Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 03:33:55 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 9  (Đọc 72163 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #20 vào lúc: 27 Tháng Bảy, 2014, 04:50:58 pm »

Hiệp định Pari được ký kết và có hiệu lực là một thắng lợi rất to lớn của quân và dân Việt Nam, đồng thời khẳng định sự thất bại không thể phủ nhận của Mỹ; nhưng ngay sau đó, đế quốc Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã cố tình tìm mọi cách phá hoại hiệp định một cách có hệ thống. Đánh giá đúng âm mưu của Mỹ, Hội nghị lần thứ 21 của ban Chấp hành Trung ương Đảng (7-1973) đã chủ trương: Trong bất kể tình huống nào, con đường giành thắng lợi của cách mạng miền Nam cũng là con đường bạo lực, do đó phải nắm vững chiến lược tiến công, kiên quyết đấu tranh trên ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao nhằm tiến lên thực hành phản công và tiến công để giành toàn thắng.

Trong hai năm 1973-1974, thực hiện quyết tâm của Trung ương Đảng, quân và dân ta ở miền Nam đã đập tan các cuộc hành quân tràn ngập lãnh thổ và hành quân lấn chiếm vùng giải phóng của quân đội Việt Nam Cộng hòa, làm cho cục diện chiến trường miền Nam không ngừng thay đổi theo chiều hướng ngày càng có lợi cho ta.

Kịp thời đánh giá đúng lực lượng so sánh giữa ta và đối phương trong tình hình mới, các hội nghị của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 10 và tháng 12-1974) đã xác định chính xác thời cơ lịch sử, hạ quyết tâm chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.

Với sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, mà nòng cốt là các binh đoàn chiến lược binh chủng hợp thành của Quân giải phóng miền Nam - Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã diễn ra với tốc độ “một ngày bằng hai mươi năm” và chỉ trong vòng 55 ngày đêm, quân và dân ta đã giành được toàn thắng.

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là thắng lợi của toàn bộ sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh; cũng đồng thời là một chiến thắng vĩ đại và hiển hách nhất trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, là kết quả của quá trình chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh mấy chục năm ròng của quân đội ta, là bước phát triển tất yếu ở giai đoạn chín muồi của tất cả các nhân tố làm nên thắng lợi, trong đó nhân tố quyết định nhất là sự lãnh đạo đúng đắn và sáng tạo của Đảng Lao động Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã biết khơi dậy, kế thừa và phát huy đến đỉnh cao các truyền thống và sức mạnh vô địch của con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới. Quân và dân ta đã đập tan lực lượng quân sự khổng lồ được Mỹ trang bị hiện đại của quân đội Việt Nam Cộng hòa - một lực lượng được đánh giá là mạnh nhất khu vực Đông Nam Á, loại khỏi vòng chiến đấu hơn một triệu quân gồm đủ mọi quân binh chủng, phá hủy và tịch thu toàn bộ các loại vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại, hệ thống kho tàng, sân bay, bến cảng; quét sạch toàn thể hệ thống bộ máy chính quyền các cấp từ trung ương đến địa phương của chế độ Việt Nam Cộng hòa - chế độ thực dân mới do đế quốc Mỹ đổ biết bao tiền của và công sức dựng nên ở miền Nam Việt Nam; đập tan các đảng phái, tổ chức chính trị phản động ở miền Nam Việt Nam do Mỹ cố công xây dựng và nuôi dưỡng suốt hơn 20 năm; giải phóng hoàn toàn 44 tỉnh, các thành phố, hải đảo, thu non sông về một mối, đưa đất nước ta sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai cùng với các cường quốc năm châu trên thế giới.

Tuy nhiên, để giành được thắng lợi vĩ đại đó, nhân dân ta phải gánh chịu hy sinh tổn thất nặng nề cả về nhân lực, vật lực và tài lực.

Suốt 21 năm tiến hành chiến tranh xâm lược, đế quốc Mỹ đã dội xuống đất nước Việt nam 7,8 triệu tấn bom đạn, lớn hơn số bom đạn của bất kỳ một cuộc chiến tranh nào trước đó. Những cuộc đánh phá của Mỹ nhằm vào tất cả các mục tiêu, kể cả trường học, bệnh viện, chùa chiền, nhà thờ, đê điều và những công trình thủy lợi; vào bất kể đối tượng nào, kể cả phụ nữ và trẻ em. Chúng sử dụng những loại vũ khí giết người hàng loạt và vô cùng tàn khốc bất chấp sự phản đối của dự luận quốc tế, thậm chí của ngay chính nhân dân tiến bộ Mỹ. Hành động man rợ và vô nhân tính của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam khiến “trời không dung, đất không tha” và cả loài người chắc chắn sẽ còn phải nhắc lại nhiều lần.

Cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ đã làm hàng triệu người Việt Nam bị giết hại và bị thương, hàng triệu hécta rừng bị thiêu trụi, hàng chục vạn người bị tàn phế. Từ cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa này, nhiều thế hệ con cháu của người Việt Nam và của cả những binh sĩ Mỹ, những binh sĩ của các nước đồng minh từng tham chiến ở chiến trường miền Nam Việt Nam đã bị nhiễm chất độc da cam/điôxin, tàn phế, mất sức lao động suốt đời.

Cuộc chiến tranh xâm lược do đế quốc Mỹ gây ra đã kéo lùi sự phát triển của Việt Nam và hậu quả tai hại của nó sẽ phải mất nhiều chục năm sau mới có thể hàn gắn, khắc phục được.
« Sửa lần cuối: 29 Tháng Tám, 2014, 08:52:45 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #21 vào lúc: 27 Tháng Bảy, 2014, 04:53:26 pm »

2. Là thắng lợi vĩ đại và hiển hách nhất trong lịch sử dân tộc và mang ý nghĩa thời đại sâu sắc

Đối với dân tộc Việt Nam, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi đã kết thúc 21 năm chiến đấu chống Mỹ và 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc kể từ sau cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến nước ta, rửa sạch nỗi nhục mất nước kéo dài hơn một thế kỷ. Trên cơ sở đó hoàn thành về cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, bảo vệ vững chắc và phát huy có hiệu quả những thành tựu cách mạng xã hội chủ nghĩa của miền Bắc, xóa bỏ những chướng ngại trên con đường thực hiện thống nhất nước nhà.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỹ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”(1).

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên đất nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một trong những thắng lợi vĩ đại nhất, hiển hách nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.

Thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta đồng thời cũng là thất bại quân sự và chính trị của đế quốc Mỹ trong thực hiện âm mưu và những nỗ lực xâm lược Việt Nam. Ách thống trị thực dân kiểu mới ở miền Nam do Mỹ dày công xây dựng, nuôi dưỡng, bảo vệ cuối cùng đã bị sụp đổ hoàn toàn. Thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam - một cuộc chiến tranh hao người tốn của đã trở thành nỗi “buồn thảm và bi đát trên nhiều mặt”(2), gây ra những tác động ảnh hưởng sâu sắc đối với toàn xã hội Mỹ trong thời kỳ “sau Việt Nam”.

Tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, nước Mỹ phải gánh chịu những tổn thất hết sức nặng nề. Tính về người, có tới 58.000 binh sĩ Mỹ đã bị chết trên chiến trường Việt Nam(3). Còn về của, theo tính toán của nhóm giáo sư kinh tế Mỹ do R.W. Stevens đứng đầu thì mọi loại chi phí và tác hại do chiến tranh Việt Nam gây ra với Mỹ lên tới khoảng từ 882 đến 925 tỉ đôla(4). Đây thực sự là những di họa và gánh nặng chiến tranh đè lên nước Mỹ mà theo các nhà khoa học, phải đến năm 2040 mới có thể giải quyết xong hậu quả cuộc chiến tranh này.

Chiến tranh Việt Nam đã làm phá sản một bộ phận quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Mỹ bị đánh bật khỏi miền Nam Việt Nam, chỗ đứng chân trước đây để chúng khống chế Đông Nam Á, tìm đường tiến xuống phía nam và vươn lên phía bắc. Phòng tuyến lớn nhằm ngăn chặn phong trào cách mạng thế giới bị phá vỡ. Bốn chiến lược chiến tranh cùng hàng loạt chiến thuật quân sự được đem thi thố trở thành vô dụng. Cả nền tảng xã hội Mỹ vốn được phương Tây ca ngợi là kiểu mẫu của “thế giới tự do” bị rung chuyển. Xã hội bị chia rẽ, “bị rạn nứt thành từng mảng”(5), đồng thời “những tiến bộ đời sống vật chất lẫn lòng tin đối với quốc gia, không còn duy trì được”(6). Uy tín, địa vị quốc tế của Mỹ bị suy sụp. Vai trò chỉ huy của Mỹ đối với các nước đế quốc, tư bản khác đã giảm sút. Như vậy, thất bại ở Việt Nam đã đánh dấu một bước ngoặt đi xuống của Mỹ.

Thắng lợi của dân tộc Việt Nam cũng là thắng lợi to lớn của lực lượng độc lập, tự chủ và chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới. Thắng lợi đó đã làm thức tỉnh lương tri nhân loại, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh cách mạng của các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới, làm cho nhân dân thế giới không những không còn tâm lý sợ Mỹ, mà còn dám đánh Mỹ, biết đánh và quyết thắng Mỹ kể từ khi Mỹ thu lợi qua hai cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai, trở thành một đế quốc giàu mạnh nhất, nuôi tham vọng bá chủ thế giới, buộc nhân loại phải đi theo quỹ đạo của chúng. Thắng lợi đó chứng tỏ một chân lý, trong thời đại ngày nay, một dân tộc nhỏ bé, lãnh thổ hẹp, dân số ít, kinh tế kém phát triển nhưng biết đoàn kết và quyết tâm, có một đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình và được sự ủng hộ giúp đỡ của bạn bè quốc tế thì có thể hoàn toàn đánh bại được những kẻ thù xâm lược mạnh hơn gấp bội lần.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.37, tr.471.
(2) Dương Hảo: Một chương bi thảm, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1980, tr.283.
(3) GS. Phan Ngọc Liên (chủ biên): Hậu phương lớn, tiền tuyến lớn trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2005, tr.795.
(4) R.W. Stevens (chủ biên): Hy vọng hão huyền, thực tế phũ phàng - Những hậu quả kinh tế của cuộc chiến tranh Việt Nam, New View poits, New York, London, 1976, tr.112-114.
(5) Tạp chí Lục quân (Mỹ), số tháng 7-1973.
(6) Tạp chí Chiến lược (Mỹ), số mùa đông 1976.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #22 vào lúc: 27 Tháng Bảy, 2014, 05:04:49 pm »

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam giành được thắng lợi trọn vẹn đã chứng minh với nhân dân thế giới về sự phá sản của chủ nghĩa thực dân mới là điều khó tránh khỏi, góp phần thu hẹp hệ thống thuộc địa kiểu mới của chủ nghĩa đế quốc. Cũng như trước đây, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và tiếp theo là thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1954 đã chứng minh với thế giới về sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân cũ.

Trong thời gian nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến, phong trào giải phóng dân tộc và bảo vệ nền độc lập đã diễn ra sôi nổi khắp khu vực Á, Phi, Mỹ Latinh. Ở châu Phi, trước Chiến tranh thế giới thứ hai, chỉ có hai nước độc lập trên danh nghĩa, nhưng đến năm 1968, đã có 39 nước giành được độc lập, chiếm 85% lãnh thổ và 95% dân số toàn châu lục này.

Tính đến giữa những năm 60 (thế kỷ XX) đã có 70 nước Á, Phi, Mỹ Latinh giành được độc lập. Nhân dân hai nước láng giềng Lào và Campuchia anh em đã liên tục sát cánh cùng nhân dân Việt Nam chiến đấu cho đến thắng lợi hoàn toàn.

Tại khu vực Mỹ Latinh, cao trào đấu tranh chống đế quốc và chế độ độc tài đã bùng nổ mạnh mẽ trong các thập kỷ 60 - 70 thế kỷ XX, được mệnh danh là “lục địa bùng cháy”. Phong trào lan rộng khắp các nước như Cuba, Vênêduêla, Goatêmala, Côlômbia, Pêru, Nigaragoa, Chilê, En Xanvađo… Kết quả là chính quyền độc tài ở nhiều nước đã bị lật đổ, các chính phủ dân chủ ở nhiều nước được thiết lập.

Vì bị sa lầy trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã phải rút bỏ một số căn cứ quân sự quan trọng trên đất Thái Lan, sự hiện diện của quân đội Mỹ trên đất Nhật Bản, Philíppin… bị phản đối mạnh mẽ.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là nguồn cổ vũ vô hạn đối với nhân dân các nước đang đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Tinh thần bất khuất, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tài thao lược của Đảng và những bài học kinh nghiệm của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã trở thành “tấm gương chói lọi cho tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới đang tiến hành cuộc đấu tranh chính nghĩa chống các thế lực áp bức của nước ngoài”(1). Cuộc đấu tranh ấy cũng “tạo ra cho các dân tộc khác những điều kiện bên ngoài thuận lợi hơn cho cuộc đấu tranh cách mạng của họ”(2). Nhiều dân tộc đã nhanh chóng học được các hình thức, phương pháp và những kinh nghiệm đấu tranh của Việt Nam và điều đó đã góp phần giúp họ giành thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước.

*
*   *

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, tuy phải trải qua quá trình chiến đấu lâu dài và gian khổ, “phải hy sinh nhiều của, nhiều người”, nhưng cuối cùng đã giành được thắng lợi vẻ vang.

Thắng lợi này là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng Lao động Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo.

Nhân dân ta đã đánh thắng một kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất thế giới, đã kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu trường kỳ suốt 30 năm, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị kéo dài 115 năm của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta, gạt bỏ những trở ngại lớn nhất trên con đường phát triển của dân tộc.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đánh dấu bước ngoặt rất cơ bản, quyết định của con đường cách mạng đúng đắn mà Đảng Lao động Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX là hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội.

Thắng lợi của nhân dân ta còn là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội, đập tan cuộc phản kích lớn nhất của các thế lực đế quốc, phản động và hiếu chiến vào ba trào lưu cách mạng của thời đại mà mũi nhọn là phong trào giải phóng dân tộc, mở đầu sự phá sản không thể tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên phạm vi toàn thế giới.

Thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong cuộc đụng đầu lịch sử này đã làm sáng tỏ hiện thực, tính phổ biến xu thế phát triển của thời đại. Đó là biểu tượng mới về sức mạnh của sự kết hợp ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ở Việt Nam, sức mạnh đó đã làm tiêu tan huyền thoại về “sức mạnh không thể tưởng tượng nổi của nước Mỹ”.

Thắng lợi đó khẳng định và làm sáng tỏ một chân lý ở thế kỷ XX: trong thời đại này, một dân tộc nước không rộng, người không đông, kinh tế kém phát triển, song đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một đảng Mác - Lênin, có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực xâm lược, dù là một nước đế quốc đầu sỏ.


(1) Lời Tổng thống Cộng hòa Ghinê A. Xêcu Turê. Xem Thế giới ca ngợi thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1977, tr.213.
(2) Lời Tổng thống Môdămbích, X. Masen, Xem: Thế giới ca ngợi thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, Sđd, 1977, tr.221
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #23 vào lúc: 18 Tháng Tám, 2014, 06:45:46 pm »

Chương 38

ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN
ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ, ĐÚNG ĐẮN, SÁNG TẠO

I - QUÁ TÌNH HÌNH THÀNH ĐƯỜNG LỐI

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi lớn.

Vào giữa những năm 50 của thế kỷ XX, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không ngừng lớn mạnh, trở thành đối trọng với hệ thống các nước đế quốc chủ nghĩa. Về công nghiệp, hệ thống xã hội chủ nghĩa chiếm hơn một phần ba tổng sản lượng công nghiệp trên toàn thế giới. Về nông nghiệp, sản lượng lương thực của hệ thống xã hội chủ nghĩa đã chiếm trên 48% tổng sản lượng lương thực toàn thế giới(1).

Tại châu Âu, đến năm 1950, hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô cơ bản khôi phục xong nền kinh tế bị tàn phá trong Chiến tranh thế giới thứ hai, tiếp tục thực hiện các kế hoạch 5 năm nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và đạt được những thành tựu to lớn, vị thế trên trường quốc tế được nâng cao. Liên Xô đã vươn lên trở thành cường quốc công nghiệp lớn thứ hai thế giới (sau Mỹ) và có bước phát triển mạnh mẽ về khoa học - kỹ thuật. Năm 1949, Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử, phá vỡ thế độc quyền vũ khí nguyên tử của Mỹ và ngay năm đó, Liên Xô tuyên bố cấm sử dụng vũ khí nguyên tử một cách vô điều kiện. Năm 1957, Liên Xô phóng thành công vệ tinh nhân tạo đầu tiên của loài người và năm 1961, phóng tàu vũ trụ đưa nhà du hành Gagarin bay vòng quanh trái đất. Với tất cả tiềm lực và sức mạnh của mình, Liên Xô trở thành nước xã hội chủ nghĩa duy nhất có thể đối trọng với Mỹ. Bên cạnh những thành tựu đạt được, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu cũng tồn tại một số hạn chế, ảnh hưởng tới quá trình phát triển của mỗi nước.

Tại châu Á, năm 1949, cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời đã tăng cường lực lượng của hệ thống xã hội chủ nghĩa, có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, đặc biệt là ở Đông Dương. Trong vòng 10 năm đầu xây dựng chế độ mới, tình hình kinh tế, chính trị - xã hội Trung Quốc tương đối ổn định và đạt nhiều thành tựu. Các nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên, Cộng hòa nhân dân Mông Cổ cũng có bước phát triển trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện. Sự lớn mạnh của Liên Xô, Trung Quốc và các nước khác trong hệ thống xã hội chủ nghĩa là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của cách mạng thế giới, trở thành chỗ dựa tin cậy cho phong trào giải phóng dân tộc, cho cách mạng Việt Nam. Song, vào những năm cuối của thập niên 50 thế kỷ XX, giữa các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đã xuất hiện những mâu thuẫn, bất đồng về nhiều vấn đề khác nhau, nhất là về quan điểm chính trị, đặc biệt là mâu thuẫn Liên Xô - Trung Quốc. “Sự phân ly Trung - Xô mới nảy sinh càng làm tồi tệ thêm tình hình bất ổn ở thế giới thứ ba vì những cường quốc đó buộc phải cạnh tranh với nhau để gây ảnh hưởng trong những tình hình cách mạng nhằm duy trì những tiêu chuẩn và tính hợp thức cách mạng của mỗi nước, cả trong nước cũng như ở nước ngoài”(2). Những mâu thuẫn, bất đồng quan điểm ấy chẳng những đã không được khắc phục mà ngày càng trở nên nghiêm trọng, đưa các bên dần đi vào đối đầu, thù địch, dẫn đến sự phân liệt trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Lợi dụng tình hình này, các lực lượng phản cách mạng trên thế giới, đứng đầu là đế quốc Mỹ tìm cách khoét sâu mâu thuẫn, gây thêm chia rẽ, và từ đó, làm suy yếu hệ thống xã hội chủ nghĩa, tác động tiêu cực tới phong trào cách mạng thế giới và phong trào giải phóng dân tộc… Dù vậy, cho đến những năm 50 thế kỷ XX, phong trào giải phóng dân tộc đang trên đà phát triển, làm tan rã từng mảng hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân - đế quốc, đưa nhiều quốc gia bước vào thời kỳ độc lập về chính trị, thoát khỏi tình trạng lệ thuộc về kinh tế. Tháng 4-1955, tại Băngđung (Inđônêxia), 29 nước Á - Phi đã họp và ra Bản tuyên bố gồm 10 nguyên tắc hòa bình, trung lập. Đó là một đóng góp quan trọng vào phong trào chống chủ nghĩa thực dân, củng cố nền độc lập của các nước Á - Phi và bảo vệ hòa bình thế giới. Sau Hội nghị Băngđung, phong trào giải phóng dân tộc phát triển như vũ báo. Từ năm 1954 đến năm 1960, hầu hết các nước Bắc Phi, Tây Phi đều giành được độc lập: Tuynidi (1956), Xuđăng (1956), Marốc (1956), Gana (1957)… Năm 1960, có 17 nước ở châu Phi gianh được độc lập và được gọi là “năm châu Phi”. Ở khu vực Mỹ Latinh, cao trào cách mạng bùng nổ khắp nơi, dưới hình thức các cuộc bãi công của công nhân, đấu tranh giành ruộng đất của nông dân, kinh nghiệm vũ trang của nhân dân. Năm 1959, cách mạng Cuba thắng lợi, mở ra cơn bão táp cách mạng và khu vực Mỹ Latinh trở thành “lục địa bùng cháy”. Nhìn chung, thời kỳ này, cách mạng thế giới đang ở thế tiến công. Tuy nhiên, một số nước sau khi giành được độc lập lại có những khuynh hướng chính trị - xã hội hạn chế, thậm chí ở nhiều nước, giới cầm quyền vẫn tiếp tục đi theo con đường cai trị của thực dân phương Tây. Trước thực tiễn đó, Nhà nước Việt Nam vừa ủng hộ chính sách hòa bình, trung lập để tập hợp lực lượng tiến bộ thế giới, vừa tranh thủ vận động các lực lượng khác nhau cho cuộc đấu tranh của dân tộc. Chính sách tăng cường đoàn kết với các nước Á - Phi đấu tranh vì độc lập dân tộc của Đảng đã từng bước tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của nhiều nước, dẫn đến sự ủng hộ quốc tế rộng lớn. Trong lúc đó, tại các nước tư bản chủ nghĩa, phong trào công nhân, phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội cũng phát triển rộng rãi, thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Đó là nhân tố quốc tế hết sức thuận lợi đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam.


(1) Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.614.
(2) Thomas J. Mc. Crnick: Nước Mỹ nửa thế kỷ - Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong và sau chiến tranh lạnh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.296-297.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #24 vào lúc: 18 Tháng Tám, 2014, 06:46:40 pm »

Trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng thế giới, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quóc Mỹ, tìm mọi cách và sử dụng mọi biện pháp chống phá. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ là nước có tiềm lực và sức mạnh kinh tế, quân sự lớn nhất thế giới tư bản chủ nghĩa. Khoảng hai thập niên đầu sau chiến tranh, Mỹ là trung tâm kinh tế -tài chính duy nhất trên thế giới, Mỹ giữ vị thế hàng đầu về quấn sự với trên 3.000 căn cứ quân sự lớn nhỏ rải khắp thế giới và nhiều hệ vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại (bom nguyên tử, tên lửa, máy bay ném bom chiến lược tầm xa...). Với ưu thế về sức mạnh kinh tế - quân sự, các nhà lãnh đạo Mỹ đề ra chiến lược toàn cầu nhằm làm bá chủ thế giới với ba mục tiêu cơ bản: ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới tiêu diệt hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, phong trào hòa bình dân chủ thế giới, lôi kéo các nước tư bản và tập hợp các lực lượng phản động quốc tế đặt dưới sự chỉ đạo của Mỹ. Từ những năm 50 của thế kỷ XX, Mỹ đẩy mạnh thực hiện chiến lược toàn cầu và xác định Việt Nam là một trong những trọng điểm với quan niệm: Việt Nam là nơi Mỹ phô trương và chứng tỏ ý chí, sức mạnh của mình, qua đó chứng minh cho các nước đồng minh thấy rằng Mỹ đủ khả năng giữ vững cam kết đảm bảo an ninh cho họ(1). Điều đó làm cho đế quốc Mỹ luôn cố gắng với khả năng cao nhất tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, làm cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta diễn ra lâu dài, gian khổ, ác liệt.

Bên cạnh thế giới bị phân chia thành hai cực đối kháng, cũng phải nhìn nhận rằng đã xuất hiện xu thế vừa hợp tác, vừa đấu tranh giữa các cường quốc và xu thế này diễn ra dưới hình hình thức và những nội dung khác nhau, trở thành một trong những nhân tố chi phối quan hệ quốc tế. Trên thực tế, những năm 50 - 60 của thế kỷ XX, giữa các cường quốc trên thế giới như Mỹ, Anh, Pháp, Liên Xô, Trung Quốc… có sự tranh giành ảnh hưởng, đặc biệt là cuộc đấu tranh xóa bỏ ý thức hệ giữa các nước tư bản chủ nghĩa và các nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng đồng thời, giữa các nước này cũng có xu hướng hợp tác để giải quyết các vấn đề quốc tế cùng quan tâm nhằm duy trì hòa bình thế giới. Xu thế đó có tác động mạnh đế các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc nói chung, cách mạng Việt Nam nói riêng.

Tình hình chính trị trong khu vực liên quan tới cách mạng Việt Nam cũng có những diến biến phức tạp. Tại Lào, theo Hiệp định Giơnevơ, lực lượng kháng chiến tập kết tại hai tỉnh Sầm Nưa, Phongxalỳ. Sau ngày Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Mỹ tìm cách hất cẳng Pháp, tăng cường viện trợ kinh tế và quân sự cho chính phủ phái hữu, âm mưu biến Lào thành thuộc địa kiểu mới. Cuộc đấu tranh giành độc lập ở Lào vì thế diễn ra ngày càng ác liệt. Tại Campuchia, lực lượng kháng chiến không có vùng tập kết nên buộc phải giải tán. Từ năm 1954 đến năm 1970, Chính phủ Campuchia do Quốc vương Xihanúc đứng đầu đã thực hiện đường lối hòa bình, trung lập nhằm đẩy mạnh công cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa, giáo dục trong cả nước. Tuy nhiên, nhiều thế lực phản động trong nước được chủ nghĩa đế quốc bên ngoài ủng hộ, nuôi dưỡng vẫn tồn tại và hoạt động ngày càng mạnh nhằm phục vụ cho ý đồ chống phá cách mạng Việt Nam. Một số nước Đông Nam Á khác lại thực hiện đường lối dựa vào viện trợ Mỹ để phát triển đất nước, sẵn sàng hợp tác cùng Mỹ đẩy mạnh cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Ở Việt Nam, cuộc kháng chiến bền bỉ, anh dũng của nhân dân ta mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ đã buộc Chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ (7-1954), công nhận độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam, rút hết quân viễn chinh về nước. Đây là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta. Thắng lợi này mở đường cho cách mạng Việt Nam bước vào một thời kỳ phát triển mới với những điều kiện thuận lợi mới, nhưng cũng đầy những khó khăn, phức tạp. Đất nước tạm thời bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập nhau. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng; miền Nam vẫn còn dưới sự cai trị của đế quốc thực dân. Đó là đặc điểm lớn nhất của tình hình nước ta từ sau năm 1954, đặt ra cho Đảng Lao động Việt Nam những nhiệm vụ hết sức nặng nề, vừa phải lãnh đạo nhân dân miền Bắc đấu tranh ổn định tình hình, bắt tay xây dựng chế độ mới, vừa lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Hòa bình lập lại, miền Bắc phải đối mặt với những khó khăn chồng chất do hậu quả của gần một thế kỷ bị nô dịch và chín năm tàn phá của chiến tranh. 90% dân số miền Bắc vốn sống bàng nghề nông, nhưng nông nghiệp - ngành kinh tế chủ yếu của miền Bắc bị thiệt hại nghiêm trọng: 1.430.000 ha đất bị bỏ hoang, 8 công trình thủy nông lớn và nhiều công trình thủy nông vừa và nhỏ bị phá hủy. Phần lớn ruộng đất chỉ canh tác được một vụ, năng suất thấp, kỹ thuật sản xuất thô sơ, thiên tai liên tiếp. Nông thôn xơ xác, tiêu điều vì địch càn quét, đốt phá. Hòa bình lập lại, nhưng nạn đói vẫn liên tiếp xảy ra. Nền công nghiệp chỉ vẻn vẹn có 20 xí nghiệp công nghiệp với thiết bị cũ kỹ, nhiều thứ đã hư hỏng, những bộ phận còn tốt và tài liệu kỹ thuật quan trọng đều đã bị thực dân Pháp chuyển vào Nam. Tỷ trọng của công nghiệp trong giá trị tổng sản lượng công - nông nghiệp từ 10% năm 1939, tụt xuống còn 1,5% khi miền Bắc được giải phóng. Bên cạnh đó, tình trạng của tiểu - thủ công nghiệp cũng rất sa sút, nhất là không có nguyên liệu sản xuất. Nhiều ngành, nghè thủ công truyền thống bị mai một hoặc mất hẳn. Hệ thống giao thông, bưu điện bị hư hỏng và xuống cấp nghiêm trọng.


(1) Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đặc biệt từ sau khi cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời (1949) và sau khi cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1955) kết thúc, vấn đề Việt Nam ngày càng ám ảnh giới lãnh đạo nước Mỹ. Bởi lẽ, là một cường quốc đang theo đuổi chiến lược thống trị toàn cầu, giới lãnh đạo Mỹ quan niệm rằng: “Việc để mất bất cứ một nước nào ở Đông Nam Á vì hành động xâm lược của cộng sản sẽ có một hậu quả tâm lý, chính trị và kinh tế nghiêm trọng. Trong trường hợp thiếu sự phản ứng có hiệu quả và kịp thời, việc mất bất cứ một nước riêng lẻ nào đó chắc chắn sẽ dẫn tới các nước còn lại trong nhóm này quy phục một cách tương đối nhanh chóng hoặc đi theo chủ nghĩa cộng sản”. Trong mắt giới lãnh đạo Mỹ: “ách thống trị của cộng sản... trước mắt sẽ gây nguy hại nghiêm trọng về về lâu dài, nguy hại một cách nguy kích đến lợi ích an ninh quốc gia của Mỹ”. Tuyên bố của Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ về các mục tiêu và đường lối hành động của Mỹ ở Đông Nam Á đầu năm 1952. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về chiến tranh xâm lược Việt Nam, Việt Nam Thông tấn xã dịch và phát hành, tháng 8-1971, t.1, tr.39.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #25 vào lúc: 18 Tháng Tám, 2014, 06:48:14 pm »

Hòa bình lập lại, nhưng tình hình an ninh, chính trị, trật tự và an toàn xã hội trên các địa phương miền Bắc còn rất phức tạp. Trước, trong và sau ngày đình chiến, đối phương cưỡng ép di cư vào Nam hàng chục vạn người, phần lớn là đồng bào theo đạo Thiên Chúa, công chức, nhà buôn, nhà giáo, bác sĩ, nhân viên kỹ thuật… Hàng nghìn gián điệp, mật vụ và tổ chức phản động của nước ngoài cài cắm lại vẫn ngấm ngầm hoạt động. Các toán biệt kích được tung ra miền Bắc phá hoại các cơ sở kinh tế, các công trình công cộng. Ở biên giới phía Bắc, hàng ngàn thổ phỉ được các thế lực phản động tiếp tay hoạt động phá hoại. Sau chiến tranh, nhiều vấn đề xã hội chưa có điều kiện giải quyết. Vấn đề tôn giáo, dân tộc, giai cấp vốn đã phức tạp do chính sách chia rẽ của người Pháp, lúc này càng phức tạp hơn do kẻ thù kích động. Khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định tình hình, xây dựng lại đất nước là sự nghiệp mới mẻ, đầy gian khổ và khó khăn, trong khi hệ thống chính quyền cơ sở còn rất thiếu kinh nghiệm. Trình độ nhận thức và năng lực tổ chức, quản lý kinh tế, quản lý xã hội của cán bộ, đảng viên còn nhiều hạn chế. Đây là những khó khăn to lớn mà miền Bắc phải đối mặt trong những ngày tháng đầu tiên có hòa bình.

Bên cạnh những khó khăn, thách thức, miền Bắc cũng có những thuận lợi cơ bản. Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng trở thành hậu phương lớn của cả nước, có quân đội hùng mạnh, chính quyền vững chắc, Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Ở miền Nam, nhân dân giác ngộ chính trị cao, đã cùng cả nước làm cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công và kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi. Cách mạng nước ta có một chính đảng vững mạnh, tôi luyện dày dạn và gắn bó máu thịt với nhân dân. Sự nghiệp kháng chiến của Việt Nam được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ thế giới. Thuận lợi đó, theo thời gian, sẽ ngày càng được nhân lên thành sức mạnh to lớn.

Sau Hiệp định Giơnevơ, miền Nam trở thành chỗ đứng chân của hai tập đoàn tay sai thân Pháp và thân Mỹ, là nơi diễn ra sự tranh giành gay gắt, thậm chí khốc liệt giữa các phe nhóm thân Pháp và thân Mỹ. Do phải lệ thuộc ngày càng nhiều vào Mỹ trong quá trình tiến hành chiến tranh Đông Dương và bị bại trận, bị những khó khăn lớn ở chính quốc Pháp, thực dân Pháp đã dần rút ra khỏi miền Nam nước ta, chuyển giao quyền lực cho đế quốc Mỹ - một cuộc chuyển giao quyền lực “không êm thấm”. Vì thế, ngay từ khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Mỹ tuyên bố công khai không bị ràng buộc bởi các điều khoản của hiệp định, can thiệp sâu nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Để thực hiện âm mưu cơ bản, lâu dài đó, trước hết Mỹ tập trung nỗ lực giúp chính quyền và quân đội của chế độ Ngô Đình Diệm phá hoại Hiệp định Giơnevơ, loại bỏ các thế lực thân Pháp, nắm trọn quyền thống trị miền Nam. Như vậy, sau ngày Hiệp định Giơnevơ được ký kết, từ chỗ có chính quyền, có quân đội, có vùng giải phóng chúng ta buộc phải tập kết phần lớn cán bộ, bộ đội miền Nam ra miền Bắc, bàn giao vùng giải phóng cho đối phương kiểm soát. Đó là một thay đổi lớn tác động tới tâm tư tình cảm của đồng bào, đồng chí miền Nam, trở thành một trong những khó khăn to lớn mà cách mạng miền Nam phải đối diện. Đi đôi với quá trình hất cẳng Pháp, tiêu diệt các thế lực thân Pháp, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm đồng thời dồn nỗ lực vào việc đánh phá cơ sở cách mạng, khủng bố nhân dân. Được Mỹ cung cấp viện trợ và cố vấn, chính quyền, quân đội Việt Nam Cộng hòa thẳng tay đàn áp khốc liệt phong trào đấu tranh của nhân dân, trả thù những người tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, những gia đình có người thân đi tập kết; tàn sát cán bộ, đảng viên, ráo riết đánh phá các cơ sở cách mạng. Cách mạng miền Nam tổn thất nặng nề. Từ thành thị tới nông thôn, từ đồng bằng đến rừng núi, từ mũi Cà Mau đến bờ nam sông Bến Hải bao trùm không khí trả thù, khủng bố, ruồng áp căng thẳng. Máu của những đảng viên cộng sản và của đồng bào miền Nam tiếp tục đổ trên đường phố, xóm thôn. Bằng những thủ đoạn dã man, tàn bạo, thâm độc, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm mưu toan sẽ nhanh chóng tiêu diệt được lực lượng cách mạng và khuất phục được nhân dân ta. Sau chín năm ròng kháng chiến, miền Nam chưa một ngày có hòa bình. Một lần nữa, cách mạng miền Nam lại đứng trước những thử thách vô cùng to lớn, tưởng chừng khó vượt qua.

Như vậy, sau Hiệp định Giơnevơ, tình hình quốc tế và trong nước vừa có thuận lợi vừa có những khó khăn, phức tạp. Đặc điểm lớn nhất, chi phối toàn bộ yêu cầu và nhiệm vụ của cách mạng trong cả nước là đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam chưa hoàn thành. Cuộc đấu tranh vì nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, hòa bình chưa kết thúc, mà nó còn phải tiếp tục dưới nhiều hình thức và bằng những phương pháp thích hợp. Cuộc đấu tranh này đặt ra cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trên cả hai miền Nam - Bắc nhiều vấn đề mới, phức tạp phải giải quyết để đưa sự nghiệp cách mạng tiếp tục tiến lên, đặc biệt phải nhanh chóng đưa ra được đường lối chống Mỹ, cứu nước phù hợp, hiệu quả, phát huy cao độ sức mạnh nội lực, tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại nhằm đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử đấu tranh giành độc lập, tự do, thống nhất nước nhà.

Khi bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược, chúng ta đã hình thành được một đường lối tương đối hoàn chỉnh: “kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh”. Chính vì thế, ngay từ đầu, toàn dân, toàn quân ta trên mọi miền Tổ quốc bình tĩnh, tự tin kháng chiến dưới ánh sáng của Đảng Lao động Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Còn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, không phải ngay từ đầu, Đảng đã đề ra được đường lối đúng đắn để chỉ đạo kháng chiến, nhất là trong tình hình quốc tế phức tạp, kẻ thù của nhân dân ta là đế quốc Mỹ câu kết chặt chẽ với các thế lực tay sai phản động trong nước theo đuổi chiến lược toàn cầu, đất nước lại bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau - một đặc điểm chưa có tiền lệ trong lịch sử. Đường lối đúng đắn ấy phải là kết quả của cả một quá trình tính toán, chọn lựa dựa trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng toàn bộ những vấn đề liên quan, lường định được khả năng chuyển động của tình hình trong nước, trong khu vực và trên thế giới có tác động tới sự nghiệp kháng chiến của nhân dân ta. Đó còn là kết quả của cả một quá trình đấu tranh gian khổ, trải qua những hạn chế, vấp váp, thậm chí cách mạng miền Nam phải chịu những hy sinh và tổn thất to lớn, vượt qua những tác động tiêu cực từ bên ngoài, đúng như Lênin đã nói: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ, nhưng không phải cách mạng có thể biết ngay được cách tự vệ”(1). Quá trình hình thành đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, vì vậy, quả không hề dễ dàng, đơn giản.


(1) GS, TS. Trung tướng Đ. A. Vôncôgônốp (chủ biên): Học thuyết Mác - Lênin về chiến tranh và quân đội, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998, tr.66.
« Sửa lần cuối: 29 Tháng Tám, 2014, 08:52:09 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #26 vào lúc: 18 Tháng Tám, 2014, 06:53:49 pm »

Từ tháng 7-1954 đến tháng 7-1956 là khoảng thời gian đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền theo quy định của Hiệp định Giơnevơ. Đảng đề ra nhiệm vụ chung trong thời gian này là: ”đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện Hiệp định đình chiến đề phòng và khắc phục mọi âm mưu phá hoại Hiệp định đình chiến để củng cố hòa bình, ra sức hoàn thành cải cách ruộng đất, phục hồi và nâng cao sản xuất, tăng cường xây dựng quân đội nhân dân để củng cố miền Bắc, giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam, đặng củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc” (1). Như vậy, mục đích đấu tranh cuối cùng của nhân dân ta là giành cho được một nước Việt Nam độc lập, hòa bình, thống nhất, dân chủ vẫn luôn luôn là mục tiêu xuyên suốt trong đường lối lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng từ khi Đảng ra đời. Thực hiện nhiệm vụ đề ra, nhân dân miền Bắc bắt tay ngay vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, ổn định tình hình. Nền kinh tế miền Bắc chủ yếu dựa vào nông nghiệp nên Đảng chủ trương ưu tiên phát triển sản xuất nông nghiệp, vì đó “là vấn đề then chốt, là cơ sở của việc cải thiện, đời sống nhân dân, đảm bảo lương thực cho nhân dân, phồn thịnh kinh tế, mở rộng việc giao lưu hàng hóa”(2). Nhờ các chủ trương, biện pháp kịp thời, hiệu quả mà sản xuất nông nghiệp miền Bắc có tốc độ phục hồi và phát triển nhanh chóng. Các ngành kinh tế khác cũng dần được phục hồi, phát triển. Về ngoại giao, Đảng đề ra những phương hướng lớn(3) làm cơ sở cho quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta, trong đó nhiệm vụ của ngoại giao trước mắt là nhằm xây dựng và đề cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của Việt Nam trên trường quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng hòa bình, tiến bộ trên thế giới đối với sự nghiệp xây dựng ở miền Bắc và đấu tranh thi hành Hiệp định Giơnevơ ở miền Nam(4). Đối với cách mạng Việt Nam ở miền Nam, ngay từ tháng 7-1954, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 6, đánh giá sự chuyển biến tình hình, đề ra nhiệm vụ mới, quyết định chủ trương, phương châm, sách lược đấu tranh của cách mạng. Hội nghị chỉ rõ: “Đế quốc Mỹ là một trở lực chính ngăn cản việc lập lại hòa bình ở Đông Dương. Chúng đang ráo riết xúc tiến việc thành lập khối xâm lược Đông Nam Á, dùng Đông Dương làm bàn đạp để mở rộng chiến tranh xâm lược. Vì vậy, đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, và hiện đang trở thành kẻ thù chính trực tiếp của nhân dân Đông Dương(5). Từ đó, Hội nghị khẳng định nhiệm vụ trước mắt của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta là: “chĩa mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc Mỹ và hiếu chiến Pháp, dựa trên cơ sở những thắng lợi đã đạt được mà phấn đấu để thực hiện hòa bình ở Đông Dương, phá tan âm mưu của đế quốc Mỹ kéo dài và mở rộng chiến tranh Đông Dương, củng cố hòa bình và thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn quốc”(6). Đảng đề ra phương pháp đấu tranh là “dùng phương pháp thương lượng để lập lại hòa bình ở Đông Dương”(7), chuyển từ đấu tranh vũ trang chống Pháp sang đấu tranh chính trị đòi đối phương thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ, cải thiện dân sinh, dân chủ.

Về phía Mỹ, sau khi đưa Ngô Đình Diệm lên nắm quyền, Mỹ đã tiến hành một loạt các biện pháp đi ngược lại Hiệp định Giơnevơ được ký kết (21-7-1954). Ngoại trưởng Mỹ Đalét đã tuyên bố: Từ nay về sau, vấn đề bức thiết không phải là than tiếc dĩ vãng, mà là lợi dụng thời cơ để việc thất thủ miền Bắc Việt Nam không mở đường cho chủ nghĩa cộng sản bành trướng ở Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương. Tháng 9-1954, Mỹ lôi kéo một số nước đồng minh lập ra khối Liên minh quân sự Đông Nam Á (SEATO) và ngang nhiên đặt Nam Việt Nam dưới sự bảo trợ của khối này. Tháng 11-1954, Mỹ cử tướng Côlin sang làm Đại sứ Mỹ ở miền Nam Việt Nam, mang theo bản kế hoạch vạch ra từ Oasinhtơn nhằm đẩy mạnh chiến tranh xâm lược(8). Được sự chỉ đạo của Mỹ, Ngô Đình Diệm tập hợp lực lượng, hình thành một chính quyền độc tài, gia đình trị, thân Mỹ. Tháng 8-1954, Ngô Đình Diệm lập Đảng Cần lao nhân vị do người em trai là Ngô Đình Nhu cầm đầu. Tháng 10-1954, Ngô Đình Diệm tổ chức Phong trào cách mạng quốc gia với mục tiêu hoạt động được xác định là “chống cộng, đả thực, bài phong”, “chống cộng” là tiêu diệt lực lượng cộng sản, lực lượng kháng chiến chống Pháp cũ; “đả thực” là gạt hết lực lượng thân Pháp và ảnh hưởng của Pháp để Mỹ độc chiếm miền Nam, “bài phong” là phế truất Bảo Đại và các thế lực phong kiến để Ngô Đình Diệm nắm quyền. Trên thực tế, sau ngày Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Mỹ - Diệm xúc tiến các hành động phá bỏ trắng trợn hiệp định: tháng 10-1955, tổ chức “cuộc trưng cầu dân ý” để phế truất Bảo Đại và suy tôn Ngô Đình Diệm lên làm “thống thống” của “chế độ cộng hòa”; tháng 3-1956, tổ chức bầu cử Quốc hội lập hiến, tháng 10-1956, ban hành bản Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa. Song song với các hành động này, chính quyền Diệm từ chối tiếp xúc với đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để bàn hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Đến thời hạn hai năm, tháng 7-1956, Ngô Đình Diệm thẳng thừng cự tuyệt hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Đồng thời, từ giữa năm 1955, chính quyền Diệm đẩy mạnh đàn áp cách mạng trên toàn miền Nam. Chúng phát động chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng” giai đoạn 1 (5-1955 - 5-1956), mở cuộc hành quân càn quét, bắt bớ, giết hại nhiều cán bộ, đảng viên cùng đồng bào vô tội với những hình thức giết người man rợ thời trung cổ (mổ bụng, moi gan, cắt tay chân, móc mắt, chặt đầu…) hòng khuất phục nhân dân ta.


(1), (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.287, 294-295.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.287, 294-295.
(3), (4)  Bao gồm sáu phương hướng lớn: 1 - Đấu tranh thi hành Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương; 2 - Xây dựng quan hệ đoàn kết, hợp tác toàn diện và chặt chẽ giữa Việt Nam với Liên Xô, Trung Quốc và các nước khác trong phe xã hội chủ nghĩa, cũng như góp phần củng cố đoàn kết và hợp tác giữa các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa; 3 - Tăng cường đoàn kết và hợp tác trong phòng trào cộng sản và công nhân quốc tế; 4 - Xây dựng quan hệ hữu nghị với hai chính phủ Vương quốc Lào và Campuchia theo nguyên tắc chung sống hòa bình, thúc đẩy quan hệ hợp tác với Chính phủ Pháp, tăng cường quan hệ đoàn kết và hữu nghị với nhân dân Pháp; 5 - Tăng cường tình đoàn kết chiến đấu với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Á - Phi, tăng cường quân hệ hữu nghị và hợp tác với các nước vừa giành được độc lập; 6 - Tích cực tham gia phong trào của các lực lượng tiến bộ trên thế giới, đấu tranh bảo vệ hòa bình thế giới, chống các lực lượng đế quốc thực dân hiếu chiến, ủng hộ cuộc đấu tranh vì các quyền dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội, Xem Ngoại giao Việt Nam (1945 - 2000), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 168-169.
(5), (6), (7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.225.
(8) Bản kế hoạch gồm sáu điểm chính:
- Tìm cách hất cẳng Pháp và các lực lượng thấp Pháp nhằm độc chiếm miền Nam Việt Nam.
- Tiêu diệt lực lượng cộng sản, lực lượng kháng chiến, phá hoại Hiệp định Giơnevơ, chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam.
- Ra sức giúp đỡ Ngô Đình Diệm xây dựng được một chính quyền “hợp pháp”, “hợp hiến”, đứng vững được về mặt chính trị, quân sự, kinh tế.
- Giúp đỡ trang bị, huấn luyện để xây dựng một quân đội của Diệm đủ mạnh nhằm đủ sức đương đầu với thách thức của cộng sản.
- Đẩy mạnh cải cách kinh tế, biến miền Nam Việt Nam thành thị trường tiêu thụ của Mỹ.
- Dành ưu tiên cho hàng hóa Mỹ và thực hiện việc phát triển kinh tế miền Nam Việt Nam.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #27 vào lúc: 18 Tháng Tám, 2014, 06:56:04 pm »

Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (3-1955) và Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (8-1955) xác định cuộc đấu tranh của nhân dân ta vì hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, trong cuộc đấu tranh đó, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, vì “Muốn củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc, chúng ta phải có lực lượng. Lực lượng của ta bao gồm toàn quốc, nhưng chủ yếu là ở miền Bắc. Muốn có lực lượng phải ra sức củng cố miền Bắc”(1). Trong khi xác định vai trò, vị trí của miền Bắc, Hội nghị Trung ương 7 và 8 cũng nhấn mạnh nhiệm vụ đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam. Từ rất sớm, Đảng đã nhận thức đầy đủ vai trò của miền Bắc, coi miền Bắc là chỗ đứng, là cơ sở, là nền, là gốc của cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Vì thế, nếu không củng cố miền Bắc, chúng ta sẽ không có lực lượng để đấu tranh buộc đối phương phải tôn trọng những điều khoản của hiệp định và cũng không có lực lượng để ủng hộ miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà. Củng cố miền Bắc tức là bồi dưỡng lực lượng cơ bản của chúng ta. Vấn đề củng cố miền Bắc trở thành một trong những nhiệm vụ chiến lược trọng yếu của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bên cạnh đó, Trung ương Đảng đồng thời xác định rõ tầm quan trọng của nhiệm vụ đấu tranh ở miền Nam cũng như mối quan hệ giữa nhiệm vụ củng cố miền Bắc và chiếu cố miền Nam: “để lợi cho việc tranh thủ rộng rãi trong toàn quốc đặng thực hiện thống nhất nước nhà, phải luôn luôn chiếu cố miền Nam. Củng cố miền Bắc và chiếu cố miền Nam không thể tách rời”: “Cần khắc phục tư tưởng sai lầm rằng: để chiếu cố miền Nam nên hạ thấp yêu cầu củng cố miền Bắc, hoặc chỉ biết củng cố miền Bắc mà không chú ý chiếu cố miền Nam”(2).

Giữa năm 1956, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn công khai từ chối hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Chúng triển khai thực hiện giai đoạn II “tố cộng, diệt cộng”, đánh phá có chiều sâu, hòng quét sạch cơ sở đảng với những khẩu hiệu: “Tiêu diệt nội tuyến, diệt trừ nội tâm”, “đạp lên oán thù để thực thi dân chủ, nhân vị quốc gia”. Với sắc lệnh “đặt Đảng Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật” (5-1957), nhiều biện pháp quyết liệt được áp dụng: Tổ chức học tập “tố cộng” rộng rãi trong nhân dân, trong chính quyền; phân loại quần chúng để phát hiện cơ sở đảng, tận dụng bọn đầu hàng, đầu thú, bọn gián điệp nằm vùng để chỉ điểm truy lùng cán bộ... Chúng cưỡng bức nhân dân “tố giác tội ác của cộng sản”, gây căm thù đối với cộng sản, cô lập cán bộ, chia rẽ Đảng với quần chúng nhân dân... Ngoài ra, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm còn tập trung lực lượng mở nhiều đợt càn quét, khủng bố, tàn sát đẫm máu nhân dân. Nhiều chiến dịch dài ngày diễn ra trên diện rộng, có trọng điểm, nhất là các chiến khu của ta như chiến dịch Thoại Ngọc Hầu (6-1956 - 10-1956) ở 18 tỉnh miền Tây Nam Bộ, chiến dịch Trương Tấn Bửu (7-1956 - 12-1956) ở miền Đông Nam Bộ và giáp biên giới Campuchia. Ở vùng miền núi thuộc cực Nam Trung Bộ, chúng thi hành chính sách “lấy người dân tộc trị người dân tộc” với những trận càn quét kéo dài liên miên. Sự khủng bố điên cuồng của Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã làm cho tình hình miền Nam luôn luôn căng thẳng, nhiều cơ sở đảng bị phá vỡ, hàng vạn quần chúng, đảng viên bị giết hại, bị bắt giam. Cách mạng miền Nam chịu tổn thất nặng nề.

Tình hình trên cho thấy rằng: khả năng thực hiện điều khoản chính trị của Hiệp định Giơnevơ không còn tồn tại nữa. Nhân dân miền Nam không thể chỉ sử dụng đấu tranh chính trị trong khi Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm đã dùng bạo lực phản cách mạng để đàn áp phong trào cách mạng. Nhân dân miền Nam phải vũ trang đứng lên chống lại kẻ thù.

Trước tình hình đó, tháng 6-1956, Bộ Chính trị ra nghị quyết xác định tính chất và nhiệm vụ cách mạng miền Nam: “Tính chất cuộc vận động cách mạng của ta ở miền Nam là dân tộc và dân chủ. Nhiệm vụ cách mạng của ta ở miền Nam là phản đế và phản phong kiến”(3). Nghị quyết cũng chỉ rõ rằng, tuy hình thức đấu tranh của chúng ta trong cả nước hiện nay là đấu tranh chính trị, nhưng như thế không có nghĩa là không dùng vũ trang tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định. Vì thế, cần “củng cố các lực lượng vũ trang và bán vũ trang hiện có và xây dựng căn cứ làm chỗ dựa. Đồng thời xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh làm điều kiện căn bản để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang”(4). Nhấn mạnh đến sự cần thiết phải duy trì, phát triển lực lượng vũ trang. Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 6-1956 thể hiện bước phát triển mới trong đường lối và phương pháp cách mạng miền Nam.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.16, tr.135.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.16, tr.485.
(3), (4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.224, 228.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #28 vào lúc: 18 Tháng Tám, 2014, 07:00:02 pm »

Trước hành động của kẻ thù từ chối tổng tuyển cử tự do trong toàn quốc như Hiệp định Giơnevơ đã quy định, ngày 6-7-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn thể đồng bào quyết tâm đoàn kết rộng rãi và chặt chẽ, ra sức bền bỉ đấu tranh cho một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Người khẳng định: “Đại đoàn kết là một lực lượng tất thắng. Nhờ đại đoàn kết mà cách mạng đã thắng lợi, kháng chiến đã thành công. Nay chúng ta đại đoàn kết thì cuộc đấu tranh chính trị của chúng ta nhất định thắng lợi, nước nhà nhất định thống nhất”(1). Trên cơ sở thực tiễn, cách mạng miền Nam, tháng 8-1956, đồng chí Lê Duẩn - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Xứ ủy Nam Bộ đã soạn thảo Đề cương cách mạng miền Nam. Đề cương cách mạng miền Nam xác định rõ tính chất của xã hội miền Nam, bản chất độc tài phát xít của chế độ Mỹ và chính quyền Sài Gòn, chỉ ra kẻ thù chính của dân tộc ta lúc này là đế quốc Mỹ và bọn tay sai Ngô Đình Diệm. Trên cơ sở đó, Đề cương cách mạng miền Nam đã chỉ rõ ba nhiệm vụ chính làm đường lối chung cho toàn bộ công tác cách mạng của toàn quốc:

“1. Củng cố thật vững chắc miền Bắc,

2. Đẩy mạnh phong trào cách mạng miền Nam,

3. Tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình, dân chủ, độc lập dân tộc trên thế giới”(2).

Đề cương cách mạng miền Nam nói rõ, sở dĩ phải thực hiện các nhiệm vụ nêu trên, vì củng cố miền Bắc, thật vững mạnh mới đảm đương được nhiệm vụ “làm hậu thuẫn cho phong trào cách mạng giải phóng miền Nam”, còn đẩy mạnh cuộc đấu tranh ở miền Nam, vì đồng bào miền Nam đang rên xiết dưới ách thống trị tàn bạo của chế độ Mỹ và chính quyền Sài Gòn để giải phóng mình, “nhân dân miền Nam chỉ có con đường cứu nước và tự cứu mình, là con đường cách mạng. Ngoài con đường cách mạng không có con đường nào khác”(3). Đề cương cách mạng miền Nam đồng thời khẳng định sự cần thiết phải tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ thế giới, vì đương đầu với thế lực phản động mạnh nhất thời đại, cuộc đấu tranh của nhân dân ta là một bộ phận của phong trào nhân dân tiến bộ trên thế giới, “do đó mà ta được thêm sức mạnh, địch sẽ bị cô lập và yếu thế, ta có thêm điều kiện thuận lợi để thắng địch, để hoàn thành sự nghiệp giải phóng hoàn toàn dân tộc ta” (4). Bên cạnh đó, Đề cương cách mạng miền Nam cũng khẳng định mối liên hệ gắn bó không thể tách rời giữa ba nhiệm vụ: “Ba nhiệm vu ấy không thể tách rời nhau được, ba nhiệm vụ ấy liên quan mật thiết với nhau. Có làm tròn ba nhiệm vụ ấy, cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân ta mới đi đến thành công”(5).

Với những quan điểm, tư tưởng cách mạng đúng đắn, những nội dung, nhiệm vụ cụ thể sát với tình hình thực tiễn, giải quyết những vấn đề nóng bỏng của thực tiễn, đáp ứng yêu cầu cách mạng cả nước và cách mạng miền Nam, Đề cương cách mạng miền Nam đã kịp thời hướng dẫn, chỉ đạo trực tiếp đối với phong trào cách mạng miền Nam đang có nhiều khó khăn, biến động lớn, là cơ sở để Đảng Lao động Việt Nam tiếp tục xác định, cụ thể hóa đường lối và phương pháp cách mạng miền Nam trong thời kỳ mới. Trong khi cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam đang trải qua những ngày tháng cực kỳ gian khổ, khó khăn, thì tình hình quốc tế liên quan tới sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước diễn biến phức tạp. Liên Xô tiếp tục theo đuổi chính sách hòa hoãn, cùng tồn tại hòa bình và giữ nguyên hiện trạng Việt Nam. Trong khi đó, Trung Quốc kiên trì thuyết phục Việt Nam “trường kỳ mai phục”. Tháng 11-1956, Chủ tịch Mao Trạch Đông nói với các nhà lãnh đạo Việt Nam: “Tình trạng nước Việt Nam bị chia cắt không thể giải quyết được trong một thời gian ngắn mà cần phải trường kỳ… Nếu 10 năm chưa được thì phải 100 năm”(6). Quan điểm của Liên Xô, Trung Quốc đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước vì thế là một trở ngại đối với quá trình hoạch định đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của chúng ta. Vấn đề đặt ra lúc này là phải tìm ra đường lối và phương pháp đúng đắn, phù hợp để vừa đáp ứng được đòi hỏi bức xúc của đồng bào, chiến sĩ miền Nam, bảo vệ vững chắc miền Bắc, giữ vững hòa bình thế giới, vừa tranh thủ được sự đồng tình của dư luận thế giới, sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, trước hết là Liên Xô, Trung Quốc… Đặt trong bối cảnh lúc bấy giờ, đây quả thật là một thách thức lớn, đòi hỏi bộ não chỉ đạo cách mạng Việt Nam phải có những tính toán, cân nhắc rất cẩn trọng “đường đi nước bước” cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.277.
(2), (3)Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.784, 785.
(4), (5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.785-786
(6) Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua, Nxb. Sự thật, Hà Nôi, 1981, tr.37.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #29 vào lúc: 18 Tháng Tám, 2014, 07:06:47 pm »

Với những kinh nghiệm thực tiễn phong phú, có những phát hiện liên quan tới đường lối, phương pháp cách mạng Việt Nam ở miền Nam, năm 1957, đồng chí Lê Duẩn được triệu tập ra miền Bắc và được phân công phụ trách những trọng trách cao trong Đảng. Trên cương vị của mình, đồng chí cùng các đồng chí trong Bộ Chính trị tiếp tục quá trình nghiên cứu, xác định đường lối cách mạng miền Nam. Tháng 12-1957, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “ta đang đồng thời chấp hành hai chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa và riêng ở miền Bắc mà nói thì nhiệm vụ dân tộc dân chủ nhân dân đã căn bản hoàn thành, cách mạng đã chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn xã hội chủ nghĩa”(1). Về mối quan hệ giữa cách mạng hai miền, Người chỉ ra rằng: “Hai nhiệm vụ cách mạng nói trên đều quan trọng; coi nhẹ một nhiệm vụ nào cũng đều sai lầm. Tuy vậy, nhiệm vụ củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội có tính chất quyết định cho toàn bộ thắng lợi của cách mạng giai đoạn mới”(2). Việc nâng nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam lên ngang hàng nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đặt hai nhiệm vụ chiến lược đó trong quan hệ khăng khít là bước phát triển mới trong quá trình hoạch định đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, độc lập, tự chủ của Đảng Lao động Việt Nam.

Như vậy, trong những năm đầu miền Bắc giải phóng còn bộn bề khó khăn, trước những yêu cầu mới của cách mạng Việt Nam, Đảng đã phân tích điều kiện thực tiễn của đất nước, tình hình thế giới một cách bình tĩnh, khách quan, khoa học, để có đường lối chiến lược, đối sách thích hợp. Lúc này, Đảng chủ trương tạm thời giữ cách mạng miền Nam ở thế giữ gìn lực lượng, đấu tranh đòi Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa thực hiện những điều khoản cơ bản của Hiệp định Giơnevơ, từng bước hiệp thương thống nhất đất nước bằng phương pháp hòa bình. Có thể thấy rằng, không một giây buông lơi quyết tâm thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam ý thức hơn ai hết, lúc này, cuộc đấu tranh ở Việt Nam không đơn thuần chỉ mang ý nghĩa của một cuộc chiến tranh cục bộ, mà ngày càng mang ý nghĩa của sự đối đầu mang tính chất quốc tế. Việt Nam đã và đang trở thành điểm nhạy cảm trong quan hệ của các nước, đặc biệt là của các cường quốc. Muốn đương đầu với đế quốc Mỹ, chiến đấu và chiến thắng chúng, Việt Nam cần nắm bắt các xu hướng vận động của thế giới, của các mối quan hệ quốc tế, đánh giá tình hình trong nước, để trong từng bước đi, trong từng bước phát triển của cách mạng Việt Nam có những quyết sách kịp thời.

Sau năm năm đấu tranh gay go và quyết liệt (1954 - 1959), tình hình miền Nam ngày càng trở nên căng thẳng bởi hành động phá hoại Hiệp định Giơnevơ, cự tuyệt hiệp thương thống nhất Việt Nam của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Những năm tháng ấy, đồng bào miền Nam phải chịu đựng biết bao đau thương và tổn thất, hàng ngàn xóm làng bị đối phương đốt phá, hàng chục vạn cán bộ, đảng viên bị giam cầm, tra tấn và giết hại, nhưng lòng yêu nước và ý chí chiến đấu của đồng bào ta không hề bị giảm sút, phong trào phát triển ngày càng mạnh. Năm 1957, có 2 triệu lượt người tham gia đấu tranh chính trị, đến năm 1958, có 3,7 triệu và sang năm 1959, đã lên tới gần 5 triệu. Trong khi đó, cuộc đấu tranh vũ trang tự vệ, trừ gian, diệt ác cũng được đẩy mạnh và nhiều đơn vị vũ trang cách mạng đã ra đời. Trải qua đấu tranh, cán bộ, đảng viên và đồng bào ta được tôi luyện, phong trào cách mạng tuy phải trải qua những thử thách cực kỳ nghiêm trọng, song vẫn được giữ vững. Lúc này, chế độ thống trị Mỹ - chính quyền Ngô Đình Diệm lâm vào một cuộc khủng hoảng sâu sắc. Đông đảo nhân dân ta ở miền Nam ngày càng thấy rõ không thể nào kéo dài cuộc sống tù ngục dưới chế độ Mỹ - chính quyền Ngô Đình Diệm hơn nữa, quyết tâm vùng lên đấu tranh một mất, một còn với chúng. Điều kiện đã chín muồi để chuyển cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Bắt mạch được tình hình đó, tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 15 (khóa II) dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh,để xác định đường lối cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới. Hội nghị đã ra nghị quyết lịch sử, chỉ rõ: “Do sự can thiệp của đế quốc Mỹ vào miền Nam, nước ta tạm thời chia làm hai miền: miền Bắc đã được giải phóng và độc lập hoàn toàn, còn miền Nam vẫn là một thuộc địa (kiểu mới) của đế quốc Mỹ”(3). Đế quốc Mỹ thông qua chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm để thực hiện chính sách thực dân của mình. Thành phần cốt cán trong chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm là những phần tử phong kiến, tư sản mại bản phản động nhất và những phần tử lưu manh côn đồ phản bội, quyết tâm làm tay sai cho đế quốc Mỹ, nhằm chia cắt đất nước ta lâu dài. Song, nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, nhân dân Việt Nam quyết không chịu làm nô lệ và đứng lên tranh đấu đến cùng, giải phóng đất nước, thống nhất non sông. Những đặc điểm tình hình trên đây làm nổi bật lên hai mâu thuẫn cơ bản mà cách mạng Việt Nam phải giải quyết:

“1. Mâu thuẫn giữa một bên là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, giai cấp địa chủ phong kiến, và bọn tư sản mại bản quan liêu thống trị ở miền Nam và một bên là dân tộc Việt Nam, nhân dân cả nước Việt Nam, bao gồm nhân dân miền Bắc và nhân dân miền Nam.

2. Mâu thuẫn giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa ở miền Bắc”(4).


(1), (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.18, tr.771-772, 773
(3), (4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.20, tr.59, 60.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM