Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 05:11:04 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 9  (Đọc 72165 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #60 vào lúc: 22 Tháng Chín, 2014, 10:18:15 pm »

3. Huy động, phối hợp mọi lực lượng đẩy mạnh hoạt động đối ngoại và đấu tranh ngoại giao

Xuất phát từ chủ trương chiến lược kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, ta đã chủ động, tích cực, linh hoạt sử dụng nhiều hình thức tổ chức, nhiều phương thức đấu tranh huy động nhiều lực lượng tham gia, phối hợp chặt chẽ các hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Về mặt Đảng, những vấn đề lớn về đường lối độc lập, tự chủ, đoàn kết quốc tế, đoàn kết các Đảng Cộng sản, đoàn kết Xô - Trung, đoàn kết ba nước Đông Dương, đường lối tiến công, kiềm chế, kéo Mỹ xuống thang, mở đường cho Mỹ ra khỏi miền Nam… do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị và Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo, qua thực tế kiểm nghiêm đã khẳng định là kịp thời, đúng đắn, sáng tạo và sắc bén. Vào những thời điểm bước ngoặt, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã có những quyết sách kịp thời, ở tầm trí tuệ cao thể hiện tư duy và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh, rất chủ động, kịp thời đạt hiệu quả cao như: Miền Nam hòa bình và trung lập (1960), lập trường bốn điểm (1965), Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc mới nói chuyện (1967), dự thảo hiệp định để kết thúc đàm phán (10-1972)…

Trong quá trình nhân dân Việt Nam tiến hành kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã xuất hiện sự bất đồng, mất đoàn kết nghiêm trọng trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ngay từ những năm đầu thập niên 60 thế kỷ XX và mức độ ngày càng gia tăng. Dù vậy, Đảng Lao động Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn trước sau kiên định chủ trương bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, chống những biểu hiện của chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa giáo điều. Trong khi đấu tranh với những khuynh hướng sai trái, phương châm của ta là: Không khoan nhượng về nguyên tắc, nhưng xuất phát từ đoàn kết mà đấu tranh để tăng cường đoàn kết; cần có thái độ có lý, có tình, tùy tình hình cụ thể và đối tượng cụ thể mà dùng phương pháp và hình thức đấu tranh thích hợp.

Tại Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và Công nhân quốc tế họp ở Mátxcơva (11-1960), đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu đã tích cực và chủ động giải quyết bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc, góp phần quan trọng vào việc ký kết bản tuyên bố chung của Hội nghị. Bên cạnh những hoạt động trực tiếp thuyết phục Liên Xô và Trung Quốc tiến hành đàm phán, thương lượng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nhiều lần kêu gọi các đảng anh em chấm dứt tranh luận công khai, họp hội nghị quốc tế các đảng để giải quyết bất đồng. Nhưng khi thấy việc họp hội nghị các đảng đã bị các bên tranh chấp sử dụng để tập hợp chống phá lẫn nhau, gây thêm chia rẽ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã hết sức tránh những việc có thể đào sâu thêm hố ngăn cách và luôn luôn cảnh giác đối với âm mưu chia rẽ của kẻ thù.

Những quan điểm và phương pháp hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam tại Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và Công nhân quốc tế và trong đối thoại quốc tế trong những năm 60 và 70 thế kỷ XX thực sự là những cống hiến quan trọng cho việc bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, góp phần làm chậm quá trình phân liệt và giảm bớt các tác động tiêu cực đối với phong trào cộng sản quốc tế và đối với cả nước ta.

Về mặt nhà nước, ta đã tăng cường mối quan hệ nhà nước với chính phủ các nước xã hội chủ nghĩa, các nước trong phong trào Không liên kết và các nước khác có quan hệ nại giao chính thức hoặc bán chính thức với ta. Để tạo điều kiện thuận lợi và hợp pháp cho hoạt động đối ngoại ở miền Nam Việt Nam, tháng 12-1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra đời, và tháng 6-1969, Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam chính thức được thành lập. Về hình thức ngoại giao, trên thực tế có khi ở trên cùng một quốc gia nào đó trên thế giới đồng thời tồn tại hai cơ quan ngoại giao đại diện (một của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam). Song, tựu trung, công tác ngoại giao của hai miền đều do một đảng - Đảng Lao động Việt Nam trực tiếp lãnh đạo, cùng thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược chung của cách mạng Việt Nam, cùng đại diện cho một dân tộc quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ ngoại giao lần thứ 5, ngày 16-3-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nét đặc thù và mối quan hệ phối hợp giữa ngoại giao miền Nam và miền Bắc: “Bây giờ ngoại giao của ta vừa là một mà vừa là hai; vừa là hai mà lại là một. Ta vừa có ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vừa có ngoại giao của Mặt trận Dân tộc giải phóng. Hai cái vừa là hai lại vừa là một, vừa là một lại vừa là hai. Hai khối đó phải kết hợp chặt chẽ với nhau. Có khi Mặt trận nói chứ Việt Nam Dân chủ cộng hòa nói thì không đúng. Có khi cả hai đều nói. Phải đoàn kết chặt chẽ với nhau, cùng bàn bạc với nhau”(1).

Thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí minh, cơ quan ngoại giao hai miền đã cùng nhau bàn bạc, phát huy vai trò chủ động, độc lập theo đặc thù của ngoại giao mỗi miền để bổ sung cho nhau, phối hợp chặt chẽ và nhịp nhàng nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của nền ngoại giao Việt Nam.

Ngoại giao miền Bắc đã làm hết sức mình giúp đỡ ngoại giao miền Nam về chủ trương, bộ máy tổ chức cán bộ; giới thiệu Mặt trận với các nước mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã có quan hệ ngoại giao từ trước.


(1) Bộ Ngoại giao Việt Nam: Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.282.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #61 vào lúc: 22 Tháng Chín, 2014, 10:18:34 pm »

Từ lúc mới ra đời, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam đã giương cao ngọn cờ hòa bình, trung lập, khẳng định quyết tâm cùng nhân dân các nước chặn tay bọn hiếu chiến, giữ gìn hòa bình. Khẩu hiệu “hòa bình” tranh thủ được sự ủng hộ của tất cả những ai muốn hòa bình, phản đối chiến tranh. Khẩu hiệu “trung lập” nhằm mở rộng mặt trận đoàn kết quốc tế, không phân biệt chính kiến, đảng phái, tôn giáo. Do đó, trên thế giới có những lực lượng không tán thành chủ nghĩa xã hội, nhưng lại nhiệt tình ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân miền Nam Việt Nam.

Chủ trương miền Nam hòa bình, trung lập góp phần gắn cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam với phong trào bảo vệ hòa bình thế giới, với phong trào các nước Không liên kết, tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế rộng rãi, đồng thời đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, chống chủ nghĩa đế quốc hiếu chiến và xâm lược.

Nhờ kết hợp hoạt động ngoại giao nhà nước ở cả hai miền, ta đã phát huy mạnh mẽ được thanh thế của lực lượng kháng chiến. Uy tín của Mặt trận và Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam ngày càng được nâng cao, các nước trên thế giới ngày càng hiểu rõ đường lối, chính sách của ta, càng đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ cuộc chiến đấu của nhân dân ta ở hai miền Nam, bắc.

Đi đôi với hoạt động ngoại giao của Đảng, Nhà nước, ta đã đẩy mạnh hoạt động ngoại giao nhân dân, hình thành phương thức ngoại giao rất đa dạng và phong phú. Thông qua các phương tiện báo chí, phát thanh, các cơ quan đại diện ngoại giao, các hội nghị, hội thảo quốc tế, các đoàn cán bộ của Bộ Ngoại giao, các tổ chức công đoàn, nhà báo, thanh niên, phụ nữ, tổ chức hòa bình… được cử đi công tác nước ngoài đều làm tốt nhiệm vụ tuyên truyền tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến, đồng thời vạch mặt kẻ thù xâm lược, làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ và cảm thông sâu sắc với cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam, đoàn kết với Việt Nam chống lại quân xâm lược Mỹ. Ở miền Nam, các đoàn thể trong Mặt trận như thanh niên, phụ nữ, công đoàn, hội Lục hòa (tức đại diện Phật giáo), Công giáo kháng chiến, Hội nhà báo, Hội nhà văn kháng chiến… đều tranh thủ tham gia các hoạt động quốc tế lớn và triển khai các hoạt động ngoại giao rất có hiệu quả, góp phần thúc đẩy sự hình thành phong trào các nước đoàn kết với Việt Nam.

Để có được những kết quả to lớn về công tác hoạt động đối ngoại và đấu tranh ngoại giao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, ngoài việc định ra đường lối, chủ trương đúng, Đảng và Nhà nước ta còn chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đối ngoại và ngoại giao. Trong cuộc đụng đầu lịch sử này, ngoại giao Việt Nam vừa chiến đấu vừa xây dựng, từng bước trưởng thành. Ngoại giao đã tham mưu cho Đảng và Nhà nước về đánh giá đối phương, phân tích thời cuộc, tìm hiểu bạn bè; quan trọng là tham mưu đúng và trúng về các chủ trương, biện pháp hoặc khi có tình thế mới xuất hiện.

Đặc biệt trong lĩnh vực này, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước đã trực tiếp chỉ đạo và đích thân tiến hành hoạt động đối ngoại và đấu tranh ngoại giao, bảo đảm cho mặt trận đấu tranh này có được tầm cao trí tuệ, uy tín sâu rộng, sức thuyết phục to lớn và bản lĩnh vững vàng. Với tư tưởng “cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới”, “giúp bạn là tự giúp mình”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gắn đất nước với quốc tế, dân tộc với thời đại. Đã tiến hành những hoạt động ngoại giao hết sức sắc bén và có hiệu quả, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa và của lực lượng yêu chuộng hòa bình và tiến bộ trên toàn thế giới, kể cả ở những nước tư bản, đế quốc. Chính là từ Chủ tịch Hồ Chí Minh mà sức mạnh của thời đại được kết hợp với sức mạnh của dân tộc và đã tạo nên sức mạnh tổng hợp đánh thắng kẻ thù xâm lược, tăng cường tình đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân thế giới và nâng cao vị thế của dân tộc ta, đất nước ta.

*
*   *

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, được sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng Lao động Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân tố trong nước và quốc tế, nội lực và ngoại lực đã được kết hợp chặt chẽ và phát huy lên tầm cao mới, tạo nên sức mạnh tổng hợp ưu trội hơn đối phương trong từng giai đoạn và trong toàn bộ quá trình chiến tranh. Nội dung cơ bản và xuyên suốt của sự kết hợp này nói rõ đặc điểm của cách mạng Việt Nam là chỉ có nêu cao độc lập dân tộc, phát huy độc lập tự chủ mới thực hiện được đoàn kết quốc tế, phát huy được sức mạnh của thời đại trong việc thực hiện nhiệm vụ dân tộc. Mặt khác, thực hiện tốt đoàn kết quốc tế và tăng cường được sức mạnh dân tộc.

Sức mạnh dân tộc được phát huy trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, suy cho cùng, là biểu hiện tập trung của tinh thần đoàn kết, nhất trí cao độ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta; của ý chí thống nhất Bắc - Nam. Đồng thời, lần đần tiên trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, sức mạnh dân tộc được sự hỗ trợ to lớn và có hiệu quả của sức mạnh thời đại; và thực sự, sức mạnh dân tộc càng được củng cố khi nó bắt gặp và kết hợp với sức mạnh do thời đại đưa lại.

Thực tiễn của quá trình tổ chức, phát huy sức mạnh dân tộc trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thực sự là bài học lịch sử còn nguyên giá trị đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #62 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2014, 09:21:18 pm »

Chương 40

PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM

I - TIẾP NỐI TRUYỀN THỐNG QUÂN SỰ DÂN TỘC TRONG THỜI ĐẠI MỚI

1. Truyền thống quân sự dân tộc

Lịch sử dân tộc ta từ thời Hùng Vương dựng nước Văn Lang đến nhà nước cách mạng ra đời là lịch sử của quá trình xây dựng gắn liền với những cuộc kháng chiến chống xâm lược để bảo vệ nền độc lập, tự do, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Trải qua biến thiên của lịch sử, nhà nước Văn Lang, Âu Lạc ngày càng được mở rộng và hoàn thiện dần cương vực lãnh thổ thành nước Vạn Xuân, Đại Cồ Việt, Đại Việt, Đại Nam đến Việt Nam, nhân dân ta đã phải chiến đấu quyết liệt, giành giật từng tấc đất giang sơn với các cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo của các tập đoàn phong kiến phương Bắc đế quốc Pháp, phát xít Nhật, rồi đế quốc Mỹ. Suốt hơn 30 thế kỷ, lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh yêu nước, chiến tranh cách mạng chống sự xâm lược của ngoại bang, mà mở đầu là cuộc kháng chiến chống Tần của quân dân Âu Lạc thế kỷ thứ III (TCN) và cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40 lật đổ ách thống trị của nhà Đông Hán, giành độc lập dân tộc. Những chiến thắng đầu tiên này chẳng những thể hiện ý chí, khát vọng độc lập dân tộc, tinh thần chiến đấu kiên cường của nhân dân Âu Lạc, mà còn mở đầu truyền thống chiến tranh nhân dân “cả nước đánh giặc”, “trăm họ là binh”, đồng thời đặt viên gạch đầu tiên cho nền nghệ thuật quân sự “lấy ít đánh nhiều, “lấy nhỏ thắng lớn” của dân tộc ta. Tuy cuộc chiến tranh nhân dân thời An Dương Vương, Hai Bà Trưng mới manh nha nhưng nó là cái vốn quý đầu tiên dựng nền độc lập của tổ tiên “con Lạc cháu Hồng”, là tiền đề cho sự phát triển nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam những thế kỷ sau phong phú hơn.

Nền độc lập, tự chủ của nước Âu Lạc do Hai Bà Trưng lãnh đạo chỉ tồn tại được ba năm. Năm 44, Nhà Đông Hán lại xâm lược nước ta một lần nữa. Từ đây, nhân dân Âu Lạc rơi vào ách thống trị của các triều đại phong kiến phương Bắc suốt hơn 1.000 năm.

Quãng thời gian hơn 10 thế kỷ chống các tập đoàn phong kiến phương Bắc (nhà Tần, Đông Hán, Nam Hán...) xâm lược để giành và giữ nền độc lập, tự chủ, nhân dân ta đã sáng tạo ra các cách thức tiến hành khởi nghĩa và chiến tranh mưu trí, đạt hiệu quả cao và được các thế hệ kế tiếp[256] vận dung, phát triển dần dần trở thành truyền thống quân sự tốt đẹp của dân tộc Việt Nam và biểu hiện của nó là:

1- Khởi nghĩa đi liền với chiến tranh giải phóng

Việt Nam là một nước nhỏ, người ít. Vì thế, các thế lực xâm lược phương Bắc cũng như phương Tây, Bắc Mỹ qua các thời đại, đều ngoan cố, nham hiểm, “thua keo này chúng bày keo khác” quyết liệt tàn bạo hơn, không bao giờ chúng chịu rút lui khi chưa bị đánh bại. Những người lãnh đạo tiến bộ và nhân dân ta từ thời Thục Phán, Hai Bà Trưng khởi nghiệp đến ngày nay đều thấy rõ âm mưu, bản chất của kẻ thù, nên khi chuẩn bị khởi nghĩa cùng đồng thời chuẩn bị lực lượng, ý chí quyết tâm sẵn sàng kháng chiến. Nhờ đó, nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến một cách chủ động; không bị bất ngờ. Khởi nghĩa đi liền với chiến tranh giải phóng và kháng chiến toàn dân trở thành truyền thống quý báu, một trong những quy luật giành và giữ nền độc lập, thống nhất của dân tộc ta. Từ quy luật của lịch sử ngàn năm dựng nước của cha ông, Đảng Lao động Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng, phát triển, dự kiến các tình huống sẽ diễn ra trong thời kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Trong chống Pháp, Đảng lãnh đạo nhân dân chuẩn bị mọi mặt để làm cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945, đồng thời cũng chuẩn bị trước về lực lượng, tư tưởng, quyết tâm sẵn sàng tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Trong cuộc đấu tranh chống Mỹ và tay sai cai trị miền Nam bằng chủ nghĩa thực dân mới, Đảng chủ trương “khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân” và chuẩn bị trước về tổ chức, lực lượng, quyết tâm bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, nếu chúng gây ra. Nhờ dự kiến đúng các tình huống chiến tranh xảy ra, nhân dân ta ở hai miền bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ một cách chủ động, bình tĩnh, tự tin và đã giành thắng lợi cuối cùng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #63 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2014, 09:21:42 pm »

2- Khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân

Những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược thời An Dương Vương, Hai Bà Trưng, Lý Bí, Triệu Quang Phục, Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền là những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chính nghĩa. Mục đích là nhằm giải phóng nhân dân, giành độc lập, tự chủ, nên được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân và dân tộc. Những người lãnh đạo khởi nghĩa và kháng chiến có quan điểm tư tưởng tiến bộ, biết dựa vào dân, có phẩm chất, năng lực tổ chức tốt, thu phục được lòng dân, được dân tin, nghe theo lời kêu gọi của những người lãnh đạo đã đứng lên kháng chiến anh dũng. Trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40, sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép rằng: Quân Hai Bà đi đến đâu như gió lướt đến đấy. Các tộc Nam Di ở Cửu Châu, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng theo, lấy lại và dẹp yên được 65 thành ở đất Lĩnh Nam. Đây là một minh chứng cho tính toàn dân của các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng không chỉ thời An Dương Vương, Hai Bà Trưng, mà xuyên suốt cả các cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong hơn 1.000 năm Bắc thuộc. Tuy tính nhân dân hồi đó còn hạn chế nhiều mặt, sức mạnh dân tộc chưa bộc lộ hết, nhưng nó đã đặt nền móng đầu tiên xây nên truyền thống khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng của dân tộc ta.

3- Đánh lâu dài, thực hiện cách đánh du kích, “lấy nhỏ thắng lớn”, “lấy ít địch nhiều”

Khi người xưa lựa chọn phương châm đánh lâu dài là đã căn cứ vào tình hình đất nước, căn cứ vào so sánh lực lượng giữa ta và đối phương, từ đó đề ra phương pháp tác chiến du kích “lấy nhỏ thắng lớn”, “lấy ít địch nhiều”. Đây là tư tưởng quân sự lớn, đặc sắc của tổ tiên ta và dần qua năm tháng chống xâm lược trở thành nghệ thuật đánh giặc độc đáo của dân tộc Việt Nam. Bởi vì, “lấy nhỏ thắng lớn”, “lấy ít địch nhiều” là phương pháp đánh giặc khó thành công, thậm chí không có tính khả thi, nên ít quốc gia lựa chọn. Song, đối với dân tộc Việt Nam “lấy nhỏ thắng lớn”, “lấy ít địch nhiều” là một quan điểm, tư tưởng quân sự, nghệ thuật quân sự căn bản, một cách đánh giặc độc đáo mà tính hiệu quả của nó đã được khẳng định trong quá trình lịch sử các cuộc chiến tranh giải phóng, cứu nước của nhân dân ta. “Lấy nhỏ thắng lớn”, “lấy ít địch nhiều” là so sánh trên bình diện chiến lược về đất đai, dân số, về tiềm lực chiến tranh, khả năng huy động lực lượng và sử dụng lực lượng đó trong chiến tranh của đối phương so với ta. Nhưng trong phạm vi chiến dịch, chiến thuật mặc dù bị chiến lược tác động, chi phối, nhưng dân tộc ta đã biết phát huy tính độc lập tương đối của chiến thuật, tìm ra các cách đánh “thiên biến vạn hóa” mà kẻ thù không tài nào chống đỡ nổi. Vì vậy, “lấy ít địch nhiều”, “lấy nhỏ thắng lớn” trở thành truyền thống quân sự, nghệ thuật quân sự đặc sắc của dân tộc ta. Nhân dân ta đã biến một cái “khó có khả năng” hoặc “không có khả năng” thành một cái “có khả năng” to lớn để chiến thắng kẻ thù trong cuộc chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, là một trong những sáng tạo “độc nhất vô nhị” không những ở phạm vi chiến thuật, mà còn ở phạm vi chiến lược góp phần làm phong phú kho tàng nghệ thuật quân sự nước nhà.

Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta đã ghi rõ, dưới sự lãnh đạo, chỉ huy của vua hiền, tướng giỏi từ An Dương Vương, Hai Bà Trưng tiến hành đấu tranh giành nền độc lập, tự chủ đến các cuộc kháng chiến anh dũng của Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Quang Trung, nhân dân ta chẳng những xây nên truyền thống yêu nước và khát vọng độc lập, tự do, mà còn sáng tạo ra truyền thống chiến tranh nhân dân thần kỳ. Bằng nghệ thuật đánh giặc “trì cửu chiến” của ba thứ quân, đồng thời tạo thời cơ mở cuộc tiến công thần tốc giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn, với phương thức tác chiến tổ chức phòng ngự tích cực, đánh du kích, kết hợp với tiến công trận địa kiên quyết đã đưa cuộc chiến tranh nhân dân hình thành từ buổi bình minh dựng nước, phát triển phong phú, đa dạng về nội dung và hình thức, thành cuộc chiến tranh nhân dân “cả nước một lòng, chung sức đánh giặc”, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Đó là truyền thống nghệ thuật quân sự đánh giặc, cứu nước của quân, dân Âu Lạc, Vạn Xuân, Đại Cồ Việt, Đại Việt được khái quát: “Bất kể so sánh lực lượng như thế nào, quy mô tác chiến như thế nào, đều biết kếp hợp tinh thần dũng cảm với trí thông minh sáng tạo, tạo nên sức mạnh áp đảo tiêu diệt quân địch, giành thắng lợi lớn”(1). Đó là nghệ thuật đánh địch trên thế mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam.

Chiến tranh nhân dân ra đời là đóng góp của tổ tiên đối với việc hình thành, phát triển nền nghệ thuật quân sự và tư tưởng quân sự nước nhà. Tuy vận, chiến tranh nhân dân ngày trước còn hạn chế nhiều mặt, người dân không có điều kiện phát triển hết sức mạnh của mình, vì họ là “bầy tôi” của các đấng quân vương đang thống trị họ. Phải đợi đến thời đại Hồ Chí Minh, chiến tranh nhân dân mới phát triển lên tầm cao mới toàn dân, toàn diện, sức mạnh của mọi tầng lớp trong xã hội được phát huy đầy đủ, vì họ đã được giải phóng khỏi ách nô lệ, trở thành người chủ của đất nước độc lập, tự do, bình đẳng.


(1) Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên mới, Tạp chí Cộng sản, tháng 5-1979.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #64 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2014, 09:24:06 pm »

2. Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh

Quá trình đi tìm đường cứu dân, cứ nước, Nguyễn] Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đỉnh cao của trí tuệ loài người. Sự tìm tòi, khảo nghiệm qua quá trình tìm đường cứu nước và vai trò là người lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã đúc rút thành hệ thống những luận điểm về cách mạng dân tộc, cách mạng dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa quyện chặt nhau, thành cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa; luận điểm về sự kết hợp nhiệm vụ giải phóng dân tộc với nghĩa vụ quốc tế; về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về đảng cầm quyền; về vai trò của nhân dân trong các cuộc cách mạng đó, v.v. Đó chính là tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh, mà tư tưởng quân sự là một bộ phận hợp thành. Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh được hiểu là những vấn đề có tính quy luật của khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, về quốc phòng và quân đội Việt Nam trong thời đại mới, nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; là sản phẩm tổng hợp của quá trình vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận quân sự của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng và chiến tranh cách mạng Việt Nam, kế thừa và phát triển truyền thống quân sự của dân tộc Việt Nam, tiếp thu tinh hoa quân sự cổ, kim, đông, tây của nhân loại. Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là một bộ phận hợp thành tư tưởng quân sự cách mạng đó của Người. Với tầm nhìn sâu rộng và trí tuệ uyên bác, Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng quân sự Việt Nam truyền thống lên tầm cao khoa học và hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển của phong trào cách mạng và kháng chiến của Việt Nam. Để tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, là những đế quốc giàu mạnh, hiện đại hơn ta gấp nhiều lần, ta phải động viên nhân dân tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”(1). Tin tưởng vào nhân dân, nhìn thấy sức mạnh to lớn của nhân dân, trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói:

“…Hỡi đồng bào!

Chúng ta phải đứng lên

Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gương dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân, cứu nước”(2). Đó là đường lối chiến tranh nhân dân do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra, được Người khái quát bằng ngôn ngữ mộc mạc để dân ta dễ đọc, dễ nhớ và hiểu mà thực hiện. Qua cuộc kháng chiến chống Pháp đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, chiến tranh nhân dân Việt Nam phát triển rất cao, toàn diện, mà nội dung của đường lối đó được Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam khái quát cô đọng: Cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, phát huy sức mạnh chiến đấu của toàn dân tộc, tiến hành khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân để đánh thắng quân đội của chủ nghĩa đế quốc. Đường lối này là sự kế thừa và phát triển truyền thống quân sự dân tộc “cả nước đánh giặc”, “trăm họ là binh” của tổ tiên, kết hợp với sự vận dụng sáng tạo những quan điểm của Mác - Lênin về vai trò của nhân dân trong chiến tranh cách mạng. V.I. Lênin đã từng nói: Để tiến hành chiến tranh phải động viên toàn bộ lực lượng trong nhân dân. Phải biến cả nước thành một dinh lũy cách mạng. Tất cả hãy chi viện cho chiến tranh.

Chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại mới là cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, với tư tưởng chiến lược tiến công. Nó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong khi tiến hành các loại hình tác chiến: chiến lược, chiến dịch, chiến đấu tiến công, phản công và phòng ngự. Tư duy quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện rõ trong bài thơ Học đánh cờ của Người:

            “Tấn công, thoái thủ nên thần tốc,
            Chân lẹ, tài cao ắt thắng người”.
            “Phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ,
            Kiên quyết, không ngừng thế tấn công;
            Lạc nước, hai xe đành bỏ phí,
            Gặp thời, một tốt cũng thành công”.
            “Tấn công, phòng thủ không sơ hở,
            Đại tướng anh hùng mới xứng danh”(3).


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.171.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.480.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.287.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #65 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2014, 09:25:59 pm »

Trong tác chiến chiến lược, chiến dịch, chiến thuật, tiến công hoặc rút lui, theo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh đều phải nhanh chóng, không được chần chừ, do dự, phải tiến công liên tục và kiên quyết, kết hợp chặt chẽ giữa tiến công và phòng ngự. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn dạy trong đấu tranh cách mạng và kháng chiến phải nắm vững thời cơ và hành động đúng thời cơ thì dù lược lượng ít cũng tạo được sức mạnh áp đảo, giành thắng lợi nhanh chóng. Thời cơ là yếu tố quan trọng đầu tiên của nghệ thuật khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng. Lênin nói khi phát động quân chúng vào cuộc tiến công cách mạng không được sớm một phút, vì như vậy là nổi dậy non, cũng không được muộn một phút sẽ bỏ lỡ thời cơ giành thắng lợi. Ở đây, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh bắt gặp tư tưởng lớn của Lênin. Đúng như Hồ Chí Minh đã viết: “Lạc nước hai xe đành bỏ phi, gặp thời, một tốt cũng thành công”. Mùa đông năm 1944, phong trào cách mạng ở Cao Bằng phát triển mạnh, quần chúng sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa, tiến hành chiến tranh du kích. Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng chuẩn bị họp, quyết định phát động cuộc khởi nghĩa. Lúc này, lãnh tụ Hồ Chí Minh trở lại Cao Bằng, sau khi nắm lại tình hình, Người chỉ thị cho Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng hoãn cuộc khởi nghĩa. Người cho rằng: bây giờ thời kỳ hòa bình phát triển đã qua, nhưng thời kỳ toàn dân khởi nghĩa chưa đến, nếu khởi nghĩa, quân thù đối phó sẽ gây tổn thất cho ta. Mùa thu 1945, phát xít Nhật đầu hàng quân Đồng minh, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc; ở trong nước, Nhật - Pháp bắn nhau. Thời cơ giải phóng Tổ quốc xuất hiện, Đảng Cộng sản Đông Dương lập tức phát động phong trào đấu tranh toàn quốc “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 bùng nổ đúng thời cơ đã thành công rực rỡ. Cuộc Đồng khởi ở miền Nam 1959 - 1960 thắng lợi oanh liệt cũng nhờ nhân dân ta hành động đúng thời cơ. Chiến dịch tiến công Điện Biên Phủ 1954, Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế - Đà Nẵng, Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975 được khởi sự đúng thời cơ, nên quân và dân ta đã giành thắng lợi nhanh chóng, kết thúc 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ thắng lợi vẻ vang, mang ý nghĩa quốc tế và thời đại sâu sắc. Như vậy, thời cơ là lực lượng, sức mạnh được nhân đôi, không nắm vững thời cơ và hành động không đúng thời cơ sẽ gặp rất nhiều khó khăn, tổn thất, dẽ dẫn đến thất bại. Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là sự kết tinh giữa truyền thống quân sự ngàn năm của dân tộc với những tinh hoa quân sự thế giới, mang tính cách mạng triệt để kiên quyết nhất và tính khoa học sâu sắc, nhằm đánh thắng kẻ thù bằng sức mạnh dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người khỏi cảnh bị áp bức, bóc lột. Do đó, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh mang tính nhân văn cao cả. Hồ Chí Minh đã phát triển cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, đánh địch bằng cả quân sự, chính trị, binh vận, kinh tế, tư tưởng. Phương thức tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân là bằng các cách đánh du kích, dần dần phát triển lên khi lực lượng ta mạnh, có vũ khí trang bị kỹ thuật, quân sự tốt, thì kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, nghĩa là “áp dụng vận động chiến song song với du kích chiến”. Người chỉ ra rằng: “du kích là một cách chiến tranh của dân chúng dùng khí giới ít và kém chống với đế quốc có khí giới tốt và nhiều”. Người còn nói: “du kích là cách đánh giặc của dân tộc bị áp bức chống đế quốc”; còn vận động chiến “có mục đích trừ diệt một số lớn quân địch”. Nguyên tắc chỉ đạo tác chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhanh chóng, bí mật, bất ngờ, kiên quyết và chủ động, đánh tiêu diệt. Người đề ra nguyên tắc cách đánh du kích là “giữ quyền chủ động”, “bao giờ cũng giữ thế công”, “hết sức nhanh chóng” và dùng những thủ đoạn “tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu của địch”, “đánh địch lúc chúng đang vận động, hoặc lúc chúng mỏi mệt, mất cảnh giác, chủ quan”, v.v. Trong các tác phẩm Con đường giải phóngCách đánh du kích, Nguyễn Ái Quốc chỉ ra rằng, để cho chiến tranh du kích phát triển lên cao, điều quan trọng là phải xây dựng căn cứ du kích làm chỗ đứng chân, tích trữ lực lượng và xây dựng chính quyền cách mạng cơ sở vững mạnh: “Có chính quyền cách mạng ở địa phương, có căn cứ địa vững mạnh, đội du kích nhờ đó mà phát triển lực lượng và hóa ra quân chính quy”(1). Những nội dung Nguyễn Ái Quốc nêu ra trong hai tác phẩm quan trọng trên đã thể hiện rõ tư tưởng quân sự của Người về chiến tranh du kích trong khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng rất sâu sắc và toàn diện. Người vạch ra quy luật của chiến tranh du kích và cách đánh du kích, vạch ra cơ sở căn bản để chiến tranh du kích tồn tại, phát triển đi lên và xây dựng quân đội thường trực, tác chiến chính quy, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Tháng 12-1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, nêu rõ phương thức hoạt động của Đội là kết hợp quân sự với chính trị, quân sự phải phục tùng chính trị là một minh chứng cho sự sáng suốt, nhìn xa trông rộng của Người. Trong bài Chiến lược của quân ta và quân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chiến lược của chúng ta là chiến lược tiến công... Phương pháp tác chiến của chúng ta áp dụng vận động chiến song song với du kích chiến. Vận động chiến có mục đích trừ diệt một số lớn quân địch. Còn du kích chiến là huy động dân quân ở địa phương vừa quấy rối, vừa làm hao mòn lực lượng của chúng... Chúng ta nhất định không bị thất bại, nếu chúng ta còn bảo toàn được lực lượng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nói: “Một cuộc kháng chiến lâu dài để giữ vững chủ quyền đất nước... không thể không chú ý đến vấn đề động viên kinh tế... Chúng ta phải tập trung hết thảy nhân lực, vật lực, tài lực vào công cuộc kháng chiến thì lực lượng kháng chiến của ta mới được đầy đủ, mạnh mẽ để đạt đến thắng lợi cuối cùng”(2). Tất cả mọi lực lượng, mọi tài nguyên của quốc gia đều phải dùng vào công cuộc bảo vệ cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã phát triển hoàn chỉnh lý luận chiến tranh nhân dân trong thời đại mới với tư tưởng quân sự chiến tranh du kích kết hợp chặt chẽ với chiến tranh chính quy và đấu tranh quân sự phải song song với đấu tranh chính trị trong khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng đúng đắn, sáng tạo. Người còn dạy trong chiến tranh muốn giành thắng lợi, bên cạnh đấu tranh chính trị và chiến tranh du kích, ta phải cố gắng cao độ đánh tiêu diệt. Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, năm 1945 nhân dân ta đã tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thành công và kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi. Bằng các chiến dịch tiến công và phản công: Việt Bắc (1947), Cao - Bắc - Lạng (1949), Biên giới (1950), v.v., đặc biệt là Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) “chấn động địa cầu”, Quân đội nhân dân Việt Nam đã tiêu diệt chiến lược quân viễn chinh Pháp, buộc chúng phải chấm dứt chiến tranh. Chiến tranh nhân dân và đánh tiêu diệt trở thành truyền thống và tư tưởng quân sự lớn của dân tộc ta. Ngày nay, tư tưởng đánh tiêu diệt đã ăn sâu vào tiềm thức của các tướng lĩnh, những người chỉ huy chiến đấu, chiến dịch và những người Việt Nam yêu nước…


(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr.266.
(2) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Sđd, tr.297.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #66 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2014, 09:30:09 pm »

II - PHÁT HUY NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ DÂN TỘC, TỔ CHỨC VÀ THỰC HIỆN
CUỘC CHIẾN TRANH NHÂN DÂN, TOÀN DÂN, TOÀN DIỆN

1. Nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, sử dụng bạo lực cách mạng, tiến hành khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân

Đảng Lao động Việt Nam chỉ ra rằng sử dụng bạo lực cách mạng, trước tiên phải dùng lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu để “khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân”. Mỹ là đế quốc giàu mạnh nhất thế giới, lại rất ngoan cố và xảo quyệt, nên khi cuộc khởi nghĩa nổ ra, chúng sẽ tập trung sức mạnh và mọi thủ đoạn đánh phá quyết liệt, vì vậy, ta phải sử dụng vũ trang tuyên truyền, vũ trang tự vệ để bảo vệ nhân dân, hỗ trợ cho cuộc đấu tranh chính trị. Trước hết, phải động viên toàn dân và tổ chức cho họ tham gia kháng chiến. Nhân dân là người xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, xây dựng căn cứ, tổ chức đấu tranh chính trị, binh vận. Điều quan trọng là các đảng bộ miền Nam khi phát động toàn dân khởi nghĩa phải chọn đúng “điểm hành động” và “thời cơ hành động” sao cho phù hợp với tình hình ở từng địa phương, trong nước và quốc tế thì nhất định thành công. Bằng chủ trương này, Đảng Lao động Việt Nam đã vận dụng và phát triển truyền thống “khởi nghĩa toàn dân” và “chiến tranh nhân dân” lên tầm cao mới, đáp ứng với yêu cầu của thời đại mới có nhiều đổi thay. Thực hiện chủ trương của Đản, các cấp ủy đảng và nhân dân ác địa phương miền Nam đã linh hoạt, sáng tạo chọn “điểm hành động”: vùng rừng núi Khu 5 và Tây Nguyên, các tỉnh miền Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long, liền kề hoặc nối thông với các căn cứ cách mạng miền Tây các tỉnh Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, chiến khu Đ, chiến khu Dương Minh Châu, căn cứ địa U Minh, Đồng Tháp Mười đã có từ thời chống Pháp và được củng cố trong những năm đấu tranh chống địch “tố cộng, diệt cộng”, lại xa hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Nơi đây, lực lượng của đối phương yếu và sơ hở, chính quyền cơ sở của đối phương ở nhiều nơi bị ta vô hiệu hóa, lực lượng cách mạng đang lên, khí thế vùng dậy của quần chúng sục sôi, đang nóng lòng chờ “ý kiến”(1) của Đảng. Tình thế cách mạng trực tiếp ở những nơi này đã chín muồi(2). Mùa xuân năm 1959, những cuộc khởi nghĩa từng phần ở miền núi các tỉnh Khu 5 và Tây Nguyên bùng nổ, trong đó cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi là điển hình, đã đập vỡ một mắt xích trọng yếu trong hệ thống cai trị chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm ở Nam Việt Nam. Cuộc khởi nghĩa này đã mở đầu cho những cuộc khởi nghĩa từng phần không chỉ ở Khu 5, mà cả miền Nam Việt Nam. Và, một năm sau đó, vào mùa xuân 1960, Bến Tre và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ làm cuộc Đồng khởi thắng lợi vang dội, đưa phong trào cách mạng miền Nam từ thế bị động lên thế chủ động tiến công. Đây là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược quan trọng đầu tiên trong tiến trình cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện chống cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Đồng khởi thắng lợi minh chứng một chủ trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng Lao động Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh về “khởi nghĩa toàn dân”. Chúng ta tránh được đưa bộ đội từ miền Bắc vào miền Nam, dùng lực lượng quân sự lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm; nên sau Đồng khởi, dự luận trong nước và quốc tế đều lên tiếng ủng hộ Việt Nam, phản đối chế độ độc tài, phát xít Mỹ - Diệm. Mặc dù Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa cố tình xuyên tạc sự thật, lên tiếng vu cáo “cộng sản miền Bắc” xúi giục lật đổ, nhưng tình báo Bộ Quốc phòng Mỹ khẳng định: “Chiến tranh nói chung bắt đầu như một cuộc nổi loạn ở Nam Việt Nam chống lại chế độ thối nát và ngày càng có tính chất đàn áp của chế độ Diệm..., hầu hết những người đứng lên cầm vũ khí đều là người Nam Việt Nam và những lý do khiến họ chiến đấu không hề được sắp đặt ở Bắc Việt Nam”(3). Sự thừa nhận này của tình báo Mỹ là một thắng lợi nữa về chính trị của Đồng khởi đã góp phần làm phân hóa nội bộ Mỹ, tạo thêm điều kiện thuận lợi cho ta tập hợp lực lượng kháng chiến. Đây là thắng lợi của nghệ thuật sử dụng bạo lực cách mạng, dùng lực lượng chính trị của quần chúng kết hợp với lực lượng vũ trang tiến hành khởi nghĩa từng phần đánh đổ chính quyền địch, rồi từ khởi nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng. Đảng Lao động Việt Nam dự kiến cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có thể chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ giữa ta và đối phương. Dự kiến này là một lời tiên đoán đúng, cuộc chiến tranh giữa ta và đối phương diễn ra liền sau Đồng khởi. Quân và dân ta đã chủ động sẵn sàng bước vào cuộc kháng chiến.


(1) Hồi đó những chỉ thị, nghị quyết của Đảng và cấp trên đều gọi là “ý kiến”.
(2) Những điều kiện chủ quan, khách quan về địch, về ta và địa hình thuận lợi cho cách mạng gọi là tình thế cách mạng trực tiếp.
(3) Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh Việt Nam, in rônêô, Việt Nam Thông tấn xã dịch và phát hành, 1971, t.1, tr.72.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #67 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2014, 09:32:39 pm »

2. Nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện

Tháng 11-1960, Kennơđi trúng cử Tổng thống nắm quyền lãnh đạo nước Mỹ thay Aixenhao. Song lúc này chiến lược toàn cầu “trả đũa ồ ạt” đã bị phá sản, vì không ngăn chặn được các cuộc nổi dậy giành độc lập của nhân dân Á - Phi - Mỹ Latinh, điển hình là Việt Nam. Kennơđi chấp nhận chiến lược quân sự toàn cầu mới “Phản ứng linh hoạt” do Mácxoen Taylo đề xướng. Chiến lược này gồm hai bộ phận: chiến tranh tổng lực (chiến tranh hạt nhân) và chiến tranh hạn chế. Chiến tranh hạn chế bao gồm hai chiến lược chiến tranh: chiến tranh đặc biệt và chiến tranh cục bộ. Đây là hai loại hình chiến tranh mà Bộ Quốc phòng Mỹ cho là thích hợp nhất, có khả năng chống các cuộc chiến tranh nổi dậy có hiệu quả nhất, là “lưỡi kiếm tiến công” sắc bén, đối phó kịp thời với phong trào cách mạng không chỉ ở Việt Nam, mà ở các nước thuộc địa và phụ thuộc khác trên thế giới. Trước mắt, Mỹ áp dụng chiến lược chiến tranh đặc biệt, sử dụng 10 sư đoàn chính quy quân đội Việt Nam Cộng hòa mở hàng ngàn cuộc hành quân càn quét nhằm tiêu diệt lực lượng vũ trang, đàn áp phong trào đấu tranh chính trị, quyết dồn 14 triệu đồng bào miền Nam vào 160.000 ấp chiến lược, kết thúc cuộc chiến tranh đặc biệt. Tướng Háckin - Tư lệnh viện trợ quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam (MACV) nói với Kennơđi: có khả năng kết thúc cuộc chiến tranh vào dịp lễ Giáng sinh năm 1963. Lúc đó, Mỹ sẽ rút 22.300 cố vấn và chuyên gia Mỹ về nước. Nào ngờ, quân đội Việt Nam Cộng hòa - công cụ bạo lực chủ yếu để thực hiện chiến tranh đặc biệt, được Mỹ trang bị những vũ khí tối tân có đủ các quần chúng hải, lục, không quân, được mệnh danh mạnh nhất nhì Đông Nam Á lại càng đánh càng thua. Chiến tranh đặc biệt phá sản, hai “đầu lĩnh” thực thi cuộc chiến tranh đặc biệt là Ngô Đình Diệm - Tổng thống chính quyền Việt Nam Cộng hòa và Kennơđi - Tổng thống Hoa Kỳ lần lượt bị ám sát. Đúng là “họa vô đơn chí” đối với kẻ xâm lược và bán nước. Tình hình chính trị, quân sự, xã hội miền Nam “rối như tơ vò”, trong khi cách mạng miền Nam phát triển mạnh, nhất là lực lượng quân sự. Để cứu vãn tình hình Nam Việt Nam, ngay sau khi lên thay Kennơđi làm Tổng thống Mỹ, Giônxơn quyết định triển khai chiến lược chiến tranh cục bộ thay cho chiến tranh đặc biệt. Theo đó, quân chiến đấu Mỹ và quân đội các nước đồng minh của Mỹ nhanh chóng được đưa vào miền nam Việt Nam: từ 22.300 cố vấn và lực lượng yểm trợ Mỹ năm 1963, đột ngột tăng lên 184.314 người vào năm 1965, tới 389.000 người vào năm 1966, rồi 480.000 người vào năm 1967, đạt đến 535.000 người vào năm 1968 và quân các nước đồng minh của Mỹ tới 68.800 người, đến tháng 5-1969, quân chiến đấu Mỹ ở miền Nam đạt tới đỉnh 638.000 người(1). Với lực lượng ưu thế này, giới cầm quyền Nhà Trắng và Lầu Năm Góc tin rằng sẽ nhanh chóng “đưa cuộc chiến đến tận xứ sở của kẻ địch (lực lượng cách mạng miền Nam), làm cho kẻ địch không thể đi lại ở bất cứ nơi nào trên đất nước… và giáng cho kẻ địch những đòn thật nặng nề”(2). “Cùng lắm trong vòng 18 tháng, Mỹ sẽ chiến thắng, lúc đó Việt cộng và Hà Nội phải chịu thua, chấm dứt kháng chiến. Và, trên bình diện thế giới, chúng ta (Mỹ) sẽ chứng minh được cho các dân tộc thấy rằng chiến tranh cách mạng không đem lại kết quả gì, cuộc khởi nghĩa nào cũng có thể bị tiêu diệt”(3). Uylơ - Chủ tịch Hội đồng Tham mưu liên quân Mỹ còn bảo đảm với Tổng thống và Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ rằng: “Không có lý do gì chúng ta không thể thắng nếu đó là quyết tâm của chúng ta”(4). Với lực lượng hơn hẳn Quân giải phóng miền Nam Việt Nam về mọi mặt, các tướng lĩnh quân đội Hoa Kỳ cho rằng nếu “quân đội chọi với quân đội” thì Mỹ sẽ chiến thắng, cùng lắm đến năm 1967 chúng sẽ rút quân về nước và “hát khúc ca khải hoàn”.

Khi đế quốc Mỹ phát động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Đảng Lao động Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương động viên quân, dân cả nước tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện. Mỹ là tên đế quốc giàu mạnh, rất ngoan cố vTrên cơ sở đánh lâu dài, chúng ta cần cố gắng cao độ, tập trung lực lượng ở cả hai miền để tranh thủ thời gian giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam. Đề ra phương châm này, Đảng đặt yêu cầu giành một bước thắng lợi căn bản, đánh bại quân đội và chính quyền Việt Nam Cộng hòa trước khi quân chiến đấu Mỹ vào miền Nam, làm mất chỗ dựa để tiến hành chiến tranh xâm lược cục bộ của chúng. Nhờ đường lối và phương châm đúng, cuộc chiến tranh nhân dân của ta phát triển rất cao, phong phú, đa dạng về cách thức đánh giặc, không chỉ toàn dân đánh Mỹ, mà đánh Mỹ toàn diện, đánh bằng quân sự, chính trị, binh vận, ngoại giao, nhiều người cũng đánh, một người cũng đánh, đánh ở mọi lúc, mọi nơi có địch: rừng núi, đồng bằng, đô thị… Quân viễn chinh Mỹ và quân đồng minh của chúng vào miền Nam tiến hành chiến tranh cục bộ, không chỉ đánh nhau với chủ lực Quân giải phóng, mà chúng phải đương đầu với cuộc chiến tranh nhân dân trên đất nước Việt Nam, gồm hai lực lượng, ba thứ quân. Việt Nam đánh Mỹ không chỉ có bộ đội chủ lực mà còn có bộ đội địa phương và dân quân, du kích, tự vệ, không chỉ có đấu tranh quân sự, mà cả đấu tranh chính trị, binh vận - lối đánh đã từng chiến thắng đế quốc Mông - Nguyên mạnh nhất hành tinh ở thế kỷ XIII và đánh bại cuộc chủ trương xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp những thập niên 40-50 thế kỷ XX. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Mắc Namara đã thừa nhận sức mạnh của cuộc chiến tranh nhân dân, chứ không phải cuộc chiến tranh xâm lược của Bắc Việt Nam như chính quyền Oasinhtơn tung hô để lừa bịp thế giới - Một cuộc chiến tranh “không có trận tuyến” rõ ràng và cũng “không có hành quân” đích thực. Ở đó, ta và đối phương luôn ở thế trận xen kẽ “cài răng lược”. Ở thế trận này, lúc đầu quân Mỹ còn hung hăng mở các cuộc hành quân “tìm diệt”, tìm cách giao chiến với chủ lực Quân giải phóng, nhưng đi đến đâu, chúng cũng chỉ “đấm vào không gian” như báo chí Mỹ và phương Tây từng mô tả; đến lúc mệt mỏi, chán nản, trên đường rút về căn cứ thì bất thình lình chúng bị Quân giải phóng tiến công, làm cho cả quân Mỹ lẫn quân đội Việt Nam Cộng hòa thương vong nặng nề. Số binh lính sống sót cũng hoang mang, dao động. Một thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, sâu hiểm, biến hóa khôn lường như vậy, quân Mỹ, quân Việt Nam Cộng hòa càng đánh càng thua, suy yếu và bị động, cuối cùng thất bại là tất yếu. Chiến tranh nhân dân chỉ có ở những dân tộc tiến hành cuộc đấu tranh chính nghĩa giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, chống quân xâm lược. Những kẻ đi xâm lược không bao giờ làm được cuộc chiến tranh nhân dân, chúng chỉ sử dụng quân đội chính quy, vì cuộc chiến tranh phi nghĩa mà chúng tiến hành luôn bị nhân dân chính quốc và thế giới phản đối. Việt Nam chống Mỹ xâm lược Tổ quốc mình, nên quá trình tiến hành cuộc kháng chiến đã huy động được sức mạnh của toàn dân, toàn diện vào cuộc đấu tranh. Do đó, quân và dân ta đã sáng tạo ra nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân mưu lược, thích hợp với hoàn cảnh cuộc chiến tranh về so sánh lực lượng đôi bên, về tình hình trong nước và quốc tế. Những nét đặc trưng cơ bản của nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là: Nghệ thuật sử dụng bạo lực cách mạng, tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện, đánh địch bằng cả hai lực lượng, ba thứ quân, trên cả ba vùng chiến lược; nghệ thuật của sự kết hợp chặt chẽ giữa tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công, thực hiện tiêu diệt địch để giành quyền làm chủ, làm chủ để tiêu diệt địch, nghệ thuật kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, binh vận và ngoại giao; nghệ thuật biết thắng địch từng bước, kết hợp giữa khởi nghĩa với chiến tranh cách mạng, v.v.


(1) Theo số liệu do Chính phủ Mỹ công bố.
(2) Marchel Guiglares: Việt Nam ngày đầu leo thang, NQF 1961, tr.238.
(3), (4) Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh Việt Nam, Tlđd, t.II, tr.136.153.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #68 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2014, 09:35:54 pm »

3. Nghệ thuật thắng địch từng bước

Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới. Nhiệm vụ của nhân dân ta là phải kết hợp cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc với nghĩa vụ quốc tế. Nhưng tình hình quốc tế trong những năm dân tộc ta tiến hành kháng chiến chống Mỹ xâm lược là rất phức tạp. Đế quốc Mỹ đang ráo riết thực hiện chiến lược quân sự toàn cầu “trả đũa ồ ạt” nhằm đàn áp phong trào đấu tranh giành độc lập của nhân dân Á - Phi - Mỹ Latinh và ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi chủ nghĩa cộng sản mà trực tiếp là các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Cho nên, nhiệm vụ cách mạng trên thế giới là phải “giữ gìn hòa bình, ngăn chặn đế quốc gây chiến tranh, bảo đảm an ninh cho nhân dân các nước, đồng thời phải đẩy mạnh đấu tranh, đẩy lùi từng bước, đánh đổ từng bộ phận của chủ nghĩa đế quốc(1). Thắng địch từng bước không chỉ phù hợp với phương châm đấu tranh của phong trào cộng sản quốc tế đề ra năm 160, mà còn là nghệ thuật quân sự phù hợp với phương châm “đánh lâu dài” do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra khi bắt đẩu cuộc kháng chiến, nó biểu hiện ý chí quyết tâm kháng chiến của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; là tính cách mạng triệt để của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản chân chính. Dù kháng chiến có lâu dài, gian khổ, hy sinh, nhưng “không có gì quý hơn độc lập, tự do”, nhân dân ta cũng cương quyết chiến đấu, giành cho được độc lập, tự do và thống nhất, toàn vẹn Tổ quốc. Đó là mục tiêu cách mạng và lý tưởng sống của toàn dân tộc Việt Nam. Tính chất cách mạng triệt để này dựa trên cơ sở khoa học đánh giá đúng so sánh lực lượng giữa ta và đối phương trong sự phát triển biện chứng. Chúng ta hiểu sâu sắc bản chất của đế quốc Mỹ, biết được điểm mạnh, điểm yếu của chúng, nên không run sợ, e dè trước sức mạnh của Mỹ mà lùi bước không dám chống lại, cũng không chủ quan, liều lĩnh không tính đến kết quả thắng, thua. Đảng Lao động Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh hạ quyết tâm “đánh” là đúng đắn, chính xác. Xem xét toàn diện, phân tích khoa học, Chủ tịch Hồ Chí Minh kết luận: Mỹ giàu, nhưng không mạnh. Kết luận sáng suốt này làm cho quân và dân ta yên tâm, tin tưởng bước vào cuộc kháng chiến. Đế quốc Mỹ không mạnh, vì chúng tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa, đi ngược lại quyền lợi của nhân dân chúng, vi phạm nhân quyền, nên chúng rất yếu về mặt chính trị, không được nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới ủng hộ. Đế quốc Mỹ giàu có lắm tiền của và súng đạn với hơn 250 triệu dân, nhưng chúng không thể mang cả nước Mỹ sang Việt Nam để tiến hành chiến tranh xâm lược, lại bị cuộc chiến đấu kiên cường và mưu trí của quân, dân ta tác động, chi phối, nên Mỹ không bao giờ vạch được một đường lối, một chiến lược thích hợp với cuộc chiến tranh. Chính Bộ Quốc phòng Mỹ cũng thừa nhận “Đường lối, chiến lược quân sự của Mỹ không khôn khéo, chắp vá, rời rạc, nặng về vật chất kỹ thuật”(2). Đó là cái giàu, nhưng không mạnh của Mỹ. Với phương châm “đánh lâu dài” và nghệ thuật quân sự thắng địch từng bước, quân và dân Việt Nam có điều kiện xây dựng, phát triển lực lượng mạnh lên, đồng thời khoét sâu được mâu thuẫn nội bộ địch, đẩy chúng vào chỗ lúng túng, bị động về chiến lược, chiến dịch và cách đánh. Trên thực tế quân ta đã buộc quân Mỹ phải đánh theo cách đánh của ta trong các trận giao tranh. Mặt khác, do sự tác động của văn hóa và ý thức Mỹ, làm cho binh lính Mỹ không chịu đựng được một cuộc chiến tranh lâu dài, mà kết quả như “chui vào đường hầm không lối ra”, tương lai mờ mịt, nên càng đánh, tinh thần chiến đấu của chúng càng sút kém. Bộ Quốc phòng Mỹ, trong “Tổng kết cuộc chiến tranh Việt Nam” đã kết luận; “Mỹ kém khả năng chịu đựng một cuộc chiến tranh hạn chế, quy mô lớn, tốn kém, không phân thắng bại, kéo dài, đặc biệt trước một đối thủ có quyết tâm bền bì, khôn ngoan và có khả năng lợi dụng những điểm yếu hoặc mâu thuẫn nội bộ hay quốc tế của chúng ta”(3). Trong khi đó, nhân dân Việt Nam đánh Mỹ trên đất nước mình, có đầy đủ khả năng huy động và phát huy mọi tiềm lực của dân tộc và đất nước, bao gồm cả truyền thống yêu nước và kinh nghiệm chống ngoại xâm được tích lũy, đắp bồi qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, lại có chính nghĩa, được bạn bè trên thế giới và các nước xã hội chủ nghĩa đồng tình ủng hộ, giúp đỡ về tinh thần, vật chất, kỹ thuật quân sự, không ngừng băng cường sức mạnh cho Việt Nam. Việt Nam đã sử dụng có hiệu quả và phát huy tốt sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại và quốc tế thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Bằng sức mạnh tổng hợp, quân và dân Việt Nam đã từng bước đánh thắng quân xâm lược Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hòa - công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, tạo thời cơ tiến lên đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ. Khi chủ trương “đánh lâu dài” và “thắng địch từng bước” là ta đã lượng được sức mình trước một đối tượng tác chiến mạnh nhất thế giới là đế quốc Mỹ. Sức lực chúng ta những năm đầu chiến tranh không thể “tốc chiến tốc thắng” như Quang Trung - Nguyễn Huệ chỉ mấy ngày tiến công thần tốc đánh bại 29 vạn quân Thanh, giải phóng đất nước ở thế kỷ XVIII. Đánh lâu dài với nghệ thuật thắng địch từng bước là một trong những biện pháp chiến lược khôn khéo và mưu trí, sáng tạo của quân dân ta ở miền Nam. Trong chiến lược chiến tranh đặc biệt, quân chủ lực Sài Gòn và ấp chiến lược là hai thành phần cơ bản, chủ yếu. Quân chủ lực Việt Nam Cộng hòa dùng biện pháp chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận”, “phượng hoàng vồ mồi”, “trên đe dưới búa”, mở các cuộc hành quân thần càn quét nhằm tiêu diệt Quân giải phóng và du kích miền Nam, yểu trợ cho lực lượng bình định dồn dân, lập ấp chiến lược. Muốn đánh thắng chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ, trước hết ta phải đánh bại các biện pháp chiến lược, chiến thuật của đối phương, tiêu diệt từng đơn vị quân đội Việt Nam Cộng hòa, làm cho chúng hao hụt quân số, ý chí chiến đấu sa sút, không làm được nhiệm vụ “nòng cốt” của cuộc chiến tranh, đồng thời phải phá tan quốc sách ấp chiến lược, giải phóng nhân dân, giải phóng đất đai, thu hẹp vùng chiếm đóng của đối phương. Thực hiện phương pháp thắng địch từng bước, mùa thu năm 1962, bộ đội tỉnh Quảng Ngãi đánh bại chiến thuật “trực thăng vận”, “phượng hoàng vồ mồi”, bắn rơi 12 máy bay lên thẳng khi chúng chở một tiểu đoàn biệt kích dù đổ bộ xuống Nà Nịu, thuộc huyện Trà Bồng. Năm tháng sau, ngày 2-1-1963, quân và dân Khu 8 cũng đã đánh bại chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” khi chúng tiến hành càn quét vào Ấp Bắc, thôn Tân Phú Trung, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho (nay là Tiền Giang). Phát huy thành quả của việc đánh bại các biện pháp chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của lực lượng vũ trang, nhân dân ta đã thừa cơ nổi dậy, phá 1.875 ấp chiến lược, giải phóng hoàn toàn 12.000 thôn, 9 triệu dân giành được quyền làm chủ. Với chiến thắng này, ta đã đẩy đối phương vào thế bị động, lúng túng về chiến lược, chiến thuật, mở ra khả năng hiện thực cho quân và dân miền Nam tiến lên đánh bại chiến lược chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ. Nếu coi đây là bước một của kế hoạch “thắng địch từng bước”, thì đợt hoạt động quân sự toàn miền Nam trong Đông - Xuân 1964 - 1965, trong đó nổi lên các chiến dịch tiến công Bình Giã (2-12-1964 - 3-1-1965) và chiến dịch tiến công An Lão - Dương Liễu - Đèo Nhông (7-12-1964 - 7-2-1965) là bước hai, ta đã đánh một đòn chí mạng đối với đội quân chủ lực của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, báo hiệu sự thất bại của chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ là không tránh khỏi. Sau khi cuộc tiến công Đông - Xuân kết thúc, thừa thắng, ta mở tiếp cuộc tiến công Hè - Thu 1965, trong đó nổi lên hai chiến dịch lớn Đồng Xoài (10-5 - 22-7-1965) và Ba Gia (28-5 - 20-7-1965), ta tiêu diệt 8 tiểu đoàn chủ lực quân đội Việt Nam Cộng hòa. Bộ Quốc phòng Mỹ thú nhận: “Trận này kết thúc bằng sự thất bại hoàn toàn của quân đội Việt Nam Cộng hòa”(4), chiến tranh đặc biệt hoàn toàn bị phá sản. Với bản chất hiếu chiến và hung bạo, giới cầm quyền Nhà Trắng và Lầu Năm Góc tiếp tục leo thang chiến tranh, chuyển từ chiến lược chiến tranh đặc biệt sang thực hiện chiến lược chiến tranh cục bộ. Từ đây phạm vị chiến tranh nhanh chóng lan ra cả nước Việt Nam với hai hình thức chiến tranh khác nhau ở hai miền Nam - Bắc với tính chất vô cùng ác liệt, tàn bạo. Và trên lãnh thổ đất nước Việt Nam giờ đây có ba loại quân xâm lược và tay sai: quân chiến đấu Mỹ, quân đội Việt Nam Cộng hòa và quân đội các nước đồng minh của Mỹ; trong đó, quân Mỹ và quân Việt Nam Cộng hòa là hai lực lượng chủ yếu “gánh vác sứ mệnh chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ”. Nghệ thuật thắng địch từng bước phải chuyển sang thực hiện phương châm chiến lược “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Điều đó có ý nghĩa là quân và dân ta phải phấn đấu đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ, làm cho đế quốc Mỹ thấy rằng: tiếp tục chiến tranh là chúng có thể phải chuốc lấy thất bại thảm hại hơn và nhất định phải rút quân khỏi Việt Nam.

Thực hiện phương châm chiến lược đó, ở chiến trường chính miền Nam, quân và dân ta nỗ lực cao độ, giữ vững thế chủ động chiến trường, lần lượt đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967 của quân viễn chinh Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hòa, tiến lên mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ. Trên miền Bắc, quân và dân ta đập tan cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (5-8-1964 - cuối 1968), bắn rơi 3.343 máy bay, bắt nhiều giặc lái, góp phần quan trọng cùng quân và dân miền Nam buộc đế quốc Mỹ xuống thang chiến tranh, rút dần quân Mỹ về nước và chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán kết thúc chiến tranh với ta tại Pari. Có thể khẳng định rằng, với nghệ thuật thắng đối phương từng bước, quân và dân ta đã giải quyết tốt và đối phó kịp thời với các tình huống chiến tranh diễn ra một cách thắng lợi, như tình huống Mỹ đưa quân và dân Mỹ vào miền Nam ồ ạt, nhanh chóng, tình huống Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc và cả việc mở rộng phạm vi chiến tranh sang Campuchia và Lào, v.v.

Bằng nghệ thuật thắng địch từng bước, nhân dân Việt Nam không chỉ đánh thắng lần lượt các chiến lược chiến tranh, các thủ đoạn tác chiến của quân, binh chủng của quân đội Mỹ, quân đội Việt Nam Cộng hòa và quân đồng minh của Mỹ; đẩy đổi phương vào tình thế bị động về chiến lược, phải leo thang từng bước, để ta có đủ thời gian củng cố, xây dựng lực lượng đánh thắng các bước leo thang của chúng. Đến thời kỳ cuối của cuộc chiến tranh, quân và dân ta thực hiện việc chuyển phương châm tác chiến từ “thắng địch từng bước” sang nỗ lực giành thắng lợi quyết định rồi tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Trên tinh thần đó, năm 1972, ta mở cuộc tiến công Quảng Trị, Đắc Tô - Tân Cảnh, bắc Bình định, Bình Long - Phước Long kết hợp với nổi dậy của quần chúng toàn miền; đồng thời, ở miền Bắc, quân và dân ta đập tan cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B.52 vào Hà Nội, Hải Phòng, làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không”, buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pari, chấm dứt chiến tranh, rút quân về nước, công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam. Như vậy là “Mỹ đã phải cút” khỏi miền Nam, thời cơ để quân và dân ta “đánh cho ngụy nhào” đã được mở ra. Và bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, quân và dân ta đã nhanh chóng tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân đội và hệ thống chính quyền các cấp của chế độ độc tài Việt Nam Cộng hòa, giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc thắng lợi 30 năm chiến tranh giải phóng, thu giang sơn về một mối.


(1) Lê Duẩn: Thư vào Nam, Sđd, tr.53.
(2), (3) Tóm tắt Tổng kết chiến tranh Việt Nam của Bộ Quốc phòng Mỹ, bản đánh máy, lưu Thư viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, số VL.1266/83, t.IV, tr. 6, 8.
(4) Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh Việt Nam, Tlđd, t.II, tr.88.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #69 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2014, 09:37:20 pm »

4. Đánh địch bằng hai lực lượng, ba thứ quân trên ba vùng chiến lược

Lực lượng chính trị là lực lượng chủ yếu làm nên cuộc Đồng khởi, nó bổ sung vào nghệ thuật của chiến tranh nhân dân một thành tố mới và cùng với lực lượng vũ trang ba thứ quân đấu tranh giữ vững thành quả cuộc nổi dậy và không ngừng phát triển thế tiến công đối phương trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Như vậy, trong cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam, ta không chỉ có lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang, mà còn có lực lượng chính trị và đấu tranh chính trị. Đó là hai hình thức bạo lực cơ bản nhất của khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân chống lại chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ và bọn tay sai, là hai mũi tiến công sắc bén của phong trào cách mạng Việt Nam ở miền Nam. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của ta là chính nghĩa, đó là cuộc đấu tranh vừa quân sự, vừa chính trị do toàn dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đặc điểm cuộc chiến tranh ở miền Nam là chiến trường không phân tuyến, ta và địch ở thế trận “cài răng lược” đối chọi, giành giật nhau từng tấc đất, từng người dân. Đối phương càn quét, khủng bố lấn đất, dồn dân. Ta đấu tranh giành lại, giằng co quyết liệt. Do đó, ở miền Nam hình thành nên ba vùng rõ rệt: vùng đối phương kiểm soát, vùng cách mạng, vùng tranh chấp. Ba vùng này phân bố cả ở nông thôn đồng bằng, rừng núi và đô thị. Lực lượng ta và đối phương luôn luôn ở thế trận xen kẽ trên cả ba vùng. Mỗi vùng lại có đặc điểm riêng về địa hình, dân cư, về bố trí lực lượng giữa ta và đối phương không ngang nhau. Phong trào cách mạng ở các vùng đó phát triển không đều. Năm 1961, Bộ Chính trị ban Chấp hành Trung ương Đảng đề ra phương châm đấu tranh ba vùng: vùng rừng núi, vùng nông thôn đồng bằng, vùng đô thị là nhằm sử dụng lực lượng quân sự, chính trị và phương pháp đấu tranh thích hợp với từng vùng để không ngừng nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh; đồng thời đẩy mạnh đấu tranh quân sự, chính trị ngang nhau. Phương hướng chiến lược của ta là bằng mọi cách phải làm chủ vùng rừng núi và đồng bằng để đánh đối phương, bám trụ giữ đất, giữ dân. Ở vùng rừng núi, quân và dân ta sử dụng phương pháp đấu tranh quân sự là chủ yếu, nhằm đánh tiêu diệt lực lượng chủ lực cơ động của quân Mỹ, quân đội Việt Nam Cộng hòa và quân các nước đồng minh của Mỹ, quân đội Việt Nam Cộng hòa và quân các nước đồng minh của Mỹ, thực hiện khẩu hiệu “Ép địch lấn đất giành dân, tạo thế chiến trường”, mở rộng vùng giải phóng, tạo thế liên hoàn; xây dựng khối chủ lực Quân giải phóng vững mạnh toàn diện, biến vùng rừng núi thành chiến trường đánh tiêu diệt lớn; đồng thời, thu hút lực lượng đối phương lên rừng núi, tạo điều kiện cho chiến trường đồng bằng và đô thị tiến công và nổi dậy. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ta mở hàng chục chiến dịch tiến công quy mô vừa và lớn trên chiến trường rừng núi miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, miền tây các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị, thu hút một bộ phận lớn chủ lực Mỹ và quân Việt Nam Cộng hòa (3 sư đoàn thủy quân lục chiến My bị ta kéo lên vùng rừng núi Trị - Thiên và bị giam chân ở đây cho đến khi rút về nước). Ở Tây Nguyên, Sư đoàn 1 kỵ binh không vận, Sư đoàn 4 bộ binh, Lữ đoàn 1 Sư đoàn 25 bộ binh, Lữ đoàn dù 101 và Lữ đoàn 173 Mỹ thường xuyên phải đối đầu với lực lượng vũ trang Tây Nguyên. Sư đoàn 1 bộ binh mang danh “Anh cả đỏ”, Sư đoàn 25 bộ binh mang danh “Tia chớp nhiệt đới”, Lữ đoàn 173 dù, Trung đoàn 11 thiết giáp Mỹ bị hút lên chiến trường rừng núi miền Đông Nam Bộ. Những chiến dịch tiến công của Quân giải phóng miền Nam diễn ra trên vùng rừng núi, có nhiều chiến dịch mà thắng lợi của nó đã cắm những cột mốc quan trọng đánh dấu sự chuyển biến chiến lược hoặc làm thay đổi cục diện chiến tranh có lợi cho ta. Chiến dịch Đồng Xoài năm 1965, tiêu diệt 2 tiểu đoàn quân Việt Nam Cộng hòa cùng với Chiến dịch Ba Gia… thực sự là những sự kiện quân sự đánh dấu sự thất bại hoàn toàn chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ; Chiến dịch Plây Me (Tây Nguyên) năm 1965, diệt 2 tiểu đoàn kỵ binh bay Mỹ, phía Mỹ gọi là trận đánh thay đổi cuộc chiến tranh Việt Nam; Chiến dịch phản công Tây Ninh, đánh bại cuộc hành quân của 45 ngàn quân Mỹ vào chiến khu Dương Minh Châu, chấm dứt về cơ bản chiến lược “tìm và diệt” của Mỹ; Chiến dịch Đắc Tô mùa đông (Tây Nguyên) năm 1976, đánh thiệt hại lữ đoàn Mỹ (Lữ đoàn 173 và Lữ đoàn 1 Sư đoàn 4), góp phần buộc đối phương phải bỏ cuộc phản công lần thứ ba; lùi dần vào thế phòng ngự chiến lược; Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, Đắc Tô - Tân Cảnh, tiêu diệt một sư đoàn và nhiều trung đoàn bộ binh, thiết giáp quân đội Việt Nam Cộng hòa, đánh bại một bước quan trọng chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh và học thuyết Níchxơn; Chiến dịch Trị - Thiên năm 1972, đánh quỵ nhiều sư đoàn chủ lực quân đội Việt Nam Cộng hòa, giải phóng tỉnh Quảng Trị góp phần rất quan trọng cùng với chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”, đánh bại cuộc tập kích không quân chiến lược bằng máy bay B.52 vào Hà Nội, Hải Phòng…, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari, rút hết quân về nước; Chiến dịch Đường 14 - Phước Long cuối năm 1974 đầu năm 1975, tạo cơ sở thực tiễn để Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông qua kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam năm 1975 - 1976, và kế hoạch thời cơ giải phóng miền Nam năm 1975; Chiến dịch Tây Nguyên tháng 3-1975, mở đầu cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc chiến tranh v.v. Tất cả những sự kiện quân sự có tính dấu mốc chuyển biến cục diện chiến trường này đã chứng minh sống động cho chủ trương xây dựng vùng rừng núi thành chiến trường đánh tiêu diệt lớn và đấu tranh vũ trang là chủ yếu, là chủ trương đúng đắn, sáng tạo của đường lối chiến tranh nhân dân, nghệ thuật quân sự cách mạng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.

Mặt khác, ở vùng đồng bằng đông dân có tầm quan trọng chiến lược đặc biệt, thường xuyên diễn ra những cuộc lấn chiếm và chống lấn chiếm giành đất, giành quyền làm chủ quyết liệt. Đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị được đẩy mạnh song song và ngang nhau. Bộ đội địa phương tỉnh, huyện và dân quân, du kích, tự vệ phối hợp với lực lượng chính trị đánh tiêu hao lực lượng chủ lực, địa phương của đối phương (bao gồm lực lượng cảnh sát và cán bộ bình định), kiềm chế chúng, mở rộng vùng giải phóng, giữ và bảo vệ nguồn dự trữ về người, vật chất cho cách mạng, nắm vững thời cơ tiến hành những cuộc khởi nghĩa cục bộ, giải phóng nhân dân, thu hẹp vùng chiếm đóng của đối phương, tạo điều kiện cho bộ đội chủ lực đánh tiêu diệt chiến dịch, chiến lược quân chủ lực của đối phương ở các hướng khác nhau. Vùng đô thị, nhân dân đông đúc, phố xá sầm uất, nhân dân bị địch kìm kẹp, khống chế gắt gao. Lực lượng quân sự và cơ quan đầu não chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa, bộ máy điều hành chiến tranh của bộ chỉ huy viện trợ quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam đều tập trung ở đô thị và được bảo vệ nghiêm ngặt. Lực lượng cách mạng cả vũ trang và chính trị phải hoạt động bí mật, đơn tuyến, nên lấy đấu tranh chính trị là chủ yếu. Nhiệm vụ của vùng đo thị là tuyên truyền, vận động, tổ chức cho nhân dân vào các đoàn thể quần chúng cách mạng, xây dựng căn cứ lõm, đồng thời tạo thời cơ dùng đặc công, tự vệ, an ninh mật, biệt động tập kích vào căn cứ, hoặc cơ quan đầu não của đối phương, gây thôi động chính trị nội bộ chúng, hỗ trợ cho hoạt động của lực lượng vũ trang ở các vùng khác. Đấu tranh chính trị ở thành thị còn “tập hợp quần chúng, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, lôi kéo cả những người tiến bộ trong hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền vào một mặt trận kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân thật rộng rãi, chĩa mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai bán nước”(1). Vậy là, đấu tranh chính trị ở đô thị chính là mũi tiến công rất quan trọng đánh trực diện vào hệ thống cơ quan đầu não chế độ thực dân kiểu mới của Mỹ, vào khâu hiểm yếu nhất của chúng. Thực hiện phương châm đấu tranh trên cả ba vùng, quân và dân ta ở miền Nam luôn nắm vững thế chủ động chiến trường, kết hợp chặt chẽ tiến công quân sự của ba thứ quân với đấu tranh chính trị của quần chúng, ta đã giành được những thắng lợi to lớn, toàn diện, thắng lợi sau lớn hơn thắng lợi trước, buộc địch phải lùi từng bước. Nghệ thuật đánh đối phương bằng hai lực lượng, ba thứ quân trên ba vùng chiến lược là một trong nhữsng sáng tạo đặc biệt của đường lối chiến tranh nhân dân của ta trong kháng chiến chống Mỹ xâm lược, là nội dung mới có hiệu lực trong tác chiến chiến lược, chiến dịch, chiến thuật để đánh bại đối phương mạnh hơn ta, nó trở thành quy luật giành thắng lợi trong khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng Việt Nam.


(1) Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh Việt Nam, Tlđd, t.II, tr.88.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM