Trường hợp Trung Quốc
Trường hợp Trung Quốc, mặc dù không phức tạp như vậy, nhưng về phương diện thừa kế nhà nưóc vẫn đặt ra vài khó khăn thực sự.
Khó khăn thứ nhất là vì một số văn kiện do Trung Quốc đưa ra về các quần đảo (đặc biệt vầo năm 1921) là của một chính quyền địa phương không được cả chính quyền trung ương của Trung Quốc và các cường quốc Châu âu thừa nhận.
Vậy, ở chừng mực nào chính quyền trung ương có thể dựa vào các văn kiện đó? Và liệu có thể giải thích được các quan hệ quyền lực tại Trung Quốc và nhất là các quy tắc phân cấp thẩm quyền quốc tế theo các tiêu chuẩn đã được nền văn hóa, chính trị và pháp lý phương Tây rèn giũa hay không?
Từ năm 1949 câu hỏi thứ hai về mặt thừa kế nhà nưóc đã được đặt ra: ai có quyền thừa kế các yêu sách trưóc đây do Trung Quốc đưa ra về các quần đảo, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa hay Trung Hoa Dân quốc?
Luật quốc tế về việc thừa nhận nhà nưóc còn chưa được xây dựng đầy đủ và chỉ đưa lại những giải Pháp không chắc chắn. Luật đó không nói rõ các phương Pháp để xác định một cách chính xác nhà nưóc (hay các chính phủ) kế tục và tiền nhiệm khi có nhiều nhà nưóc tranh chấp nhau. Vấn đề này được giải quyết song phương thông qua thủ tục công nhận. Môi nhà nưóc thành viên của cộng đồng quốc tế được tự do thừa nhận nhà nưóc hay chính phủ theo sự lựa chọn của mình khi có nhiều nhà nưóc tranh chấp.
Tuy nhiên, vẫn có một tiêu chuẩn có trọng lượng thông thường được chấp nhận, đó là tiêu chuẩn về tính thật sự.
Nội dung các quy tắc thừa kế nhà nướcNội dung này bản thân nó là không chắc chắn, thực tiên còn rất khác biệt nhau . (123)
Tuy nhiên, luật quốc tế hiện đại đã nêu ra và cụ thể hóa vài nguyên tắc mới đây cần cho việc giải quyết tranh chấp về các quần đảo.
Trưóc hết, về mặt luật quốc tế, người ta cho rằng các quy chế lãnh thổ có một tính chất khách quan. Vì vậy, chúng không chỉ có giá trị đối với các nưóc ký vào hiệp ưóc (khi các quy chế đó xuất phát từ một hiệp ưóc), hay những nưóc trực tiếp hữu quan, mà chúng có tính bó buộc đối với mọi nưóc.
Sau đó, phải nhấn mạnh đến việc bảo vệ chủ quyền của các đân tộc trong luật quốc tế hiện đại. Quyền này được ghi trong các mục đích của Hiến chương Liên hợp quốc tại khoản 2, điều 1 và đã được nhắc lại trong nhiều văn bản về sau là những văn bản chú ý đến việc phát triển tất cả các kết quả của việc bảo vệ quyền của các dân tộc. Như Nghị quyết 15-14 năm 1960 về bản Tuyên bố trao quyền độc lập cho các nưóc và các dân tộc thuộc địa, đã viết như sau:
“Sẽ phải chấm dứt mọi hành động vũ trang và mọi biện pháp đàn áp, bất kể thuộc loại nào, chống lại các dân tộc phụ thuộc, để các dân tộc đó có thể thực hiện quyền của họ về độc lập hoàn toàn trong hòa bình và tự do, và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia của họ sẽ được tôn trọng" (khoản 4); và cũng như vậy:
"Mọi mưu toan nhằm phá hủy một phân hay hoàn toàn sự thống nhất quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của một nước là không phù hợp vói các mục đích và các nguyên tắc của hiến chương Liên hợp quốc” (đoạn 6).
Cũng theo hưóng đó, Nghị quyết 26-25 năm 1970 với tên gọi là Tuyên bố về các nguyên tắc của luật quốc tế liên quan đến các quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia theo đúng Hiến chương Liên hợp quốc, sau khi nhắc lại nguyên tắc về quyền tự quyết của các dân tộc, văn bản viết:
"Lãnh thổ một thuộc địa hay một lãnh thổ không tự trị khác, căn cứ vào hiến chương, có một quy chê' riêng và khác quy chế lãnh thổ của nước quản lý lãnh thổ đó; quy chê' riêng và khác đó, căn cứ vào hiến chương, tồn tại lâu chừng nào khi mà nhân dân thuộc địa hay lãnh thổ không tự trị vẫn không thực hiện quyền dân tộc tự quyết của họ theo đúng hiến chương và nhất là theo các mục đích và nguyên tắc của nó”,
và tiếp tục:
“Tất cả các quốc gia không được có hành động nào nhằm phá hủy một phần hay hoàn toàn sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia hay một nước khác".
Các văn bản đó đều chứng tỏ rằng luật quốc tế hiện đại, luật phu thực hóa dân hóa đã phát triển những nguyên tắc bảo vệ nhằm ngăn cản không để cho các dân tộc được phi thực dân hóa, khi ra khỏi một thời kỳ thuộc địa kéo dài, lại rơi vào tình trạng lãnh thổ của họ bị cắt xén do sự thờ ơ hay do các tính toán của thực dân. Như vậy, nếu do chính sách của thực dân dẫn đến sự suy yếu tính thật sự trong việc quản lý một lãnh thổ, thì trong trường hợp này không thể đưa đến một tình trạng res derelicta (lãnh thổ bị từ bỏ).
Nguyên tắc cấm thụ đắc lãnh thổ bằng vũ lực
Luật pháp quốc tế cổ điển thừa nhận chinh phục là một thuộc tính của chủ quyền. Đúng là tuy không phải không có một vài khía cạnh tinh vi, vì người ta đã đưa vào từ đầu các suy ngâm về chủ quyền, sự phân biệt chiến tranh chính nghĩa và ... các cuộc chiến tranh khác.
Sau cú sốc của cuộc Chiến tranh thế giói thứ nhất, Hiến ưóc Hội quốc liên đã cấm các cuộc chiến tranh xâm lược, sau đó, ngày 26-8-1928, Hiệp ưóc Briand-Kellog toan tính đặt chiến tranh ra ngoài vòng Pháp luật bằng sự từ bỏ tự nguyện các quốc gia ký kết. Việc cấm sử dụng vũ lực nêu trong điều 2, khoản 4 của Hiến chương Liên hợp quốc có giá trị như một nguyên tắc pháp lý áp dụng cho tất cả các quốc gia.
Nguyên tắc nêu ra năm 1945 đã được phát triển và tăng cường trong Nghị quyết 26-25 năm 1970,
"Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một cuộc chiếm đóng quân sự do sử dụng vũ lực trái vói các quy định của hiến chương. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiêm hữu của một quốc gia khác sau khi dùng đe dọa hay sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào đạt được bằng đe dọa hay sử đụng vũ lực sẽ không được thừa nhận là hợp pháp".Văn bản đó cũng quy định:
"Các quốc gia có bổn phận không dùng đe dọa hay sử dụng vũ lực để vi phạm các biên giói quốc tế hiện có của một quốc gia khác hay như biện Pháp giải quyết tranh chấp quốc tế, kể cả các tranh chấp vê lãnh thổ và các vấn đề liên quan đến các biên giói của các quốc gia”. Như vậy, chính sách pháo thuyền không còn có hiệu lực pháp lý. Sử dụng vũ lực không thể là cơ sở của một quyền.
Khái niệm thời điểm kết tinh tranh chấp
Các tranh chấp quốc tế về lãnh thổ thường dàn trải rất lâu. Khái niệm thời điểm kết tinh tranh chấp được đưa và trong các cuộc tranh luận để làm rõ chúng. Tuy thế không thể chờ đợi ở khái niệm này nhiều hơn cái mà nó có thể đem lại. Cả học thuyết lẫn áp lệ đều đã không thể sự định nghĩa xem cần phải hiểu thời điểm kết tinh là gì và tác dụng thực sự của nó ra sao. Nếu nhiều tác giả đồng ý coi đây là thời điểm mà sau đó các hành vi do các nưóc thực hiện không thể thay đổi các quyền tương ứng của các nưóc đó (124), thì sự lẫn lộn lại nảy sinh với ý tưởng về sự kết tinh tranh chấp. Sự kết tinh có thể là kết quả của một tình hình bị bế tắc, vì các bên đã từ bỏ việc thương lượng, phản đối hay tìm cách thuyết phục nhau.
Khái niệm này đã được tương đối hóa do cả án lệ lẫn các tác giả.
Trong vụ đảo Miquiers và Ecréhous, sự bất đồng giữa Pháp và Anh về thời điểm kết tinh tranh chấp cách nhau tói trên một thế kỷ (đối với nưóc Pháp là năm 1939, còn đối với nưóc Anh là năm 1956).
Toàn án chấp nhận ý kiến rằng khi có một sự kết tinh tranh chấp thì bằng chứng được tạo ra sau đó không còn có giá trị. Thời điểm kết tinh được xác định vào thời điểm có một yêu sách chính thức được đưa ra. Nhưng Tòa cũng không khưóc từ xem xét các sự việc xảy ra sau thời điểm đó, và coi đó như là biểu hiện của sự phát triển liên tục và với điều kiện
"không kể các biện Pháp có thể đã được sử dụng nhằm cả thiện vị thê 'về quyền của bên hữu quan” .(125)
Trong vụ Đông Groenland, Tòa đã chọn thời điểm kết tinh là ngày 10-7-1931, thời điểm Nauy chiếm đóng lãnh thổ tranh chấp. Đan Mạch cho rằng vào thời điểm này họ đã có một danh nghĩa được xác định từ lâu, phải chứng minh giá trị của danh nghĩa vào thời điểm đó .(126)
Do đó, quan điểm do A.G. Roche đưa ra vào năm 1959 (127) phải chăng bao giờ cũng có giá trị và sẽ vẫn như thế mãi:
"Tóm lại, Tòa cho rằng mình có quyền rộng rãi đối vói tất cả những vụ việc xảy ra trong tương lai vì các quy tắc được áp đụng chỉ là những quy tắc prima facie (khởi đâu). Các quy tắc này có thể bị các bên thay thế và dù sao chúng cũng không đủ ăn sâu vào thủ tục tài phán để có thể thực sự ràng buộc Tòa; đo đó không thể dự kiến thái độ chính xác của Tòa sẽ là thế nào đối vói các vụ việc trong tương lai''. Thực ra, về phương diện này mỗi vụ tranh chấp là một unicum (thể thống nhất), vì các vụ phát triển rất tuần tự. Một số vụ khác lại nổi lên theo từng thời kỳ rồi sau nguội lạnh và đôi khi lại có những đột biến có tính quyết định.
Một số tác giả đã thử đưa ra ý kiến về thời điểm kết tinh tranh chấp của cuộc tranh chấp các quần đảo của biển Nam Trung Hoa.
Choon Ho Park cho rằng thời điểm bắt đầu tranh chấp này là những năm 1880, theo ông, là thời điểm bắt đầu có một cuộc tranh chấp thật sự để giành việc kiểm soát các đảo. Và ông kể ra Công ưóc hoạch định biên giới năm 1887 như thời điểm có sự tăng cường tranh chấp .(128)
Thật khó có thể chấp nhận quan điểm của ông ta trong việc phân tích này. Công ưóc Pháp-Thanh năm 1887 không xử lý các quần đảo và do đó không thể có các hậu quả pháp lý, dù là gián tiếp, đối với quy chế của chúng.
Nếu cho rằng những năm 1880 là quan trọng trong cuộc tranh chấp này thì đó đứng trên một cơ sở khác như được trình bày. Khi đó, danh nghĩa của Việt Nam là đã có và thật sự. Danh nghĩa đó không bị Trung Quốc tranh cãi cả trên thực địa lân về phương diện ngoại giao. Đúng vậy, đó là những năm trưóc Việt Nam chuyển sang các bàn tay khác do tác động của chế độ bảo hộ được tăng cường trong năm 1884. Sự không biết hoặc cẩu thả của chính quyền thực dân, nếu họ bị một quốc gia lợi dụng trong tình hình đó để cạnh tranh, cũng không thể có hậu quả là tạo nên những quyền lợi cho quốc gia đó.
Chính vì lý do đó chứ không phải vì những lý do mà ông Choon Ho Park đưa ra mà những năm 1880 là những năm bản lề của cuộc tranh chấp này. Ớ đây, có lý do để áp dụng lập luận của Trong tài Max Huber khi ông viết:
"Không nhất thiết phải chứng minh rằng việc thực thi chủ quyền đã bắt đâu vào một thời kỳ nhất định; chỉ cần chủ quyền đó đã được thực thi trong giai đoạn tới hạn trước năm 1898 là đủ'' .(129)
Đối với cuộc xung đột đương đại về các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, do thiếu sự thể hiện các yêu sách của Trung Quốc vào thế kỷ XVIII và XIX, điều mấu chốt cho lập luận là việc thực thi chủ quyền của Việt Nam đã không gặp phải sự phản kháng nào suốt một thời gian rất dài.
Kriangsak Kittichaisaree, về phần ông, không có ý kiến nhiều đến khái niệm thời điểm kết tinh tranh chấp nhưng cũng thừa nhận là các yêu sách chống đối nhau
chỉ thực sự nổi lên từ sau những năm 1880 .(130)
Cuối cùng Jean Pirre Ferrier nhắc lại rằng khi vấn đề thời điểm tói hạn đặt ra với quan tòa hay trọng tài, cho dù chưa bao giờ xác định nó cũng như không đưa ra các tiêu chuẩn, ông công nhận đối với tranh chấp các quần dảo này thì tầm quan trọng là năm 1937 (thời điểm chiếm đóng thật sự của Pháp cũng là thời điểm pháp đề nghị về một giải pháp qua tài phán hay trọng tài).
Tuy nhiên, ông coi năm 1954, thời gian kết thúc sự có mặt của Pháp ở Việt Nam, như thời điểm tượng trưng nhất cho sự kết kinh tranh chấp .(131)
Không đặt quá nhiều kỳ vọng vào khái niệm thời điểm kết tinh tranh chấp, việc quan trọng cần nhắc lại và vấn đề này gắn liền với bản chất páp lý của cuộc tranh chấp. Ngược lại với những gì thường được bảo vệ, cuộc tranh chấp này không hưóng về tính hợp pháp của việc thụ đắc một lãnh thổ bởi một quốc gia có lẽ bắt đầu chiếm cứ một res nullius (vật vô chủ). Nó cũng không phải là sự tranh đua giữa hai quốc gia có tham vọng có thể so sánh, do đó cần phải đo sức nặng pháp lý tương ứng.
Đơn giản hơn là ở đó đã có một danh nghĩa được xác lập chắc chắn, đó là danh nghĩa của các chúa Việt Nam được thực hiện một cách hòa bình hàng thập kỷ và cần phải xem xét xem liệu nó có thể bị mất trưóc việc thụ đắc theo thời hiệu của một chủ thể khác của luật hay không . (132)
Ớ đây chúng ta cần sử dụng các công cụ pháp lý khác nhau đó để xem xétnhững gì đã trở thành các quyền được bên này hay bên kia khắng định trong suốt thời kỳ thực dân và sau đó thời kỳ hậu thực dân.
-------------------
123 Có hai Công ước Viên, một công ước về sự kế thừa giữa các nhà nước về vấn đề điều ước (1978), và một về sự thừa kế giữa các nhà nước về các vấn đề khác không phải là điều nước (1983), nhưng cả hai chưa có hiệu lực vì chưa đủ số nước phê chuẩn
124 Xem J.p. Ferrier: Tranh chấp các quần đảo Hoàng Sa và vân đề chủ quỳên trên các đảo không người ở. Niên giám của Pháp về luật quốc tế,1960, tr. 187 và tiếp theo.
125 Toàn án quốc tế, Tuyển tập, 1953, tr. 53
126 Vu Dông Groenland, Tòa an pháp lý quốc tế thường trực, ngày 5-4-
1933, Tuyển tâp Serie A-B, tr. 45.
127- A.G. Roche: Vu Minquiers và Ecréchous, Luân an so 115, Genève
1959, tr. 104.
128 Choon Ho Park: Các cuộc tranh chấp ở biển Nam Trung Hoa. Tạp chí Phát triển đại dương và luật quốc tế, t.5, số 1-1978. tr.33
129 Phát quyết trọng tài ngày 4-4-1928 giữa Mỹ và Hà Lan trong vụ tranh chấp chủ quỳên đối với đảo Palmas, Tạp chí tổng quan Công pháp quốc tế, 1935, tr. 198
130 Kriangsak Kittichaisaree: Luật biển và việc phân định biên giới biển tại Đông Nam Á, tr. 142
131 Jean Pirre Ferrier: Tranh chấp các đảo Hoàng Sa và vân đề chủ quỳên trên các đảo không người ở. Niêm giám của Pháp về luật quốc tế,tr.180
132 Xem Sir Gérald Pitzaurice: Luật và thủ tục của Tòa án pháp lý quốc tế, Niên giám luật quốc tê'của Anh quốc, 1955, q.6, tr.30 và tiếp theo.