chân thành, giản dị nhưng lại dí dỏm sâu sắc. Có lần ở hậu cứ tiểu đoàn tổ chức văn nghệ quần chúng, anh đăng ký một tiết mục. Mọi người tưởng anh đùa. Nhưng đến lúc anh lên hát bài con vỏi con voi, cái vòi đi trước, hai chân trước đi trước,… theo cách biểu diễn của nghệ sỹ Trần Hiếu.Với chất giọng nam trầm, với thể hình thấp đậm, da đen, đầu húi cua, tai to, mũi to và các động tác minh họa theo lời bài hát của anh vừa vui vừa ngồ ngộ làm cho chúng tôi được một trận cười no nê.
Trong đợt Tổng tấn công và nổi dậy Mùa Xuân 1968, anh Phan Hà là tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 7 đánh vào Huế. Trong suốt hơn 20 ngày dũng mạnh đánh chiếm, kiên cường bám trụ Thành nội Huế, Tiểu đoàn 7 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đầu tháng 3 năm 1968, anh Hà được bổ  nhiệm giữ chức Trung đoàn phó. Tháng 7 năm 1969, Đoàn cán bộ của Tiểu đoàn 9 đi địa  hình ở Cốc Muộn tây Thừa Thiên bị trúng bom tọa độ máy bay B57, thương vong gần hết. Hôm đó anh cùng đi nên đã hy sinh. Đang tập huấn ở Quân khu bộ Quân khu Trị Thiên Huế, nhận được tin, tôi đau xót vô cùng. Cùng hy sinh một lần với anh Phan Hà, còn có anh Nguyễn Đăng Loạt, tiểu đoàn trưởng, quê Quảng Văn, Quảng Trạch, Quảng Bình; Nguyễn Duy Hào, tiểu đoàn phó, quê Thọ Xuân , Thanh Hóa và mấy anh em nữa.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #21 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 01:29:25 pm »

 Tôi biết anh Ngô Đình Nựu khi anh còn làm trung đội trưởng trung đội cối 82 ly thuộc Đại đội 4. Làm trung đội trưởng nhưng anh được tín nhiệm bầu vào  Đảng ủy tiểu đoàn. Thật là hiếm có. Thông thường thì Đảng ủy tiểu đoàn bao gồm: Cán bộ chủ trì trong Ban chỉ huy tiểu đoàn và các chính trị viên đại đội. Giữa năm 1965, anh lên chính trị viên phó rồi một thời gian ngắn sau được bổ nhiệm chính trị viên Đại đội 4. Đến khi đơn vị vào chiến đấu ở chiến trường Miền Nam, anh được bổ nhiệm giữ chức Chính trị phó tiểu đoàn.
Xuất thân từ một gia đình nghèo ở một vùng quê cũng nghèo, nhập ngũ từ năm 1953, trải qua hoạt động nhiều ở chiến trường, anh Nựu mang trong mình phẩm chất mộc mạc, giản dị, cần cù, dũng cảm. Ở anh luôn luôn toát lên tinh thần chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn. Đặc biệt là tình nghĩa với đồng đội và ý thức tổ chức kỷ luật, tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh cấp trên. Năm 1973, anh giữ chức Chính ủy trung đoàn được cử ra tập huấn ở Bộ, nghe tin tôi xây dựng gia đình, anh đến chúc mừng. Năm 1988, anh Nựu nghỉ hưu. Tháng 8 năm 1992, khi Cục Chính sách - Tổng cục Chính trị tập huấn ở Đồ Sơn, tôi gặp anh Quyết, trưởng ban chính sách tỉnh đội Quảng Bình, người cùng làng với anh Nựu. Biết tin anh ốm nặng, tôi nhờ Quyết chuyển hộ thư thăm hỏi và một khoản tiền nhỏ để anh thêm vào mua thuốc uống. Cuối năm đó, Quyết kể với tôi rằng, khi đọc thư và cầm mấy trăm bạc tôi gửi, anh Nựu đã khóc. Hơn một tháng sau thì anh từ trần ở quê.

                                                      
 Ngày 12 tháng 6 năm 1967, Tiểu đoàn 7 chúng tôi đánh nhau với quân Mỹ một trận quyết liệt ở chân Bình độ 100. Đến 9 giờ tối, xét thấy sức chiến đấu của tiểu đoàn đã bị tiêu hao sau hơn một tháng hoạt động, cấp trên lệnh cho tiểu đoàn rút về phía sau củng cố. Khi tổ chức cho toàn đợn vị rút ra theo thế cuốn chiếu, đề phòng quân địch đánh tập hậu, tiểu đoàn giao cho Trung đội 2 Đại đội 3 do anh Đinh Xuân Bài làm trung đội trưởng ở lại bám trụ trận địa, rút ra sau cùng. Cả tiểu đoàn hành quân độ hơn một tiếng đồng hồ, khi đã qua suối La La, Đồi Không Tên được khoảng bốn cây số, anh Trần  giao tôi trở lại trận địa dẫn trung đội anh Bài rút ra.
Giữa đêm tối mịt mùng, phía trên đồi là quân Mỹ, với khẩu AK trong tay, đạn đã lên nòng, hai quả lựu đạn mỏ vịt dắt lưng, một mình tôi quay trở lại trận địa. Từ khi đơn vị chưa vào cho đến suốt thời gian hoạt động, chúng tôi đã có nhiều lần đi  trinh sát, nên tôi nắm rất chắc địa hình ở đây. Bám theo đường cũ, từng chặng một tôi quan sát nghe ngóng động tĩnh, rồi lao đi thật nhanh. Cứ thế, gần một giờ sau tôi đã vào trận địa của trung đội anh Bài. Trên đường đi tôi sợ gặp địch đã đành, nhưng khi gần sát tới trận địa ta tôi lại sợ anh em tưởng nhầm là thám báo địch mò vào mà bắn thì nguy hơn. Bởi thế, tôi chọn cách là bò vào như đi trinh sát đồn địch để tiếp cận vào ngay hầm anh Bài rồi nhảy tót vào. Trong trường hợp đang tiếp cận mà anh em phát hiện được nổ súng trước, bị trúng ngay loạt đạn đầu thì đành chịu. Còn nếu chưa trúng thì tôi sẽ dựa vào một vật che chắn rồi hô toáng lên, chắc chắn anh em sẽ nhận ra.
Theo kinh nghiệm, tôi cho rẳng, vào ban đêm nói chung là bắn trượt, trừ phi phát hiện trước từ xa ngắm thật kỹ. May quá, tôi vào được hầm anh Bài mà không ai biết. Khi nhận ra, anh Bài vừa dang tay đón tôi vừa nói:
- Trời ơi! Đẩu hở em!
Tôi nói nhanh:
- Anh ơi, cả Tiểu đoàn đã rút về phía sau rồi. Anh Trần nói, anh cho toàn thể trung đội rút ra theo em.
 Đến rạng sáng thì chúng tôi về tới hậu cứ tiểu đoàn. Đang chợp mắt, nghe tin tôi về, anh Trần nhảy phắt dậy ôm choàng lấy tôi như người cha ôm lấy con trai từ nơi hiểm nguy trở về.
Kết thúc đợt chiến đấu ở khu vực núi Hồ Khê, Đá Bạc, khi bình xét khen thưởng, tôi được đơn vị đề nghị trên tặng thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng Hạng Ba. Ngày đó, việc bình xét khen thưởng chặt chẽ, thậm chí khắt khe nữa.
Sau hơn một tháng củng cố, tiểu đoàn trở lại hoạt động ở làng An Cát Khê và làng Trung An thuộc huyện Gio Linh. Lúc này, các anh tiểu đoàn điều tôi sang làm tiểu đội trưởng trinh sát thay anh Sơn đi làm trung đội trưởng bộ binh ở Đại đội 1. Trước khi đơn vị vào xây dựng công sự, trinh sát chúng tôi đi nắm địch và nghiên cứu địa hình. Đây là vùng sát đồng bằng, cách Đường 1 không xa. Là vùng giáp ranh giữa ta và địch, nhân dân đã sơ tán hết. Trong các khu vườn chè, tiêu và rất nhiều cây ăn quả rậm rạp, đã lâu không có người chăm bón, thu hoạch. Có nhiều quả mít chín thơm lừng, nhiều buồng chuối chín rục, chúng tôi mang về ăn. Có một lần, tôi đang cắt một buồng chuối, thì phát hiện ra một tử sĩ của ta nằm bên cạnh một gốc mít. Phần thịt đã tiêu hết, chỉ còn một bộ xương khô trong bộ quân phục vải Tô Châu. Bên cạnh là một khẩu AK đã hoen rỉ. Cầm khẩu súng lên thấy băng đạn vẫn còn, khóa súng vẫn mở, tôi tháo băng đạn, kéo khóa nòng thì viên đạn văng ra. Chứng tỏ, lúc hy sinh người chiến sĩ vẫn trong tư thế nằm bắn. Mấy anh em đào huyệt an táng người liệt sỹ vô danh vào giữa vườn chè của dân. Trước đó, ở khu vực này, tháng 7 năm 1966, Trung đoàn 2, Sư đoàn 324 đã đánh nhau rất quyết liệt với quân Mỹ. Cạnh nhà thờ Trung An vẫn còn một chiếc trực thăng H34 bị bắn cháy khi đổ quân, nằm chỏng chơ.
Ngoài việc nghiên cứu địa hình tại khu vực, chúng tôi còn phải đi trinh sát nắm tình hình địch trong phạm vi xa hơn. Sang tận các làng Nam Đông, Nam Dương, dọc theo trục Đường 74, ra gần sông Hiền Lương. Ở các vùng ven đó, để bảo vệ cứ điểm Cồn Tiên và Dốc Miếu, cả quân Mỹ và quân ngụy tăng cường hoạt động. Cùng với chủ lực địch, lực lượng bảo an dân vệ cũng ngày đêm bố phòng canh gác.
Tôi nhớ có lần tôi và hai người nữa là Thiên và Hồi vào làng Nam Dương nắm địch. Đã khuya, trời sáng trăng, chúng tôi đang tiếp cận vào một cái chốt của dân vệ, thì nghe trong đó nói vọng ra the thé một giọng con gái còn trẻ:
- Chà!  Trăng sáng quá hỉ. Khẩu súng mới toanh thế ni. Bây chừ mà gặp mấy thằng Việt Cộng bắn thử, nghe ngon dữ hè.
Tôi biết, để lấy tinh thần cho nhau, chúng chỉ nói bâng quơ, tình cờ chúng tôi nghe được. Nhưng điều đó chứng tỏ sự đối kháng một mất một còn trong chiến tranh là không thể mơ hồ. Khi đã lùi ra ngoài cánh đồng, Thiên còn tức tối nói với tôi:
        - Tiên sư nó, hôm nay không vì đi trinh sát, ta vào đó xả cho bọn chúng một trận nên thân.

Ngày 10 tháng 8 năm 1967, tiểu đoàn chúng tôi chặn đánh quân địch hành quân từ Nam Đông ra khu vực Miếu Bái Sơn. Lần này chúng dùng xe tăng làm mũi đột kích chủ yếu. Đại đội 2 đánh chặn ở khu vực làng Trung An, Đại đội 3 đánh chặn địch ở phía đông làng An Cát Khê. Khi địch đưa 2 xe tăng lên trước, Trung đội 2 Đại đội 2 dùng B40 bắn cháy tại chỗ 1 xe tăng. Chiếc còn lại dùng pháo trên xe bắn phá dữ dội. Đặc biệt là, lần này trên xe tăng có trang bị súng phun lửa. Từng quầng lửa lớn nóng rực, phun cháy cả mấy bụi tre và cả vườn chè cháy trụi. Lần đầu tiếp xúc với vũ khí mới của Mỹ, bộ đội ta có người cũng hoảng. Anh Trần hét lên qua điện thoại:
- Các anh em đừng sợ, cứ bám chắc vào công sự, nó phun kệ nó, chờ nó tới gần dùng B40 tiêu diệt.
         Anh dặn thêm:
- Cử ra hai người thoát ra khỏi công sự, một AK yểm trợ và một B40 cơ động vòng ra ngoài đến gần bắn vào bên sườn xe tăng.
Mấy phút sau, một tiếng nổ rất to, một cột khói bốc lên cao, chiếc xe tăng còn lại bị trúng đạn B40, đạn trong xe cũng đã nổ theo. Quân địch lùi về phía sau. Máy bay các loại và pháo địch dồn dập bắn vào trận địa tiểu đoàn. Đang ngồi cảnh giới trên miệng hầm chỉ huy, Nguyễn Văn Tự chiến sĩ liên lạc bị một quả pháo nổ rất gần mảnh pháo cắt cụt cẳng chân trái, máu ra xối xả. Chúng tôi ôm Tự đưa xuống hầm, nhanh chóng băng ga rô cầm máu. Tự quê ở thôn Tự Nhiên xã Hoằng Trung, huyện Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hóa, bổ sung vào đơn vị từ tháng 6 năm 1966.
Chiều hôm đó, mấy lần liền, với chiến thuật dùng phi pháo bắn phá dọn đường, dọn bãi, sau đó bộ binh Mỹ tiếp tục tấn công vào trận địa ta. Mặc dù bị thương vong mất một số, nhưng cả tiểu đoàn chúng tôi vẫn kiên cường, đánh bật nhiều đợt tấn công của quân Mỹ. Đến chiều tối, tôi gặp anh Cao Sĩ Tính và mấy cán bộ của đại đội đặc công trung đoàn. Vốn là tiểu đội phó của tôi hồi ở Lào, bây giờ anh Tính đã là mũi trưởng đặc công. Sau khi hỏi tôi về địa hình, địch tình, anh Tính nói vói tôi là, trung đoàn giao cho đại đội đặc công ra đây nghiên cứu để tối nay tổ chức tập kích quân địch đang dừng chân ở phía trước Tiểu đoàn 7.
 Đến 8 giờ tối, trung đoàn lệnh cho Tiểu đoàn 7 chúng tôi bàn giao trận địa cho đại đội đặc công, di chuyển toàn bộ đội hình về khu vực Miếu Bái Sơn, ở chân cao điểm 88. Nơi đó công sự trận địa đã có sẵn, chỉ cần gia cố thêm, cả tiểu đoàn gấp rút chuẩn bị đánh địch trong ngày mai.
Đường từ Trung An, An Cát Khê về cao điểm 88 bị pháo địch bắn phá dữ dội. Để tránh thương vong do phi pháo địch bắn chặn đường, tôi đề nghị với anh Trần cho tiểu đội trinh sát dẫn bộ đội hành quân cắt góc phương vị về hướng bắc chừng 2 tiếng đồng hồ rồi mới quặt về hướng tây vào trận địa ở cao điểm 88 trước khi trời sáng. Anh Trần đồng ý. Mở bản đồ ra, đặt địa bàn, chúng tôi lấy góc phương vị và bắt đầu hành quân. Các tử sĩ hy sinh trong ngày đều đã được an táng vào khu vực bố trí sẵn ở làng Trung An. Còn thương binh nặng thì cáng đi cùng bộ đội. Chúng tôi hành quân trong đêm tối mịt mùng. Bỏ lại phía sau làng Trung An và làng An Cát Khê nghi ngút khói lửa dưới ánh đèn dù pháo sáng máy bay Mỹ thả. Phía xa trên khu giáp ranh, pháo địch vẫn bắn liên hồi. Khoảng 5 giờ sáng chúng tôi về đến trận địa mới. Mọi người bắt tay vào củng cố công sự, nấu cơm ăn.
Khoảng hơn 10 giờ, tôi thấy anh Ma Vĩnh Lan trung đoàn trưởng, anh Nguyễn Văn Cảnh chính ủy trung đoàn, anh Nguyễn Hoán tham mưu trưởng trung đoàn đều có mặt ở Sở chi huy tiểu đoàn. Hầm chỉ huy sở khá rộng. Ngồi trong hầm có các anh Bùi Trần, Nguyễn Văn Đào, ba anh thủ trưởng trung đoàn. Anh Trần ngồi ở chính giữa  ngoảnh mặt ra cửa hầm. Cạnh đó là anh Đào chính trị viên. Các anh khác ngồi hai bên. Còn tôi ngồi cảnh giới ở cửa hầm. Sau khi nghe anh Trần báo cáo, anh Lan mở bản đồ, cầm bút chì vừa nói vừa chỉ. Mắt quan sát bên ngoài nhưng tai tôi vẫn nghe ngóng bên trong. Chẳng phải tò mò mà vì công việc đòi hỏi biết được các hoạt động có liên quan. Anh Lan nói:
- Tối qua đại đội đặc công tập kích địch co cụm ở Trung An, đạt kết quả tốt. Rạng sáng nay, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ, đại đội đặc công đã rút về phía sau. Đồng thời, sáng nay, ĐKB (hỏa tiễn) của Mặt trận sẽ tập kích địch ở Nam Đông , Nam  Dương, Trung An. Cấp trên chỉ thị đưa Tiểu đoàn 7 về đây để tiếp tục đánh chặn địch vào hôm nay. Yêu cầu tiểu đoàn cho các đơn vị vào trạng thái chiến đấu ngay.
Chấp hành chỉ thị của anh Lan, anh Trần điện cho các đại đội tăng cường cảnh giới, nắm địch, chuẩn bị chiến đấu. Khoảng hơn một giờ chiều, đài quan sát báo về, địch bắt đầu chuyển quân lên Miếu Bái Sơn. Anh Trần điện cho anh Sơn, lúc này đang là đại đội phó, quyền đại đội trưởng Đại đội 1, chú ý theo dõi địch sẵn sàng nổ súng. Chừng nửa tiếng sau, súng nổ dồn dập ở hướng Đại đội 1. Điện thoại reo, anh Trần nghe anh Sơn báo cáo tình hình. Anh thông báo lại với cả hầm cùng nghe là, Đại đội 1 đã dùng mìn định hướng và các loại hỏa lực sát thương, chặn đứng và đánh lùi địch xuống chân cao điểm. Anh Trần chỉ thị đại đội tranh thủ củng cố lại công sự, tăng cường quan sát, không để bị bất ngờ.
Mấy phút sau, một tốp máy bay Mỹ oanh tạc ngay vào khu vực Sở chi huy tiểu đoàn. Nhiều quả bom nổ rất gần. Có cả bom đào và bom sát thương. Bom đào nghe tiếng nổ trầm đục không to, chỉ thấy đánh ục một cái, rồi cả căn hầm lắc lư, chao đảo, xiêu vẹo. Bom sát thương mảnh bay rào rào trên mặt đất, cây cối bị phạt đổ ngổn ngang.
Anh Trần nhắc:
- Sau mỗi loạt bom, các bộ phận nhớ liên lạc với nhau ngay, nhỡ có hầm nào trúng bom bị sập, còn kịp thời đào bới, cứu anh em khỏi bị chết ngạt.
Khoảng nửa tiếng sau, Anh Trần quay lại nói với tôi:
          - Thôi, Đẩu về bên hầm tranh thủ nghỉ đi một chút. Mấy đêm thức trắng rồi, còn để sức tối nay nữa. Cho cậu nào sang trực thay cũng được.
          Nhảy ra khỏi hầm chỉ huy, chạy về hầm trinh sát cạnh đó, tôi gọi Thiên sang thay. Khi Thiên đi, tôi dặn:
- Chú ý thường xuyên cảnh giới và giữ liên lạc với các bộ phận.
 Nguyễn Ngọc Thiên chiến sĩ trinh sát, đẹp trai, khỏe mạnh, hơn tôi hai tuổi, quê ở làng Khương Hà, xã Hưng Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
 Máy bay oanh tạc chừng 10 phút, thì pháo địch bắn tới tấp vào khu vực Đại đội 1 và Sở chỉ huy tiểu đoàn. Thực ra, ở trận địa bị pháo bắn còn căng thẳng hơn bị máy bay oanh tạc. Liên tục, dai dẳng cứ như người ta đánh đáo vậy. Chẳng biết có quả nào trúng hầm mình không. Thôi thì phải chấp nhận sự may rủi.
Đang miên man, thì có một quả pháo nổ ngay cạnh hầm tôi, phía trước hầm chỉ huy. Chợt nghe tiếng kêu từ phía hầm chỉ huy, tôi nhảy ra khỏi hầm, giữa mịt mù khói đạn cay xè, khét lẹt. Tới cửa hầm, tôi thấy xác Thiên nằm sõng soài, đầu vỡ toác, máu lênh láng. Lao vào trong hầm, tôi thấy anh Trần đã gục xuống tấm bản đồ. Ngực, lưng anh và cả tấm bản đồ ướt đẫm máu. Cạnh đó,  anh Lan, anh Cảnh, anh Đào đang lả đi vì bị sức ép, bị ngạt.
Quả đạn pháo nổ sát miệng hầm, một mảnh pháo cắt ngang phần nửa trên đầu Thiên xuyên thẳng tới ngực anh Trần, chắc trúng tim. Tôi chạy sang báo cáo với anh Phan Hà, Tiểu đoàn phó và anh Ngô Đình Nựu, Chính trị viên phó ở một hầm cách đó chừng 20 mét. Hai anh chạy sang. Anh Hà yêu cầu chúng tôi lấy võng bọc thi thể anh Trần và Thiên lại để dưới miệng hầm, rồi anh ngồi vào vị trí chỉ huy.
Hết đợt pháo kích, quân địch tấn công vào toàn bộ trận địa tiểu đoàn. Anh Hà chỉ thị, bằng mọi giá, các đại đội phải tập trung giữ bằng được trận địa. Mười phút sau, Đại đội 1 báo cáo, anh Sơn đại đội phó và anh Túng trung đội trưởng bị hy sinh khi chỉ huy bộ đội phản kích ở phía nam Cao điểm 88. Ở hướng Đại đội 2 và hướng Đại đội 3 đều chặn đứng, đánh lui được nhiều đợt tấn công của quân địch, giữ vững trận địa. Nhưng, thực tế là, qua mấy ngày chiến đấu, bộ đội ta thương vong với một số lượng tương đối lớn. Trong số bị thương vong, một phần bị phi pháo và nhiều hơn là trong tác chiến với bộ binh địch. Anh Sơn quê ở làng Tượng Sơn, xã Quảng Long, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Anh Túng quê ở gần Hoàn Lão, xã Trung Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #22 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 01:29:56 pm »

Đến 8 giờ tối, sau khi trao đổi với anh Cảnh chính ủy, Anh  Lan trung đoàn trưởng lệnh cho Tiểu đoàn 7 tổ chức lui quân về phía tây. Sau khi an táng Thiên tại chỗ, chúng tôi dùng cáng đưa thi thể anh Trần cùng hành quân với đơn vị. Khi đã qua suối La La, chúng tôi an táng anh Trần ở chân Đồi Không Tên.
Trong chiến đấu, tôi đã nhiều lần vĩnh biệt đồng chí, đồng đội, nhưng việc anh Trần hy sinh là điều đau xót nhất đối với tôi. Anh vừa là thủ trưởng trực tiếp, vừa như người anh vô cùng thân thiết trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt là những lúc hiểm nguy. Tôi được nhiều lần đi trinh sát nắm địch cùng anh Trần. Có lần khi đi trinh sát ở Đường 9 mạn gần Cam Lộ,  tối dừng lại ở chân Cao điềm 35 cạnh làng Tân Kim, tôi và anh ngủ trong một cái hầm cũ. Đây là vùng địch kiểm soát, thám báo Mỹ vẫn thường xuyên lùng sục. Trước khi đi nằm, hai anh em kéo cành cây khô làm hàng rào chắn, ít nhất là tạo ra tiếng động khi có người đi qua. Chưa yên tâm, đến khuya anh nói tôi dậy lấy 4 quả lựu đạn cài 4 phía, cách hầm chừng hơn chục mét.
Cài lựu đạn giống như cài mìn. Khi cài không ngại. Ngại nhất là khi gỡ. Chỉ cần sơ suất một chút là chết người. Sáng tinh sương, anh bảo tôi dậy cùng gỡ lựu đạn để đi tiếp. Tôi bảo anh cứ ngồi trong hầm, nếu có sự cố gì, mình em chịu. Trong sinh hoạt, anh luôn coi tôi như đứa em út.
Quê anh ở xóm Sỏi, xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Trên đường hành quân vào B, anh đưa tôi tạt về nhà. Ngày đó bà cụ Trực mẹ anh vẫn còn. Chị Thuyết vợ anh là cán bộ phụ nữ tỉnh Quảng Bình. Anh chị có hai con. Cháu Yên sinh sau khi hòa bình lập lại ở Miền Bắc. Cháu Chiến là kết quả của lần anh tạt về tranh thủ trước khi đi chiến đấu ở Lào, năm 1965. Cuối năm 1967, Trung đoàn cho tôi và anh Ngô Trí Thướng, Trưởng tiểu ban quân lực chuyển di vật anh về gia đình. Chị Thuyết đã ôm lấy tôi khóc gào thảm thiết. Lúc đó cháu Yên, cháu Chiến còn nhỏ, ngơ ngác chưa biết gì.

 28 năm sau, năm 1995, tôi vào công tác ở Đồng Hới. Khi đang ngồi làm việc với anh Cao Lương Bằng, Thiếu tướng, Tỉnh đội trưởng Quảng Bình, thấy một người đi ngang trước cửa phòng. Nhìn thoáng qua tôi thấy rất quen mà không nhớ nổi là ai. Tôi liền hỏi anh Bằng, đó là ai. Anh Bằng nói là lái xe của anh ấy. Tôi nghĩ chắc mình nhầm với ai đó. Thiên hạ thiếu gì người giống nhau.
Trưa ăn cơm xong, như có điều linh tính mách bảo, tôi  tìm người lái xe hỏi:
- Này, cậu quê ở đâu?
Cậu lái xe trả lời:
- Quê em ở huyện Quảng Ninh, xã Vạn Ninh.
Tôi hỏi dồn:
- Có biết nhà ông Bùi Trần con cụ Trực không?
Cậu ta giật mình trả lời:
- Ôi! Em là con ông Trần đây, sao Thủ trưởng lại biết nhà em.
Tôi thảng thốt:
- Ơ! cháu là Chiến à?! Trời ơi, hèn chi cháu giống bố thế. Gần 30 năm trước chú là liên lạc của bố cháu. Ngày đó, bố cháu trạc tuổi cháu bây giờ thôi.
Mọi người đều quay lại nhìn chúng tôi. Anh Bằng nói:
- Anh Đẩu nói đúng đấy. Chiến giống bố nó lắm. Tôi nghe bà Thuyết, mẹ Chiến nói lại, có lần một bà cô đến nhà chơi đã mắng Chiến, cớ làm sao mà cháu dám đặt ảnh của mình lên bàn thờ ông bà tổ tiên vậy?  Chiến phải nói ngay rằng, cô ơi, đó là di ảnh của bố cháu đấy chứ. Bà cô ngẩn người nhìn lại, chà, bố con cháu giống nhau như hai giọt nước.
Chiều hôm đó, Chiến đưa tôi về thăm nhà. Bà cụ Trực đã mất, chị Thuyết đã già đi nhiều, nhưng vẫn nhận ra tôi sau nhiều năm xa cách.

 Tháng 10 năm 1967, sau đợt hoạt động dài ngày ở chiến trường Bắc Đường 9, cấp trên điều Trung đoàn chúng tôi ra Miền Bắc củng cố. Bắt đầu xuất phát từ một khu rừng ở mạn  phía tây bắc huyện Gio Linh, Tiểu đoàn 7 hành quân vượt qua Bến Tắt – gần Nghĩa trang Liệt sỹ Quốc gia Trường Sơn bây giờ. Mấy ngày sau toàn  đơn vị về đóng quân ở khu rừng già phía tây huyện Bố Trạch tỉnh Quảng Bình, cách Khương Hà khoảng 5 cây số. Qua một con sông hình như sông Son thì phải. Tiểu đoàn 7 đóng quân cách Trung đoàn bộ hơn 3 cây số. Tiếng là về hậu phương củng cố nhưng cả đơn vị vẫn đóng quân trong các khu rừng già, cách động Phong Nha không xa. Cả tiểu đoàn được bổ sung quân số, trang bị, xây dựng thao trường huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật. Ban chỉ huy Tiểu đoàn lúc này có sự thay đổi. Anh Phan Hà được bổ nhiệm làm tiểu đoàn tưởng. Anh Nguyễn Văn Đào được cấp trên điều đi đơn vị khác. Sau này tôi mới biết là anh Đào vào Tây Nguyên. Anh Ngô Đình Nựu làm chính trị viên tiểu đoàn. Anh Tăng Văn Miêu quê ở Thái Thụy, Thái Bình, đại đội trưởng Đại đội 4 được bổ nhiệm làm tiểu đoàn phó. Anh Nguyễn Thái quê ở Nho Quan, Ninh Bình, chính trị viên Đại đội 3 được bổ nhiệm làm chính  trị viên phó tiểu đoàn. Thời kỳ này máy bay Mỹ thường xuyên đánh phá ác liệt trên trục đường 15 từ Hoàn Lão lên phà Xuân Sơn, sang tận Lào. Có lần tiểu đoàn giao cho các đại đội cử người ra Khương Hà nhận lương thực, bị bom bi Mỹ rải dọc đường và bến sông hy sinh mất mấy anh em.
Ngày 15 tháng 12 năm 1967, anh Nguyễn Hoán tham mưu trưởng trung đoàn về làm việc với Tiểu đoàn 7. Gặp tôi, anh nói:
- Sắp tới vào Miền Nam sẽ đánh lớn, mình về trung đoàn bàn với các anh sẽ điều cậu lên Ban Tham mưu trung đoàn.
Tôi chẳng biết nói gì. Mấy ngày sau có quyết định điều tôi lên trung đoàn làm trợ lý trong Tiểu ban quân lực. Tôi chia tay với anh em trong tiểu đội liên lạc, tiểu đội trinh sát là hai nơi tôi đã gắn bó trong suốt mấy năm ở chiến tường. Các anh: Phan Hà, Ngô Đình Nựu, Nguyễn Thái, Tăng Văn Miêu trong Ban chỉ huy Tiểu đoàn dặn tôi như vậy là em được cấp trên tin tưởng giao nhiệm vụ mới. Em phải nỗ lực phấn đấu để xứng danh là lính Tiểu đoàn 929, xứng đáng với lòng mong mỏi của các anh. Chia tay các anh giống như chia tay những người ruột thịt, ngày ra đi tôi đã khóc.
Sau này tôi được biết, khi ở chiến trường ra, tại buổi làm việc với Tiểu ban cán bộ Trung đoàn, khi nói đến tôi, trong Ban chỉ huy tiểu đoàn có hai ý kiến khác nhau. Người thì đề nghị cho tôi đi học Trường Sĩ quan Lục quân vì có chỉ tiêu của trên mà tôi lại cũng đủ tiêu chuẩn. Người thì đề nghị giữ tôi lại để bồi dưỡng thành cán bộ của đơn vị, như thế nhanh hơn. Khi biết được tình hình đó, anh Hoán đòi đưa lên cơ quan Trung đoàn.
Anh Nguyễn Hoán là Tiểu đoàn trưởng của chúng tôi hồi còn chiến đấu ở Lào. Anh vốn xuất thân con nhà giàu, được học hành đầy đủ từ nhỏ. Năm 1945 vào bộ đội, năm 1946 vì đã có bằng thành chung ( tốt nghiệp phổ thông trung học ) anh được chọn đi học Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn. Cuối cuộc kháng chiến chống Pháp anh giữ chức tiểu đoàn trưởng rồi tham mưu phó trung đoàn. Trong đợt phong quân hàm đầu tiên, năm 1958, anh được trao cấp bậc đại úy. Thuở đó như vậy là to rồi. Nhưng vì là con địa chủ, có thể do tư tưởng thành phần chủ nghĩa của một số người chi phối công tác cán bộ trong một thời kỳ dài, đường công danh của anh không suôn sẻ. Từ tham mưu phó trung đoàn anh lại trở lại giữ chức tiểu đoàn trưởng.
Anh Hoán là con người vừa có tài, vừa có tâm. Trong chỉ huy chiến đấu anh là người mưu lược, dũng cảm, quyết đoán. Còn trong cư xử với mọi người, từ cấp dưới đến cấp trên, anh là người chân thành, lịch lãm. Anh sống khiêm nhường. Đó là sự khiêm nhường có ý thức của người thường xuyên tự ti, mặc cảm, cố ý rèn luyện mình.
 Có lần hành quân ở Đèo 1001, tôi thấy anh dừng lại vác hộ khẩu trung liên của một chiến sĩ bị lên cơn sốt. Chúng tôi thật sự cảm phục một trung đoàn phó lưng đeo súng ngắn K59, vai vác khẩu trung liên, mặt đỏ au, mồ hôi nhễ nhại,  vững bước đi giữa đoàn quân ra trận. Hành động đó có ý nghĩa hơn cả những lời thuyết giáo dài dòng, sáo mòn, trống rỗng. Nhiều khi vào các khu vực quân Mỹ mới rút, đồ hộp, dụng cụ và giấy tờ vứt lại ngổn ngang, chúng tôi mù tịt chẳng biết gì, anh Hoán cầm đọc từng loại bằng tiếng Anh và bày cho chúng tôi, nhất là khai thác khoản đồ hộp của Mỹ.
Dáng người anh  Hoán cao to, quắc thước, râu quai nón, đôi mắt sáng, đầu húi cua. Trình độ công tác tham mưu của anh rất giỏi. Cách ra chỉ thị bằng khẩu lệnh hoặc viết điện của anh luôn luôn chính xác, ngắn gọn, dễ hiểu. Theo anh, sự chính xác, ngắn gọn và dễ hiểu trong mệnh lệnh của cấp trên là điều kiện thuận lợi đầu tiên cho cấp dưới hoàn thành nhiệm vụ. Cùng sống với anh, cả trong chiến đấu cũng như trong sinh hoạt, chúng tôi được học nhiều điều.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #23 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 01:30:16 pm »

 Ngày 25 tháng 12 năm 1967, tôi có mặt nhận nhiệm vụ ở Ban Tham mưu trung đoàn. Ban Tham mưu Trung đoàn có Tham mưu trưởng và các tiểu ban: Tác chiến, Trinh sát, Thông tin, Công binh, Pháo binh, Quân lực, Cơ yếu. Anh Hoán  tham mưu trưởng dẫn tôi sang giao cho anh Ngô Trí Thướng trưởng Tiểu ban Quân lực. Tiểu ban Quân lực lúc đó có 5 người. Anh Thướng trưởng tiểu ban và 4 trợ lý: anh Nguyễn Thanh Chương quê Cẩm Xuyên – Hà Tĩnh, trợ lý quân số; anh Lê Văn Xảo quê Thọ Xuân- Thanh Hóa, trợ lý trang bị; anh  Phí Văn Mao quê Lập Thạch – Phú Thọ, trợ lý chính sách. Anh Thướng biết tôi từ trước. Các anh khác tôi mới gặp lần đầu. Anh Thướng giao cho tôi trước mắt cứ tìm hiểu công việc chung của cơ quan, rồi sẽ phân công công việc cụ thể sau.
Cơ quan tham mưu lúc bấy giờ toàn những người hơn tuổi tôi. Các anh lãnh đạo đều là bộ đội từ hồi chống Pháp. Các anh trợ lý cũng đều là lớp trên tôi. Cả cơ quan chỉ có Trương Tấn Phượng hơn tôi hai tuổi, mới được điều từ Đại đội 12 ly 7 lên làm trợ lý bảo mật. Hai “tân binh” trở thành đầu sai của cơ quan trong các công việc đòi hỏi đến sức khỏe. Phượng trầm tĩnh, cẩn thận, chắc chắn bù lại tôi tháo vát, nhanh nhẹn, xông xáo. Bởi thế, tôi và Phượng thân nhau ngay từ những ngày đầu gặp gỡ. Phượng quê ở làng Quảng Cư, xã Xuân Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, đang học dở lớp 9 năm 1965 thì đi bộ đội.
Tôi lên Trung đoàn được 3 ngày thì cả đơn vị bắt đầu hành quân đi chiến đấu. Lần này, Trung đoàn không trở lại chiến trường Đường 9 mà hành quân vào sâu hơn. Lệnh của trên là cả Trung đoàn phải hành quân cấp tốc. Tôi nhớ hôm vượt qua phà Long Đại. Ở đây có qui định các đơn vị chỉ được qua phà lúc trời đã tối hẳn, đề phòng lộ bến máy bay Mỹ phát hiện oanh tạc. Đơn vị đi đầu của Trung đoàn đến bến lúc 4 giờ chiều. Anh trưởng bến phà, nói giọng Khu 5 rất gay gắt, dứt khoát không cho qua. Anh ấy nói:
- Việc qua phà ban ngày là vi phạm kỷ luật chiến trường. Ai muốn qua, phải bước qua xác tôi.
Căng quá. Thậm chí đưa cả điện khẩn tối mật của cấp cao nhất cho anh ấy đọc và nói thế nào cũng không được. Các anh chỉ huy Trung đoàn đang lúng túng chưa biết tính sao, thì  anh Lê Văn Dánh, Phó Chính ủy Trung đoàn  nói:
- Lúc này mệnh lệnh hành quân chiến đấu là trên hết, chậm trễ thì không hoàn thành nhiệm vụ. Thuyết phục không được, phải cưỡng bức.
Nói rồi, Anh Dánh giao cho mấy anh em trinh sát giữ chặt anh Trưởng bến phà lại. Chờ đến khi cả Trung đoàn qua sông xong thì thả ra. Đó là cách làm lưỡng tiện. Trung đoàn chúng tôi kịp hành quân theo mệnh lệnh của trên. Mà chỉ huy bến phà cũng không vi phạm qui định.
 Cả trung đoàn vượt Đèo 1001, Dốc Chè. Sáng Mồng Một Tết Mậu Thân, khi vượt Sông Bồ đi về Hương Trà-Thừa Thiên, qua Đài Phát thanh được nghe Thơ Chúc tết của Bác Hồ:

”Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng trận tin vui khắp nước nhà
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên!Toàn thắng ắt về ta”.

Từng đoàn quân trên đường ra trận khí thế ngất trời. Chúng tôi mừng vô cùng. Bầu không khí rầm rập, rạo rực bao trùm cả đội hình hành quân. Lúc này hình như không còn giữ bí mật nữa. Cả đoàn quân đi náo nức, oai hùng. Mấy anh cán bộ mang đài bán dẫn mở hết cỡ. Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Phát thanh giải phóng liên tục đưa tin thắng trận ở thành phố Huế, Sài gòn và trên khắp chiến trường. Cả Miền Nam bắt đầu cuộc Tổng Tấn công và nổi dậy đồng loạt. Chúng tôi như bay, như nhảy trên đường hành quân. Trung đoàn 29 chúng tôi được giao nhiệm vụ vào tham gia chiến đấu ở Huế. Các trung đoàn lúc đó đều gọi là Đoàn (Quân khu Trị Thiên Huế có các Đoàn 4,5,6,8,9). Trung đoàn 29 đổi tên là Đoàn 8. ( Đến đầu năm 1969, khi vào đội hình của Sư đoàn 324 thì Đoàn 8 lại đổi là Trung đoàn 3).
Chiều tối Mồng Một Tết hành quân qua ngã ba Hương Trà, xuống Miếu Ông Ầm, các tiểu đoàn rẽ đi các hướng theo nhiệm vụ chiến đấu được giao. Tiểu đoàn 7 đánh vào Thành nội, chợ Đông Ba. Tiểu đoàn 9 đánh vào Cửa Chánh Tây, An Hòa. Tiểu đoàn 8 đánh ở ngoại thành Huế, vùng La Chữ, Quế Chữ. Ngày Mồng Hai Tết, các đơn vị bước vào tham chiến với cả quân Mỹ và quân Ngụy. Trời mưa phùn gió lạnh.
Tiểu ban Quân lực lúc này chia làm hai bộ phận. Anh Thướng, anh Xảo, anh Mao đi cùng Ban Tham mưu Trung đoàn. Anh Chương và tôi được bố trí ở Hương Trà có nhiệm vụ tiếp nhận quân và vũ khí đạn dược bổ sung đưa lên phía trước ; đồng thời thu dung thương binh, phân luồng đi chữa trị ở các Bệnh viện dã chiến.
Cả thời kỳ chiến đấu ở Huế, trung đoàn tôi được bổ sung  tám đợt tân binh. Ban Tham mưu Trung đoàn phân phối quân số bổ sung cho các đơn vị tùy thuộc vào hai yếu tố: Số lượng thương vong trong chiến đấu và nhiệm vụ được giao của từng đơn vị, nhất là các đơn vị đang trực tiếp chiến đấu. Có anh em bổ sung vào đơn vị lúc chập tối, chưa biết phiên hiệu đơn vị, thậm chí chưa biết mặt, biết tên thủ trưởng trực tiếp, cứ thế bước vào chiến đấu. Đến đêm có người hy sinh, có người bị thương, cán bộ cơ sở không nắm được cụ thể. Bộ đội chiến đấu bị thương ở các hướng đưa về phía sau cũng nhiều loại, nhiều kiểu. Thương binh nặng thì cáng lên viện ở phía sau xa hơn. Thương binh vừa và thương binh nhẹ thì bố trí đến các đội điều trị hoặc các viện dã chiến. Phần đông thương binh vừa và  thương binh nhẹ, trừ trường hợp bị thương vào chân, đều tự đi đến cơ sở điều trị.
Trong chiến đấu nhiều đồng chí có quyết tâm cao. Bị thương nặng coi như bị thương nhẹ. Bị thương nhẹ coi như không bị thương. Tiếp tục ở lại cùng chiến đấu với đơn vị. Nhưng cũng có trường hợp, tuy không nhiều, mượn cớ bị thương để lùi về phía sau. Có trường hợp rất cá biệt, dùng súng tự thương để rời khỏi chiến trường, thoái thác nhiệm vụ.
 Bằng thực tiễn đó, mấy chục năm sau, khi đã là Cục trưởng Cục Chính sách, tôi càng hiểu hơn, thông cảm hơn một tình hình là tại sao trong chiến đấu việc quản lý quân số hy sinh, bị thương của các đơn vị ở chiến trường khó khăn đến thế. Những tồn đọng về chính sách nhiều năm sau chiến tranh chưa giải quyết xong do nhiều nguyên nhân. Có nguyên nhân chủ quan do trách nhiệm và khả năng, nhưng có những nguyên nhân khách quan trong chiến đấu ở chiến trường là bất khả kháng.
Từ chỗ đóng quân trên đất Hương Trà, theo sự phân công của anh Thướng, tôi đến các đơn vị để nắm tình hình thực lực quân số, trang bị. Đến các đội điều trị, các viện dã chiến để nắm số lượng và danh sách quân nhân bị thương. Hồi đó, tôi được anh Thướng giao cho một tập giấy khống chỉ chứng nhận bị thương đã ký tên anh Nguyến Hoán tham mưu trưởng Trung đoàn và đóng dấu sẵn để kịp thời giải quyết cho những anh em khi bị thương rời đơn vị chưa được cấp. Giấy chứng nhận bị thương là căn cứ pháp lý để thực hiện chính sách. Giấy này dùng để phân biệt người bị thương trong chiến đấu với các trường hợp khác. Căn cứ vào bệnh án và lời khai của từng người, tôi điền vào giấy khống chỉ rồi trao tận tay cho anh em.
Những ngày đầu, ta bất ngờ tấn công, đánh chiếm hầu hết các mục tiêu quan trọng của Thành phố Huế. Địch bị thất bại nặng nề, chỉ còn trụ lại được ở cứ điểm Mang Cá. Nhưng sau đó chúng đã được tăng viện liên tiếp phản kích chiếm lại những vị trí đã mất.
Sau 27 ngày liên tục bám trụ chiến đấu ở Huế, giành giật, chống trả nhiều đợt tấn công với qui mô lớn của bộ binh địch, dưới sự bắn phá ác liệt của phi pháo địch, mặc dù đã được bổ sung mấy đợt liền nhưng vẫn không bù đủ quân số thương vong của Trung đoàn. Quân số thiếu hụt, vũ khí đạn dược đã cạn kiệt, bảo đảm lương thực khó khăn, không thể duy trì được sức chiến đấu. Tinh hình bộ đội ta ở Mặt trận Huế cũng là tình hình chung của toàn chiến trường Miền Nam lúc bấy giờ.
Hai mươi năm sau (1988), ba mươi năm sau (1998), bốn mươi năm sau (2008), đã có nhiều hội thảo khoa học lịch sử quân sự về Chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 – Một cột mốc lớn chói sáng trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Tại các lần hội thảo và trên nhiều sách báo, các nhà lãnh đạo chính trị, các nhà lãnh đạo, chỉ huy cấp chiến lược ở Trung ương, các vị Tướng lĩnh - Tư lệnh các chiến trường, các nhà nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu khoa học quân sự,…trên từng bình diện khác nhau, đã có những đánh giá về thắng lợi, về khuyết điểm hạn chế, rút ra những bài học kinh nghiệm về sự kiện lịch sử này.
Ý kiến qua lại thì nhiều, trong đó có cả ý kiến khác biệt. Điều đó cũng dễ hiểu. Xưa nay là vậy, lịch sử diễn ra chỉ một lần nhưng viết lịch sử, đánh giá lại, định vị lại giá trị của lịch sử thì lại diễn ra bằng nhiều lần. Mọi người có cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu khác nhau. Hơn nữa, độ lùi cho phép của thời gian, sự đầy đủ của thông tin và kết cục của cuộc chiến càng làm sáng tỏ nhiều vấn đề mà ngay trong chiến tranh chưa có điều kiện kiểm chứng. Nhưng nói gì đó thì nói, tựu trung lại có thể khái quát ngắn gọn là:  Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã giành được thắng lợi to lớn, toàn diện, có ý nghĩa chiến lược quan trọng. Ta đã táo bạo bất ngờ tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực cấp cao của Mỹ ngụy; đánh chiếm những mục tiêu hiểm yếu, phá hủy một khối lượng quan trọng các phương tiện chiến tranh và cơ sở hậu cần hiện đại nhất của Mỹ - ngụy. Thắng lợi đó, về cơ bản, đã đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ”, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, đã tạo ra một sự đột biến làm thay đổi cục diện chiến tranh, tạo điều kiện và thời cơ tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn cho sự nghiệp giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Khuyết điểm chính là: Do nhận thức và đánh giá chưa thật sát đúng tình hình. Trong khi lực lượng Mỹ-ngụy và chư hầu đông tới 1 triệu 20 vạn tên, nắm trong tay những phương tiện chiến tranh hiện đại, khổng lồ, đang chiếm giữ những căn cứ được phòng thủ vững chắc, cuộc chiến tranh đang diễn ra quyết liệt, việc đề ra chủ trương Tổng tiến công-Tổng khởi nghĩa là không sát thực tế. Đã kéo dài cuộc Tổng tiến công vào các đô thị khi yếu tố bất ngờ không còn, địch đã củng cố, thực hành phản công quyết liệt. Chậm chuyển hướng chiến lược. Những khuyết điểm, sai lầm ấy đã gây cho ta những tổn thất rất to lớn. Sau này tổng kết lại, có ý kiến cho rằng, nếu ngày đó mục đích của Tổng tiến công chỉ là đánh địch thiệt hại nặng, buộc chúng phải ngồi vào bàn đàm phán, thì công bằng mà nói, cái giá phải  trả quá đắt.
Đánh giá về toàn cục của các cấp chiến lược là vậy. Nhưng ở cấp cơ sở, quả thật lúc đó, ban đầu trong khí thế hừng hực sục sôi, qua tuyên truyền và ý kiến chỉ đạo, phổ biến của lãnh đạo chỉ huy trực tiếp, chúng tôi cứ nghĩ rằng, đây là trận chiến đấu cuối cùng để giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Tuồng như,  nếu chậm chân sẽ không có vinh hạnh được góp mặt trong cái ngày trọng đại, huy hoàng ấy. Nhưng sau đó, bom đạn ác liệt quá, thương vong nhiều quá, địch mạnh quá, dường như ta không cân sức, thì nhiều người sinh ra bi quan dao động, thậm chí có một số đã đào ngũ, chạy dài về phía sau. Điều mà trước đó hầu như ở đơn vị chúng tôi không hề có.
Ngày 22 tháng 2 năm 1968, Quân khu ra lệnh cho Trung đoàn chúng tôi rút ra khỏi Huế hành quân về vùng giáp ranh Bình Điền, Hương Trà để củng cố lực lượng, chuẩn bị cho trận chiến đấu tiếp theo. Tại đây, ngày 20 tháng 5 năm 1968, tôi được chuyển thành Đảng viên chính thức.
Sau khi tái chiếm hoàn toàn thành Huế và các huyện đồng bằng, địch bắt đầu đánh nống lên vùng giáp ranh. Các loại máy bay trực thăng, phản lực và máy bay cánh quạt C130 ngày đêm thay nhau quần đảo, bắn phá ác liệt. Thêm vào đó, nhiều lần B57, B52 ném bom rải thảm và pháo bầy các loại 105 ly, 175 ly,…từ các căn cứ ở đồng bằng cấp tập dội vào trận địa ta. Có lần bộ binh Mỹ đã đánh đến cách Trung đoàn bộ không đầy cây số. Quân số thương vong nhiều hơn, cả đơn vị và cơ quan. Gạo tiếp tế từ Miền Bắc không vào kịp, gạo ở đồng bằng không lên được vì bị địch đánh chặn các ngả đường. Tiêu chuẩn mỗi người mỗi ngày chỉ được 2 lạng gạo, không đủ nấu cơm, phải nấu cháo độn rau môn thục hoặc rau tàu bay. Đặc biệt là muối ăn không đủ. Con người ta đói ăn, khát uống không căng bằng thiếu muối. Người cứ lả đi, chân tay rời rã. Thiếu ăn dẫn đến nhiều loại bệnh tật phát sinh, nhất là bệnh phù thũng. Đây bắt đầu là thời kỳ khó khăn đối với chủ lực ta.  Đồng đội tôi, phần thì hy sinh trong chiến đấu ở Huế, phần thì hy sinh ở Bình Điền, Hương Trà, đã vãn đi khá nhiều. Riêng quân số hy sinh ở Huế trong Tết Mậu Thân của Trung đoàn tôi lên tới mấy trăm người. Ác liệt, gian khổ, thương vong diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Một không khí bi hùng bao trùm lên toàn đơn vị.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #24 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 01:30:40 pm »

 Chính thời gian rút ở Huế lên Bình Điền, Hương Trà, nghĩ rằng, trong điều kiện bom đạn ác liệt, biết đâu sự hy sinh ập đến lúc nào không biết trước được, tôi đã làm sẵn một quyển sổ bìa cứng để ghi lại những cảm xúc của mình trong những ngày đó. Đây không phải biểu hiện của tư tưởng bi quan lo lắng mà là chủ động một tâm thế thanh thản lạc quan. Ngoài bìa, tôi  nắn nót viết một dòng bằng chữ in: KHI TÔI HY SINH, ĐỀ NGHỊ ĐƠN VỊ CHUYỂN HỘ VỀ CHO CHA TÔI. Trong quyển sổ đó, tôi ghi chép nhiều thứ như là Nhật ký chiến trường. Đặc biệt là, có một bản di chúc tôi gửi cha tôi.
 Bản Di chúc tôi viết là: “Cha kính yêu! Khi cha nhận được quyển sổ này, thì Nguyễn Mạnh Đẩu – đứa con trai thân yêu của cha đã hy sinh ngoài mặt trận. Cha! hãy bình tĩnh lại Cha ạ. Lúc còn nhỏ, Con vẫn được Cha dạy rằng, việc sống chết là luật tiết của tạo hóa. Dẫu có sống đến 800 tuổi như Ông Bành Tổ rồi cũng phải chết, không ai qua được. Vấn đề là, sống và chết thế nào cho xứng đáng. Tiếc là con hy sinh  quá sớm, khi mới tròn 20 tuổi đầu. Con ân hận là chưa làm được gì để đền đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục của Cha Mẹ. Nhưng, về phận sự với đất  nước, con có quyền tự hào là  trong cuộc chiến đấu quyết liệt với quân thù, con đã sống xứng đáng trên tuyến đầu và đã hy sinh vẻ vang vì sự nghiệp,…Cuối cùng, Con cầu mong Cha khỏe mạnh, bình an. Mong cha nuôi dạy các em con mau khôn lớn trưởng thành để sau này thay con phụng dưỡng cha lúc tuổi già, sức yếu. Xin vĩnh biệt Cha!” . Cuối bản Di chúc là mấy câu thơ:

”Hãy vui lên Cha, Con hy sinh
Cũng vì giải phóng đất nước mình
 Cha ơi, tương lai đà soi sáng
 Vì mọi người, Con hiến tuổi xanh”.

Đây là những lời tâm sự, nhắn nhủ tâm huyết, viết ra trong nước mắt, thốt ra tự đáy lòng, tôi gửi lại cho cha tôi - người thân yêu nhất trên đời. Nhưng mãi tới mấy chục năm sau, cho đến khi từ trần, cha tôi cũng chưa hề đọc bản Di chúc đó của tôi. Tôi cũng không bao giờ kể với ông chuyện này.
Cứ mỗi khi có điều kiện, tôi lại ghi chép. Và mỗi lần đi chiến đấu tôi đều gửi lại hậu cứ Quyển sổ bìa cứng đó. Trong chiến dịch Đường 9-Nam Lào năm 1971, khi nghe tôi bị thương nặng không qua khỏi, anh Phạm Huy Chưởng, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 9 về hậu cứ mở quyển sổ ra đọc rồi giữ lại chờ dịp chuyển về cho cha tôi. Nhưng sau đó, năm 1972, đi chiến đấu chiến dịch Động Tranh ở tây Thừa Thiên,  sợ mình không giữ được, anh Chưởng lại giao cho anh Lê Văn Thảo phụ trách hậu cứ. Sau này, theo lời anh Chưởng, tôi tìm gặp anh Thảo ở Thành phố Thanh Hóa thì được biết rằng hậu cứ bị trúng bom cháy hết không còn gì. Thảo bị cụt một chân trong trận bom đó. Tôi tiếc vô cùng. Anh Phạm Huy Chưởng quê Hương Khê - Hà Tĩnh, cùng chiến đấu với tôi từ hồi ở Lào. Sau này anh là Thiếu tướng, Tỉnh đội trưởng Thừa Thiên Huế rồi Phó Tư lệnh –Tham mưu trưởng Quân khu 4. Mỗi lần chúng tôi gặp nhau, anh Chưởng vẫn thường nhắc về quyển sổ này. Anh cũng còn kể cho nhiều người nghe.
Sau một thời gian chiến đấu ở vùng giáp ranh, chấp hành mệnh lệnh của Quân khu, các đơn vị chủ lực lần lượt rút lên rừng để củng cố. Trung đoàn 8 rút về  Phu Rếch- Cô Trang  gần Đường 12 tây Thừa Thiên, rồi sau đó rút lên tận Mường Nòng (Lào).

 Ngày 10 tháng 6 năm 1968, theo chỉ thị của trên, trước yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu, Trung đoàn tái thành lập đại đội đặc công, lấy phiên hiệu là C20. (Đại đội đặc công cũ đã bàn giao cho Mặt trận Bắc Quảng Trị khi Trung đoàn hành quân vào đánh Huế). Qui trình là bộ khung của đại đội được xây dựng trước, rồi đón tân binh ở Miền Bắc vào bổ sung, lắp ráp thành từng tiểu đội, trung đội. Sau đó tổ chức huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật đặc công.
Đặc công là lực lượng đặc biệt tinh nhuệ, yêu cầu chất lượng cao, tinh binh, tinh cán. Bộ khung từ tiểu đội  trưởng cho đến cán bộ đại đội, đều là những cán bộ trẻ, khỏe, nhanh nhẹn, mưu trí, dũng cảm, đã lập được nhiều thành tích trong chiến đấu bộ binh, được lựa chọn trong toàn thể Trung đoàn. Trên cơ sở tiêu chuẩn đã được xác định, Trung đoàn giao chỉ tiêu cho tập thể cấp ủy các đơn vị lựa chọn đề nghị lên. Trung đoàn thẩm tra, xem xét lại rồi quyết định. Ban đầu bộ khung được hình thành là : Ban chỉ huy đại đội bốn người. Đại đội có ba trung đội, mỗi trung đội 3 cán bộ. Mỗi trung đội có ba tiểu đội, với ba tiểu đội trưởng. Đại đội trưởng là anh Nguyễn Duy Hào, quê Thọ Xuân, Thanh Hóa, vốn là đại đội trưởng Đại đội 9 Tiểu đoàn 9. Chính trị viên đại đội là anh Trương Anh Dung, quê Quang Minh, Kim Anh, Vĩnh Phú, vốn là chính trị viên Đại đội 12 ly 7 cao xạ. Đại đội phó là anh Đinh Minh Chúng, quê Trung Hóa, Tuyên Hóa, Quảng Bình, vốn là đại đội phó Đại đội 3 Tiểu đoàn 7. Chính trị viên phó là anh Hồ Văn Bé, quê Nghi Xuân, Hà Tĩnh, vốn là chính trị viên phó Đại đội 1, Tiểu đoàn 7. Khi mới thành lập đại đội đặc công, do xác định tính chất hoạt động độc lập, phân tán trong địch hậu, mỗi trung đội có biên chế một chính trị viên.
 Một buổi tối tháng 6 năm 1968, ở vùng giáp ranh Hương Trà, anh Hoán cho liên lạc gọi tôi sang hầm của anh. Thay mặt lãnh đạo, anh trao quyết định phong cấp trung đội bậc trưởng cho tôi. (Một cách phong quân hàm hồi đó đối với Quân Giải phóng. Với bậc này, nếu ra Miền Bắc, tôi được phiên sang thiếu úy). Sau đó, anh  vừa dặn dò vừa tâm sự, đại ý, em lên công tác ở cơ quan Trung đoàn được 6 tháng rồi. Kết quả hoàn thành nhiệm vụ tốt, được tập thể cơ quan tín nhiệm. Với đà đó em có triển vọng phát triển ở cơ quan tham mưu. Bây giờ em có nguyện vọng gì không. Rất phấn khởi vì được phong quân hàm và thực sự  cảm động về những lời nói ân tình chí nghĩa của anh Hoán, tôi bày tỏ cám ơn sự quan tâm dìu dắt của các anh mà đặc biệt là anh Hoán. Đồng thời, đây là dịp tốt tôi có điều kiện giải bày nguyện vọng cùa mình. Bởi vậy, tôi thành thật xin anh Hoán cho tôi về đơn vị chiến đấu. Tôi nói:
-  Anh ạ ! Phong cách làm việc ở cơ quan không thật sự phù hợp với lứa tuổi như em. Em xin về đơn vị chiến đấu, vì về lại dưới ấy dù có vất vả hơn nhưng trẻ trung, vui vẻ, sôi nổi với bạn bè cùng trang lứa, đầy chất lính hơn.
Chăm chú nghe tôi trình bày hết, anh Hoán nói nhỏ nhẹ:
- Thôi được, anh hiểu em, để anh bàn với các anh trong Ban chỉ huy Trung đoàn. Trước mắt, em về tiếp tục làm tốt công việc của mình.
Mười ngày sau, tính từ buổi tối gặp anh Hoán, tôi có quyết định của Trung đoàn điều động về Đại đội 20 đặc công nhận nhiệm vụ với cương vị chính trị viên Trung đội 2. Ngày đó, dưới con mắt của mọi người, đặc công được kính nể vì những chiến công xuất quỉ nhập thần trong các sào huyệt của địch. Được tuyển chọn vào bộ đội đặc công là một vinh dự. Tôi vui mừng và có phần hãnh diện. Trung đội trưởng trung đội 2 là anh Cao Hồng Nhụy quê Tuyên Hóa, Quảng Bình, trung đội phó là anh Trần Văn Thành quê Hương Khê, Hà Tĩnh. Tôi về Đại đội 20 đặc công được hơn nửa tháng, thì đi nhận tân binh ở Lao Bảo- Quảng Trị.
Tân binh nhập ngũ đợt tháng 2-1968, quê chủ yếu ở hai huyện Tiền Hải và Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Quân số đại đội lúc này lên tới 120 người. Chúng tôi hành quân về Dốc Giao, tổ chức huấn luyện ngay.Theo chỉ thị của trên, thao trường được chuẩn bị rất công phu. Hào đào sâu hơn 3 mét, rộng 5 mét. Dưới lòng hào cắm chông nhọn tua tủa. Làm hàng rào thép gai mấy lớp:  rào đơn, rào cũi lợn, bùng nhùng, giàn mướp. Chặt gỗ ghép lại thành các bức tường cao hơn 3 mét. Xây dựng lô cốt, chiến hào, ụ súng, giao thông hào. Tất cả đều như thật. Kỹ thuật, chiến thuật, võ thuật đặc công có sức hấp dẫn đối với lớp trẻ. Lại được nghe giới thiệu nhiều chiến tích của bộ đội đặc công hồi đó, chúng tôi hăm hở ngày đêm hăng say luyện tập.
Tình huống giả định có khi mật tập và có khi cường tập vào đồn địch. Mật tập là bí mật tiếp cận mục tiêu để tiêu diệt. Cường tập là khi vào chưa tới mục tiêu đã bị lộ, phải nhanh chóng vượt qua mọi chướng ngại vật, lao vào mục tiêu để đánh. Khó và nguy hiểm nhất là khi tập cường tập. Từng người và cả đội hình phải băng qua hàng rào thép gai, vượt hầm chông. Có buổi tập xong, người bị xây xát máu. Một lần đang huấn luyện tại thao trường, bị máy bay Mỹ thả bom bi, cậu Tuyển y tá bị trúng bom hy sinh. Trong suốt thời gian huấn luyện, Quân khu cho một tổ giáo viên trinh sát đặc công của Bộ gồm năm người về làm giáo viên huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật và võ thuật đặc công. Tổ trưởng giáo viên là anh Nguyễn Như Huyền.
Có sự trùng hợp ngẫu nhiên, 31 năm sau, năm 1999, cùng đợt thăng quân hàm Thiếu tướng một ngày với tôi có hai người cùng đơn vị cũ là anh Nguyễn Như Huyền, Cục trưởng Cục Tác chiến – Bộ Tổng Tham mưu và anh Tăng Văn Miêu, Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu 3.
Tháng 10 tháng 1968, cả Trung đoàn hành quân về Lệ Thủy, Quảng Bình. Đại đội đặc công đóng quân trong nhà dân ở xã Mai Thủy, Lệ Thủy. Về Mai Thủy được mấy ngày, tôi được Bộ Tư lệnh Quân khu Trị Thiên Huế quyết định thăng quân hàm đại đội bậc phó, bổ nhiệm giữ chức chính trị viên phó đại đội thay anh Hồ Văn Bé đi làm chính trị viên phó Tiểu đoàn 7.
Ban chỉ huy đại đội ở trong nhà chị Trường, một cái nhà ngói to, vườn rộng, có cây mít sai quả. Chị Trường có chồng là anh Lê Văn Giang, quê ở Quảng Nam, Thiếu úy, Thuyền trưởng Hải quân, đã hy sinh trong trận chiến đấu với máy bay Mỹ, năm 1965, ở căn cứ  Thanh Khê, cửa biển Sông Gianh. Về đây, chúng tôi tiếp tục xây dựng thao trường và huấn luyện. Tổ chức biên chế của đại đội lúc này không là trung đội nữa mà cả đại đội có sáu  mũi với 120 quân. Mũi trưởng Mũi 1 là anh Lê Văn Ba. Mũi trưởng Mũi 2 là anh Cao Hồng Nhụy. Mũi trưởng Mũi 3 là anh Trần Viết Xuân. Mũi trưởng Mũi 4 là anh Lê Văn Rật. Mũi trưởng Mũi 5  anh Bùi Công Tiếp. Mũi trưởng Mũi 6 là anh Lê Văn Khoa.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #25 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 01:31:02 pm »

Sau một tháng thục luyện, cuối tháng 12, Trung đoàn giao cho đại đội đặc công tổ chức diễn tập dưới sự giám sát của Thủ trưởng và cơ quan Trung đoàn. Mục tiêu là đánh vào “một căn cứ của địch” có hàng rào thép gai, công sự vững chắc. Để đảm bảo sát với thực tế chiến đấu, Trung đoàn cho đại đội trinh sát làm quân xanh, bố trí mìn sáng và canh gác rất nghiêm ngặt. Trong chiến đấu đặc công, việc tiềm nhập qua các chướng ngại vật (bãi mìn, hàng rào,…) tiếp cận vào sát mục tiêu là khâu đầu tiên có ý nghĩa quyết định sự thành bại của trận đánh. Nếu tiếp cận mục tiêu mà bị lộ thì phải cường tập. Đó chỉ là giải pháp tình thế, bất đắc dĩ, vì tỷ lệ thương vong sẽ rất cao. Trong diễn tập, khi tiềm nhập nếu bị lộ thì phải thực hành cường tập. Trường hợp này coi như hoàn thành nhiệm vụ ở mức thấp. Theo sự phân công trong Ban chỉ huy đại đội, tôi đi với Mũi 1 đánh vào hướng chủ yếu. Lệnh nổ súng là tiếng nổ của  khối bộc phá đánh vào chỉ huy sở của “địch”. Theo thuật ngữ quân sự gọi là “bộc phá lệnh”. Khi đã tiềm nhập vượt qua các hàng rào, các vọng gác, chúng tôi tiếp cận vào mục tiêu chủ yếu, mà “ quân địch “ vẫn không phát hiện được.
Tôi nhìn đồng hồ vừa đúng thời gian nổ súng theo hiệp đồng. Anh Ba mũi trưởng đưa tay ám hiệu với tôi cho bắt đầu đánh, tôi gật đầu. Cậu Sức lao lên đặt bộc phá vào hầm chỉ huy của  “địch”, giật nụ xòe. Một quầng lửa rực trời, kèm theo một tiếng nổ rất to. Sức ép của quả bộc phá hất chúng tôi dạt xuống. Tiếp đó, định thần lại rất nhanh, từng cá nhân theo sự phân công trước trên sa bàn, tiến đánh “tiêu diệt” các mục tiêu. Ở các mũi khác đều thực hành suôn sẻ. Kết thúc diễn tập, lúc rút kinh nghiệm, tôi hỏi anh Ba mũi tưởng, tại sao bộc phá lệnh nổ to thế. Anh Ba nói rằng, khi gói bộc phá lệnh anh em đã tự ý tăng khối lượng bộc phá lên để nổ thật to, thật oách. Chúng tôi cùng cười.
 Có lần tập võ thuật, tôi và anh Trương Anh Dung thực hành bài đánh dao găm đối kháng bằng dao thật. Đến động tác tôi quật ngửa anh Dung, ngồi lên ngực, hai đầu gối ghì chặt hai tay anh, dùng hai tay đâm bổ thượng từ trên xuống để “ tiêu diệt”. Theo bài tập trong trường hợp này, anh Dung chỉ cần cùng một lúc gồng bụng lên hất mạnh, giật hai tay ra đưa lên trên luồn vào giữa hai cánh tay tôi thì không bao giờ dao đâm thấu người anh. Thế nhưng, không hiểu tại sao, tay anh Dung đưa lên quá chậm và mũi dao găm của tôi đâm vào giữa trán anh. Không sâu xuống phần xương nhưng thủng da chảy máu. Cũng may tôi đâm nhẹ. Thật hú vía. Tôi biết trước đây có lần trinh sát Tiểu đoàn 929 khi tập võ thuật có trường hợp bị đánh chết chỉ vì không kịp đỡ một quả đấm của bạn tập.
Thời kỳ huấn luyện ở Mai Thủy, có một lần anh Trần Minh Dần, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 28 đóng quân ở xã Mỹ Thủy đến thăm tôi . Anh là người cùng xã, là anh ruột của anh Hợi cùng nhập ngũ với tôi một ngày. Chúng tôi đã từng biết nhau từ hồi chiến đấu ở Lào và Đường 9. Anh tuổi Mậu Dần, sinh năm 1938, hơn tôi 10 tuổi. Tôi nghe anh kể, mẹ tôi lúc còn làm cán bộ phụ nữ xã, có đến dự đám cưới anh, vui lắm.
Là người chiến đấu rất dũng cảm và sống rất nhân nghĩa nên đi đến đâu, anh Dần cũng được mọi người kính trọng, quí mến. Anh thường quan tâm và động viên tôi trong chiến đấu và công tác. Tôi coi anh như người anh ruột. Hai anh em chơi với nhau được một buổi rồi anh về đơn vị . Không ngờ đó là lần cuối cùng, tôi vĩnh viễn xa anh. Năm 1969, đơn vị anh hành quân vào Tây Nguyên. Tháng 4 năm 1972, đang làm Trung đoàn phó Trung đoàn 28, anh Dần được điều sang làm Trung đoàn phó  Trung đoàn 66 chiến đấu ở Đắc Tô – Tân Cảnh, bị bom Mỹ đánh trúng Sở chỉ huy tiền phương, anh hy sinh. Trước đó, anh Hợi, em ruột anh cũng đã hy sinh ở tận Nam Bộ. Sau này về quê, tôi mấy lần đến thắp hương ở Nhà bia tưởng niệm liệt sĩ của xã nhà. Danh sách liệt sĩ hy sinh trong các thời kỳ chiến tranh được khắc vào tấm bia lớn bằng đá xanh, khá to. Bảng danh sách nối dài hàng trăm người. Đọc hết một lượt, tôi bồi hồi xúc động. Mỗi dòng tên một cuộc đời. Họ hy sinh khi đang độ tuổi thanh xuân. Các anh đã tô thắm truyền thống quê hương. Góp phần rất xứng đáng vào thành tích xuất sắc của xã Anh hùng trong thời kỳ chống Mỹ. Dừng lại dòng tên Trần Minh Dần, hình ảnh chất phác, kính quí, ánh mắt và nụ cười thân thương của anh hiện về trong tâm trí tôi với bao kỷ niệm ngậm ngùi.
Thời kỳ ở Lệ Thủy, Quảng Bình, Sư đoàn 324 được thành lập. Thực ra, Sư đoàn 324  thành lập từ trong kháng chiến chống Pháp. Còn đây là  Sư đoàn 324 thứ bao nhiêu rồi. Trong kháng chiến chống Mỹ, một Sư đoàn có thể “nở” thành nhiều Sư đoàn  theo sự phát triển của quân đội  trước yêu cầu của chiến tranh. Chúng tôi được biết, ban đầu lúc mới thành lập, Sư đoàn lấy phiên hiệu là Sư đoàn 169- thành lập tháng giêng năm sáu chín. Sau một thời gian ngắn đổi lại tên là Sư đoàn 324. Tư lệnh Sư đoàn là anh Chu Phương Đới. Chính ủy Sư đoàn là anh Nguyễn Công Trang. Sư đoàn phó là anh Mai Hiền, Phó Chính ủy Sư đoàn là anh Trần Văn Ân. Anh Thái Cán làm Tham mưu trưởng Sư đoàn. Anh Bùi Phan Kỳ làm Chủ nhiệm chính trị.

                                                        *
                                                     *    *
 
Sau Tết Nguyên Đán Kỷ Dậu, chúng tôi rời Lệ Thủy hành quân đi chiến đấu. Lần này lại trở lại chiến trường Thừa Thiên-Huế.
 Quảng Trị và Thừa Thiên là hai tỉnh đất không rộng, người không đông. Nếu tính từ sông Bến Hải giới tuyến quân sự tạm thời đến Đèo Hải Vân thì địa hình rất dài. Nhưng bề ngang từ biên giới Việt-Lào trên dãy Trường Sơn ra đến Biển Đông thì rất hẹp. Có nơi chỉ khoảng 40 cây số. Đất đã hẹp rừng núi lại nhiều, nhưng nơi đây là vùng tiếp giáp với Miền Bắc, là nơi đối đầu, đọ sức của hai bên,  nên cuộc chiến tranh diễn ra vô cùng khốc liệt. Một dải đất hẹp, với số dân mấy chục vạn người, vậy mà trong kháng chiến chống Mỹ, ở Trị - Thiên hình thành hai quân khu. Chiến trường  phía bắc Quảng Trị tính từ Đường 9 trở ra do Mặt trận B5  đảm nhiệm. Từ phía nam tỉnh Quảng Trị, tính từ Đường 9 trở vào đến đèo Hải Vân do Quân khu Trị Thiên - Huế (B4) đảm nhiệm. Thực ra, từ trước năm 1966, Trị Thiên Huế còn là Phân khu Bắc thuộc Quân khu 5. Sau đó lực lượng phát triển lên thành Quân khu Trị Thiên - Huế tách khỏi Quân khu 5.
Khi vượt qua Đường số 9 được mấy ngày, vừa mới đến Trạm 19 ở động A Vương trên đường vào A Bia, A Sầu thì địch đổ quân ở động Cô Ác phía trước.Trung đoàn giao cho đại đội đặc công cùng với Đại đội 7 Tiểu đoàn 8 tiến hành trinh sát  nắm địch, chuẩn bị tập kích vào quân địch ở Cô Ác.
Cô Ác là một cứ điểm dã chiến của quân Mỹ ở tây Thừa Thiên. Là một dãy đồi mà Mỹ đã dùng máy bay ném bom phát quang và bom na-pan đốt cháy đen, trọc lóc. Lực lượng đi trinh sát gồm có anh Hào đại đội trưởng, tôi, các mũi trưởng và một tổ trinh sát. Đại đội 7 có anh Thỉ đại đội tưởng , anh Phan Văn Đân chính trị viên cùng ba  trung đội trưởng.
Đến vị trí tập kết, chúng tôi chia ra thành mấy bộ phận để đi trinh sát ở mấy hướng. Tôi cùng đi với anh Đân, anh Thịnh trung đội trưởng Đại đội 7cùng một chiến sĩ liên lạc. Trước khi tiếp cận vào mục tiêu, chúng tôi chọn một ngọn đồi đối diện cách cứ điểm Cô Ác khoảng 1.000 mét để đặt đài quan sát. Tìm được một vị trí thích hợp, giao cho anh Thịnh và một chiến sĩ liên lạc làm nhiệm vụ cảnh giới ở dưới, tôi và anh Đân trèo lên một cây cao để quan sát. Khi dứng trên ngọn cây cao, hai anh em nhìn vào cứ điểm Cô Ác rõ lắm. Vòng ngoài là hai lớp rào kẽm gai cánh bướm. Phía trong là những dãy nhà bán âm, căng dù lên trên. Sở chỉ huy ở trung tâm, cạnh đó là đài thông tin vì có cột ăng ten cao. Cách Sở chỉ huy khoảng 200 mét là trận địa pháo 4 khẩu. Chốc chốc lại bắn về phía xa. Mỗi khi pháo bắn, chúng tôi nhìn rõ cả khói và nghe tiếng nổ đầu nòng (đề-pa) rất to. Trong trận địa thấy lố nhố quân lính đi lại. Có lần liếc xuống dưới đất, tôi thấy anh Thịnh trung đội trưởng đang ngồi trải tấm bản đồ đặt địa bàn trên đó, hình như đang xác định tọa độ khu vực.
Tôi và anh Đân vừa quan sát vừa trao đổi về phương án phối hợp tác chiến giữa đặc công với bộ binh, thì bất thần mấy loạt tiểu liên bắn rất đanh ở ngay dưới gốc cây. Lúc đầu tôi nghĩ là súng anh Thịnh cướp cò. Ép mình vào cành cây to, khi tiếng súng đã im, tôi nhìn xuống thì anh Thịnh đã hy sinh nằm gục trên tấm bản đồ, mấy tên thám báo Mỹ đang bu quanh xì xồ, lục lọi. Anh Đân và tôi nói nhỏ với nhau, nếu cứ ở trên này thì khi nó ngước nhìn lên sẽ bắn xiên táo cả hai anh em. Chúng tôi quyết định thả lựu đạn xuống trước, rồi lao xuống thoát ra ngoài. Tức thì, 4 quả lựu đạn mỏ vịt cùng thả xuống một lúc. Lựu đạn nổ rất đanh, mảnh bay rào rào. Bị bất ngờ, bọn thám báo không kịp đối phó. Chúng tôi bám cành cây tụt  rất nhanh xuống đất. Khi cách mặt đất gần 5m, chúng tôi nhảy đại, liếc nhanh tôi thấy mấy tên thám báo Mỹ chết gục cạnh gốc cây. Anh Đân và tôi mỗi người một khẩu súng ngắn bắn đại mấy viên có tính chất uy hiếp, rồi chạy một mạch về khu vực tập kết.
Anh Phan Văn Đân sinh năm 1936 cùng là tuổi Tý, hơn tôi một giáp. Quê anh ở làng Võ Xá, xã Võ Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Kết thúc chiến tranh chống Mỹ, anh làm Chính ủy Trung đoàn; sau đó được bổ nhiệm Phó Sư đoàn trưởng về Chính trị Sư đoàn 324. Anh nghỉ hưu với quân hàm Đại tá. Bây giờ anh đã có chắt nội. Mấy lần gặp nhau ở Hà Nội, hai anh em xúc động kể lại chuyện xưa.
Ngày hôm sau, để nắm chắc địa hình và địch tình toàn bộ khu vực, chúng tôi tổ chức một bộ phận đi trinh sát một vòng tròn xung quanh cứ điểm động Cô Ác. Đồng thời, tiến hành tiềm nhập vào phía sau cứ diểm của địch. Thành phần trinh sát có tôi, anh Xuân mũi trưởng mũi 2, anh Hội trợ lý trinh sát Trung đoàn và một tổ trinh sát ba người do anh Dực làm tổ trưởng. Đề phòng thám báo tuần tra xung quanh cứ điểm, từ vị trí tập kết,chúng tôi cắt góc phương vị đi vòng ngoài khá xa. Xuất phát từ sáng sớm đến tối mịt chúng tôi dừng lại chọn hướng tiếp cận vào cứ điểm của địch. Ăn tối bằng lương khô xong, uống no nước suối, chúng tôi chia làm hai tổ đi tiềm nhập. Tổ một có tôi và anh Xuân và một chiến sĩ trinh sát. Tổ hai có anh Hội, anh Dự và hai chiến sĩ trinh sát. Mục tiêu được phân công là Sở chỉ huy và trận địa pháo của địch. Hẹn nhau cố gắng trinh sát xong trong đêm, rạng sáng mai sẽ hợp nhau về điểm xuất phát.
Đúng 9 giờ tối, ba anh em chúng tôi bắt đầu tiềm nhập. Phương pháp tiềm nhập là, qua từng đoạn một, giao cho chiến sĩ trinh sát làm nhiệm vụ cảnh giới, tôi và anh Xuân lần lượt chui qua bãi cây đổ ở vòng ngoài rồi qua lớp hàng rào kẽm gai lò xo. Đến 2 giờ sáng, chúng tôi  tiềm nhập vào được trận địa pháo của địch. Nhìn chếch lên phía trên là hầm thông tin và sở chỉ huy. Đối chiếu giữa thực địa và nhìn thấy từ ban ngày không khác bao nhiêu. Chúng tôi lần lượt quay ra theo đường cũ. Đến hơn 4 giờ sáng về tới nơi xuất phát. Trời mưa to, quần áo ướt sũng, nhưng chúng tôi mừng vì trời mưa sẽ xóa sạch các dấu vết tiềm nhập. Chúng tôi chờ khoảng 30 phút thì bộ phận anh Hội cũng về tới. Bên đó các anh cũng vào được gần sát sở chỉ huy.
Đề phòng gặp địch sẽ lộ hết bí mật, lần về chúng tôi lùi ra xa hơn và cắt đường về khu tập kết.  Nào ngờ, do xác định góc phương vị không chuẩn, đã vòng đi quá xa. Đi mãi hai ngày, lương khô mang theo đã hết, nhưng mở bản đồ xác định tọa độ vẫn cách vị trí tập kết khá xa. Bụng đói meo, chân chồn, gối mỏi, tôi cảm thấy bắt đầu hoa mắt. Dừng lại bên một con suối cạn, mấy anh em lần bắt được hơn chục  con cua đá, cứ thế xé ra ăn sống, ngon lắm, tỉnh ra, lại đi tiếp.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #26 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 01:31:27 pm »

 Đến trưa ngày thứ tư, chúng tôi về đến nơi tập kết. Anh Hào đại đội trưởng mừng rỡ ôm lấy tôi. Anh nói:
- Trời ơi, mấy hôm nay bọn mình nghĩ rằng các cậu đã rơi vào ổ phục kích và đã hy sinh hết cả rồi.
Tôi lả đi, chẳng nói gì, nhìn thấy mấy vắt cơm rất thèm, chực ăn. Thấy thế, cậu Long y tá nói:
- Thủ trưởng không được ăn nhiều cơm ngay, vì sợ bội thực mà chết.
Nói rồi, cậu ta bẻ nắm cơm ra cho chúng tôi ăn một ít, còn lại đem nấu cháo. Có lẽ trong đời tôi chưa bao giờ cảm thấy ăn cơm không mà ngon đến vậy. Ăn đến đâu biết đến đó và sức khỏe hồi phục dần. Mắt sáng ra, chân tay đỡ bủn rủn.
Ngày hôm sau chúng tôi trở về đơn vị, khớp lại thông tin kết quả trinh sát,  đắp sa bàn tổ chức hội nghị quân nhân, thông qua chi ủy và báo cáo cấp trên thông qua phương án chiến đấu. Phương án tác chiến là, dùng đại đội đặc công tập kích vào hai hưởng:  chỉ huy sở, trận địa pháo và đại đội bộ binh của địch. Đại đội 7 Tiểu đoàn 8 làm thê đội 2, sẵn sàng tiếp sức cho đại đội đặc công khi gặp khó khăn. Trong trường hợp đại đội đặc công đánh thắng giòn giã, thì Đại đội 7 sẽ tiếp quản trận địa do đại đội đặc công bàn giao lại.
5 giờ chiều ngày 10 tháng 3 năm 1969,  chúng tôi đã có mặt ở khu tập kết, kiểm tra lại toàn bộ công tác chuẩn bị. 8 giờ tối, các mũi bắt đầu tiếp cận để tiềm nhập mục tiêu. Thời gian nổ súng là 12 giờ đêm.
Tôi cùng đi với mũi 3 do anh Xuân làm mũi trưởng, anh Việt làm mũi phó. Muc tiêu được giao cho mũi 3 là đánh vào trận địa pháo và phát triển sang sở chỉ huy. Khi  cả mũi đã luồn  hết qua hàng rào kẽm gai, nhìn đồng hồ mới  hơn 11 giờ. Sợ vào sớm quá mà bị lộ thì gây khó khăn cho các mũi khác, tôi nói anh Xuân cho dừng lại. Dừng tại chỗ độ 10 phút, chúng tôi bò tiếp về phía trước, trời tối om, không một tiếng động, bốn bề lặng lẽ. Khi đã sát vào tới trận địa pháo, chúng tôi mới phát hiện ra không có một tên địch nào cả. Các dấu hiệu còn lại cho thấy khả năng chúng đã rút từ lúc chiều. Chiều nay khi có nhiều lượt trực thăng H34 đỗ xuống cứ điểm động Cô Ác, ở đài quan sát trinh sát lại nhận định là chúng đổ quân tăng cường, nào ngờ là rút quân. Lúc này đề phòng hai tình huống dễ xảy ra là: Hoặc là, bộ đội ta ở các hướng khác trong đêm không nhận ra nhau, tưởng là địch, sẽ bắn nhầm.  Hai là, địch biết ta đã vào trong cứ điểm, chúng dùng pháo bắn cấp tập. Thực tế ở chiến trường đã diễn ra một số trường hợp như vậy. Tôi điện đề nghị anh Hào cho các mũi rút ra ngay, theo đường cũ.
Trong chiến đấu, việc nắm chắc địch tình, địa hình và làm tốt các khâu chuẩn bị coi như thắng lợi được một nửa. Suốt mấy ngày trinh sát nắm địch, chuẩn bị chiến đấu, thu được những kết quả rất tốt, anh em mong muốn được ra quân đánh thắng trận đầu. Nhưng khi tiếp cận, chuẩn bị nổ súng thì không còn một mống địch, anh em trong đơn vị chưng hửng. Chúng tôi trở về khu tập kết tiếp nhận lại đồ đạc và hành quân tiếp về phía Nam. Sau mấy ngày hành quân, chúng tôi về đóng ở vùng A - Lê - Thiêm, A – Lê - Lốc sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới.
 Nhiệm vụ của Trung đoàn 3 Sư đoàn 324 lúc đó là  dùng Tiểu đoàn 8  chốt chặn đánh địch ở dãy núi ABia. Sau đó dùng lực lượng Tiểu đoàn 7 và Tiểu đoàn 9 tấn công vào quân địch ở thung lũng A Sầu phía tây dãy điểm cao A Bia, sát biên giới Việt – Lào, cách Huế khoảng 50 km về phía tây nam.
Đầu tháng 5 năm 1969, Tiểu đoàn 8 dưới sự chỉ huy của anh Nguyễn Văn Ninh tiểu đoàn trưởng và anh Lê Ngọc Mai chính trị viên tiểu đoàn, bằng công sự trận địa đã bố trí sẵn, trong điều kiện phi pháo rất ác liệt, đã liên tục giữ vững trận địa trong nhiều ngày, kiên cường dũng cảm đánh bật hàng chục đợt tấn công của quân Mỹ. Đại đội 6 là lực lượng chủ công của Tiểu đoàn 8 do anh Cao Thanh Giáo đại đội trưởng và anh Lê Văn Thi chính trị viên đã lập công xuất sắc.
Ngày 12 và ngày 13 tháng 5 năm 1969, dưới sự chỉ huy của Trung đoàn 3, Tiểu đoàn 7 do anh Tăng Văn Miêu tiểu đoàn trưởng và anh Trần Triền chính trị viên tiểu đoàn chỉ huy, cùng Tiểu đoàn 9 do anh Võ Vượng tiểu đoàn trưởng và anh Hồ Chư chính trị viên tiểu đoàn chỉ huy tấn công vào một đơn vị của Sư đoàn không vận số 101 Mỹ ở thung lũng A Sầu, phía tây cao điểm A Bia. Ta loại khỏi vòng chiến đấu gần 300 tên Mỹ, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, bẻ gãy nhiều đợt tiến công của quân ứng cứu. Lúc bấy giờ, quân Mỹ kinh hoàng gọi A Bia là đồi thịt băm (Hămbagiơ).
Sau Mậu thân, địch tăng cường càn quét bình định, gây không ít khó khăn cho cách mạng ở vùng đô thị, đồng bằng, kể cả vùng giáp ranh trên các chiến trường. Chiến thắng A Bia góp phần giữ vững hành lang chiến lược, thúc đẩy phong trào đánh dịch ở đồng bằng Thừa Thiên.
Phát huy chiến thắng của trận ABia, ngày 4 tháng 6 năm 1969 Bộ Tư lệnh Quân khu Trị Thiên Huế giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 3 đặc công của Quân khu được tăng cường Đại đội 20 đặc công của Trung đoàn 3, tiến hành trinh sát, nghiên cứu quân địch trong cứ điểm 817-Ta Tách và cứ diểm Ba Đu, Tà Bạt. Sau khi được anh Ma Vĩnh Lan trung đoàn trưởng và anh Kiều Tam Nguyên chính ủy trung đoàn giao nhiệm vụ, anh Nguyễn Duy Hào đại đội trưởng cùng tôi đến gặp anh Trần Duy Thị tiểu đoàn trưởng và anh Lê Văn Doãn chính trị viên Tiểu đoàn 3 để nhận nhiệm vụ cụ thể.
Tiểu đoàn 3 là đơn vị đặc công của Bộ được huấn luyện rất cơ bản, được điều vào Quân khu Trị Thiên. Mới vào chiến trường mấy tháng nhưng Tiểu đoàn 3 đã đánh thắng giòn giã trận Cô-Ca-Va, tiêu diệt một cứ điểm của quân Mỹ ở tây Thừa Thiên. Trận Cô-Ca-Va là một trận thắng có ý nghĩa lớn cả về quân sự và chính trị. Mở đầu cho một năm chiến đấu trong thời kỳ mới. Chấm dứt thời kỳ khó khăn sau Mậu Thân. Ngày đó, được chiến đấu trong đội hình của tiểu doàn 3, chúng tôi tin tưởng lắm. Tiểu đoàn trưởng là anh Trần Duy Thị, quê ở Cẩm Hòa, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh. (Sau này, anh Thị là Đại tá, Phó Tư lệnh Binh chủng Đặc công). Chính trị viên tiểu đoàn là anh Lê Văn Doãn, quê ở Thanh Hóa. Trong số cán bộ của Tiểu đoàn 3 ngày đó, có anh Lê Văn Hân là chính trị viên Đại đội 3. Mấy chục năm sau, anh Lê Văn Hân là Trung tướng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Nhiệm vụ của đại đội chúng tôi là chia làm hai bộ phận: Lực lượng chính của đại đội tham gia cùng Tiểu đoàn 3 do anh Thị tiểu đoàn trưởng chi huy đánh Ta Tách. Cử một mũi -mũi 3- do anh Trần Văn Thành làm mũi trưởng- tham gia với  Đại đội 1 của Tiểu đoàn 3, do anh Vân tiểu đoàn phó chỉ huy đánh vào  Ba Đu, Tà Bạt.
Ngày 6 tháng 6 năm 1969, Đoàn cán bộ đi trinh sát nghiên cứu địch ở Ta Tách lên đường do anh Thị và anh Doãn dẫn đầu. Anh Hào và tôi cùng năm anh mũi trưởng, ba chiến sĩ trinh sát tham gia đoàn. Chúng tôi vượt qua khu vực Kho 61 ở A Lưới, vượt qua thung lũng A Sầu,  cắt đường ô tô đi sâu vào phía động Ta Tách. Khi đến một khu rừng cách cao điểm Ta Tách chừng 5 km, có một con suối nhỏ, hai bên bờ có nhiều cây to, anh Thị cho đoàn dừng lại và chọn làm nơi tập kết.
 Buổi chiều hôm đó, trên đường đi, cánh trinh sát bắt được một con rùa, cả bộ phận chúng tôi chặt cây bông báng lấy lõi nấu với thịt rùa ăn rất ngon. Đang ăn, tôi chợt nghĩ, dân gian vẫn có câu:” gặp rắn thì đi, gặp qui trở lạị”. Gặp rùa mà lại ăn cả thịt rùa thế này, chắc là báo hiệu điềm không may sẽ xảy ra. Nghĩ vậy, nhưng tôi không dám nói ra. Bởi lẽ, với tư cách là cán bộ chủ trì về chính trị lúc đó, tôi sợ anh em đánh giá mình mê tín dị đoan, gieo rắc sự lo lắng, hoang mang ngay từ đầu cho mọi người. Khi thực hiện những công việc hệ trọng mà lại nguy hiểm nữa, thì trạng thái tâm lý cần được thoải mải, thanh thản, tự tin, tuyệt đối không ám ảnh, lởn vởn, vướng víu vào những điều  không cần thiết.
 Tối hôm đó, ngủ lại bên bờ suối, mở đài bán dẫn, tôi nghe tin thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam do ông Huỳnh Tấn Phát làm Chủ tịch. Chính phủ lâm thời là với Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch là nòng cốt cùng với Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam do Luật sư Trịnh Đình Thảo làm Chủ tịch lập ra. Đây là một sự kiện chính trị, đánh dấu bước phát triển mới trong phong trào Cách mạng ở Miền Nam. Là những người lính cầm súng chiến đấu trên chiến trường khi nghe tin này chúng tôi rất phấn khởi.
Theo thông báo của trên, tại Cao điểm 817 - Ta Tách lực lượng địch có một tiểu đoàn quân Mỹ thuộc Lữ đoàn 47 thủy quân lục chiến. Đây là một căn cứ được bố trí vững chắc. Ở ngoài cùng là hàng rào bằng cây đổ, tiếp đến là 3 hàng rào thép gai. Trong trận địa có hệ thống liên hoàn chiến hào, giao thông hào, ụ súng, lô cốt.
Trên cơ sở phân công trước, Đại đội 20 chúng tôi được giao nhiệm vụ tổ chức 3 mũi đánh vào mỏm B nơi địch bố trí trận địa pháo và một đại đội thủy quân lục chiến. Anh Hào và tôi thống nhất chia làm 3 tổ đi trinh sát ở 3 hướng. Hướng một do anh Hào đại đội trưởng phụ trách cùng với anh Ba mũi trưởng Mũi 1 tiếp cận vào phía Nam. Hướng hai do tôi phụ trách cùng với anh Ngãi mũi phó Mũi 4 (mũi trưởng Mũi 4 là anh Cao Hồng Nhụy bị ốm, anh Ngãi đi thay) tiếp cận vào phía Đông. Hướng ba do anh Xuân mũi trưởng Mũi 2 tiếp cận vào hướng Tây. Tổ trinh sát hướng đông gồm có tôi, anh Ngãi và cậu Phết - chiến sỹ trinh sát. Từ  trưa, xuất phát từ vị trí tập kết, chúng tôi cắt góc phương vị đi về phía đông. Đến 3 giờ chiều gặp một hang đá kiểu hàm ếch ở chân cao điểm 817, cách địch khoảng 2 km, chúng tôi chọn làm vị trí dừng chân. Từng người một thay nhau cảnh giới ở cửa hang, chúng tôi tranh thủ chợp mắt để tối đi tiềm nhập. Mục tiêu tiềm nhập là phải nắm được hệ thống chướng ngại vật, hệ thống công sự trận địa bố phòng và trận địa pháo của địch. Đến 6 giờ tối, sau khi ăn lương khô xong, bỏ lại các thứ lặt vặt, chúng tôi bắt đầu tiềm nhập vào đồn địch. Ngãi và Phết mang mỗi người một khẩu AK báng gấp, hai quả lựu đạn ,dao găm. Tôi mang một khẩu súng ngắn, hai quả lựu đạn, dao găm và một cái địa bàn. Từ ngoài, chúng tôi thực hành tiếp cận kiểu sâu đo. Nghĩa là, lần lượt từng người tiếp cận lên phía trước rồi dừng lại lợi dụng địa hình địa vật cảnh giới cho người sau tiến lên. Người sau lại tiến sâu hơn nữa rồi lại làm nhiệm vụ cảnh giới. Cứ thế, đến 7 giờ tối chúng tôi đến chân hàng rào đầu tiên. Bố trí cậu Phết trinh sát cảnh giới ở mép rào, tôi và Ngãi bắt đầu động tác dùng tay dò mìn, chống rào, rồi lại dùng tay do mìn  trong hàng rào để chui qua.
 Sau khi tôi và Ngãi đã qua được rào, làm nhiệm vụ cảnh giới cho Phết chui qua. Giữa hàng rào ngoài cùng với hàng rào thứ hai là một bãi trống với chiều sâu chừng 70 mét, trừ đường tuần tra, còn lại địch cài nhiều mìn sát thương và mìn chiếu sáng các loại. Ba anh em chúng tôi phải vừa dò gỡ mìn vừa trườn lên phía trước. Cứ thế mất gần một tiếng đồng hồ chúng tôi mới tới được hàng rào thứ hai. Cách tiếp cận giống như khi qua hàng rào thứ nhất. Nhưng khi mới đưa mình ra khỏi hàng rào, tôi nghe thấy trong đồn địch rú lên một hồi còi, tiếp đó là các loại súng của địch thi nhau bắn ra ngoài đạn bay chiu chít, có cả những viên đạn vạch đường đỏ lừ.
Ba anh em nằm sát mặt đất chỉ ghé mắt nhìn, nên không việc gì. Sự việc này chúng tôi đã lường trước. Theo qui luật, hàng đêm địch vẫn bắn súng báo động. Khi đi trinh sát, kể cả lúc tiềm nhập vào đánh, nếu không bình tĩnh, tưởng bị lộ mà phản ứng là rất nguy hiểm. Chừng 2 phút sau, tiếng súng im bặt, bốn bề lại vắng lặng. Khi chui qua hàng rào thứ 3, nhìn đồng hồ đã 2 giờ sáng, tôi ra hiệu cho Ngãi và Phết quay ra theo đường cũ. Khi ra, người bò sau cùng phải xóa hết dấu vết. Đến 5 giờ sáng, chúng tôi về đến hang đá. Tôi bàn với Ngãi và Phết là sẽ tiềm nhập tiếp đêm mai nữa mới có thể hoàn thành nhiệm vụ trinh sát, mục tiêu cuối cùng là phải vào tận trận địa pháo.
Hôm sau, anh em chúng tôi thay nhau ngủ ban ngày đến 6 giò tối lại đi tiềm nhập căn cứ địch. Đêm thứ hai vì đã biết trước, tốc độ tiềm nhập nhanh hơn. Đến 1 giờ sáng, chúng tôi vào được tận trận địa pháo, đặt được tay lên càng pháo, đếm được 4 khẩu rồi mới quay ra. Đêm thứ hai đi trinh sát, có hai điều mà sau này tôi vẫn kể cho anh em trong đơn vị nghe và suốt đời tôi không bao giờ quên. Đó là, khi mới rời trận địa pháo quay ra, để căn giờ, tôi nhìn đồng hồ nhưng trời tối đen không thấy gì ( hồi đó chúng tôi đang dùng đồng hồ Pôlzot của Liên Xô, không có dạ quang). Tôi lo trời sáng mà không ra kịp thì nguy. Chợt thấy một đốm lửa nhỏ gần đó thỉnh thoảng lại sáng hơn một ít, tôi nghĩ đó là một thân cây cháy dở, ở trên cao chốc chốc gió thổi làm sáng lên. Tôi vừa trườn vừa bò lại gần hơn để xem giờ. Nhưng khi lại gần sát thì thấy cây đen đó động đậy, tôi hú vía. Té ra đó là một thằng lính Mỹ da đen đứng gác, đang hút điếu thuốc lá xì gà loại to bằng ngón tay cái. Mỗi lần nó rít vào thì điếu thuốc đỏ rực lên. Tôi nhẹ nhàng quay lui.
 Khi ra đến hàng rào cuối cùng, thứ tự chui ra là, cậu Phết ra trước làm nhiệm vụ cảnh giới, tôi ra thứ hai, anh Ngãi ra sau cùng. Khi đã ra ngoài hàng rào, nhìn về phía đông trời đã gần hửng sáng, tôi ngoái lại thấy anh Ngãi đang nằm giữa hàng rào, trong tư thế quay đầu vào phía địch tay lăm lăm khẩu súng và cho chân ra trước. Đã cho chân ra trước thì tốc độ chậm lắm, hết vướng cái nọ sang vướng cái kia. Tôi phải gỡ cho anh Ngãi từng tý một.
Xưa nay, mọi việc ở đời người ta đã khái quát đầu có xuôi đuôi mới lọt, có lẽ xuất phát từ một một động tác cụ thể này đây. Thời gian càng trôi đi, trời sắp sáng đến nơi rồi mà anh Ngãi vẫn loay hoay trong hàng rào, tôi sốt ruột lo lắng vô cùng. Sợ nguy hiểm cho cả tổ một phần, nhưng đáng lo hơn là làm lộ, làm lỡ kế hoạch chung của toàn tiểu đoàn, nói rộng ra là toàn Mặt trận. Khi đã ra đến vị trí an toàn hơn, tôi nổi cáu hỏi Ngãi:
- Trời sắp sáng rồi. Ông điên hay sao mà lại chui ngược thế ?
          Ngãi phân trần :
           - Anh không hiểu. Khi Phết và anh ra thì tôi làm nhiệm vụ cảnh giới. Các anh ra cả rồi, mỗi mình tôi ra sau phải quay lại tự cảnh giới cho mình và còn phải xóa dấu vết nữa chứ. Nhỡ đang chui rào mà có một tốp lính địch đi tuần phát hiện được thì sao? Nó đến lôi mình ra như lôi con cá mắc lưới ấy chứ!
           Nghe anh Ngãi nói, thấy có lý, chúng tôi cùng cười. Sau này về hậu cứ huấn luyện, tôi vẫn hay đùa với anh em trong đơn vị là khi đi trinh sát cần phải học thêm khoản chui rào ngược, đặt tên là chui rào kiểu ông Ngãi.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #27 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 01:32:48 pm »

 Sau ba ngày đi trinh sát, chúng tôi quay về khu vực tập kết để báo cáo. Nhìn thấy anh Lộc đại đội trưởng Đại đội 2 quấn khăn trắng ngang đầu, tôi hỏi vì sao. Anh Lộc trả lời khi nó bắn súng báo động, anh ấy cố nghển đầu lên nhìn để định vị các hỏa điểm, không may dính một viên xẹt qua đầu, may chỉ là phần mềm.
Tôi hội ý với anh Hào trước khi báo cáo tiểu đoàn. Kết quả hướng một tiếp cận ở phía nam, hướng 2 tiếp cận ở phía đông đạt kết quả tốt. Riêng hướng tây, tổ trinh sát của anh Xuân mới vào được hàng rào thứ hai, chưa vào được tận trong cùng trận địa. Vì vậy, khi nghe báo cáo, anh Thị tiểu đoàn trưởng đã yêu cầu cần trinh sát thêm. Anh Hào phân công tôi cùng đi lại hướng tây với anh Xuân một lần nữa mới bảo đảm chắc chắn. Thế là tôi, anh Xuân mũi trưởng mũi 2 và hai trinh sát lại lên đường.
Trong chiến đấu đặc công, việc vào cứ điểm địch để trinh sát (điều nghiên) chẳng khác một trận đánh, nhiều lúc còn căng thẳng hơn. Trong chiến đấu còn có lực lượng và hỏa lực trong tay để tiêu diệt địch. Còn đi trinh sát vào trong đồn địch chỉ có ba, bốn anh em, vũ khí gọn nhẹ, chủ yếu là để tự vệ lúc cần thiết. Và mỗi trận đánh, để đảm bảo chắc thắng, có khi phải vào căn cứ trinh sát nhiều lần. Trong điều kiện địch bố phòng bằng nhiều lớp hàng rào, nhiều bãi mìn các loại, nhiều vọng gác, nhiều lần tuần tra, việc một tổ trinh sát vào tận trung tâm địch, đòi hỏi phải có quyết tâm cao, dũng cảm và mưu trí.
Tối hôm thứ nhất, sau khi đã qua được hai hàng rào, đến hàng rào thứ ba, giao cho trinh sát cảnh giới, tôi và anh Xuân luồn qua, mới đến giữa hàng rào thì bất ngờ có một tốp lính đi tuần, chúng tôi nằm bất động chờ chúng đi qua để trườn tiếp. Nằm được mấy phút, không hiểu sao, tôi buồn ngủ đến lạ lùng và thiếp đi. Đến khi anh Xuân dùng tay cấu nhẹ, tôi mới giật mình tỉnh giấc, suýt nữa thì bật nên lời. Trong chiến đấu, tôi thường có tật rất buồn ngủ trong 3 trường hợp: Khi ngồi trong hầm nghe pháo bắn cầm canh; khi ngồi phục kích địch; và khi tiềm nhập vào đồn địch. Nói ra có người không tin, nhưng đó là sự thật. Chẳng phải tôi bình tĩnh đến mức đó đâu. Theo tôi, có thể do căng thẳng quá, thần kinh tôi không chịu nổi, đã chùng xuống quá ngưỡng, gây buồn ngủ.
Đêm đó chúng tôi vào được trung tâm trận địa địch rồi quay ra an toàn.
Sau khi trinh sát xong, cả đoàn cán bộ quay về hậu cứ ở A-Lê-Thiêm báo cáo  cấp trên và làm các công tác chuẩn bị. Hôm thông qua kế hoạch tác chiến trên sa bàn do anh Chu Phương Đới, Tư lệnh sư đoàn chủ trì. Tham dự còn có anh Thái Cán, Tham mưu trưởng Sư đoàn và cán bộ các cơ quan Quân khu, Sư đoàn, Trung đoàn. Sau khi nghe anh Trần Duy Thị, Tiểu đoàn trưởng báo cáo, các cơ quan thay nhau phát biểu khá sôi nổi.
 Trước khi kết luận và giao nhiệm vụ, anh Chu Phương Đới nói :
- Từ sáng đến giờ chúng ta mới chỉ nghe các đồng chí đại diện các cơ quan phát biểu. Tốt thôi. Nhưng đó đều là ý kiến tư vấn của những người không trực tiếp đánh nhau. Bây giờ chúng tôi cần nghe chính kiến của mấy đồng chí cán bộ phân đội – là những người  trực tiếp chi huy chiến đấu. Sự thành bại của trận đánh do kết quả thực hành chiến đấu của bộ đội ở cơ sở. Nào, tiểu đoàn 3 đã trình bày rồi, đến lượt cán bộ  Đại đội 20 phát biểu đi.
 Anh Hào giao tôi phát biểu. Tôi nói là:
           - Báo cáo Tư lệnh Sư đoàn, Đại đội 20 chúng tôi nhất trí hoàn toàn về phương án tác chiến của toàn tiểu đoàn, do anh Thị tiểu đoàn trưởng trình bày. Riêng ở hướng thứ yếu, chúng tôi đã tiềm nhập vào cả 3 phía của mỏm B, thấy rằng, nếu bộ đội tiềm nhập tốt, khả năng mật tập có thể giành thắng lợi lớn. Còn khi bị lộ mà phải cường tập thì rất khó khăn, vì ở đó có tới 3 lớp hàng rào thép gai và một hàng rào cây đổ. Hơn nữa địa hinh ở ngoài vào rất dốc, hỏa lực địch dễ phát huy tác dụng.
           Tôi vừa trình bày xong, anh Chu Phương Đới nói ngay:
- Đồng chí Đẩu nói đúng đấy. Phải mật tập chứ. Cường tập là vạn bất đắc dĩ thôi.
Sau phần thảo luận, Tư lệnh sư đoàn kết luận giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 3 và Đại đội 20. Theo đó, Tiểu đoàn 3 được tăng cường Đại đội 20 có nhiệm vụ tập kích, đánh tiêu diệt tiểu đoàn thủy quân lục chiến Mỹ, phá hủy toàn bộ trận địa pháo. Phân công nhiệm vụ cụ thể là: Tiểu đoàn 3 đảm nhận hướng chủ yếu đánh vào Sở Chỉ huy, 2 đại đội thủy quân lục chiến Mỹ. Đại đội 20 đảm nhận hướng thứ yếu, đánh vào trận địa pháo và 1 đại đội thủy quân lục chiến Mỹ.
Anh Chu Phương Đới, dân tộc Tày, quê ở xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, có 8 năm liền làm Tư lệnh Sư đoàn 324 trong kháng chiến chống Mỹ. Sau này anh là Thiếu tướng, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Lào (BTL 678). Năm 2006,  anh Đới từ Cao Bằng về điều trị ở Viện Y học dân tộc quân đội ở Hà Nội, biết tin tôi đến thăm, anh em ôn lại thời kỳ chiến đấu ở chiến trường Trị Thiên ác liệt, khó khăn.
Sau khi nhận nhiệm vụ, chúng tôi tổ chức hội nghị quân nhân, họp chi ủy, chi bộ để quán triệt và bàn biện pháp triển khai thực hiện cụ thể. Ngoài việc thảo luận trên sa bàn, chúng tôi còn làm thao trường mô phỏng, có hàng rào, lô cốt, chiến hào, trận địa pháo để  luyện tập. Khí thế đơn vị hăng hái lắm. Anh em tin tưởng và có quyết tâm cao. Trận này, do anh Dung bị sốt cao, đi tiểu ra máu, anh Chúng bị tái phát vết thương ở đầu gối, vì còn mảnh đạn, nên không tham gia được. Bởi thế, trong Ban chỉ huy đã phân công: Anh Hào, đại đội trưởng đi cùng Mũi 1 do anh Ba làm mũi trưởng đánh vào hướng nam. Tôi với cương vị  phụ trách chính trị viên đại đội đi với Mũi 2 do anh Xuân làm mũi trưởng đánh vào hướng tây. Còn  hướng đông do anh Nhụy mũi trưởng cùng anh Ngãi mũi phó  Mũi 4 chỉ huy, không có cán bộ đại đội đi cùng.
3 giờ chiều ngày 16 tháng 6 năm 1969, chúng tôi xuất phát từ hậu cứ hành quân vào chân động Ta Tách, cùng đi còn có anh Nguyễn Văn Thuận, quê ở Hương Khê, Hà Tĩnh, chủ nhiệm trinh sát Trung đoàn. Đến 6 giờ tối, khi đã qua thung lũng A Sầu, bộ phận đi đầu vướng mìn nổ, 3 người hy sinh tại chỗ gồm: anh Thuận chủ nhiệm trinh sát, anh Ba mũi trưởng Mũi 1 quê ở xã Đức Phong, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh và một chiến sĩ. Cậu Nguyễn Văn Lợi quê ở nhà số 10, Ngô Gia Tự, thị trấn Từ Sơn, Bắc Ninh bị thương nặng khiêng được một quãng ngắn thì hy sinh. Đây là một tổn thất khi chưa bước vào chiến đấu. Sau khi an táng cho anh em xong, chúng tôi giao cho anh Thỏa mũi phó thay thế anh Ba chỉ huy Mũi 1. Cả đại đội  tiếp tục đi vào vị trí tập kết và chuẩn bị  mọi mặt theo kế hoạch chiến đấu.
7 giờ tối ngày 17 tháng 6 năm 1969, rời vị trí tập kết, tôi cùng Mũi 2 bắt đầu tiềm nhập vào phía đồn địch. Lực lượng Mũi 2 có anh Trần Viết Xuân mũi trưởng, anh Nguyễn Quốc Việt mũi phó và 3 tổ, mỗi tổ có 5 người.  Đến 8 giờ tối cả Mũi 2 đã đến mép ngoài hàng rào cây đổ. 12 giờ30 đêm chúng tôi đã luồn qua hàng rào thứ nhất. Theo kế hoạch là tất cả các mũi trong toàn tiểu đoàn sẽ nổ súng vào lúc 1giờ30 phút sáng. Hiệu lệnh nổ súng là quả bộc phá của Đại đội 2 đánh vào sở chi huy tiểu đoàn địch. Nhưng bất ngờ lúc 1 giờ 5 phút, tôi nghe tiếng súng nổ giòn giã ở phía đại đội 2. Anh Xuân nói nhỏ với tôi, chắc là hướng chủ yếu bị lộ mất rồi anh ạ. Tôi bảo, hãy dừng lại, bình tĩnh nghe ngóng xem sao. Độ 10 phút sau, một tiếng nổ rất to ở trung tâm, chắc đó là quả bộc phá lệnh. Cùng lúc tiếng B40, B41, tiếng  bộc phá của bộ đội ta nổ rền cả ở mỏm A và mỏm B. Tất cả các hỏa điểm trong mỏm B đồn địch đồng loạt nhả đạn ra phía chúng tôi. Cối 81 ly, súng phóng lựu M79, ĐKZ, súng chống tăng của địch bắn cấp tập ra ngoài hàng rào. Lúc này yếu tố bí mật không còn nữa. Máy thông tin 2 oát bị hỏng, không liên lạc được với tiểu đoàn. Tình huống lúc này buộc chúng tôi phải chọn lựa một trong hai cách: Hoặc là, cường tập vượt qua hàng rào trong cùng, rồi tiến đánh các mục tiêu theo phân công. Nhưng khoảng cách tới được mục tiêu còn khá xa, địa hình dốc, lại còn phải băng qua 2 lớp hàng rào, bãi mìn, dưới làn đạn dày đặc của địch, thương vong sẽ nhiều, khả năng tiến sát để đánh địch là rất khó. Hoặc là, nhanh chóng tổ chức bắn yểm trợ và cho anh em rút ra ngoài. Kinh nghiệm cho thấy, trong tình huống này, người chỉ huy phải quyết đoán  nhanh, dứt khoát. Nếu ngập ngừng hoặc phủ phục tại chỗ để chờ cơ hội là rất nguy hiểm. Anh Xuân nói nhanh với tôi: “ Xin anh cho dùng hai khẩu B41 phóng mấy quả vào mấy hỏa điểm để anh em rút ra”. Tôi cho rằng, không còn cách gì khác, lao lên cường tập thì cũng không đánh chiếm được mục tiêu, mà sẽ thương vong hết. Thôi đành vậy. Tôi đồng ý với đề nghị của anh Xuân. Đây là một quyết định ám ảnh cả đời tôi. Là người chủ trì cao nhất lúc đó, tôi dám chịu trách nhiệm và sẵn sàng nhận kỷ luật của cấp trên về quyết định của mình. Có thể, có người cho là quyết định rút lui trong trường hợp đó là do dao động ý chí chiến đấu. Sợ chết ư? Đúng! làm người ai mà chẳng sợ chết. Song, một khi đã ý thức được chết cho ai, vì cái gì, đem lại cái gì, thì con người ta lại sẵn sàng đón nhận cái chết về mình một cách thanh thản. Thực ra, đã vào chiến trường bao nhiêu năm, chiến đấu bao nhiêu trận rồi, thì coi việc vào sinh ra tử như một lẽ tự nhiên. Nhưng, bao giờ cũng vậy, lòng quả cảm không đồng nghĩa với sự liều lĩnh. Gần hai chục mạng người lao vào chắc chắn là hy sinh cả, mà cuối cùng cũng chẳng giải quyết được gì, thậm chí chẳng diệt nổi một tên địch.
 Nhiều năm sau này, tôi về Thái Bình họp mặt một số lần với anh em cùng Đại đội 20 đặc công thuở đó: Tạ Ngọc Dũng quê ở xã Nam Cường, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình; Trần Quang Bình quê ở xã Hồng Tiến, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình; Bùi Văn Tường và Bùi Văn Ký quê ở xã Nam Hưng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình; Lê Văn Thảo quê ở Phường Nam Ngạn, thành phố Thanh Hóa; Nguyễn Viết Hiền quê ở xã Xuân Bắc, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định; Mai Sĩ Thanh quê ở thành phố Thanh Hóa; Nguyễn Văn Tiên quê ở xã Tây Phong, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình; Trần Văn Tảo quê ở xã Nam Cường, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, Nguyễn Văn Quân quê ở xã Bình Định, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình,…Mọi người nay đã trên dưới sáu mươi tuổi, thành ông nội, ông ngọai cả rồi. Anh em đều nói với tôi : “ Đêm hôm đó nếu anh không ra lệnh bắn yểm trợ và rút ra ngay, mà cứ đánh thốc vào hoặc lừng khừng, ngập ngừng ở giữa các lớp rào thì rồi cũng chẳng giải quyết được gì. Điều chắc chắn là toàn bộ anh em chúng ta sẽ chết hết như Mũi 4 của anh Nhụy cả rồi”. Nghe xong, tôi chẳng nói gì, lòng ngậm ngùi nhớ về gương mặt phúc hậu của anh Cao Hồng Nhụy và những anh em Mũi 4 thuộc Đại đội 20 đặc công ngày đó.
Sau khi ra khỏi hàng rào cuối cùng, pháo địch bắn phá dữ dội xung quanh cao điểm. Điều đặc biệt là, ở bên ngoài hàng rào độ 100 mét, địch đã đặt sẵn nhiều thùng chất độc hóa học. Khi pháo bắn trúng vào đó, chất độc bung ra trở thành một hàng rào chất độc. Mọi người bị cay sặc. Chúng tôi phải cởi áo ra, lấy nước tiểu của mình thấm vào và đặt lên mũi để vượt qua khu vực chất độc mờ mịt, ngột ngạt. Không biết sau này trong số đó có ai bị nhiễm chất độc hóa học của Mỹ hay không.
Khi chúng tôi về đến vị trí tập kết, thì Mũi 1 do anh Hào chỉ huy cũng vừa  về. Tôi báo cáo với anh Hào, thì anh Hào nói bên đó tình hình cũng giống như hướng chúng tôi. Chờ đến trưa không thấy Mũi 4 của anh Nhụy trở về, chúng tôi bắt đầu lo lắng. Trước khi  đưa anh em về hậu cứ, tôi và anh Hào trèo lên đài quan sát để nhìn lại vào trong căn cứ địch. Qua ống nhòm, chúng tôi thấy trong đó nhiều nơi vẫn còn khói lửa âm ỷ cháy. Một chiếc trực thăng đang nổ máy tại chỗ, lố nhố mấy tên Mỹ đang áp giải một số chiến sỹ ta (chắc là đã bị thương) bị địch bắt đưa lên máy bay. Chúng tôi nhận định là, Mũi 4 đánh vào bị mắc kẹt trong căn cứ, hy sinh gần hết, còn một ít bị thương rồi bị địch bắt. Thương xót anh em vô cùng mà chẳng biết làm sao.
Hôm sau, tôi hỏi lại anh Lộc đại đội trưởng Đại đội 2 – mũi chủ yếu, tại sao ở phía bên này, chúng tôi nghe súng nổ khoảng 10 phút rồi bộc phá lệnh mới nổ và kết quả ở hướng chủ yếu thế nào. Anh Lộc cho biết là, khi đang tiềm nhập qua hàng rào cuối cùng, thì bất thần các loại súng trong đồn bắn ra rất mạnh, tổ mũi nhọn  3 người hy sinh hết, chi ủy Đại đội 2 trao đổi chớp nhoáng với nhau là địch bắn báo động theo qui luật chứ không phải bị lộ, và cử người khác thay thế tổ mũi nhọn để tiếp cận vào đánh. Khi cả mũi đã lọt qua hàng rào, thì bất ngờ một tốp lính Mỹ đi tuần. Anh Lộc cho anh em dùng AK bắn liền mấy loạt. Mấy tên Mỹ chết gục tại chỗ,  số còn lại chạy thục mạng vào trong. Mấy phút  sau, tổ mũi nhọn  mới lao lên đánh vào hầm chỉ huy và các mục tiêu lân cận. Do bị thương vong cả khi tiềm nhập và cả khi đánh vào trong, mũi chủ yếu không đủ lực lượng đánh tiếp, đành phải rút. Anh Lộc mặc dù đã bị thương vào chân, vẫn cố dìu được thương binh khác đưa ra ngoài. Ở các hướng khác đều phát triển không thuận lợi.
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #28 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 01:33:03 pm »

Như vậy là, trận tấn công quân địch ở Cao điểm 817 - Ta Tách đã không giải quyết dứt điểm được. Chỉ đánh thiệt hại một bộ phận, tiêu hao một số sinh lực, phá hủy một số công sự và phương tiện của địch. Về phía ta bị thương vong tương đối lớn. Riêng Đại đội 20 chúng tôi bị mất toàn bộ mũi 4. Trước đó, trong trận Ba Đu,Tà Bạt do anh Vân chỉ huy cũng đã bị “phơi áo” anh em thương vong nhiều, không hoàn thành nhiệm vụ. Cả mũi 3 của Đại đội 20 chúng tôi tham gia trận đó do anh Thành mũi trưởng chỉ huy đều bị hy sinh hết.
Cả đơn vị về hậu cứ, một không khí buồn bã, u uất, nặng nề bao trùm lên toàn thể cán bộ, chiến sĩ. Quân số đại đội có 85 người thì 30 người hy sinh, 25 người bị thương. Tinh thần chiến đấu của anh em bị giảm sút, thiếu tin tưởng vào cách đánh đặc công. Thêm vào đó, lương thực thiếu thốn, mỗi người mỗi ngày chỉ được 2 lạng gạo, còn lại phải ăn sắn, muối ăn cũng khan hiếm, đời sống khó khăn. Nội bộ đơn vị xuất hiện tình hình mất đoàn kết.
Tôi nhớ lúc họp rút kinh nghiệm ở Trung đoàn, anh Đinh Minh Chúng đại đội phó đã phê phán gay gắt và còn văng tục. Không giữ được bình tĩnh, tôi nổi cáu:
 - Này ông Chúng, ông nói gì thế? Ông dũng cảm, giỏi giang, nhưng khi anh em đi trinh sát trong căn cứ địch và đi đánh, thì ông lại ngồi ở hậu cứ, để bây giờ ông phán. Nói sau bao giờ chả đúng! Còn việc ông nói tục, nói bậy là không xong với tôi đâu. Nói nữa là tôi bạt tai ông đấy.
Chúng cũng chẳng vừa, mặt đỏ tía tai, mắt trợn trừng, quát lớn:
         - Tôi nói thế đấy, ai làm gì nào. Tôi không đi được là do vết thương tái phát chứ. Bao nhiêu đồng đội hy sinh vì chỉ huy kém cỏi, liều lĩnh. Còn ông Đẩu làm chính trị viên mà dọa đánh tôi hở. Được thôi. Có giỏi thì đánh đi. Ông được 10 phần thì tôi cũng được 8 chứ, sợ gì ông…
         Không chờ Chúng nói hết câu, tôi lao vào giáng cho Chúng mấy quả đấm. Chúng vừa chống đỡ, vừa hét toáng lên:
- Anh em ơi, ông Đẩu chính trị viên đánh tôi.
          Tôi hăng máu vừa đánh vừa nói to:
        - Nhân danh những người đã hy sinh và những người đang sống, tôi phải trị ông. Đây là thằng Đẩu đánh thằng Chúng, bạn nó, vì nó nói bậy, chứ chẳng có chính trị gì ở đây cả.
 Mấy anh em chạy lại can, đưa mỗi người ra một góc. Sau đó, tự mình, chúng tôi biết là sai nên ân hận. Đây là biểu hiện điều bức xúc trước sự tổn thất của đơn vị, thương xót những những đồng đội đã hy sinh. Chứ thực ra giữa tôi và Chúng chẳng có thù oán gì, thậm chí chơi thân với nhau từ khi cùng chiến đấu với nhau ở Tiểu đoàn 929. Ngày hôm sau, anh Lê Văn Dánh phó chính ủy Trung đoàn - vốn là thủ trưởng cũ của chúng tôi khi còn ở Tiểu đoàn 929- cho gọi tôi và Chúng lên. Vừa nhìn thấy chúng tôi bước vào, anh Dánh trừng mắt quát lớn:
- Thế nào hai ông? Các ông đẹp mặt quá nhỉ. Cán bộ đại đội đánh nhau. Từ khi tôi vào bộ đội đến bây giờ chưa thấy ai thế bao giờ. Trẻ con quá đấy. Đã hai mốt, hai hai tuổi rồi. Là lính Tiểu đoàn 929 với nhau, tôi thật xấu hổ về các ông.
 Ngừng một lát, không cho chúng tôi kịp phân trần, anh Dánh nói luôn:
- Thôi! Không nói gì cả. Có lỗi thì sửa. Tôi thông cảm cho hành động nóng nẩy, bột phát, thiếu suy nghĩ của các ông. Bây giờ về đơn vị, hai ông phải cùng nhau chung sức, chung lòng xây dựng đơn vị. Sau này nếu còn tiếp diễn cảnh đó là không xong đâu nhé. Sẽ kỷ luật nặng đấy. Thôi ! có mấy bánh lương khô đây, vào ăn đi rồi mà về.
 
Logged

quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #29 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2015, 01:34:15 pm »

  Cả hai chúng tôi ra về sau cái bắt tay xiết chặt, nồng ấm, chân thành của anh Dánh. Cách của anh Dánh là vậy. Ở với nhau bao nhiêu năm rồi, anh hiểu chúng tôi và chúng tôi cũng rất hiểu anh. Anh là mẫu cán bộ chính trị của công việc, luôn luôn bám sát thực tế chiến đấu, gương mẫu, miệng nói tay làm. Trong lãnh đạo, anh không nhiều lời giải thích dài dòng. Anh đề cập mọi vấn đề một cách trực diện, thẳng thắn, chính kiến rõ ràng, hiệu quả.
Sau trận đánh Ta Tách và Tà Bạt, đại đội chúng tôi được giao tập kích quân địch ở cao điểm 354. Ở trận này, sau khi trinh sát kỹ, nắm rất chắc việc bố phòng của địch, Ban Chỉ huy đại đội quyết định chỉ dùng có 11 chiến sỹ do anh Bùi Công Tiếp mũi trưởng chỉ huy. Trận đánh nhanh gọn hiệu suất chiến đấu cao. Ta đánh thiệt hại nặng một đại đội quân Mỹ. Phía ta hy sinh một người là Phạm Xuân Khu, xạ thủ B40, quê ở xã Bình Định, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Sau này đã có lần tôi đến nhà thăm bố mẹ Khu và thắp hương cho Khu.
Trong trận này có tình huống:  Khi cả tổ đã tiềm nhập vào bên trong cứ điểm địch, thì có một tên Mỹ lao ra bế xốc tổ trưởng Nguyễn Viết Hiền và quật xuống. Quá bất ngờ, tên Mỹ thì cao to, Hiền thì nhỏ con không làm sao gượng lại được. Loay hoay mất gần 1 phút, Hiền rút được một quả thủ pháo, đưa tay ra phía sau lưng tên Mỹ, giật nụ xòe. Nụ xòe kêu đánh tách, lửa phụt ra, tên Mỹ hoảng quá buông Hiền bỏ chạy.  Ngay tức khắc, Hiền ném quả thủ pháo, tên Mỹ bị chết tại chỗ. Vì quả thủ pháo nổ quá gần, Hiền bị thương vào mắt. Hiền vốn là liên lạc của tôi mới đưa xuống làm tổ trưởng.
Khi về tới vị trí tập kết, tôi hỏi Hiền:
 - Làm sao không cho tên Mỹ ấy một nhát dao có gọn hơn không?
 Hiền nhỏ nhẹ trả lời:
- Thủ trưởng ạ, nó ôm ghì em chặt lắm không cựa quậy nổi, may mà thò tay rút được quả thủ pháo, nghĩ rằng, sẽ cùng chết chung với nó. Ai ngờ, nó hoảng quá buông ra, em ném luôn vào chân.
Nguyễn Viết Hiền quê ở xã Xuân Bắc, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Hiện nay là thương binh ở quê. Năm 2003, tôi đã về quê thăm gia đình Hiền.
Giữa năm 1969, đơn vị chúng tôi hoạt động bám trụ chiến trường ở vùng núi tây Thừa Thiên. Lúc này đời sống khó khăn, gian khổ lắm. Đang giữa mùa mưa, thời tiết ở rừng nặng nề. Từ sáng sớm đến chiều tối mưa dai dẳng, cả ngày trời tối xầm. Lương thực thiếu thốn, mỗi người mỗi ngày chỉ có 2 lạng gạo. Phải độn thêm ngô, sắn, chêm thêm măng, các loại rau tàu bay, môn thục, dương xỉ và cả đọt lá sắn nữa mới đủ no. Thực phẩm không có. Muối ăn cũng rất thiếu. Anh em trong đơn vị sốt rét nhiều. Tôi bị sốt rét mấy ngày liền, không ăn uống gì được, người gầy xọp đi.
Giữa lúc đó, Đài Tiếng nói Việt Nam bất ngờ thông báo về tình hình sức khỏe của  Bác Hồ. Mãi đến bây giờ, tôi vẫn không thể quên được giọng đọc trầm buồn, xúc động, nghiêm trang của người phát thanh viên trên Đài Tiếng nói Việt Nam ngày đó. Ai nấy đều dừng tất cả mọi công việc, chăm chú, lo lắng, hồi hộp lắng nghe. Rồi tiếp đến, chúng tôi đau đớn bàng hoàng nghe tin Bác Hồ từ trần. Mọi người chúng tôi đều khóc. Một không khí đau thương trùm lên toàn đơn vị. Theo thông báo của trung đoàn, chúng tôi tổ chức Lễ truy điệu Bác vào ngày 9 tháng 9, đúng với giờ Đài Tiếng nói Việt Nam tường thuật Lễ truy điệu ở Quảng trường Ba Đình Hà Nội.
Đang lên cơn sốt rét, mặt đỏ phừng, chân đi không vững, trời lại đang mưa tầm tã, cậu Long y tá đại đội đưa tôi uống mấy viên Vitamin B1 rồi khoác tấm ni lông dìu tôi ra hội trường đại đội. Đó là một cái hầm lộ thiên rộng, có hào râu tôm thông ra xung quanh. Anh em đã làm một bàn thờ Bác, không có ảnh, không hương hoa. Đúng giờ, theo tiếng hô của anh Trần Viết Xuân đại đội phó, cả đại đội gần trăm con người ngẹn ngào đứng dậy trang nghiêm mặc niệm Bác. Mặc niệm xong, anh Xuân giới thiệu tôi lên phát biểu. Tôi bước lên bục nói vo không giấy tờ nhưng đủ ý và xúc động. Bằng nhận thức và tình cảm của mình, tôi nói ngắn, đại ý là: Khái quát về thân thế, sự nghiệp và công lao vĩ đại của Bác Hồ đối với dân tộc Việt Nam. Bác Hồ mất đi là một tổn thất vô cùng to lớn, không có gì bù đắp được đối với nhân dân và cách mạng, để lại cho chúng ta sự tiếc thương vô hạn. Để xứng đáng với lòng mong muốn của Bác, chúng ta - những người lính trực tiếp cầm súng chiên đấu trên chiến trường - nguyện vượt qua mọi khó khăn, ác liệt, hy sinh, tiếp tục quyết tâm chiến đấu giành thắng lợi lớn hơn, tiến tới thắng lợi cuối cùng. Sau phát biểu của tôi, theo chương trình, một cán bộ và một đảng viên trẻ lên phát biểu cảm tưởng và hứa quyết tâm. Cả hai người đều nói ngắn nhưng rất tình cảm và rất đúng. Đó là những lời nói mộc mạc, dung dị nhưng rất chân thành, được chắt ra, thốt lên tự đáy lòng.                                                        
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM