Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 10:57:54 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân  (Đọc 56086 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #20 vào lúc: 06 Tháng Hai, 2015, 07:32:18 pm »

Danh sách cán bộ đại đội và trung đội
của Đội đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đầu tiên


Cán bộ đại đội:   
Hoàng Sâm: Đại đội trưởng,
Xích Thắng: Chính trị viên,
Hoàng Văn Thái: Tình báo và kế hoạch,
Lâm Kính: Công tác chính trị,
Văn Tiên: Quản lý.

Trung đội 1:
Nam Tuấn: Trung đội trưởng,
Vũ Lập: Chính trị viên,
Bế Văn Sắt: Trung đội phó.

Trung đội 2:
Đàm Quốc Chủng: Trung đội trưởng,
Nam Long: Chính trị viên (lúc ban đầu),
Mai Trung Lâm: Chính trị viên (lúc sau này).
Bế Sơn Cương: Trung đội phó.

Trung đội 3:
Đàm Quang Trung: Trung đội trưởng,
Hoàng Thịnh: Chính trị viên,
Mông Phúc Thơ: Trung đội phó (lúc ban đầu),
Đào Mạnh Vy: Trung đội phó (lúc sau này).

Trung đội 4:
Lĩnh Thành: Trung đội trưởng,
Nam Long: Chính trị viên,
Nông Quổc Sùng: Trung đội phó.


Về vũ khí, với số súng đạn thu được sau hai trận Phai Khắt, Nà Ngần, nay Đội có đủ vũ khí trang bị cho từng người và đặc biệt là đã có hai khẩu trung liên, về đạn thì còn thiếu nhiều. Súng trường mỗi khẩu chỉ có 50-60 viên, trung liên chỉ có vài băng thu được của địch. Lựu đạn mỗi người chỉ được phát hai quả hoặc là lựu đạn chày của Trung Quốc, hoặc là lựu đạn của Pháp. Trong thời gian bổ sung phát triển, Đội đã tiến hành đợt chấn chỉnh ngắn ngày.


Sau khi biên chế thành đại đội và các trung đội, các đội viên được huấn luyện về quân sự. Chương trình luyện tập có: cảnh giới trinh sát, tập bắn súng, lợi dụng địa hình, địa vật, cách tổ chức hành quân, trú quân, chiến thuật du kích, chiến thuật tập kích, phục kích; các đội hình hành quân và chiến đấu tiểu đội, trung đội... Các học viên còn được nghiên cứu cách sử dụng các loại vũ khí mới thu được, nghe giới thiệu về kinh nghiệm đánh du kích của Hồng quân Liên Xô, Trung Quốc, du kích Nam Tư... Đồng thời, Đội tổ chức kiểm điểm rút kinh nghiệm hai trận đánh ở Phai Khắt và Nà Ngần để thiết thực chuẩn bị cho các trận đánh sau.


Với việc thành lập Ban công tác chính trị đại đội, công tác chính trị trong Đội được chú trọng hơn theo phương châm lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nêu "Chính trị trọng hơn quân sự". Tiến hành công tác chính trị, Đội tổ chức cho các đội viên mới nghiên cứu thêm vê Chương trình, Điều lệ Việt Minh, học 10 lời thề danh dự, 12 điều kỷ luật, 5 bài huấn luyện nhiệm vụ tuyên truyền. Các bài học được dịch ra tiếng các dân tộc Nùng, Dao, Mông... để dạy cho các đồng chí chưa thạo tiếng phô thông. Các buổi sinh hoạt tổ hoặc toàn Đội được duy trì đều đặn để động viên tinh thần học tập, công tác và phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên và của các đồng chí tích cực. Đội đề cao kỷ luật, đoàn kết nội bộ, giúp đỡ các đồng chí trình độ còn thấp, coi trọng quan hệ tốt với dân.


Để phát huy hơn nữa thanh thế của Đội và mở rộng công tác tuyên truyền cách mạng trong nhân dân trong các tỉnh Cao - Bắc - Lạng, cuối tháng 12-1944 (khoảng một tuần sau khi Đội ra quân đánh thắng hai trận đầu). Đội đã cho phát hành tờ báo Tiếng súng reo. Đây chính là tờ báo tiền thân đầu tiên của lực lượng vũ trang và là tờ báo nằm trong đội ngũ báo chí cách mạng.


Do điều kiện hoạt động bí mật, lại không có máy chữ và phương tiện in ấn nên tờ báo này chỉ được viết bằng tay. Những người tổ chức tờ báo đã chọn trong Đội những đội viên viết chữ đẹp, chép thành nhiều bản, với nhiều khuôn khổ khác nhau trên các loại giấy mà Đội có thế có được lúc đó như giấy bản, giấy học sinh...


Ngoài tờ báo chính thức bằng tiếng phổ thông, báo Tiếng súng reo còn được dịch ra các thứ tiếng khác là Tày, Nùng và Dao để phát hành tới các tổ chức quần chúng khác như thanh niên, phụ nữ, nông hội... phục vụ đông đảo các thành phần dân tộc trong toàn căn cứ địa. Các bản dịch tiếng dân tộc trên nhằm mục đích tuyên truyền vận động, lôi kéo các tầng lớp nhân dân theo cách mạng.


Về nội dung, báo Tiếng súng reo có số tin, bài khá phong phú. Các bài đều ngắn gọn súc tích, phản ánh nhiều mặt hoạt động cúa Đội như: tường thuật về buổi thành lập Đội chiều ngày 22-12; đăng Chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh về nhiệm vụ và tiền đồ của Đội; 10 lời thề danh dự của Đội. Ngoài ra, báo còn có các bài, tin ngắn về tình hình trong nước và thế giới, về yêu cầu nhiệm vụ trươcs mắt của cách mạng nói chung, của Đội và các đội du kích, tự vệ nói riêng. Đặc biệt, báo còn có bài tường thuật về hai trận đầu ra quân đánh thắng của Đội tiêu diệt hai đồn địch ở Phai Khắt và Nà Ngần, đồng thời nêu lên những kinh nghiệm chiến đấu rút ra từ hai trận đánh này.


Dù được viết bằng tay chữ chưa được in ấn, xuất bản chính thức theo đúng nghĩa của báo chí, song tờ Tiếng súng reo đã kịp thời phục vụ công tác tuvên truyền giáo dục và huấn luyện bộ đội. Sự có mặt của tờ báo đã tạo tiền đề cho sự ra đời một tờ báo của lực lượng vũ trang sau này1 (Hiện nay các cơ quan lưu trữ chưa tìm lại được bản gốc của tờ Tiếng súng reo, nhưng theo một số tài liệu ghi lại thì tờ báo đến tay cán bộ, chiến sỹ trong Đội vào một buổi tối cuối tháng 12-1944, khoảng một tuần sau hai chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần. Trong sách "Lịch sử công tác Đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam (1944-2000), Nxb Quân đội nhân dân xuất bản năm 2000, ghi ngày 27-12-1944. Tư liệu về báo Tiếng súng reo, chúng tôi sử dụng theo cuốn Lịch sử báo Quân đội nhân dân (1950-2000), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000). Đây là một trong những tờ báo tiền thân của báo Quân đội nhân dân – tờ báo chính thức của quân đội ta sau này.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #21 vào lúc: 06 Tháng Hai, 2015, 07:38:19 pm »

Lúc này đã gần Tết Ất Dậu, một chương trình hoạt động "Mùa Tết chiến đấu" được đề ra. Tổ tham mưu chuẩn bị kế hoạch chiến đấu của đồng chí Hoàng Văn Thái tiếp tục điều tra, lên kế hoạch cho trận đánh tiếp theo là đồn Đồng Mu, thuộc châu Bảo Lạc, gần biên giới Việt - Trung.


Mấy ngày sau. Đội tổ chức lễ chính thức thành lập đại đội. Dưới lá cờ đỏ sao vàng, xung quanh có rất đông đại biểu của các hội Cứu quốc và nhân dân địa phương tới dự lễ, các trung đội xếp hàng ngay ngắn, súng đạn khá đầy đủ, lưỡi lê tuốt trần sáng quắc.


Trước cảnh núi rừng hùng vĩ và không khí nghiêm trang, bằng những lời lẽ đanh thép, tất cả cán bộ, chiến sỹ đều hứa với nhân dân hoàn thành nhiệm vụ. Nhớ tới công ơn của lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đoàn thể, toàn Đội đã quyết định tặng Người thanh kiếm Nà Ngần, chiến lợi phẩm thu được của địch, nói lên lời hứa quyết tâm thực hiện lời Người dạy, quyết tâm chiến đấu để giành thắng lợi.


Sau đợt chấn chỉnh ngắn ngày, toàn Đội lên đường. Nhiệm vụ lúc này là tiếp tục vũ trang tuyên truyền gây cơ sở, tổ chức lực lượng, xây dựng căn cứ cách mạng, khi có điều kiện và xét thấy cần thiết thì sẽ mở những trận đánh nhỏ để gây thanh thế. Đội chia làm hai bộ phận, đại bộ phận tiến về phía châu Bảo Lạc (Cao Bằng), chuẩn bị đánh đồn Đồng Mu. Một bộ phận nhỏ, do đồng chí Hoàng Văn Thái phụ trách, đi về Nậm Ty hoạt động tuyên truyền, mở rộng cơ sở. Sau đó, bộ phận này tiếp tục đi điều tra nắm tình hình, chuẩn bị cho trận đánh đồn Bằng Khẩu và Kéo Lẻng. Tuy nhiên, sau khi ta điều tra xong thì quân địch tại hai đồn này sợ bị ta tập kích nên đã rút quân đi nơi khác, do đó kế hoạch đánh các đồn này không thực hiện được.


Cuộc hành quân tới Bảo Lạc khá gian khổ. Đường vừa xa vừa khó đi do phải vượt qua nhiều triền núi đá tai mèo hiểm trở, nhiều bản làng có bọn phản động canh gác. Thời kỳ này, chính quyền địch tiến hành kiểm soát rất ngặt nghèo. Chúng lệnh cho dân đi đêm phải có đèn, không được tụ họp quá ba người. Mặt khác, chúng còn tung mật thám dò la tung tích của Đội. Do đó, Đội chủ trương đóng quân ở đâu cũng không được quá hai ngày. Để đảm bảo yếu tố bí mật, ban ngày Đội giấu quân trong trong rừng, ban đêm mới hành quân, tuyệt đối không để lại dấu vết nơi trú quân và dọc đường đi. Có những đêm, cả đơn vị, từ chỉ huy đến đội viên đều buộc chặt vũ khí, quân tư trang vào người, im lặng vượt qua những điểm gác của địch. Lại có đêm trời tối như bưng, người đi sau không nhìn thấy người đi trước, bé Hồng (Nông Văn Xương) có sáng kiến lấy một cái lá có chất lân tinh cài vào lưng người đi trước để người đi sau nhìn theo đó mà đi. Sáng kiến này được phổ biến cho toàn Đội và có tác dụng cho việc hành quân trong những đêm sau đó.


Hết những triền núi đá tai mèo, toàn Đội lại phải hành tiến trên những con đường đất lầy lội do trời mưa. Có lần, trời gần sáng, bộ đội hành quân tới gần một làng có nhiều tên phản động, Ban chỉ huy Đội ra lệnh đi nhanh để vượt khỏi làng sớm, song đi được một quãng, sương tan, trời sáng nhanh, cả đoàn quân lộ ra ngay trước làng. Do không thế mạo hiểm vào làng, cũng không thể đi theo lối khác nên Ban chỉ huy Đội lệnh cho bộ đội đi qua làng, làm như một đội quân địch đi tuần tiễu. Vài người vào nhà tổng đoàn giả vờ xét hỏi người lạ và hàng lậu, toàn Đội ung dung đi qua làng. Mấy ngày sau, bộ đội đến một bản người Mán. Dù rất thiếu thốn, không có ruộng nương trồng mà phải lấy đất về đổ trong các hốc đá để trồng ngô, nhưng đồng bào vẫn chia sẻ với bộ đội những bữa cơm chỉ có bột ngô đồ với canh rau. Thái độ ân cần của đồng bào làm toàn Đội rất cảm động. Cuối cùng. Đội đến Đồng Mu. Mục đích của việc đánh đồn này là nhằm đánh lạc hướng quân địch vừa để "thanh Đông kích Tây", làm cho địch phán đoán rằng ta hoạt động cả ở khu vực nam Nguyên Bình cả ở khu vực biên giới Việt - Trung. Tổ trinh sát tiến hành điều tra đồn địch lần cuối.


Đồn này thuộc thôn Pù, xã Đồng Mu, huyện Bảo Lạc, Cao Bằng. Cuối năm 1940 - đầu 1941, trước sự phát triển của phong trào cách mạng ở Cao Bằng nói chung và Bảo Lạc nói riêng, thực dân Pháp đã cho xây dựng đồn để tăng cường tuần tiễu, bắt bớ cán bộ cách mạng, kiểm soát gắt gao hơn nhân dân ở khu vực này. Đồn án ngữ một vị trí quan trọng, vì tại đây có thể kiểm soát toàn bộ con đường ngựa từ Đồng Mu sang Sóc Hà, huyện Hà Quảng và đường từ Đồng Mu xuống Pác Lung đi sang Ba Bể, xuống Bắc Kạn. Lúc đầu, đồn chỉ do lính khố xanh đóng giữ nhưng sau đó, địch lại chuyển thành đồn lính khố đỏ. Đồn nằm biệt lập trên ngọn đồi cao ở giữa một cánh đồng. Vì đồn nằm gần biên giới Việt - Trung, phải thường xuyên đối phó với bọn phỉ, nên địch xây dựng công sự rất kiên cố. Đồn có nhiều lô cốt, tường dày có lỗ châu mai, giao thông hào và dây thép gai bao bọc xung quanh. Quân địch trong đồn có khoảng hơn 40 lính khố đỏ, do 3 tên sỹ quan Pháp chỉ huy. Ngoài ra còn có một số lính dõng ở trong bản do 1 tên tổng đoàn chỉ huy.


Phía ta, trước đây các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Hoàng Sâm và Lê Quảng Ba đã có thời gian hoạt động tại đây nên cũng đã khá thông thuộc địa hình khu vực này. Sau khi trinh sát nắm tình hình, nhận định không thể sử dụng cách cải trang đột nhập đồn như hai trận đánh trước vì chắc chắn lúc này địch đã rút được kinh nghiệm nên đã để phòng cẩn mật hơn, Ban chỉ huy Đội chủ trương lợi dụng đêm tối bí mật đột nhập đồn, tiêu diệt địch. Cơ sơ của ta ở gần đồn cho biết, cách đây ít ngày có tin bọn thô phỉ ở bên kia biên giới sẽ tràn sang nên địch trong đồn tăng cường thêm lính canh gác, luôn chuẩn bị sẵn sàng đánh trả. Sau đó, cơ sỏ ta báo lại là lính trong đồn chờ một thời gian không thấy thổ phỉ tới, cho là hoang báo, nên việc canh phòng đã dần dần chểnh mảng. Ban chỉ huy Đội quyết định đánh đồn.


Theo kế hoạch đã định. Đội bí mật đột nhập chiếm nhà chỉ huy, sau đó các hướng đánh vào cùng phối hợp với nội ứng tiêu diệt địch. Đêm 4-2-1945, bộ đội xuất kích, chia làm hai mũi vượt qua các mỏm đá sắc nhọn tiến lên đỉnh đồi. Khi đi ngang qua cánh đồng, chó trong làng sủa ran. Hai tổ xung phong lặng lẽ vượt hàng rào dây thép gai đầu tiên. Tổ của các đồng chí Nam Long, Quang Trung, Xuân Trường đang đột nhập đồn thì bị địch phát hiện. Địch hỏi: "Ai?". Đồng chí Nam Long trả lời: "Im đi, chúng tôi là Việt Minh đến lấy súng của Tây, không đánh các anh em". Bọn địch trong đồn lập tức ném lựu đạn và bắn ra tới tấp. Tình huống này nằm ngoài dự kiến. Đồng chí Đàm Quang Trung hội ý với đồng chí Võ Nguyên Giáp: "Lộ rồi, đề nghị anh và anh Hoàng Sâm ở lại vị trí chỉ huy, chúng tôi vào đồn sẽ cử người bắt liên lạc sau". Được đồng ý, đồng chí Đàm Quang Trung dẫn một tổ xông vào trong đồn. Vị trí chỉ huy ban đầu đặt ở sau một bờ đất sát đồn địch. Dù địch bắn ra rất rát, song tổ xung phong cũng đột nhập được vào trong đồn, nổ súng, rồi đánh giáp lá cà. Tiểu đội trưởng Xuân Trường chỉ huy một tổ xung phong đột nhập qua cửa sổ. Anh dùng tiểu liên diệt ngay tên đốc gác và một số tên khác đang nằm trên giường. Đạn trong băng hết, không kịp thay, anh rút thanh kiếm và khẩu súng ngắn xông vào sở chỉ huy. Một số tên địch nữa bị tiêu diệt, quân địch cố thủ ở một lô cốt giữa đồn, chống cự rất quyết liệt. Xuân Trường dừng lại lắp đạn mới vào súng. Dưới ánh lửa, khi Xuân Trường đang lắp đạn thì bị một viên đạn địch xuyên qua ngực, anh ngã gục xuống. Lúc này, các tổ bên ngoài cũng đã vào tới nơi. Xuân Trường gượng dậy gọi đồng chí Thế Hậu và nói: “Tao bị đạn rồi, mày lấy ngay khẩu súng của tao đánh đi!". Nghe tiếng gọi, Thê Hậu chạy tới xốc Xuân Trường lên, nhưng anh gạt ra và giục: "Đánh đi, không lôi thôi gì với tao cả. Xung phong lên!”. Rồi Xuân Trường tắt thở giữa lúc tiếng súng còn vang dội. Cuộc chiến đấu diễn ra từ 11 giờ đêm 4-2 tới 3 giờ sáng ngày 5-2. Các chiến sỹ ta vừa chiến đấu vừa hát, tuy tiếng hát lúc này có tác dụng động viên khí thế chiến đấu của anh em và tiện cho việc liên lạc, song nó lại làm lộ các vị trí chiến đấu của ta, khiến địch phát hiện được mục tiêu, tập trung hoả lực bắn tới. Thấy kéo dài cuộc chiến đấu sẽ không có lợi, Ban chỉ huy hạ lệnh rút khỏi đồn trước lúc trời sáng, mặc dù nhiều chiến sỹ yêu cầu tiếp tục chiến đấu tiêu diệt toàn bộ quân địch.


Trận này ta tiêu diệt 20 tên, thu 5 súng trường Mútcơtông và một số đạn, bắt 3 tù binh. Riêng đồng chí Đàm Quang Trung một mình dùng súng và dao tiêu diệt 5 tên. Phía ta, Tiểu đội trưởng Xuân Trường chiến đấu anh dũng và hy sinh. Ngay sau trận đánh, do yêu cầu phải rút nhanh và bí mật nên hầu hết bộ đội tham gia trận đánh phải rút đi ngay. Ban chỉ huy Đội cử một số đồng chí ở lại cùng với cơ sở và nhân dân địa phương làm lễ an táng đồng chí Xuân Trường. Trước lúc hành quân, toàn Đội cúi đầu mặc niệm vĩnh biệt người đồng chí, đồng đội trung kiên bất khuất. Để ghi nhớ hình ảnh người đội viên Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đã chiến đấu hy sinh anh dũng - người liệt sỹ đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, nhân dân xã Đồng Mu quyết định đổi tên xã thành xã Xuân Trường.


Trận đánh đồn Đồng Mu “tuy không phải thất bại, nhưng không tiêu diệt được toàn bộ quân địch như kế hoạch đã định”. Nguyên nhân chủ yếu nhất là do ta không bám sát diễn biến mới nhất trong đồn. Qua khai thác tù binh, Ban chỉ huy Đội được biết, buổi chiều trước lúc ta tập kích, tên đồn trưởng người Pháp nhận được lá thư của bọn phỉ đe dọa tối chúng kéo quân ra đánh đồn. Vì vậy, binh lính trong đồn đã chuẩn bị đối phó từ chiều. Đêm đó, một nửa số binh lính địch trong đồn thức đề phòng. Chúng không cho bất kỳ một ai ra vào đồn, do đó cơ sở ta ở trong đồn không báo tin ra ngoài cho Đội được. Dù vậy, trận đánh đã để lại cho toàn Đội bài học kinh nghiệm quý báu và xây dựng cho bộ đội truyền thống chiến đấu anh dũng ngay cả khi gặp khó khăn nhất. Trận đánh không hoàn thành, lần đầu tiên trong Đội có đồng chí hy sinh, anh em không khỏi có những suy nghĩ. Tuy nhiên, Ban chỉ huy Đội đã quán triệt, giải thích: "Trong cuộc chiến đấu dài lâu, tất nhiên là phải có lúc thành, lúc bại. Qua trận đánh lần này chúng ta rút được những kinh nghiệm để sau này chiến thắng lớn hơn".


Sau trận đánh, nhân lúc trời còn sương mù, ta tiến vào phố Đồng Mu, tập hợp nhân dân, giải thích mục đích, hành động của Đội. Sau đó. Đội chia làm hai bộ phận rút quân. Bộ phận thứ nhất, do đồng chí Đàm Quang Trung chỉ huy, quay về rừng Trần Hưng Đạo, Nguyên Bình. Những ngày gần Tết, đồng chí Nông Văn Lạc nhận được lệnh của đồng chí Võ Nguyên Giáp đi đón cánh quân nàv về Nguyên Bình cùng ăn Tết, nhưng mũi hành quân này không về kịp Nguyên Bình trước Tết Ất Dậu mà về muộn mất mấy ngày.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #22 vào lúc: 06 Tháng Hai, 2015, 07:42:02 pm »

Cánh quân thứ hai, do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy, rút về hướng Nam. Trên đường đi, tất cả được lệnh phải giữ tuyệt đối bí mật, không để lại dấu vết, nhất là khi đi qua các đồn trại địch. Ở những chỗ trú quân, do trời rét, bộ đội phải lấy lá rừng về rải nằm, do đó, trước khi đi phải xoá hết các dấu tích chỗ ngủ, ăn, nấu cơm. Qua những vùng có đồn địch, hay các làng xóm không có cơ sở, Đội phải đi vòng. Ở các làng có cơ sở, cán bộ và chiến sỹ tản ra, phối hợp với tự vệ chiến đấu tuần tra canh gác, đi tuyên truyền giáo dục để nhân dân hiểu hơn về chính sách Việt Minh, đoàn kết toàn dần, đánh đuổi Nhật - Pháp cứu nước, yêu cầu mọi người giữ bí mật, thực hiện ba không: "Không nghe, không biết, không thấy".


Lúc này, thời tiết đang độ cuối đông, trời rét như cắt da cắt thịt. Bộ đội hành quân liên tục lại vượt các núi đá tai mèo, nhiều người bị đau chân. Những lúc khó khăn như vậy càng sáng ngời tình đồng chí, đồng đội. Cán bộ yêu thương săn sóc chiến sỹ bị đau. Đồng chí Vũ Lập cởi chiếc áo ấm của mình mặc cho một chiến sỹ bị mệt. Nhiều cán bộ nhường giày lại cho những anh em bị đau chân. Có đồng chí cán bộ bị đau chân nhưng vẫn cố gắng theo kịp đội hình. Đi đến đâu, bộ đội cũng được nhân dân đón tiếp nhiệt tình, niềm nở như những con em họ. Đồng bào còn cho bộ đội nhiều lương thực, thực phẩm, quà bánh. Có nơi, khi bộ đội đến, lúc đầu đồng bào tưởng là thổ phỉ, đem của cải cất giấu trong rừng, nhưng khi biết là bộ đội cách mạng, lại không dừng chân được lâu, thì ngay trong đêm, đồng bào vào rừng làm thịt lợn, thịt gà, nấu cơm cho bộ đội ăn. Những tình cảm này làm cho tất cả mọi người đều cảm động.


Theo phương châm của lãnh tụ Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập "chính trị trọng hơn quân sự, và vũ trang tuyên truyền trọng hơn tác chiến”, Đội tiến hành vũ trang tuyên truyền trong nhân dân tại những nơi đi qua. Tới đâu, Đội phát truyền đơn, viết khẩu hiệu và tổ chức các cuộc mít tinh tuyên truyển chính sách Việt Minh, tuyên truyền chiến thắng. Nhận thức được rằng, nếu không dựa vào dân thì bộ đội giải phóng không thể tồn tại, nên Ban chỉ huy Đội luôn quán triệt anh em chấp hành nghiêm kỷ luật dân vận. Bộ đội phải tôn trọng, đối xử tốt với nhân dân, không tơ hào đến thứ gì dù là nhỏ nhất, luôn kính già, yêu trẻ, tôn trọng phụ nữ, tôn trọng phong tục tập quán của dân. Có những nơi, khi đội đến, dân chúng tưởng là thổ phỉ nên chạy trốn cả vào rừng, bỏ lại hết thảy những của cải. Bộ đội ta thu nhặt rồi đưa trả lại cho dân. Những hành động và sự đối xử ấy đã làm cho đồng bào các dân tộc vùng biên giới rất ngạc nhiên và cảm kích vì từ trước tới nay họ chưa thấy một đội quân nào có kỷ luật nghiêm và đối xử tốt với dân như vậy. Cho nên, sau đó ảnh hưởng của cách mạng lan rộng khắp vùng. Vì vậy, đi đến đâu, Đội cũng được đồng bào yêu mến và ủng hộ nhiều lương thực, thực phẩm. Tuy nhiên, để để phòng những lúc biến động, dân không tiếp tế được, hay lúc cán bộ, chiến sỹ bị đi lạc, Đội chủ trương sử dụng rất tiết kiệm, mỗi bữa ăn bớt một ít gạo, dành dụm để mỗi chiến sỹ luôn có một bao lương khô bằng gạo rang hoặc ngô rang dự phòng. Kỷ luật về lương thực cũng được đặt ra rất nghiêm, khi chưa có lệnh của người chỉ huy, không ai được đụng đến lương thực dự phòng.


Bên cạnh đó, lãnh đạo, chỉ huy Đội ra lệnh cấm các đội viên uống rượu và hút thuốc lá. Nếu hút thuốc lá, khói và đầu mẩu điếu thuốc dễ làm lộ tung tích đơn vị, đặc biệt là khi hành quân. Khi uống rượu vào sẽ mất tỉnh táo, mặt đỏ hoặc sinh thói ba hoa và không kiểm soát được các hành động của mình. Đồng chí Võ Nguyên Giáp rất nghiêm khắc với những điều cấm này. Một lần, các đồng chí Hoàng Sâm, Mai Trung Lâm, Bế Sơn Cương xuống bản công tác. Do được đồng bào yêu quý nài ép uống, cả nể, lại nghĩ uống một vài chén cũng không ai phát hiện được, nên đã uống rượu. Tuy nhiên, khi về đơn vị, bị kiểm tra và phát hiện, cả ba đã bị đồng chí Võ Nguyên Giáp phê bình là không tôn trọng kỷ luật, nhất lại là cán bộ mà không nêu gương cho anh em, cả ba đồng chí được một bài học bổ ích và rất ân hận vì đã không nghiêm khắc với chính bản thân mình1 (Mai Trung Lâm – Tiến quân vào Chợ Rã, Tạp chí Lịch sử quân sự, số tháng 12-1989).


Những ngày giáp Tết Ất Dậu, cánh quân này đã về đến Thông Nông. Nhân dân được tin đốt đuốc, bày cỗ đón bộ đội. Đêm đến, bộ đội rút lên đỉnh núi. Sáng 30 Tết, cán bộ cơ sở lên báo tin có địch kéo về làng càn quét. Chỉ huy Đội ra lệnh chuẩn bị chiến đấu. Một lúc sau dưới làng có tiếng súng nổ nhưng không thấy địch kéo lên. Song cả Đội đều lo lắng bởi vì lúc rút lên núi chiều qua, trong Đội có đồng chí Đức Cường bị đau chân nên đi tụt lại sau, đến sáng ra vẫn chưa thấy vể. Chiều hôm đó, đồng chí Chủ nhiệm Việt Minh xã lên kể lại diễn biến tình hình lúc sáng. Địch càn vào làng xong, kéo quân ra phía rừng, phát hiện trong hang có người. Chúng xông vào định bắt sống nhưng bị người trong hang bắn ra. Địch đứng ngoài bắn vào, lấy rơm chất đầy cửa hang rồi đốt. Người trong hang bắn ra rất dữ rồi bất ngò xông ra khiến cho lính địch hốt hoảng bỏ chạy tán loạn, về sau, tìm về đơn vị, kể lại câu chuyện trên, mọi người mới biết người trong hang chính là Đức Cường. Bị vây trong hang, một mình đồng chí đã chiến đấu với 12 tên địch, bắn bị thương 2 tên. Đồng chí bị chỉ huy Đội phê bình vì hành quân chậm trễ, nhưng lại được nhân dân khen ngợi và tặng quà vì tinh thần chiến đấu dũng cảm.


Tối 30 Tết Ất Dậu, tại một bản của đồng bào Dao trắng, các đội viên tổ chức ăn Tết cùng nhân dân. Ngày mồng 5 Tết, các đội viên trong cánh quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy về tới rừng Trần Hưng Đạo. Cả đội đang liên hoan thì đồng chí Phạm Văn Đồng, đồng chí Lã - Bí thư Liên tỉnh ủy và một số đại biểu các giới phụ lão, phụ nữ, thanh thiếu niên các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Kinh... tới chúc Tết. Thay mặt Đoàn thể, các đồng chí hoan nghênh chiến công của Đội, biểu dương tinh thần chiến đấu dũng cảm của cán bộ và chiến sỹ, chúc Đội trong năm mới tiếp tục giành nhiều thắng lợi lớn hơn nữa. Các đồng chí thông báo về sự phát triển của phong trào cách mạng các địa phương. Anh em hết sức phấn khởi. Đồng chí Võ Nguyên Giáp thay mặt Đội, hứa quyết tâm chiến đấu đuổi Pháp - Nhật xâm lược, giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc. Đồng chí cũng cảm ơn Tổng bộ Việt Minh. Liên tỉnh ủy và nhân dân các dân tộc đã quan tâm giúp đỡ và động viên bộ đội. Sau đó, các đại biểu chia nhau đi gặp gỡ, nói chuyện thân mật với chiến sỹ.


Mấy ngày sau, các cánh quân của Đội đều về tới tổng Hoàng Hoa Thám, nơi hai tháng trước đây Đội đã làm lễ thành lập và hứa hẹn ngày về chiến thắng, Dọc theo con suối trong rừng sâu, đồng bào cất sẵn mấy ngôi nhà bằng vầu, mái lợp lá chuối, có sàn nứa cao ráo chờ bộ đội. Nhân dân còn chuẩn bị quà bánh biếu Đội; từ giày vải, khăn mặt, khăn tay do các bà, các chị dệt có thêu chữ tặng bộ đội, đến bánh chưng, xôi, chè lam, kẹo, thức ăn mặn đựng trong ống bương, gạo ngô đựng trong bao tượng... Thường ngày, Đội chỉ ăn muối với rau rừng, thỉnh thoảng mới có ít thịt trâu, thịt bò khô nấu với măng, hôm nay sáu người được chia hai bánh chưng, một ít thịt lợn luộc đặt trên lá chuối, lại có nước mắm để chấm. Như thế, đối với các chiến sỹ đã thực sự là bữa tiệc. Sức khoẻ cán bộ, đội viên có phần được cải thiện sau những ngày liên tục hành quân vất vả, thiếu thốn. Nhân dịp Tết, Đội cho in những thiếp chúc mừng trên giấy hồng, gửi tới các hội viên Cứu quốc, các trường học, thân hào, thân sỹ... chúc sang năm mới, nhân dân được hưởng nhiều điều tốt lành, chúc nước nhà được độc lập, tự do. Khắp nơi trong vùng đâu cũng thấy các khẩu hiệu, biểu ngữ của Quân giải phóng như: "Kính trọng nhân dân, giúp đỡ dân, bảo vệ dân, mỗi viên đạn một tên giặc...”. Các tờ truyền đơn kêu gọi binh lính cũng được rải khắp nơi.


Ban chỉ huy Đội và Liên tỉnh ủy đặt kế hoạch mở rộng tổ chức cơ sở chính trị và lực lượng vũ trang, để ra biện pháp phát triển công tác vũ trang tuyên truyền. Trước khi đánh, phải tính đến mực đích tuyên truyền. Sau khi đánh, phải tìm cách phát huy chiến thắng bằng công tác tuyên truyền. Ngoài tác chiến đánh địch. Đội đặt kế hoạch tiên hành công tác vũ trang tuyên truyền trong nhân dân. thực chất là dùng lực lượng vũ trang để tuyên truyền giác ngộ chính trị, làm cho nhân dân tin ở sức mạnh của cách mạng. Trước đây, nhân dân hay nhìn vào vũ khí của quân cách mạng, nay bộ đội tuyên truyền, giải thích cho đồng bào rõ: sức mạnh của vũ khí không phải là quyết định mà chính sức mạnh của tình đoàn kết toàn dân mới là quyết định. Khi nhân dân chưa hiểu, chưa giác ngộ thì coi như nhiệm vụ tuyên truyền chưa hoàn thành. Địa bàn tác chiến và vũ trang tuyên truyền sắp tới được Đội đề ra là gây dựng một khu vực rộng rãi từ các vùng rừng núi tiếp giáp Hoà An, cho đến các châu Nguyên Bình, Ngân Sơn. Chợ Rã và vùng phụ cận các núi Phia Uắc, Phia Giả, Phia Bioóc.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #23 vào lúc: 06 Tháng Hai, 2015, 07:51:55 pm »

Sau mấy ngày nghỉ Tết, Đội gấp rút tiến hành công tác huấn luyện nhằm nâng cao kỹ thuật, chiến thuật chiến đấu, quán triệt các nhiệm vụ Liên tỉnh ủy và Ban chỉ huy Đội để ra về tác chiến và vũ trang tuyên truyền. Sau đó, đơn vị phân tán đi hoạt động ở các nơi, vừa xây dựng cơ sở cách mạng, vừa tác chiến với địch. Một nhóm được cử đi trước để lập những cứ điểm nhỏ dọc đường, đi từ Ngân Sơn, Chợ Rã, Chợ Đồn hướng về phía Chợ Chu.


Giữa tháng 2-1945, Đội cử một đơn vị gồm các đồng chí Bế Sơn Cương, Lâm Kính, Bế Văn Sắt và Mai Trung Lâm xuống hoạt động ở khu vực tiếp giáp giữa hai châu Nguyên Bình và Ngân Sơn1 (Mai Trung Lâm - Tiến quân vào Chợ Ra, Tạp chí Lịch sử quân sự các số 11, 12-1989 và 1-1990). Đây là vùng đồng bào Dao Tiền, ngoài ra còn có một số làng Tày, Nùng thuộc thuộc châu Nguyên Bình. Phong trào cách mạng ở đây không được như các địa phương khác ở Nguyên Bình. Nhiệm vụ của đơn vị là giúp địa phương mở rộng và củng cố phong trào, tiễu trừ bọn phản động tay sai chống phá cách mạng. Các đồng chí trong đơn vị đã nghe đồng bào phản ánh về tên quản Chiểu (một chức vụ tương đương tri châu) rất gian ác. Y cậy thế trong tay có một trung đội, lại giỏi võ, nên xưng hùng, xưng bá, lùng bắt cán bộ cách mạng, thẳng tay đàn áp những ai chống lại, ra sức vơ vét của cải của dân. Vì vậy, phong trào không phát triển được. Chỉ huy đơn vị quyết định tiêu diệt tên này. Ban đầu, các đồng chí định đột nhập nhà y để tiêu diệt, nhưng qua điều tra thấy như vậy khó thành công do địch rào làng kỹ, khó vượt qua. Sau đó, chỉ huy đơn vị quyết định đánh vào lúc nhá nhem tôi, khi cổng làng chưa đóng, ta đóng giả quân đi tuần vào thẳng nhà tên quản Chiểu để tiêu diệt. Đồng chí Bế Sơn Cương mặc quân phục khố đỏ, đồng chí Mai Trung Lâm đóng vai bang tá, đồng chí Lâm Kính trong vai thông phán và mấy đồng chí khác giả làm thường dân, mang vũ khí bí mật theo người. Sau một ngày hành quân, các đồng chí tới làng vào sẩm tối. Hay tin tên quản Chiểu đang đi săn, cả nhóm đứng đợi y ở cách cổng làng độ vài chục mét. Khi tên này về, hắn tưởng là cấp trên đến kiểm tra, nên khúm núm chào hỏi. Lắng nghe với thái độ bất cần, bất ngờ đồng chí Mai Trung Lâm đá một cú như trời giáng vào bụng hắn. Không kịp chống cự, tên quan ngã qụy xuống. Đồng chí Bế Sơn Cương lập tức xông tới cướp khẩu súng và con dao của y. Rồi đồng chí Lâm Kính trói chặt, áp giải y đi ngay. Quân ta nhanh chóng rút vào rừng sau khi đã rải truyền đớn giải thích việc trừng trị tên phản động này và kêu gọi nhân dân đứng lên chống Pháp - Nhật, cứu nước, cứu nhà. Sau vụ tên quản Chiểu gian ác bị trừng trị, bọn phản động ở địa phương co lại, không dám hung hăng như trước. Nhờ đó, cán bộ tại đây có điều kiện xốc lại phong trào, mở rộng thêm các cơ sở cách mạng.


Một trung đội do đồng chí Hoàng Sâm chỉ huy, ở lại hoạt động tại vùng đèo Benle (Benlair - nay gọi là đèo Cao Bắc) - giáp giới Cao Bằng và Bắc Kạn. Một trung đội khác bố trí phục kích địch tại vùng Khâu Giáng - Ngân Sơn, do đồng chí Dương Đại Long chỉ huy.


Ngày 25-2-1945, Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân phục kích địch trên đường từ Nà Ngần đi Benle. Sau khi điều tra kỹ quy luật hoạt động của địch, lại nhận được tin chắc chắn có một đội vận tải của địch sắp đi qua, đồng chí Hoàng Sâm chỉ huy bộ đội hành quân cấp tốc suốt cả ngày đề tới địa điểm phục kích đã chọn là quãng đường một bên là thành vại, cây cối rậm rạp, một bên cỏ gianh mọc um tùm. Đồng chí Hoàng Sâm và đồng chí Võ Nguyên Giáp bố trí địa điểm chỉ huy ở trên một quả đồi có thể quan sát xa 3 km. 15 giờ ngày 25-2, toán quân địch mới về tới nơi. Chờ cho chúng lọt hẳn vào trận địa, đồng chí Hoàng Sâm nổ phát súng hiệu. Toàn Đội nổ súng rồi nhất loạt xung phong. Bị bất ngờ, quân địch không tên nào kịp chống cự, buộc phải đầu hàng. Trận này ta bắt gần 1 trung đội địch, thu 16 súng và nhiều đạn dược, lương thực.


Ta tuyên truyền chính sách với tù binh rồi thả cho chúng trở lại đồn Nà Ngần. Cũng ngay đêm ấy. Ban chỉ huy Đội quyết định đánh đồn Nà Ngần lần thứ hai. Tù binh địch từ Benle về Nà Ngần, kể lại tình hình vừa bị chặn đánh cho đồng bọn. Trong lúc quân địch đang hết sức hoang mang thì bộ đội ta, theo đường núi tiến quân, đã vận động tới bao vây đồn. Ta vừa nổ súng, vừa bắc loa gọi hàng. Quân địch số bỏ chạy, số hạ vũ khí đầu hàng. Trời tảng sáng, ta chiếm đồn và thu được 30 khẩu súng cùng đạn dược và đồ quân dụng. Số vũ khí này được chuyển về cho các đội vũ trang các châu.


Tình hình ngày càng biến chuyển khẩn trương, nhanh chóng, có lợi cho cách mạng. Đầu tháng 3-1945, đồng chí Phạm Văn Đồng và đồng chí Vũ Anh tới thăm Đội tại tổng Hoàng Hoa Thám, truyền đạt chỉ thị của cấp trên: "Đội phải tiến xuống phía Nam sớm, mở nhanh những đường liên lạc với vùng xuôi". Hai ngày sau đó, có tin báo về những biểu hiện của việc Nhật chuẩn bị đảo chính Pháp. Từ trong rừng Phan Thanh, tổng Hoa Thám, toàn Đội xuất phát theo kế hoạch Nam tiến, giương cao cơ đỏ, kéo xuống tổng Kim Mã ngay giữa ban ngày.


Trải qua bao ngày phải hoạt động bí mật, chủ yếu là về đêm, luồn rừng vượt suối, nay cả Đội được giương cao lá cờ đỏ sao vàng, hành quân đi giữa "thanh thiên bạch nhật", ai nấy đều vui sướng và cảm động. Trên đường bộ đội đi qua. bà con nghe tin bộ đội cách mạng hoạt động đã lâu, nay đều ùa ra nồng nhiệt chào đón. Tói đâu, Đội tập hợp đồng bào lại, tổ chức mít tinh, giải thích chính sách Việt Minh, kêu gọi đồng bào: Nhật, Pháp đánh nhau là thời cơ tốt để đứng dậy khởi nghĩa. Đội tiến hành tước vũ khí của lính dõng, tuyển thêm thanh niên để phát triển lực lượng.


Tiếp đó, sau khi viết thư báo cáo về Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng, cả Đội theo đường cái tiến vê phía Nam. Đồng thời, Đội cử một tiểu đội, do đồng chí Bế Sơn Cương chỉ huy, ở lại tổng Hoàng Phài để bắt tên tổng đoàn phản động, tước vũ khí lính dõng, tuyên truyền giải thích chính sách Việt Minh cho nhân dân địa phương. Ngày 28-3-1945, đơn vị này tiến vào Na Rì. Tại đây, tên tri châu nghe tin, hoảng sợ bỏ chạy, lính trong đồn Yên Lạc đầu hàng. Bọn hào lý địa phương đem triện bạ, sổ sách nộp cho quân giải phóng. Ta hoàn toàn làm chủ châu lỵ Na Rì.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #24 vào lúc: 06 Tháng Hai, 2015, 07:53:35 pm »

Bộ phận chính của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp và Hoàng Sâm chỉ huy tiếp tục tiến xuống Ngân Sơn. Ngày 14-3-1945, đồng chí Doanh Hằng - cán bộ địa phương đã mang thư viết bằng tiếng Pháp của đồng chí Võ Nguyên Giáp kêu gọi hợp tác đánh Nhật, tới chỉ huy quân địch tại đây. Tên tri châu Ngân Sơn và bang tá xem xong thư không trả lời gì mà lên ngựa chạy về hướng tỉnh lỵ. Tên đồn trưởng người Pháp là Đờ Đông, xem xong thư vẫn không tỏ ý châp thuận. Ngày 18-3, ta lại cho người đưa tiếp thư cho Đờ Đông, song tên này vẫn nấn ná không trả lời, mà có ý muốn chờ quân Nhật tới. Ngày 20-3, đơn vị Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp và đồng chí Hoàng Sâm chỉ huy từ rừng Khau Giang đã về đến xã Thượng Ân. Đêm 20-3, đồng chí Võ Nguyên Giáp viết tối hậu thư gửi cho Đờ Đông. Trong đó nêu rõ: “Nếu muốn cùng hợp tác với Việt Minh đánh Nhật thì phải kéo quân vào ngay khu du kích, sẽ được giúp đỡ, trái lại muôn ở lại để nộp khí giới cho Nhật thì Việt Minh sẽ đánh đồn”. Lần này, tên chỉ huy quân Pháp buộc phải đồng ý. Sáng ngày 21-3, Đờ Đông cho thổi kèn tập hợp quân lính rồi đi theo một cán bộ ta tới địa điểm hẹn trước tại xã Cốc Đán. Tại đây, chỉ huy Đội tiếp nhận sự đầu hàng của chúng. Ngay hôm đó, một cuộc mít tinh liên xã đã được tổ chức tại bản Nà Sáng (Ngân Sơn). Trước đông đảo nhân dân tới dự, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã nói chuyện về tình hình quốc tế, về phong trào cách mạng ở các tỉnh Cao - Bắc - Lạng, trong cả nước và kêu gọi mọi người ủng hộ cách mạng.


Ngày hôm sau, 22-3-1945, cả Đội tiến vào giải phóng châu lỵ Ngân Sơn trong niềm hân hoan phấn khởi của đồng bào các dân tộc tại đây. Đến đây, theo lệnh của đồng chí Võ Nguyên Giáp, Đội cử ra một số đơn vị nhỏ tỏa đi các địa phương hoạt động vũ trang tuyên truyền gây cơ sở:

Bộ phận chính, do các đồng chí Hoàng Sâm và Đàm Quang Trung chỉ huy, tiến theo quốc lộ 3 xuống Phủ Thông, đi về phía Bắc Kạn tước vũ khí của lính dõng, chiến đấu với quân Nhật, vũ trang tuyên truyền trong quần chúng và phát triển lực lượng. Ngày 27-3-1945, cánh quân này xuất phát thực hiện nhiệm vụ.


Một bộ phận khác gồm một trung đội, do đồng chí Hoàng Văn Thái phụ trách, cũng xuất phát trong ngày 27-3, có nhiệm vụ tiến qua núi Phia Bioóc về giải phóng Chợ Đồn (Bắc Kạn). Đơn vị này làm nhiệm vụ tước vũ khí của lính dõng, thành lập các đội tự vệ chiến đấu của địa phương, phá chính quyền cơ sở cũ xây dựng chính quyền cách mạng. Nhờ đó, phong trào cách mạng những nơi Đội đi qua đều phát triển mạnh. Việc thành lập chính quyền cơ sở, tổ chức thêm các tiểu đội, trung đội tự vệ củng tương đối thuận lợi.


Ngày 28-3-1945, trên đường hành quân, khi còn cách Chợ Đồn khoảng 20 km, trung đội gặp tên quan châu Chợ Đồn dẫn cả vợ con đi về quê ở Cao Bằng. Tên này trình bày về tình hình Chợ Đồn sau ngày Nhật đảo chính Pháp: các quan thầy Pháp bỏ chạy, người của Nhật chưa nắm được gì, các nhân viên chính quyền cũ lo sợ bỏ chạy cả. Tiền bạc không còn nhưng trong kho vẫn còn vài chục tấn thóc. Nghe xong tin này, đồng chí Hoàng Văn Thái lập tức lệnh cho toàn đơn vị tiến nhanh để kịp thời nắm chính quyền ở Chợ Đồn. Dù lúc này anh em trong đơn vị cũng đã mệt vì hành quân suốt mấy ngày đêm liền, nhưng vẫn động viên nhau đi thật nhanh bởi nếu chậm thì bọn tay chân của Pháp kịp gượng dậy, hoặc bọn tay sai Nhật sẽ kéo đến lập chính quyền của chúng. Xế chiều hôm đó, đơn vị đến xã Phương Viên, tối bản Nà Mòn. Tự vệ địa phương báo cáo có tên quản Tông dẫn một đại đội khố xanh chạy đến Bản Cải (cách nơi đóng quân đơn vị khoảng 1 km). Nắm được tư tưởng quân địch lúc này đang hoang mang, đồng chí Hoàng Văn Thái phân công một số đồng chí đi vận động nhân dân và thuyết phục bọn lính nộp súng cho cách mạng.


Ngày 29-3-1945, đồng chí Hoàng Văn Thái và ba người nữa đến gặp quản Tông, nói rõ là người của quân đội Việt Minh, yêu cầu chúng nộp vũ khí, còn binh lính ai muốn có thể theo cách mạng, hoặc có thể về quê. Ban đầu quản Tông không chịu, đòi ta phải đấu súng, nếu y thua thì mới chịu nộp vũ khí. Ta đấu tranh kiên quyết, thuyết phục y bằng việc phân tích tình hình quốc tế, tình hình phong trào cách mạng nước ta, tội ác của Nhật, Pháp, sự thống khố của nhân dân, binh lính... Bên cạnh đó, ta huy động quần chúng nhân dân kéo đến rất đông để gây áp lực. Trước tình thế đó, quản Tông buộc phải tập hợp quân lính và giao nộp súng cho cách mạng. Đồng chí Hoàng Vàn Thái giải thích chính sách của Việt Minh, cấp giấy và tiền đi đường cho binh lính về quê. Như vậy, không tốn một viên đạn, ta đã chiếm được châu lỵ Chợ Đồn, giải giáp 1 trung đội lính khố xanh, thu hơn 100 súng các loại. Thắng lợi này đã làm thay đổi tình thế cách mạng ở xã Phương Viên và khu vực xung quanh Chợ Đồn. Nhân dân quanh vùng nghe tin đã mang nhiều quà bánh, lương thực đến ủng hộ và chúc mừng bộ đội cách mạng.


Sau đó chỉ huy trung đội gặp đồng chí Nông Văn Quang là cán bộ Nam tiến xâv dựng cơ sở ở địa phương này, bàn việc lập danh sách cán bộ ủy ban cách mạng lâm thời huyện. Đa số các đồng chí có tên trong danh sách là những cán bộ nòng cốt trong phong trào địa phương, có cả những thân hào, thân sỹ có cảm tình với cách mạng gồm: Triệu Du Nhuận, Lý Ngọc Tuấn, Đồng Văn Đặng, Nguyễn Văn My và ông Nôi - giáo viên.


Sáng ngày 30-3-1945, đơn vị cùng với cán bộ địa phương tổ chức một cuộc mít tinh lớn ra mắt chính quyền cách mạng. Trước đông đảo nhân dân, đồng chí Hoàng Văn Thái trình bày về tình hình quốc tế đang biến chuyển thuận lợi, sự phát triển của phong trào cách mạng trong nước, ở nhiều nơi nhân dân đã vùng lên khỏi nghĩa... Đồng chí đi sâu giải thích chính sách 10 điểm của Mặt trận Việt Minh và cuối cùng bắt nhịp cho bộ đội và nhân dân cùng hát bài Phất cờ Nam tiến... Sau đó, Ủy ban cách mạng lâm thời châu chuyển về xã Bằng Lũy. Số anh em tự vệ và thanh niên xin gia nhập bộ đội rất đông. Với số súng vừa thu được của địch, ta phát triển thêm hai đại đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân mới. Bên cạnh đó, chỉ huy trung đội mở các lớp huấn luyện chính trị cấp tốc cho bộ đội và Ủy ban châu. Kết thúc lớp học, lực lượng này phân tán thành từng tổ xuống các xã tiến hành xoá bỏ chính quyền cũ, lập chính quyền cách mạng. Ban chỉ huy trung đội cử một bộ phận đến chiếm đồn lính khố xanh ở Bản Thi và một bộ phận khác xuống chiếm đồn tổng quận.


Sau khi giải phóng Ngân Sơn, đơn vị Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp và đồng chí Hoàng Sâm chỉ huy tiếp tục hướng về Chợ Rã. Tại đây, sau ngày Nhật đảo chính Pháp, hàng trăm tên lính do phó giám binh Bắc Kạn chỉ huy kéo tới cướp bóc, phá phách nhân dân. Ngày 19-3-1945, nhân dân và tự vệ khu Thiện Thuật đã chặn đánh một toán lính Pháp đi cướp bóc ở Pồ Mò (xã Bằng Thành), buộc chúng đầu hàng và giao nộp nhiểu vũ khí cho cách mạng. Sau đó, ta thừa thắng tiến công đồn Pắc Nặm, xoá bỏ chính quyển địch ở các xã phía bắc châu Chợ Rã. Ngày 21-3-1945, đơn vị Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy từ Cốc Đán đã về đến Chợ Rã.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #25 vào lúc: 06 Tháng Hai, 2015, 07:54:23 pm »

Lúc này, tại Chợ Rã, một đơn vị Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân do đồng chí Mai Trung Lâm chỉ huy cũng đã tiến tới nơi. Đơn vị này nhận lệnh của đồng chí Võ Nguyên Giáp tiến quân từ rừng Trần Hưng Đạo, tiến qua Nà Bưa, Vằng Phai, thuộc châu Ngân Sơn, đi theo đường núi hướng về châu lỵ Chợ Rã. Ngày 21-3-1945, trên đường qua xã Hà Hiệu, anh em phát hiện thấy một toán lính khố xanh, khố đỏ súng ống, ba lô đầy đủ, nhưng mặt mũi bơ phờ hốc hác, dáng đi uể oải, cả đơn vị tản ra, một đồng chí hô buộc chúng đứng lại, giơ tay đầu hàng. Đám lính địch cũng tản ra hai bên, nhường đường cho một tên người Pháp, hai tay giơ quá đầu, đi về phía ta. Y tự giới thiệu là Rasađiô, chủ mỏ Đầm Hồng - Bản Thi, được giám binh Bắc Kạn là đại úy Đờpôngtích phái đi gặp đồng chí Văn có việc khẩn cấp  (Thời kỳ này các thư từ của Đội gửi đi đều do đồng chí Võ Nguyên Giáp ký tên là Văn). Còn tên giám binh Bắc Kạn, đưa quân lính rút về đồn Ba Bể.


Đến lúc này, các đồng chí trong đơn vị mới biết là Nhật đã đảo chính Pháp nên binh lính Pháp mới ủ rũ như đám tàn quân như thế. Đồng chí Mai Trung Lâm hướng về phía binh lính kêu gọi họ đi theo cách mạng, đánh đuổi phát xít Nhật, giành độc lập cho Tổ quốc. Tiếp đó, cả tiểu đội đưa tên Pháp và binh lính địch tới gặp đồng chí Võ Nguyên Giáp.


Đồng chí Mai Trung Lâm, được đồng chí Võ Nguyên Giáp giao nhiệm vụ cùng với đồng chí Bế Văn Sắt, mang bức thư của tên Rasađiô lên gặp giám binh Đờpôngtích ở Ba Bể. Đi theo hai người còn có 4 lính khố xanh vừa để bảo vệ, vừa dẫn đường. Hai đồng chí vào Chợ Rã gặp tên tri châu Chợ Rã là Đồng Phúc Quận yêu cầu y giúp cho mấy con ngựa để đi được nhanh gặp giám binh Bắc Kạn. Khi nghe giới thiệu là đại diện của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và của Việt Minh, viên tri châu vội đáp ứng ngay các yêu cầu của ta. Đồng chí Mai Trung Lâm nói khái quát tình hình trong nước và quốc tế, về sự phát triển của cách mạng sau khi Nhật đảo chính Pháp, nghĩa vụ của mỗi người Việt Nam đối với đất nước lúc này, rồi giao cho Đồng Phúc Quận tạm thời quản lý châu Chợ Rã, đợi đến khi gặp Đờpôngtích xong, trở về sẽ có lệnh sau. Viên tri châu được giao nhiệm vụ một cách bất ngờ nên rất cảm động.


Ngày hôm sau, đồng chí Mai Trung Lâm và đồng chí Bế Văn Sắt cưỡi ngựa cùng bốn lính khố xanh đi về Ba Bê gặp Đờpôngtích. Trên đường đi, các đồng chí gặp toán lính khố đỏ, do một lính Pháp mang quân hàm thượng sĩ chỉ huy. Sau khi biết mục đích chuyến đi, tên chỉ huy lệnh cho cấp dưới dẫn các đồng chí ta đến hồ Ba Bể. Tới gần hồ, tên thượng sĩ Pháp gọi người đưa thuyền ra đón. Thuyền cập bờ, các đồng chí Mai Trung Lâm và Bế Văn Sắt nhanh chóng lên bờ, tiến về phía đồn. Trên đường, các đồng chí gặp một toán vừa người Pháp vừa người Việt đi tới, dẫn đầu là một sĩ quan Pháp mang quân hàm đại úy. Đó chính là Đờpôngtích. Đồng chí Mai Trung Lâm giới thiệu là đại diện của Mặt trận Việt Minh được cử đến để bàn chuyện hợp tác đánh Nhật... Sau khi hỏi một số vấn đề liên quan đến sự bố trí quân đội Việt Minh chống Nhật, trang bị vũ khí của ta, Đờpôngtích nhận lời và hẹn tới gặp chỉ huy Đội để bàn tiếp chuyện hợp tác. Ngày 23-3-1945, Đờpôngtích đến gặp đồng chí Võ Nguyên Giáp xin giao lại toàn bộ vũ khí cùng 4 trung đội lính.


Sau đó, Ban chỉ huy đội gửi thư cho tri châu Chợ Rã - Đồng Phúc Quận, một tên nổi tiếng gian ác trong vùng, tới bàn công việc. Trước đó, đồng chí Mai Trung Lâm thuyết phục, tên này đã đồng ý đi theo cách mạng và được giao quản lý châu Chợ Rã tới ngày Ban chỉ huy Đội tới nơi. Tuy nhiên, lúc này, khi nhận được thư, y chẳng những không hợp tác với cách mạng mà còn chạy đi Bắc Kạn theo Nhật. Lập tức, bộ đội cùng nhân dân đuôi theo vây bắt và theo yêu cầu của nhân dân, ta đã xử bắn tên này.


Tới đây, số sỹ quan và binh lính Pháp đầu hàng gặp chỉ huy Đội nhờ giúp đỡ đưa họ cùng vợ con sang Trung Quốc. Ban chỉ huy tiếp nhận đề đạt của họ. Đồng chí Hoàng Sâm cử đồng chí Nông Văn Bê đưa họ tới biên giới Việt - Trung. Tuy nhiên, do không được báo trước trên đường đi, cả toán lính này và đồng chí Nông Văn Bê lại bị tự vệ châu Chợ Rã phục kích bắn chết ở phía bắc huyện Ba Bê. Nguyên do là lực lượng tự vệ ở đây thấy có một đoàn lính và sỹ quan Pháp chạy về hướng Trung Quốc, tưởng là lính Pháp rút chạy nên đã nổ súng. Đồng chí Nông Văn Bê chỉ làm nhiệm vụ dẫn đường nhưng cùng đi trong đoàn, nên đã hy sinh.


Sau khi tổ chức cho binh lính, sỹ quan Pháp đi về biên giới, đồng chí Mai Trung Lâm và đồng chí Thanh Phong ở lại làm công tác tư tưởng cho số binh lính người Việt, thu xếp giải quyết theo nguyện vọng của từng người. Ai muốn theo Việt Minh thì ghi tên và làm lễ tuyên thệ. Ai muốn về quê thì được cấp giấy đi đường và tiền lộ phí. Sau đó, các đồng chí tập trung lực lượng phát triển phong trào quần chúng, tổ chức các hội cứu quốc của Mặt trận Việt Minh từ xã đến tổng, châu.


Cùng ngày 23-3-1945, toàn Đội tiến vào giải phóng Chợ Rã giữa rừng cờ sao vàng của nhân dân và các hội Cứu quốc địa phương. Nhân dân ùa ra đưòng chào đón, nhà nào cũng chuẩn bị cơm nước phục vụ bộ đội cách mạng. Tại đây, Đội tước vũ khí của lính dõng, tổ chức lực lượng vũ trang châu, tuyển mộ thêm thanh niên để phát triển Đội, vừa tạo nguồn cán bộ cho địa phương về sau. Chính quyền địch tan rã, Ban Việt Minh châu đảm nhiệm điều hành các công việc hành chính hàng ngày. Sau khi tổ chức mít tinh phổ biến, tuyên truvền chính sách, mở lớp đào tạo cán bộ và lực lượng vũ trang châu. Ban chỉ huy Đội cử đồng chí Mai Trung Lâm ở lại phụ trách địa phương rồi tiếp tục tiến xuống phía Nam1 (Đồng chí Mai Trung Lâm ở lại phụ trách châu Chợ Rã cho đến tháng 6-1945 thì được lệnh về Trường quân chính kháng Nhật ở Tân Trào nhận nhiệm vụ mới). Ngày 27-3, đơn vị do đồng chí Võ Nguyên Giáp và đồng chí Hoàng Sâm chỉ huy từ Chợ Rã xuất phát tiến về phía Nam.


Được phân công ở lại, đồng chí Mai Trung Lâm bàn với đồng chí Thanh Phong cử một bộ phận ở lại châu lỵ thường trực chỉ đạo công việc hàng ngày, đồng thời tổ chức một số nhóm đi làm công tác quần chúng ở các nơi trên địa bàn châu. Danh nghĩa là một tiểu đội nhưng số người trong đơn vị đã lên tới hơn 50 người. Vì vậy, đồng chí Mai Trung Lâm chia thành nhiều tổ, cử đến hoạt động ở những vùng dân tộc ít người thuộc khu vực Phủ Thông - nơi ta đã có cơ sở quần chúng từ sớm, rồi từ đó phát triển sang các vùng khác. Do bị cai trị lâu ngày, lại bị thực dân Pháp xuyên tạc, lừa bịp, nên lúc đầu thấy bộ đội Việt Minh, nhân dân sợ hãi bỏ chạy hoặc xa lánh. Nhưng dần dần, qua cách cư xử, nếp sống của bộ đội, họ hiểu và nhận ra bộ đội cách mạng khác với các đám lính khố xanh, khố đỏ trước kia. "Bộ đội Việt Minh kỷ luật rất nghiêm, kính già yêu trẻ, tôn trọng phụ nữ, không tơ hào cái kim sợi chỉ của dân, đi rừng lấy củi giúp dân, giúp dân làm vệ sinh thôn xóm"1 (Mai Trung Lâm - Tiến quân vào Chợ Rã, trong sách Việt Nam giải phóng quân - nhớ lại bước khởi đầu, Sđd. tr.194). Được sự tuyên truyền giác ngộ của bộ đội và cán bộ, nhân dán hiểu rõ hơn và nhiệt tình ủng hộ cách mạng, ủng hộ bộ đội. Các đơn vị vũ trang ta tiến hành trừng trị Việt gian phản động có nhiều nợ máu với nhân dân, khoan hồng với những người cải tà quy chính, nên lòng dân, từ già đến trẻ, từ những người dân bình thường đến những gia đình có con em trước đây làm tay sai cho giặc, đều phấn khởi và tin tưởng vào cách mạng.


Mấy ngày sau, đang đi cùng toàn Đội về phía Nam, xuống Ba Bể, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã nảy ra ý nghĩ phải thành lập chính quyền cách mạng tại Chợ Rã và quay trở lại đây, triệu tập cán bộ bàn việc thành lập chính quyền cách mạng địa phương. Ngày 30-3-1945, một cuộc mít tinh được tổ chức, tại thị trấn Chợ Rã, ủy ban nhân dân lâm thời cách mạng cấp huyện đầu tiên ra mắt nhân dân, tuyên bố xoá bỏ chính quyền cũ, bỏ các thứ thuế, thực hiện 10 chính sách của Việt Minh. Sau đó, ủy ban thảo luận với cán bộ địa phương kế hoạch hoạt động và xây dựng các hội cứu quốc, đội tự vệ. Cùng thời gian đó, đồng chí Võ Nguyên Giáp gửi thư cho đồng chí Bế Sơn Cương, lúc đó đang ở Hoàng Phài, nêu ý kiến nên thành lập ngay chính quyền cách mạng để điều hành các công việc sau khi xoá bỏ chính quyến cũ.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #26 vào lúc: 06 Tháng Hai, 2015, 07:55:58 pm »

Lúc này, sau đảo chính Nhật - Pháp, tình hình có nhiều thuận lợi cho phong trào cách mạng phát triển. Trung ương Đảng đã có chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Các địa phương, các đơn vị vũ trang ta hoạt động rất tích cực. Ở Cao - Bắc - Lạng, Liên tỉnh ủy ra nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ: đánh đổ chế độ thống trị Pháp từ cơ sở, lập chính quyền nhân dân từ xã lên châu, phủ; phân phôi cán bộ của Đảng về cùng các đội vũ trang địa phương tổ chức những đơn vị Giải phóng quân mới, chuẩn bị trực tiếp đánh Nhật; kêu gọi binh lính Pháp hợp tác đánh Nhật. Các đơn vị Giải phóng quân được lệnh phát triển đi nhiều hướng khác nhau:

- Đồng chí Lê Thiết Hùng chỉ huy một đơn vị sang chiến đấu tại phía Bảo Lạc. Tới nơi, đơn vị cử người tới gặp và kêu gọi tàn binh người Việt trong quân đội Pháp quay lại gia nhập hàng ngũ cách mạng. Thực hiện xong nhiệm vụ trên, đơn vị được chỉ định tiếp tục tiến xuống Thất Khê, Bình Giã (Lạng Sơn), phối hợp với những đơn vị của các đồng chí Đàm Minh Viễn, Hoàng Minh Thảo đẩy mạnh mọi hoạt động chuẩn bị khởi nghĩa. Trên đường tiến quân từ Bảo Lạc về Thất Khê, đơn vị đã tước được hàng trăm súng (trong đó có cả súng cối, súng máy...) và rất nhiều lừa, ngựa của các đoàn quân Pháp đang nối tiếp nhau chạy qua biên giới. Có những bộ phận quân Pháp ngoan cố chống lại đã bị đơn vị đánh bại và tước toàn bộ vũ khí như ở Trà Lĩnh, Mã Phục (Cao Bằng). Ngày 20-4-1945, trên đường tiến quân, đơn vị này đã gặp một đơn vị Cứu quốc quân, cả hai đã cùng phối hợp đánh chiếm Văn Mịch, và tới ngày 1-5-1945, tiếp tục tiến đánh giải phóng Bằng Mạc (Lạng Sơn).

- Tại miền biên giới Cao Bằng, đồng chí Lê Quảng Ba đã chỉ huy một đơn vị hạ đồn Sóc Giang, thu toàn bộ vũ khí đạn dược của địch. Sau khi giao nhiệm vụ chiến đấu giải phóng khu vực biên giới lại cho đồng chí Bằng Giang phụ trách, đơn vị này tiếp tục tiến sang Bắc Quang (Hà Giang).

- Một đội Việt Xam tuyên truyền Giải phóng quân nữa do Bảo Ngọc chỉ huy từ Chợ Rã qua đường Chợ Xá tiến về Đầm Hồng, Đại Thí, Chiêm Hoá hợp với lực lượng Cứu quốc quân ở đây cùng tiến sang giải phóng Yên Bình (Yên Bái).

- Các đơn vị vũ trang Cao Bằng, dưới sự lãnh đạo của Liên tỉnh ủy, đã hạ một loạt đồn trại, thu súng của lính dõng, tước vũ khí của các đoàn quân Pháp vượt qua biên giới Việt - Trung từ Trùng Khánh đến Bảo Lạc. Những sỹ quan Pháp không đáp lời kêu gọi hợp tác đánh Nhật, quay súng bắn vào các đơn vị của ta, đều bị lực lượng vũ trang ta tiêu diệt hoặc buộc phải nộp vũ khí. Ta thu được nhiều súng, trong đó có cả súng máy, súng cối và đại bác.


Không đầy một tháng sau ngày 9-3, các châu Hoà An, Nguyên Bình, Hà Quảng, Thạch An và một phần các châu Bảo Lạc, Quảng Uyên, Trùng Khánh... chính quyền đã về tay nhân dân. Các ban Việt Minh xã, tổng ra hoạt động công khai; mọi thứ thuế đều được bãi bỏ. Những vũ khí đoạt của địch được trang bị cho đội vũ trang các châu, phát triển thêm lực lượng các đội này. Lúc này, Cao Bằng đã thành lập được hơn 10 đại đội Giải phóng quân. Đồng chí Vũ Anh (Trịnh Đông Hải) cùng một đơn vị tiến xuống Bắc Sơn, Đình Cả, còn các đơn vị mới thành lập được lệnh di chuyển về phía Nam đợi lệnh.

- Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Giang, Vĩnh Yên, lực lượng Cứu quốc quân 1, 2, 3 được đoàn thể điều động tăng cường một số cán bộ của Xứ ủy và số cán bộ vượt ngục ra, duy trì, đẩy mạnh công tác vũ trang tuyên truyền. Các đơn vị này đã xây dựng cơ sở cách mạng ở nhiều bản làng, lập mới nhiều đơn vị tự vệ, du kích và nhất là đã tiến hành các trận đánh trừ gian, phục kích các đồn lính bảo an và lính Nhật ở một số nơi. Sau đảo chính Nhật - Pháp, các đơn vị Cứu quốc, quân đẩy mạnh hoạt động, chặn đánh quân Pháp ở Đèo Khế, tước khí giới mà quân Đồng Minh thả dù tiếp tế cho quân Pháp, bao vây hạ một loạt đồn: La Hiên. Chợ Chu, Chiêm Hoá, Đại Từ... Đảng bộ Thái Nguyên và Ủy ban quân chính Thái Nguyên đã lãnh đạo nhân dân các xã giành chính quyền bộ phận. Tới cuối tháng 3-1945, chính quyền ở nhiều xã trong tỉnh đã về tay nhân dân.


Giữa tháng 4-1945, Ban chỉ huy Đội lệnh cho đồng chí Đàm Quang Trung chỉ huy một đơn vị xuống hoạt động trong vùng Phủ Thông, thuộc huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn. Nhiệm vụ đề ra cho đơn vị là phải lấy cho được đồn Phủ Thông và phá kho thóc của Nhật chia cho nhân dân đang bị đói. Mặt khác, đơn vị phải tìm cách gây uy thế cho cách mạng, phát triển căn cứ địa, tiêu hao lực lượng địch, tranh thủ tuyển thêm người và vũ khí. Qua điều tra, Ban chỉ huy Đội được biết, đồn do lính khố xanh canh giữ. Chỉ huy đồn là Hoàng Văn Ngọ (cai Ngọ). Là chỉ huy, nhưng cai Ngọ là người hiểu biết, hiền lành không ức hiếp ai và có thể thu phục được. Trong đồn có nhiểu binh lính tỏ ra chán nản cảnh làm tay sai cho Pháp, Nhật và muốn bỏ ngũ. Sau khi ta tiến hành tuyên truyền vận động, đã có 6 tên bỏ về quê. Trước khi chuẩn bị đánh đồn, đơn vị cử người báo cho cai Ngọ biết ý đồ đoạt đồn, tước vũ khí và lôi kéo số lính trong đồn theo Việt Minh. Tuy nhiên, sau đó mấy ngày, cai Ngọ vẫn không có động tĩnh gì phúc đáp. Đơn vị lại cho người đến hẹn để bọn lính mở cổng đồn. Ngày 17-4-1945, đồng chí Đàm Quang Trung dẫn trung đội tiến vào. Cai Ngọ mở cổng đồn, cho lính ra ngoài hàng rào đứng xếp hàng, cầm súng ngay ngắn tiếp đón. Đợi chỉ huy đơn vị ta đến nơi, cai Ngọ đứng trước hàng quân hô chào rồi bước lên báo cáo, xin đi theo quân đội cách mạng, theo Việt Minh đánh Nhật, cứu nước. Đồng chí Đàm Quang Trung phát biểu, hoan nghênh những người tình nguyện bỏ hàng ngù địch theo về với cách mạng, còn những người có hoàn cảnh không đi theo thì cho về quê. Đồng chí Đàm Quang Trung giao cho cai Ngọ làm Tiểu đội trưởng (đổi tên đơn vị này thành Tiểu đội Phủ Thông) và đóng lại ngay tại đồn, đổi tên cho cai Ngọ thành Hoàng Triệu Minh. Cai Ngọ dẫn chỉ huy đơn vị vào kho lấy thóc gạo phát cho dân và lấy súng1 (Đàm Quang Trung - Đánh Nhật và tay sai, bảo vệ chiến khu, trong sách Việt Nam giải phóng quân - Nhớ lại bước khởi đầu, Sđd, tr.254-257).


Cuối tháng 4 đầu tháng 5-1945, đơn vị Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy, về đến Chợ Chu đã gặp đơn vị Cứu quốc quân do Chu Văn Tấn chỉ huy. Hai bên thông báo cho nhau tình hình phong trào cách mạng ở những nơi đi qua. Chỉ huy Cứu quốc quân cho biết, phong trào tại Tuyên - Thái phát triển mạnh và đã bắt được liên lạc với Trung ương ở miền xuôi. Hai đơn vị cùng đóng quân tại khu vực Chợ Chu. Sau cuộc liên hoan mừng hội ngộ, các chiến sỹ Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân chia nhau đi làm công tác dân vận.
Đến cuối tháng 4-1945, ở một số địa phương, các đơn vị Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân khác cũng lần lượt gặp nhau tại: Đại Từ (Thái Nguyên), Chợ Đồn (Bắc Kạn); Đầm Hồng, Bản Thi, Chiêm Hoá, Sơn Dương (Tuyên Quang), Văn Mịch (Lạng Sơn). Ngày 10-4-1945, trung đôi Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, do đồng chí Trần Kiên làm Trung đội trưởng và các đồng chí Trần Hổ, Liên chỉ huy tiến xuống giải phóng Đài Thị (Tuyên Quang), gặp trung đội Cứu quốc quân, do đồng chí Lê Thuỳ chỉ huy, tại thị trấn Chiêm Hoá. Hai đơn vị này phối hợp cùng tiến xuống giải phóng Bạch Xa, Hàm Yên.


Ngày 15-4-1945, đơn vị Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân do đồng chí Lê Quảng Ba (Tâm) và các đồng chí Nam Long, Lĩnh Thành từ Chợ Rã (Bắc Kạn) phát triển qua Côn Lôn, Bành Hoành, Vô Điền, gặp cánh quân từ Chiêm Hoá tiến xuống.


Đi đến đâu, các cán bộ, chiến sỹ trong Đội cũng tuyên truyền đường lối chính sách Việt Minh, gây dựng cơ sở chính trị và lực lương vũ trang địa phương. Các đơn vị đã cùng Liên tỉnh ủy lên kế hoạch vừa tuyên truyền, mở rộng cơ sở, vừa đánh địch. Đội dựa vào cán bộ địa phương để tuyển chọn những thanh niên trung kiên, hăng hái, huấn luyện cấp tốc rồi giao công tác hoặc cho vào Đội một thời gian để rèn luyện có thêm kinh nghiệm sau đó cử về địa phương khi cần thiết. Để việc tổ chức cơ sở được bảo đảm, Đội tiến hành trừ gian theo nguyên tắc kiên quyết và thận trọng. Đội chỉ tiêu diệt những tên Việt gian đầu sỏ, có nhiều nợ máu với dân, hoặc tay chân đắc lực của địch, khi không thể cảm hoá được và khi nhân dân yêu cầu. Khi tiến hành công tác vũ trang tuyên truyền, nếu gặp địch, Đội cân nhắc kỹ nếu thấy có lợi cả về quân sự và chính trị, tức là vừa diệt được địch vừa làm cho cơ sở quần chúng vững chắc hơn, mở rộng hơn thì mới đánh. Nếu chỉ lợi về quân sự mà gây khó khăn cho cơ sở thì kiên quyết không đánh, ở những vùng địch kiểm soát hoặc ta chưa có cơ sở, Đội cử các tiểu đội, trung đội hoặc từng đồng chí có năng lực, dũng cảm, giỏi ứng phó, xâm nhập gây cơ sở, từ đó nâng dần quy mô hoạt động lên.


Tiến đến đâu, các đơn vị của Đội đều phối hợp với các hội cứu quốc, Mặt trận Việt Minh địa phương tước vũ khí lính dõng, thu bằng, triện của bọn tổng, lý, trừng trị Việt gian tay sai phản động, thành lập chính quyền nhân dân. Hoạt động tích cực, rộng khắp của Đội Việt Nam tuvên truyền Giải phóng quân đã thu được những kết quả đáng kể. "Bằng công tác vũ trang tuyên truyền, Đội đã tạo nên một khu vực có cơ sở cách mạng rộng lớn từ núi rừng Hoà An giáp tỉnh lỵ Cao Bằng cho đến các châu Nguyên Bình, Ngân Sơn, Chợ Rã và vùng phụ cận các triển núi Phia Uắc, Phia Giả, Phia Bioóc; khu vực này trở thành những căn cứ hoàn toàn, tiến có thể lui, đánh có thể giữ, làm bàn đạp phát triển phong trào về phía Nam"1 (Ban nghiên cứu lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị và Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, tập 1, Sđd, tr.90).
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #27 vào lúc: 06 Tháng Hai, 2015, 07:57:10 pm »

Trước những chuyển biến nhanh chóng của tình hình quốc tế và trong nước, sự phát triển của phong trào cách mạng, sự lớn mạnh của các đơn vị vũ trang sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), nhận định thời cơ Tổng khởi nghĩa đang tới gần, Trung ương Đảng đã triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ tại Hiệp Hoà (Bắc Giang). Tham dự hội nghị có chỉ huy các đội vũ trang và các chiến khu như đồng chí Võ Nguyên Giáp - đại diện của Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, Chu Văn Tấn - đại diện Cứu quốc quân; Văn Tiến Dũng - đại biểu của chiến khu Hoà-Ninh-Thanh (Hoà Bình, Ninh Bình, Thanh Hoá), đại biểu của chiến khu Vĩnh Bình, các chiến khu ở Bắc Trung Bộ, cùng các đồng chí Lê Thanh Nghị, Trần Đăng Ninh... Trong những ngày hội nghị (từ ngày 15 đến 20-4-]945). dưới sự chủ trì của đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh, các đại biểu đã thảo luận và quyết định nhiều vấn đề quân sự liên quan đến cả nước. Sau khi phân tích tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị nhấn mạnh: "Tình hình đã đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần kíp trong lúc này. Chúng ta phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, xây dựng căn cứ địa kháng Nhật để chuẩn bị cuộc Tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ” .


Về chính trị. Hội nghị đề ra nhiệm vụ đoàn kết toàn dân, lôi kéo tất cả các thành phần, tầng lớp vào phong trào cứu quốc, đẩy mạnh phong trào bằng cách kêu gọi nhân dân vũ trang tuần hành trong những vùng chưa phát động chiến tranh du kích. Hội nghị đề nghị triệu tập một đại hội đại biểu gồm tất cả các giới, đảng phái trong toàn quốc để thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng, tiến tới thành lập Chính phủ lâm thời.


Về quân sự. Hội nghị quyết định chia toàn quốc ra thành 7 chiến khu, đề ra nhiệm vụ xây dựng Việt Bắc thành căn cứ địa chống Nhật kiểu mẫu để mở rộng chiến tranh du kích: sáp nhập một số tỉnh trung du và căn cứ địa Việt Bắc để làm vùng hoạt động du kích, bảo vệ căn cứ. Đặc biệt, Hội nghị quyết định thống nhất Cứu quốc quân, Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và các tổ chức vũ trang cách mạng khác thành một lực lượng vũ trang thống nhât có tên là Việt Nam Giải phóng quân, để cùng nhân dân tiến hành khởi nghĩa từng phần, tiến tới Tổng khởi nghĩa. Hội nghị cũng vạch ra những điểm cơ bản để xây dựng Việt Nam Giải phóng quân như: thống nhất biên chế, thống nhất việc huấn luyện chính trị, quân sự; tổ chức công tác chính trị trong bộ đội, trau dồi kỷ luật...


Trong hai ngày 3 và 4-5-1945, tại nhà một cơ sở cách mạng ở xã Định Biên Thượng, huyện Định Hoá, đã diễn ra hội nghị cán bộ vùng giải phóng do đồng chí Võ Nguyên Giáp chủ trì. Dự hội nghị còn có các đồng chí: Song Hào, Chu Văn Tấn, Hoàng Văn Thái, Đàm Quang Trung, Trần Thế Môn, Hoàng Bá Sơn và một số đồng chí khác. Hội nghị tuyên bố việc sáp nhập Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân với Cứu quốc quân theo Nghị quyết của Hội nghị quân sự Bắc Kỳ. Hội nghị bàn và quyết định về tổ chức biên chế, công tác chính trị trong Việt Nam Giải phóng quân. Ngoài ra, hội nghị cũng thảo luận các vấn đề quan trọng khác như: mở rộng vùng giải phóng, củng cố và mở rộng Khu Nguyễn Huệ... Các đồng chí Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Nhị Quý, Lê Trung Đình được bầu vào Khu ủy Khu Nguyễn Huệ, do đồng chí Song Hào làm Bí thư Khu ủy1 (Song Hào - Taan Trào (hồi ký). Nxb Văn hóa - thông tin và Trung tâm UNESSCO Tân Trào xuất bản, Hà Nội, 1997, tr.80).


Chấp hành nghị quyết của Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, ngày 15-5-1945, lễ thống nhất Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và Cứu quốc quân thành Việt Nam Giải phóng quân được tổ chức tại bãi Thàn Mát, gần cây đa đình làng Quặng, xã Định Biên Thượng, huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên. Có mặt tại lễ thông nhất gồm lực lượng của Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân từ Cao Bằng tiến xuống, lực lượng Cứu quốc quân do Chu Văn Tấn phụ trách từ Bắc Sơn - Võ Nhai, Đại Từ lên và lực lượng Cứu quốc 3, do các đồng chí Song Hào. Tạ Xuân Thu phụ trách, từ Tuyên Quang sang. Các lực lượng Việt Nam Giải phóng quân được biên chế thành 13 đại đội. Đồng chí Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh, Chu Văn Tấn làm Chính trị viên. Các đơn vị Việt Nam Ciiải phóng quân được tổ chức thống nhất, mỗi tiểu đội có 12 người, 3 tiểu đội thành 1 trung đội, 3 trung đội thành 1 đại đội. Trang bị vũ khí được tăng cường có cả súng máy, súng cối 60mm, lấy được của Pháp và Nhật. Việt Nam Giải phóng quân là tổ chức có chỉ huy thống nhất, hệ thống tổ chức chặt chẽ, trang bị vũ khí tốt hơn, đã ra đời để cùng với bộ đội địa phương, tự vệ và đông đảo nhân dân chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ chính quyền cách mạng ở những nơi mới thành lập, sẵn sàng tiến lên Tổng khởi nghía giành chính quyền trong cả nước khi thời cơ đến.


Như vậy là, chỉ chưa đầy nửa năm sau ngày thành lập, vừa chiến đấu vừa vũ trang tuyên truyền, Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đã phát triển lớn mạnh nhanh chóng. Sự ra đời và hoạt động của Đội đánh dấu bước phát triển rất quan trọng của lực lượng vũ trang nhân dân ta trong quá trình hình thành và phát triển từ năm 1930, với các đội tự vệ đỏ đến quân đội nhân dân cách mạng hùng mạnh, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại ngày nay... Đó cũng là cái mốc đánh dấu một bước tiến quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Từ đây, đất nước ta có một đội quân chủ lực thống nhất, có cương lĩnh chính trị, quân sự rõ ràng, chiến đấu dũng cảm, liên hệ mật thiết với nhân dân, đã ra quân là đánh thắng.


Trong chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, ngày 22-12-1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nêu lên những tư tưởng lớn về quân sự. Chỉ thị tuy ngắn nhưng rất súc tích, hàm chứa nhiều vấn đề cơ bản về đường lối quân sự của Đảng: vấn đề kháng chiến toàn dân, vấn đề động viên và vũ trang toàn dân, nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, phương châm xây dựng và hoạt động của các thứ quân (quân chủ lực, quân địa phương và lực lượng tự vệ rộng khắp), phương thức hoạt động kết hợp quân sự với chính trị của lực lượng vũ trang, nguyên tắc chiến thuật, tác chiến, cách đánh của lực lượng vũ trang bí mật, bất ngờ, tích cực, chủ động, mưu trí và linh hoạt. Đây là lần đầu tiên Người chỉ thị thành lập một đội quân chủ lực của đất nước và trực tiếp thông qua 10 lời thề danh dự của đội quân đó. Những điều Người viết trong bản chỉ thị lịch sử ấy đều đã trở thành hiện thực, chứng tỏ tầm nhìn chiến lược và dự đoán thiên tài của Người: "Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân là đội quân đàn anh, mong cho chóng có những đội quân đàn em khác.

Tuy lúc đầu quy mô nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của Giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam chúng ta".


“Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân là văn kiện lịch sử. được coi như cương lĩnh quân sự đầu tiên của Đảng ta. Chỉ thị đánh dấu bước hoàn chỉnh lý luận xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng trong thời kỳ khởi nghĩa ở Việt Nam”1 (Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 9, Sđd. tr.285). Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân là một chủ trương sáng suốt, một cương lĩnh quân sự của Hồ Chí Minh. Hình thức hoạt động của đội quân chủ lực này đã được Người đúc rút kinh nghiệm từ hoạt động của các đội du kích trước đó, mà trực tiếp nhất là Đội du kích Pác Bó trong những năm 1942-1943. Tác giả người Nhật Singô Sibata, khi nghiên cứu về chủ trương thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, đã đánh giá cao chủ trương sáng suốt đó: "Những nguyên tắc chỉ đạo cho Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân do cụ Hồ Chí Minh và Đảng Lao dộng Việt Nam đề ra trước cách mạng 1945 tiêu biểu cho môt lý luận độc đáo phù hợp với những điều kiện riêng của Việt Nam”1 (Sigô Sibata – Hồ Chí Minh, Nhà tư tưởng trong sách Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, H.1993, tr.93).
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #28 vào lúc: 06 Tháng Hai, 2015, 07:59:38 pm »

Đánh giá về đội quân chủ lực tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam, ngày 22-12-1947, kỷ niệm năm thứ ba thành lập Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có bài viết kể lại những ngày đầu của Đội. Người viết: "Đội thứ nhất của Giải phóng quân ngày trước là cái hạt giống bé nhỏ, do đó mà nảy nở thành cái rừng to lớn là Vệ Quốc quân ngày nay, nếu người ngoài trông thấy bước đầu của Giải phóng quân thì chắc họ sẽ cho rằng đó là một trò chơi của trẻ con, hay là công việc của mấy người “không tưởng”, chắc họ sẽ mỉa mai rằng:

"Vài chục thằng thanh niên học trò và dân cày, Thổ có, Nùng có, Trại có, Kinh có. Với vài khẩu súng quèn, mươi con dao mã tấu, mà cũng dám gọi là quân, dám gánh vác trách nhiệm giải phóng cho dân tộc".

Nhưng chúng ta đã quyết tâm làm cho kỳ được kế hoạch gây dựng Giải phóng quân, đã giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp thi hành.

Ban đầu lương thực, khí giới, chăn áo, thuốc men, cái gì cũng thiếu thốn. Bộ đội thường phải nhịn đói, nhưng vẫn hăng hái tươi cười.

Chẳng mấy lâu, từ vài chục người đã trưởng thành đến vài trăm người, thanh niên rầm rầm kéo đến xin vào bộ đội. Nhờ đồng bào Việt Bắc hăng hái giúp đỡ mọi mặt, có người bán cả trâu, cả ruộng để giúp, đồng bào các nơi cũng ra sức ủng hộ, bộ đội thì đánh luôn được mấy trận vẻ vang, từ đó, người càng đông, sức càng mạnh... Trông thấy tinh thần hăng hái và kỷ luật nghiêm minh của Giải phóng quân, chẳng những đồng bào cũng yêu mến, mà các người quân nhân ngoại quốc cũng đều phải khen...”1 (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5 (1947-1949), Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, tr. 329).


Mười lời thề danh dự mà các đội viên Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đọc trong buổi lễ thành lập ngày ấy đã trở thành mười lời thề danh dự của quân đội ta về sau1 (Ban nghiên cứu lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị và Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, tập 1, Sđd, tr.86). Mười lời thề thể hiện lên lòng trung thành vô hạn đối với Tổ quốc, với Đảng, tinh thần hy sinh chiến đấu đến giọt máu cuối cùng vì sự nghiệp cách mạng, ý chí kiên quyết tiêu diệt quân thù cướp nước, hết lòng hết dạ phục vụ nhân dân. Nó cũng thể hiện tinh thần đoàn kết và ý thức tổ chức kỷ luật rất cao của một đội quân cảch mạng.


Sự ra đời của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân là một tất yếu lịch sử trong sự nghiệp giải phóng dân tôc của nhân dân ta. Nó đánh dấu một bước ngoặt trên con đường đấu tranh cách mạng của dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của cách mạng nước ta lúc đó. Cổ, kim, Đông, Tây, mọi quân đội sinh ra đều làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ một chế độ, một tập đoàn chính trị, một nhà nước. Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, ngoài chức năng đó, đã đảm đương và làm tốt chức năng mà không phải một đội quân nào cũng có được. Đó là chức năng vận động quần chúng theo phương châm "chính trị trọng hơn quân sự", "tuyên truyền trọng hơn tác chiến”. Tên của Đội và phương châm hoạt động đó không có nghĩa Đội là một đội tuyên truyền xung phong, chỉ giải thích đường lôi chính sách. Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân là một đội quân chủ lực, vừa đánh giặc vừa thường xuyên làm tốt nhiệm vụ vận động cách mạng trong quần chúng. Là một đội quân chủ lực, có quan hệ chặt chẽ với các lực lượng vũ trang địa phương, Đội đã đánh thắng giặc để truyền bá sự nghiệp giải phóng dân tộc, để nhân dân ta hiểu rằng: đã đến lúc cần phải đứng lên đánh đuổi thực dân, đế quốc và có khả năng đánh thắng chúng. Với phương châm hoạt động thích hợp "chính trị trọng hơn quân sự", dùng lực lượng vũ trang để tuyên truyền vận động nhân dân, đội quân chủ lực này đã dìu dắt các đội vũ trang của các châu, huyện, xã; huấn luyện, giúp đỡ vũ khí giúp các đội quân này ra đời và mau chóng phát triển. Mặt khác, Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đã gắn hoạt động quân sự với chính trị, vũ trang với tuyên truyền, tham gia vận động quần chúng, tổ chức hội Việt Minh ở những nơi Đội đi qua. Ra đời và hoạt động tuy chỉ trong một thời gian ngắn, nhưng Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đã đảm đương và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Những thắng lợi cả về quân sự và chính trị của Đội đã góp phần tích cực vào việc củng cố và mở rộng khu căn cứ Cao - Bắc - Lạng, cổ vũ nhân dân thêm tin tưởng ở con đường khởi nghĩa vũ trang, con đường cách mạng của Đảng. Đội đã góp phần to lớn trong việc thúc đẩy phong trào cách mạng tiến lên. Thực tiễn đã chứng tỏ: những hoạt động và ảnh hưởng của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân hồi đó, cũng như sự tồn tại và phát triển của quân đội ta sau này, đã đáp ứng đúng và kịp thời những đòi hỏi của lịch sử, những yêu cầu của công cuộc chuẩn bị Tổng khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở nước ta. Mặt khác, việc tổ chức và hoạt động của Đội cũng đã làm phong phú thêm bài học kinh nghiệm về chỉ đạo hình thức đấu tranh cách mạng của Đảng ta.


Sự ra đời và hoạt động của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân trước ngày Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945 là một hiện tượng lịch sử độc đáo: quân đội có trước chính quyền, đã mở đầu những truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam sau này. Vừa ra đời, dù chưa được huấn luyện quân sự cùng nhau ngày nào, Đội đã ra quân đánh thắng giòn giã trận Phai Khắt và trận Nà Ngần, mở đầu cho truyền thống "đã ra quân là đánh thắng" và truyền thống đánh thắng trận đầu của quân đội ta. Bên cạnh đó, mổi quan hệ mật thiết, gắn bó với nhân dân mà Đội đã xây dựng trong quá trình hoạt động đã góp phần tạo dựng và phát triển tình cảm quân - dân cá nước về sau. Tiếp nối truyền thống đó, quân đội ta ngày nay đã trở thành đội quân của nhân dân, từ nhân dân mà ra, một quân đội do dân và vì dân, và đã đạt được mục tiêu phấn đấu hằng mong đợi là "đi dân nhớ, ở dân thương".
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #29 vào lúc: 12 Tháng Ba, 2015, 09:36:05 pm »

Phần II
VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI HOẠT ĐỘNG CỦA 34 CÁN BỘ, CHIẾN SĨ
ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN

Đại tướng VÕ NGUYÊN GIÁP
(Người được lãnh tụ Hồ Chí Minh giao tổ chức thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân)


Một nhà quân sự lỗi lạc, một nhà văn hoá, nhà khoa học uyên thâm; một hình mẫu lý tưởng về đạo đức và nhân cách sống... tất cả là hiện thân của một con người được suy tôn là "Anh Cả" của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, con người đó chính là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, hay còn có một tên gọi thân mật là "Anh Văn".


Không ít người nhầm tưởng ông là Đội trưởng Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Thực ra, ông là người được lãnh tụ Hồ Chí Minh giao trọng trách tổ chức thành lập và trực tiếp chỉ huy Đội quân chủ lực đầu tiên này.


Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25-8-1911 tại làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Cha ông là một "nhà giáo - nhà Nho" có uy tín trong vùng. Bên họ ngoại cũng thuộc vào hàng dòng dõi; ông ngoại vốn là một lãnh binh của phong trào cần Vương, theo vua Hàm Nghi dấy binh kháng Pháp.


Được sinh ra và lớn lên trong một gia đình như vậy nên tư chất thông minh đã sớm được hình thành và bộc lộ rõ nét ở con người này. Ngay từ thủa thiếu thời, ông đã được nghe một cách say sưa và nhập tâm những câu chuyện Phạm Công - Cúc Hoa, Thạch Sanh... qua lời kể của người mẹ. Lên 5 tuổi, Võ Nguyên Giáp đã được cha cho học chữ Nho. Được nghe những giai thoại hào hùng về Phong trào Cần Vương được nghiền ngẫm những cuốn sách mang nội dung hướng về cội nguồn dân tộc, trong con người Võ Nguyên Giáp bắt đầu hình thành ý thức dân tộc và lòng yêu nước, yêu quê hương.


Năm 1925, khi vừa bước qua tuổi 14, Võ Nguyên Giáp thi vào Trường Quốc học Huế. Từ đây, ông bắt đầu con đường hoạt động cách mạng của mình bằng việc tham gia tích cực vào phong trào đấu tranh đòi ân xá nhà chí sĩ Phan Bội Châu và truy điệu Phan Chu Trinh.


Trong thời gian ở Huế, Võ Nguyên Giáp đã cùng với một số bạn học khác như Hải Triều, Chí Điểu... tổ chức thành lập câu lạc bộ thơ văn yêu nước; vận động học sinh, sinh viên Huế tham dự các buổi đăng đàn, diễn thuyết của "Ông già bến Ngự". Câu lạc bộ này trở thành nơi trao đổi, tìm hiểu các sách báo bí mật như Le Paria (Người cùng khổ), Việt Nam hồn, Bản án chế độ thực dân Pháp... được gửi từ nước ngoài về. Lần đầu tiên trong đời, Võ Nguyên Giáp được tiếp cận với tác phẩm Chủ nghĩa Mác in bằng tiếng Pháp.


Khát khao được đi xa, được mở rộng tầm hoạt động, năm 1927, Võ Nguyên Giáp rời Huế ra Hà Nội, dạy tại trường tư thục Thăng Long. Tại đây, ông tiếp tục theo đuổi chí hướng và con đường hoạt động cách-mạng của mình. Năm 1929, Võ Nguyên Giáp là một trong nhũng thành viên tích cực tham gia cải tổ Tân Việt cách mạng đảng, thành lập Đông Dương cộng sản liên đoàn. Nhận thấy mối nguy hiểm ở con người này, giữa năm 1930, thực dân Pháp đã bắt ông bỏ tù, nhưng một thời gian sau đó, do không đủ chứng cứ, chúng buộc phải thả.


Vừa ra tù, Võ Nguyên Giáp đã lại lao ngay vào hoạt động. Trong những năm 1936-1939, ông tham gia phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dương, làm biên tập viên cho một số tờ báo của Đảng; rồi được làm Chủ tịch ủy ban báo chí Bắc Kỳ trong phong trào "Đông Dương đại hội".


Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Tại Đông Dương, thực dân Pháp tăng cường khủng bố và đàn áp, những sách báo công khai của Đảng đều bị cấm, các tổ chức hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp của Đảng đều phải rút vào bí mật. Trong bối cảnh đó, tháng 4-1940, theo sự phân công của Đảng, thông qua sự hướng dẫn và giới thiệu của đồng chí Hoàng Văn Thụ, Võ Nguyên Giáp cùng với Phạm Văn Đồng vượt biên giới sang Vân Nam tìm bắt liên lạc với Nguyễn Ái Quốc.


Cuộc gặp gõ lịch sử ở công viên Thuý Hồ (Côn Minh) đầu tháng 6-1940 đã tạo ra một bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Võ Nguyên Giáp. Tại đây, lần đầu tiên, ông được gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và được Người trực tiếp huấn thị, chỉ bảo.


Cuối tháng 11-1940, Võ Nguyên Giáp cùng một số đồng chí chuyển đến Tĩnh Tây để chuẩn bị về nước hoạt động. Tại đây, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Phùng Chí Kiên được lãnh tụ Hồ Chí Minh giao mở lớp huấn luyện cho hơn 40 cán bộ nòng cốt vừa mới vượt biên giới sang.


Đầu năm 1941, lãnh tụ Hồ Chí Minh về nước, nhưng Võ Nguyên Giáp vẫn ở lại Tĩnh Tây một thời gian. Cuối năm đó, sau khi về nước, ông được Hồ Chí Minh cử về châu Hoà An mở lớp huấn luyện Việt Minh; rồi tiếp tục được điều về châu Nguyên Bình cũng với nhiệm vụ tương tự.

Sang năm 1942, tại Cao Bằng đã có những châu Việt Minh "hoàn toàn". Thành quả đó có sự đóng góp lớn của Võ Nguyên Giáp.

Sau một thời gian gây dựng, phát triển phong trào ở các xã phía đông Nguyên Bình, Võ Nguyên Giáp cùng với Lê Thiết Hùng lại được điều xuống gây dựng phong trào ở tổng Kim Mã (nam Nguyên Bình) - nơi vừa mới có tổ chức Việt Minh.
Cuối năm 1942, theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh và quyết định của Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng, công tác Nam tiến được đặt ra một cách rất khẩn trương. Võ Nguyên Giáp được Người trực tiếp giao phụ trách Ban xung phong Nam tiến nhằm cấp tốc tổ chức con đường quần chúng từ Cao Bằng qua Ngân Sơn, Chợ Rã đi về miền xuôi.


Sau khi đánh thông con đường Nam tiến, Võ Nguyên Giáp lại quay lên Cao Bằng cùng với Lê Thiết Hùng, Lê Quảng Ba, Bằng Giang, Đặng Văn Cáp, Hoàng Sâm... tiếp tục mở các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ quân sự địa phương.

Giữa năm 1944, phong trào cách mạng đã lan rộng khắp cả nước, các tổ chức Việt Minh ngày càng phát triển, tuy vậy, làn sóng khủng bố trắng của địch cũng-đã lên tới đỉnh điểm. Tháng 7 năm đó, sau khi dự hội nghị cán bộ của Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng, Võ Nguyên Giáp cùng Vũ Anh trở lại Pác Bó, gặp Hồ Chí Minh (lúc này vừa mới trở về từ Trung Quốc). Tại đây, sau khi báo cáo tình hình, Võ Nguyên Giáp đã được Người giao trọng trách "tập hợp những cán bộ, chiến sĩ anh dũng nhất, những vũ khí tốt nhất, tổ chức thành một đội vũ trang tập trung để hoạt động".


Chấp hành chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, ngày 22-12- 1944, tại khu rừng Trần Hưng Đạo, Võ Nguyên Giáp đã đứng ra tổ chức thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và ngay sau đó, chỉ huy Đội làm nên chiến thắng trận đầu tiêu diệt hai đồn Phai Khắt và Nà Ngần.


Tháng 4-1945, thay mặt cho Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Võ Nguyên Giáp về Hiệp Hoà - Bắc Giang tham dự Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ. Hội nghị đã quyết định nhiều vấn đề quan trọng, trong đó có việc thống nhất Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, Cứu quốc quân và các tổ chức vũ trang cách mạng khác vào một tổ chức thống nhất. Ngày 15-5-1945, sau buổi lễ thống nhất tại Định Biên Thượng, Định Hoá, Thái Nguyên, Võ Nguyên Giáp trở thành Tư lệnh các lực lượng vũ trang Việt Nam thống nhất mang tên Việt Nam giải phóng quân.


Ngày 13-8-1945, tại Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương, Võ Nguyên Giáp được cử làm Ủy viên thường vụ Ban Chấp hành Trung ương. Trong thời kỳ Tổng khởi nghĩa, Võ Nguyên Giáp từng là Ủy viên Ủy ban quân sự cách mạng Bắc Kỳ; tham gia Ủy ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng Việt Bắc; tham gia Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc; Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam. Cách mạng tháng Tám thành công, Võ Nguyên Giáp được cử làm Bộ trưởng Nội vụ trong Chính phủ lâm thời; năm 1946, là Chủ tịch quân sự ủy viên Hội trong Chính phủ liên hiệp. Ngày 19-4-1946, Võ Nguyên Giáp làm Phó trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hoà đàm phán với Pháp tại Hội nghị trù bị Đà Lạt. Tháng 11-1946, Ông là Bộ trưởng Quốc phòng kiêm Tổng chỉ huy quân đội. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông được cử làm Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân tự vệ.


Ngày 20-1-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 110/SL phong quân hàm Đại tướng cho Võ Nguyên Giáp.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Võ Nguyên Giáp đã trực tiếp chỉ huy nhiều chiến dịch lớn mang ý nghĩa chiến lược như: Biên Giới (1950), Điện Biên Phủ (1954). Đặc biệt, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, với trọng trách là Bí thư Đảng ủy, Tư lệnh chiến dịch, thấm nhuần lời ủy thác của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc ra trận: "Tướng quân tại ngoại. Trao cho chú toàn quyền quyết định", ông là người đã đề xuất việc thay đổi phương châm tác chiến từ "đánh nhanh, thắng nhanh" sang "đánh chắc, tiến chắc" để bảo đảm chắc thắng. Với tài thao lược về quân sự, sự quyết đoán sáng tạo, khoa học của vị tướng Tổng tư lệnh, Tư lệnh chiến dịch, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thực hiện xuất sắc quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị, chỉ huy cán bộ, chiến sỹ vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, lập nên một Điện Biên Phủ chân động địa cầu.


Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đại tướng Võ Nguyên Giáp với cương vị là Tổng tư lệnh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã cùng với Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương chỉ đạo cuộc kháng chiến của quân và dân ta trên cả hai miền Nam, Bắc và làm nhiệm vụ quốc tế, chỉ đạo nhiều chiến dịch lớn ở miền Nam Việt Nam, trong đó có chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử; chỉ đạo chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ ở miển Bắc Việt Nam.


Đại tướng Võ Nguyên Giáp không chỉ là một nhà cầm quân giỏi mà còn là một nhà lý luận quân sự uyên thâm. Ông là tác giả của nhiều tác phẩm quân sự nổi tiếng được xuất bản ở trong và ngoài nước.

Võ Nguyên Giáp đã từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ khoá II đến khoá VI, Ủy viên Bộ Chính trị từ khoá II đến khoá V; đại biểu Quốc hội từ khoá I đến khoá VII. Ông cũng đã từng trải qua nhiều cương vị quan trọng như: Tư lệnh các lực lượng vũ trang thống nhất mang tên Việt Nam Giải phóng quân (tháng 5-1945); Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ lâm thời (1946); Chủ tịch quân sự ủy viên hội trong Chính phủ Liên hiệp; Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam; Bí thư Quân ủy Trung ương; Phó Thủ tướng, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; Chủ tịch danh dự Hội khoa học lịch sử Việt Nam...


Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã được Nhà nước tặng thưởng:
- Huân chương Sao Vàng;
- Hai Huân chương Hồ Chí Minh;
- Hai Huân chương Quản công hạng Nhất.
Ngoài ra, Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn được tặng nhiều Huân chương, Huy chương cao quý khác của nhiều nước trên thế giới.
« Sửa lần cuối: 12 Tháng Ba, 2015, 09:49:50 pm gửi bởi vnmilitaryhistory » Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM