nkp
Thành viên
Bài viết: 80
|
|
« Trả lời #83 vào lúc: 02 Tháng Mười, 2014, 06:47:52 am » |
|
Chương Chín Nhận Định về LS719
Tổng Kết Thiệt Hại Vài tuần sau khi tuyên bố Hành Quân LS719 kết thúc, Bộ Tư Lệnh MACV và Bộ Tổng Tham Mưu VNCH đồng tuyên bố chung số thiệt hại của hai quân lực tham dự cuộc hành quân lớn nhất trong chiến tranh Việt Nam. Theo bản tổng kết chánh thức, phía VNCH có 1.529 chết; 5.423 bị thương; và 651 mất tích — tương đương 21% thương vong trong tổng số quân tham chiến. Phía Hoa Kỳ có 174 chết; 1.027 bị thương; và 42 mất tích. Tài liệu ước lượng phía QĐND có 16.224 chết; 81 bị bắt; và bốn đầu hàng.[1] Về vũ khí, VNCH mất 111 chiến xa M-41 và M-113; 90 đại bác; và hơn 70 quân xa đa dụng đủ lọai (trơng đó có 34 xe ủi đất). Phía QĐND mất (bị thịch thu hay phá hủy) 308 đại bác phòng không; 48 đại bác; 223 súng cối; 207 súng hỏa tiển 122 ly; 106 chiến xa; và 291 xe vận tải.
Trong khi những con số thương vong và thiệt hại về vũ khí có thể tranh cãi được, điều không thể tranh cãi là số thiệt hại của đôi bên trong trận chiến đã vượt xa những thiệt hại hai bên chịu từ trước đến thời điểm đó.
Trận Hạ Lào đem lại cho chiến thuật gia quân sự những thực nghiệm mà trước đây chỉ là lý thuyết: Trận Hạ Lào cho thấy khả năng — và giới hạn — của chiến thuật trực thăng vận; khả năng và giới hạn của hỏa lực của những đại đội trực thăng xung kích; và sự khả thi của căn cứ hỏa lực trong địa thế núi cao với rừng già bao phủ như ở Hạ Lào. Trong cuộc HQ LS719, các đơn vị phòng không của QĐND chịu thiệt nặng ở chiến trường. Nhưng ngược lại, Hoa Kỳ phải trả một giá thật cao để “mua” những thiệt hại đó. Phòng không của QĐND bắn rơi 108 trực thăng và bắn hư 618 chiếc khác. Theo ước lượng của Lục Quân Hoa Kỳ, 20% trong 618 trực thăng hư sẽ bị phế thảy. Như vậy, Lục Quân Mỹ bị rơi 213 chiếc (số thiệt hại này kể luôn bảy phi cơ phản lực của Không Quân Mỹ; và bốn trực thăng VNCH). Ngoài sự thiệt hại về vật chất, chủ thuyết trực thăng vận của Lục Quân Hoa Kỳ bị tổn thương khi áp dụng vào chiến trường LS719:[2] 525 ụ súng phòng không từ 12.7 ly đến 57 ly của QĐND đã chứng tỏ không lực Lục Quân (trực thăng) không thể hoạt động dưới áp lực của phòng không như đã xảy ra ở chiến trường Hạ Lào.[3] Lại càng không được nếu chỉ dùng hỏa lực cơ hữu của trực thăng dọn bãi đổ bộ. Từ kết quả đã thấy về khả năng của trực thăng, nếu chiến thuật trực thăng vận không áp dụng được ở Hạ Lào, thì chiến lược căn cứ hỏa lực cũng không thể áp dụng. Tất cả các căn cứ hỏa lực của VNCH đều phải di tản khi trực thăng không còn tiếp tế được. Lam Sơn 719 là một cuộc hành quân với số lượng phi vụ yểm trợ lớn không thể tưởng. Hơn bảy trăm trực thăng của LĐ101KV và của các quân binh chủng khác (như trực thăng của Hải Quân, Không Quân, và TQLC) cung cấp 90.640 phi vụ đủ lọai riêng cho VNCH.[4] Không Quân Hoa Kỳ chuyên chở 30.000 tấn quân nhu quân dụng và hành khách; yểm trợ 8.000 phi vụ chiến thuật; trong khi Không Quân Chiến Lược đánh 1.358 phi vụ B-52. Pháo binh Mỹ và Việt bắn tổng cộng 519.899 đạn đại bác từ 105 ly đến 175 ly.[5] Với số trực thăng bị bắn rơi và trúng đạn hư hại rất cao, nhưng khi so với tổng số phi vụ và giờ bay, các cấp chỉ huy của Lữ Đoàn Không Vận và Lục Quân Hoa Kỳ cho đó là một thiệt hại tương đối, và có thể chịu đựng được.[6] Nhưng thẩm quyền ở Bộ Quốc Phòng và Bộ Lục Quân muốn MACV trả lời tại sao trực thăng bị bắn rớt/ hư nhiều như vậy.
Nhận Định và Quan Sát Về kế hoạnh hành quân: Kế hoạch HQ LS719 chẳng những được soạn thảo một cách bất ngờ, mà còn được sọan thảo trong sự nghi ngờ. Bất ngờ là thời gian soạn thảo một cuộc hành quân cấp hai quân đoàn — tương đương một lộ quân — mà chỉ soạn trong một tháng, qua năm bộ tư lệnh khác nhau: MACV; BTTM VNCH; QĐXXIV; QĐI; và Tòa Bạch Ốc! Cuộc hành quân được sọan ra trong sự nghi ngờ, vì bộ tư lệnh MACV sọan thảo kế hoạch nhưng chính họ không nghĩ kế hoạch sẽ thành công.
Tài liệu sau này cho thấy mặc dù hai Đại Tướng Abrams và Weyand cố gắng thuyết phục Tổng Thống Thiệu và Đại Tướng Cao văn Viên về sự khả thi của LS719, nhưng trong lòng họ không nghĩ cuộc hành quân sẽ dể dàng như họ đã thuyết phục. Theo hồi ký của Đại Tướng Bruce Palmer, vài năm sau cuộc hành quân tướng Weyand thổ lộ là ông hoài nghi về kế hoạch LS719. Riêng về phần tướng Abrams, cũng theo lời tướng Palmer thuật lạỉ, Abrams nghĩ QLVNCH chưa đủ “lớn” cho cuộc hành quân qua Lào … LS719 là một sự đỏ đen lớn. … Nhưng với B-52, với khả năng không vận trực thăng — và nếu có thêm may mắn — VNCH có thể thắng. Tướng Abrams nghĩ nhu vậy. Ý kiến những thẩm quyền có tham dự vào tiến trình sọan thảo LS719 cho rằng tướng Abrams thi hành kế hoạch rất miễn cưỡng — nếu không nói là bị bắt buột.[7] Tại vì nghi ngờ (đặt hết nổ lực vào một kế họach LS719 ở Hạ Lào) nên Tòa Bạch Ốc muốn soạn thảo thêm kế hoạch thứ hai ở mặt trận Cam Bốt. Và hai kế hoạch này phải được thực hiện song song. Ở đây ta không đổ tất cả trách nhiệm vào Tòa Bạch Ốc, nhưng chúng ta thấy Tòa Bạch Ốc không hiểu biết, hay có khả năng và kinh nghiệm gì về chiến truờng Á Châu, khi họ nghĩ trong thời điểm đó Quân Lực VNCH có thể hành quân ba quân đoàn ở ba mặt trận cùng lúc. Đáng trách ở đây là người sĩ quan chỉ huy có ý nghi ngờ về kế hoạch, nhưng không dám nói thẳng với thẩm quyền dân sự là đề nghị của họ không thể thành công được. Một vài sĩ quan cao cấp lên tiếng về kế họach LS719. Nhưng hoặc là họ lên tiếng quá trễ, hoặc là họ lên tiếng một cách không chánh thức. Ngày 24 tháng 2, sau khi hai căn cứ của BĐQ đã thất thủ và CC31 của Nhảy Dù đang nguy ngập, Đại Tướng William Westmoreland (tư lệnh Lục Quân) chủ tọa một buổi họp của BTMLQ, thay mặt cho Đô Đốc Thomas Moorer. Westmoreland nói ông không nghĩ chiến thuật căn cứ hỏa lực sẽ thành công, nếu chỉ dùng như một lá chắn bảo vệ trục tiến quân. Và nếu xử dụng quân Nhảy Dù để bảo vệ những căn cứ hỏa lực, “thì quân Dù sẽ chết rất dễ dàng.” Tướng Westmoreland thấy nên đổ bộ vào mục tiêu bằng trực thăng, tảo thanh xong, rút đi (tương tự như khái niệm hành quân của tướng Cao Văn Viên). Quân Đoàn I, hành quân với hai sư đoàn và hai lữ đoàn, Westmoreland không nghĩ VNCH đủ quân để đánh theo kiểu trực diện vào Tchepone. Một ngày trước, Westmoreland cũng nói ý kiến của ông với Henry Kissinger khi được hỏi (qua điện thoại). Nhận định của tướng Westmoreland rất đúng, nhưng nhận định của ông đến quá trễ và không được coi như chánh thức (Đô Đốc Moorer là người đại diện chánh thức cho BTMLQ ở Toà Bạch Ốc).[8] Một trường hợp khác cho thấy sự ái ngại của sĩ quan tư lệnh Mỹ, khi họ thấy VNCH phải chiến đấu ở hai mặt trận Lào và Cam Bốt cùng lúc mà không được yểm trợ đầy đủ như hứa hẹn: Trung Tướng Michael Davison, tư lệnh Quân Đoàn II Dã Chiến (II Field Force, BTL cố vấn cho quân Đoàn III VNCH), nói riêng với tướng Abrams là, “Mình đem họ vào [vào chiến trường Cam Bốt] rồi rút tấm thảm dưới chân họ. … Tôi có nói với tướng Trí, “Tôi thấy [chơi như vậy] dơ quá.”[9]
Sự nghi ngờ về kế hoạch đưa đến sự nghi ngờ về khả năng chi huy và lãnh đạo của những tư lệnh hành quân. Kissinger chỉ trích tướng Abrams và Weyand không nhiệt tình theo dõi chiến trường; Weyand và Abrams thì khiển trách tướng Sutherland của QĐXXIV là không ước lượng được nhu cầu tiếp vận cho chiến trường. Tướng Alexander Haig nói tướng Sutherland chưa đủ khả năng chỉ huy cuộc hành quân. Về phía VNCH: tướng Lãm chỉ trích hai vị tư lệnh TQLC và Nhảy Dù; MACV cũng chỉ trích tướng Khang và Đống, nhưng đồng thời muốn Tổng Thống Thiệu thay đổi tướng Lãm bằng tướng Trí. Với tất cả những chỉ trích về khả năng của tướng Lãm, tham mưu trưởng BTMTLQ, Đô Đốc Moorer nghĩ đó là lỗi của MACV: “Hai ông đại tướng và bốn ông trung tướng Lục Quân đã không lên tiếng phản đối (về nhân sự cũng như về khái niệm hành quân) lúc kế hoạch hành quân đang sọan thảo. Nếu họ biết tướng Lãm không đủ khả năng chỉ huy cuộc hành thì họ không nên tiến hành kế hoạch hành quân này.”10] Dĩ nhiên, Đô Đốc Moorer không quên chỉ trích hai tướng Abrams và Weyand đã cùng lúc rời nhiệm sở đi Hawaii và Thái Lan nghĩ dưỡng sức, trong giai đọan hành quân cần sự có mặt của một trong hai chỉ huy.
Về Soạn Thảo: HQ LS719 được soạn thảo bất ngờ và cấp bách. Từ lúc BTL MACV được lệnh soạn thảo ý niệm hành quân cho đến ngày hành quân chỉ có 30 ngày: Không hơn một tháng cho một kế hoạch hành quân có cấp số quân đoàn — hai quân đoàn thì đúng hơn. Khi nói HQ LS719 được sọan thảo trong 30 ngày, đó là ở cấp BTL MACV. Ở cấp quân đoàn, sư đoàn thì chỉ có 21 ngày, nếu không ít hơn. Ngày 15 tháng 1, BTTM mới cho Đại Tá Trần Đình Thọ, Phòng 3, ra thuyết trình cho tướng Lãm. Một tuần sau, 23 tháng 1, QĐI mới có lệnh hành quân chánh thức. Nhưng những đơn vị cơ hữu của quân đoàn thì chỉ có hơn một tuần đề chuẩn bị. Sư Đoàn Nhảy Dù đến ngày 3 tháng 2 mới chánh thức thuyết trình lệnh hành quân — thuyết trình ở Khe Sanh, trên đường ra mặt trận.
Quân Đoàn XXIV; Sư Đoàn 101 Nhảy Dù; và Liên Đoàn 101 Không Vận được thông báo về kế hoạch hành quân một cách tổng quát vào ngày 7 tháng 1. Nhưng để bảo mật, MACV chỉ thị chỉ có tư lệnh, tham mưu trưởng và trưởng phòng hành quân của sư đoàn được biết trong thời gian đầu. Ngay cả ở BTTM, chỉ huy trưởng Phòng 2 cũng không được biết kế họach hành quân cho đến ngày khai diễn.[11] Nghĩa là nếu họ phải chuẩn bị cho cuộc hành quân, họ phải chuẩn bị trong bí mật. Nhưng làm sao chuẩn bị hành quân mà không cho cấp dưới biết. Hầu như tất cả các đơn vị thống thuộc Quân Đoàn XXIV đều phàn nàn là họ không đủ thì giờ chuẩn bị. Những trung tâm tiếp liệu hầu như không nhận đủ hàng vì chưa có lệnh hành quân để yêu cầu. Những khiếm khuyết đó đưa đến những thiếu sót căn bản: Theo Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh, phần lớn các đơn vị tham dự chưa được huấn luyện đầy đủ (như xử dụng súng chống xe tăng M-72), và vì chưa rành về địa hình thời tiết ở Hạ Lào, nhiều đơn vị không đủ chăn mền và đồ ấm cho thời tiết ở ở Hạ Lào.[12]
Chú Thích [1] BTTM VNCH công bố số thương vong ngày 11 tháng 4; Một bản tổng kết khác, ghi ngày 9 tháng 4 cho con số: 1.843 chết; 5.019 bị thương; và 609 mất tích. So sánh hai bản, chúng ta có thể suy luận số 5.423 quân bị thương sau đó chết từ những vết thương, làm thay đổi số tử thương ở hai bản. Ngày 5 tháng 4, BTL MACV công bố với báo chí thiệt hại như sau: VNCH, chết 1.146; thương 4.236; mất tích 246. Phía Hoa Kỳ có: chết 102; thương 215; mất tích 53. Nguyễn Duy Hinh, sđd, tr. 128. Tuy nhiên, báo cáo hành quân của Quân Đoàn XXIV, số thương vong của Mỹ là, chết 219; bị thương, 948; mất tích 38. Số tử thương bên QĐND được ước lượng từ 13.000 đến 16.224. Lewis Sorley, sđd, tr. 635. Con số 16.224 đến từ tin tức tình báo khối Đông Âu.
[2] Số trực thăng thiệt hại được bàn thảo ngày 27 tháng 3 ở BTL MACV. Lewis Sorley, The Abrams Tapes, tr. 577; Đại Tướng Bruce Palmer, The 25-Year War, tr. 113. Chủ thuyết trực thăng vận bị tổn thương vì Bộ Quốc Phòng ra lệnh BTL Lục Quân Hoa Kỳ điều tra và trả lời tại sao trực thăng bị thiệt hại nhiều trong trận LS719. Tài liệu cho thấy Ngũ Giác Đài gọi MACV, yêu cầu cung cấp tài liệu về thiệt hại trực thăng với thái độ “khẩn trương.” Thông văn, ARV 1276, 100900Z APR 71. Thiếu Tướng Gettys (tham mưu truởng Lục Quân Hoa Kỳ, Việt Nam) gởi Thiếu Tướng Tarpley (tư lệnh SĐ101ND).
[3] Trong trận A Shau tháng 9-1968, Mỹ rớt khoảng 40 trực thăng, và đó là thiệt hại lớn nhất về trực thăng … cho đến khi có LS719.
[4] Theo Nguyễn Duy Hinh, sđd, tr. 134. Trực thăng bay tất cả 164.442 phi vụ nếu tính thêm 73.802 phi vụ yểm trợ cho các đơn vị Mỹ. Số phi vụ trực thăng được tính từ ngày 30 tháng 1 đến 6 tháng 4-1971. Số phi vụ riêng cho mặt trận Hạ Lào là 45.828 phi vụ. Joint Chiefs of Staff and the War in Vietnam, tr. 449.
[5] Carl Berger, ed., The U.S.A.F. in Southeast Asia, 1961-1973, tr. 115; Nguyễn Duy Hinh, sđd, tr. 139.
[6] Trung Tướng John J. Tolson, Airmobility in Vietnam: Helicopter Warfare in Southeast Asia, tr. 244-252.
[7] Tư lệnh và tư lệnh phó MACV, Đại Tướng Abrams và Weyand đều ái ngại, nghĩ kế hoạch khó thành công nếu không có quân tác chiến Mỹ (cố vấn) đi chung. Đọc Bruce Palmer trong The 25-Year War, tr. 108-110. Sử gia Sorley viết, tướng Abrams không thích nói đến HQ LS719, dù với người thân nhất. Sorley, sđd, tr. 442.
[8] The Joints Chiefs of Staff and the War in Vietnam, tr. 9. Ngày Westmoreland nói chuyện với Kissinger nằm trong Henry A. Kissinger, White House Years, tr, 1004-1005.
[9] Lewis Sorley, The Abrams Tapes, tr. 565. Tướng Davison nói với Abrams ngày 20 tháng 3, 1971 ở BTL MACV.
[10 The Joint Chiefs of Staff anh the War in Vietnam, tr. 17. [11] Nguyễn Duy Hinh, sđd, tr. 157. [12] Nguyễn Duy Hinh, sđd, tr. 157. Sách của Trương Duy Hy cũng có nói đến những co ro trong đêm lạnh ở Hạ Lào.
|