quangcan
Global Moderator
Bài viết: 3233
|
|
« Trả lời #50 vào lúc: 01 Tháng Tám, 2014, 04:53:35 pm » |
|
Tôi thấy rằng: - E64 F320A/ trung đoàn 64 sư đoàn 320A đang vào chiến trường B3 thì được lệnh dừng lại tham gia chiến dịch Đường 9 Nam Lào; - trước đó, E48 F320A/ trung đoàn 48 sư đoàn 320 cũng đến đường 9 thì dừng và ngược lên Phalan. - trước đó nữa thì E31 F2/ trung đoàn 31 sư đoàn 2 đã vào tham gia chiến dịch Đắc Siêng - theo sử liệu từ BTL thông tin liên lạc: ...Binh đoàn B70 cũng nhanh chóng triển khai hai đường 1 trục đến sư đoàn bộ binh 308 ở hướng phía đông và sư đoàn bộ binh 304 ở hướng phía tây đường số 16 (Chú thích: Trước khi mở chiến dịch, ta đã nghi binh bằng thông tin vô tuyến điện: sư đoàn 304 tổ chức cụm vô tuyến điện liên lạc bằng các bức điện giả, làm theo luật cũ với Binh đoàn 70, với Bộ Tổng Tham mưu. Địch tổ chức theo dõi ta và báo tin: sư đoàn 304 đã vào Tây Nguyên.). Đoàn 559 và sư đoàn bộ binh 2 dựa vào hệ thống hữu tuyến điện tại chỗ để liên lạc với Bộ Tư lệnh chiến dịch và hiệp đồng với Binh đoàn B70, đồng thời triển khai các đường dây xuống cấp dưới.... Vậy phải chăng QĐVN đã có một phương án tại B3 Tây Nguyên ngay trong đầu năm 1971? Tiên sinh có thể cho biết, liệu Mỹ + VNCH có phương án B cho việc đánh lớn cả ở ngã ba biên giới tại Tây Nguyên và lam sơn 719? Việc thắt đầu, chặt đuôi là hết sức khả thi và táo bạo phải không ạ!
|
|
|
Logged
|
|
|
|
nkp
Thành viên
Bài viết: 80
|
|
« Trả lời #51 vào lúc: 02 Tháng Tám, 2014, 12:46:03 pm » |
|
Vậy phải chăng QĐVN đã có một phương án tại B3 Tây Nguyên ngay trong đầu năm 1971? Tiên sinh có thể cho biết, liệu Mỹ + VNCH có phương án B cho việc đánh lớn cả ở ngã ba biên giới tại Tây Nguyên và lam sơn 719? Việc thắt đầu, chặt đuôi là hết sức khả thi và táo bạo phải không ạ!
“Hết sức khả thi và táo bạo” là một câu nói quá lịch sự về kế hoạch của VNCH-Hoa Kỳ! Câu nói đúng hơn phải là, “Quá táo bạo và sẽ không thể nào thực hiện được.” Từ giữa năm 1970 người Mỹ muốn đánh một trận cuối cùng trước khi ngân sách quốc phòng cho chiến trường Viet Nam bị cắt giảm. Nhà Trắng đồng thời cũng dự liệu quốc hội Mỹ sẽ dùng mọi biện pháp để giảm thiểu tối đa hoạt động và sự hiện diện của quân tác chiến Hoa Kỳ hai quốc gia Lào và Cam Bốt. Từ giữa năm 1970 đến đầu năm 1971, các trại Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ nằm dọc theo biên giới được Giao lại cho VNCH, và hoán chuyển thành các tiểu đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng. Đúng như Nhà Trắng tiên đoán, tháng 12-1970 quốc hội phê chuẩn bộ luật Cooper-Church, cấm sự hiện diện của quân tác chiến Mỹ trên hai quốc gia lân cận. Trong chiều hướng bị cắt giảm và giới hạn đó, BTL Thái Bình Dương (Pacific Command) và BTL MACV quyết định đánh một ván bài lớn cuối cùng. Nhưng ván bài quá lớn cho số “tiền” (quân số) MACV đang có. Sự cán đáng nhiều trách nhiệm cho quân lực VNCH trong thời gian đầu của chương trình Việt Nam Hóa, một rường hợp Đô Đốc McCain gọi là “ăn nhiều quá không tiêu.” 1. Trong nguyên thủy của kế hoạch hành quân thường niên 1971-AB, Hoa Kỳ đề nghị hành quân cùng lúc ở 3 mặt trận: Quân Đoàn I đánh qua Lào; Quân Đoàn II đánh lên thung lũng Dakrong (hướng bắc thung lũng A-Shau); Quân Đoàn III và IV đánh qua vùng Ba Biên Giới và Cam Bốt. Hoa Kỳ đề nghị và muốn như vậy, nhưng họ không có quân số và phương tiện đủ để yểm trợ. Tương tự, quân số của VNCH ở Vùng II không đủ để bình định 12 tỉnh của Vùng II, thì lấy đâu mà hành quân qua biên giới để thử lửa với Mặt Trận B-3? 2. Đến cuối tháng 12 năm 1970, kế hoạch thường niên AB được cụ thể hoá như sau: QĐ III và IV sẽ đánh qua Cam Bốt (HQ Toàn Thắng 1/71); QĐ I sẽ tấn công chiếm Tchepone (HQ Lam Sơn 719). Vai trò của QĐ II sẽ tùy thuộc vào kết quả Giai Đoạn III – giai đọan khi quân VNCH đã chiếm được Tchepone … và trên đường lui quân về biên giới (giả định là VNCH đã phá hủy kho tàng quân nhu … lục soát đầy đủ, và thoả mãn với thời gian chiếm đóng). Đến đây kế hoạch 1971-AB bắt đầu táo bạo hơn: trên đường rút quân, lực lượng hỗn hợp Dù-Thiết Kỵ sẽ trở lại theo Đường 9; Sư Đoàn 1 Bộ Binh sẽ từ Tchepone đi đường 914 về hướng đông nam, hành quân ngược lại vùng Dakrong-A shau; đi qua căn cứ tiếp liệu 611 (Hành quân trong nghĩa vừa lui quân, vừa phá hủy những kho hậu cần lộ liểu.). Khi đạt được đến giai đọan đó, QĐ II sẽ đánh qua biên giới để bắt tay với đoàn quân trở về (có nghĩa một trong hai Sư Đoàn 22, 23, sẽ đánh qua B-3 hơn 45 km để bắt tay với SĐ 1 BB hành quân hơn 80km từ Tchepone trở về. Kế hoạch sẽ không thực hiện được vì Hoa Kỳ không đủ không vận để yểm trợ cho hai sư đoàn (22, hoặc 23, và 1 BB). Một chứng cớ: Ngày 24 tháng 2 (một ngày trước khi căn cứ 31 của TĐ3/LĐ3 Nhẩy Dù thất thủ), QĐ XXIV hỏi “mượn” QĐ I Dã Chiến Lục Quân Hoa Kỳ (đây là BTL Hoa Kỳ cố vấn cho QĐ II VNCH/ US Army I Field Forces) một số trực thăng võ trang Cobra, vì QĐ XXIV đã rớt khá nhiều lọai trực thăng đó. QĐ Dã Chiến I trả lời là họ đã hết phương tiện, vì họ đang hổ trợ cho QĐ Dã Chiến II (cố vấn cho QĐ III VNCH) đang đánh qua Cam Bốt. Chúng ta phải nhớ, VNCH đang có 22 ngàn quân ở Cam Bốt cùng lúc với 17 ngàn quân ở Nam Lào -- ăn quá nhiều khó tiêu! 3. Trách nhiệm giao cho Sư Đoàn 1 BB VNCH quá nặng: Làm sao SSD 1 BB có thể đánh từ Lao Bảo qua Tchepone; rồi từ Tchepone hành quân theo đường 914 trở về biên giới? Một sự đòi hỏi siêu nhân. Nhìn vào bản đồ, với địa hình dọc hai bên Đường 914 chạy hưóng đông nam về biên giới, một sư đoàn thiếu như SĐ 1 BB thì không thể nào “bao sân” cho một đoạn đường 80 km ở Hạ Lào, ở Muong Nong. 4. Sự bất khả thi ở đây đây là Hoa Kỳ không đủ trực thăng vận để hứa hẹn một chiến dịch phản công lớn như kế hoạch 1971-AB đòi hỏi. Hoa Kỳ chỉ cho mỗi tiểu đoàn trực thăng (48 đến 52 chiếc đủ lọai) phục vụ cho 1 sư đoàn tác chiến. Với địa hình và hoả lực của QĐND ở Hạ Lào, với tình trạng tác chiến đối điện, 48 hay 52 trực thăng thì không đủ cho 1 sư đoàn. Chứng cớ: Ngày hành quân thứ ba (11 tháng 2), căn cứ hoả lực 30 cuả tiểu đoàn 2 Nhẩy Dù tuyên bố tình trạng nguy hiểm về tiếp liệu (không đủ); ngày hôm sau, chi huy truởng của một đại đội trực thăng chở nặng (CH-47) thông báo cho trung tâm hành quân là ông ta không thể tiếp tục tiếp tế nếu trực thăng chuyên chở của ông ta không được trựcthăng võ trang Cobra hộ tống. Và ông ta ra lệnh cho đại đội CH-47 bay về Phú Bài! 4. Nếu diễn đàn VMH cần sử liệu thì tôi sẽ cung cấp về những chi tiết trên.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
quangcan
Global Moderator
Bài viết: 3233
|
|
« Trả lời #52 vào lúc: 02 Tháng Tám, 2014, 01:41:16 pm » |
|
Vâng, rất mong tiên sinh cung cấp và dẫn chứng các tài liệu có liên quan để tôi được hiểu thêm rõ hơn. Cảm ơn nhiều, . Tôi vẫn luôn cho rằng, mùa khô 1971 là một cơ hội tuyệt vời, thời điểm thích hợp nhất đối với phía Mỹ + VNCH trong việc đối phó với QĐNDVN. Có thể thấy rằng, suốt từ 1965 đến 1970 thì Lam Sơn 719 là chiến dịch quy mô siêu lớn diễn ra trong hoàn cảnh đầy khó khăn và thiếu hụt về mọi mặt của phía Bắc Việt. Nhất lại là sau chiến dịch càn quét/ tàn phá khá thành công tại Cambodia, Mỹ + VNCH có sức mạnh tinh thần rất lớn trong hoạt động tác chiến. Vấn đề chỉ là làm sao để mùa khô 1971 họ thu được kết quả tối ưu nhất nhằm từng bước đánh quỵ QĐNDVN? Sai lầm của Lam Sơn 719 đã rõ, có lẽ không phải bàn nhiều. Thế nhưng nếu một kế hoạch tác chiến tương tự, diễn ra ở ngã ba biên giới liệu có khả thi hơn không? liệu ưu thế và hoạt động tác chiến có hơn hẳn? Mỹ +VNCH đã phân tích và đánh giá sự tương tác, lợi và hại của 2 khu vực tác chiến này ra sao để đi đến sự lựa chọn cuối cùng? Có một điểm khá hay là từ kết quả thắng lợi của Chiến dịch đường 9 Nam Lào, QĐNDVN đã có thêm thời gian, sự chuẩn bị khá hoàn hảo cho mùa khô 1972 với những kế hoạch tác chiến cũng .... rất táo bạo khi niềm tin và sức mạnh tinh thần cũng có được như VNCH có trước Lam Sơn 719.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
nkp
Thành viên
Bài viết: 80
|
|
« Trả lời #53 vào lúc: 02 Tháng Tám, 2014, 10:21:45 pm » |
|
Vâng, rất mong tiên sinh cung cấp và dẫn chứng các tài liệu có liên quan để tôi được hiểu thêm rõ hơn. Cảm ơn nhiều, . Tài liệu hỗ trợ cho đọan văn # 1 và 2 (kế hoạch thường niên AB và những lượng định về ba mặt trận ở Lao, Cam Bot và A Shau-Dakrong-Sekong) đến từ Foreign relations of the United Satem Vol. 7, tàl liệu số 105; Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh, Operation Lam Son 719, trang 33; và, The Joint Chiefs of Staff and the War in Vietnam, Chương 1. Tài liệu cho đọan văn #3 (thiếu trực thăng và phải mượn trực thăng từ II Field Forces) điện văn trao đổi giữa QĐ XXIV và MACV; Lewis Sorley, The Abrams Tapes, trang 544; Robert D. Sander, Invasion of Laos, 1971 Lam Son 719, trang 119-121. Tác phẩm Invasion of Laos, 1971 là sách mới nhất về HQ LS719 (tháng 2-2014). Tác giả Sander là cựu phi công trực thăng bay yểm trợ trong HQ LS719. Một chi tiết khác, khá trong trọng về sự thay đổi nửa chừng trong HQ Lam Sơn 719: Ngày 20 tháng 2, Tổng Thống Thiệu thay đổi kế họach cho SĐ1 BB như sau: Thay vì rút quân về theo đường 914, SĐ1 BB sẽ về theo đường 922 về biên giới. Nhìn vào bản đồ Đường 914 về biên giới đã xa; Đường 922 càng xa hơn. Ở đây chúng ta không biết ông Thiệu có coi bản đồ lộn hay không, nhưng với tình hình chiến sự vào ngày 22 (căn cứ BĐQ bắc vừa thất thủ; căn cứ BĐQ Nam đang trong tình trạng nguy ngập) mà thẩm quyền muốn SĐ1 BB rút quân về theo đường 922 là một sự điên rồ khó tưởng tưởng. The JCS and the War in Vietnam, trang 8-9. Tình Thân.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
altus
Moderator
Bài viết: 1782
|
|
« Trả lời #54 vào lúc: 02 Tháng Tám, 2014, 10:27:53 pm » |
|
Chương Bảy
Nửa Đường Đi Xuống
Bản Đông Ngày đầu của cuộc hành quân, “ngày N” trong ngôn từ quân sự, tất cả các đơn vị xuất quân thực hiện được mục tiêu như lệnh hành quân chỉ thị. Hai Tiểu Đoàn 1 và 8 Nhảy Dù và hai Thiết Đoàn 11 và 17 đi theo đường bộ về Bản Đông. Lực Lượng Đặc Nhiệm Nhảy Dù-Thiết Kỵ đi chậm vì gặp trở ngại: đường xấu, phải chờ công binh lấp những hố bom sâu cho cơ giới qua. Từ Lao Bảo về Bản Đông khoảng 18 km. Trên đọan đường này lực lượng hành quân thiết lập hai bãi đáp trực thăng và cũng là tuyến bảo vệ đường: Bãi Đáp Bravo và Alpha (Alpha thành lập hai tuần sau Bravo). Bravo và Alpha được giao cho hai chi đội thiết kỵ của ThĐ4KB trấn giữ. Nhưng vào cao điểm của cuộc hành quân, Bravo và Alpha được hai tiểu đoàn Nhảy Dù trấn giữ. Ở hướng đông bắc Bản Đông, các vĩ tuyến 17 chừng 10 km và khoảng năm km bên kia biên giới, BĐQ thiết lập hai căn cứ phòng thủ theo chiều dọc bắc nam, CCBĐQB (căn cứ BĐQ bắc) và CCBĐQN (căn cứ BĐQ nam), do Tiểu Đoàn 39 và 21 BĐQ trấn giữ (đến ngày N +3, TĐ39BĐQ mới chiếm đóng CCBĐQB). Ở phía sau, nằm xéo về hướng đông nam của BĐQ là CC30ND của TĐ2ND. Hơn năm cây số về hướng tây của CC30ND, và khoảng tám cây số cực bắc Bản Đông, là CC31ND. Nơi đây đặt bộ chỉ huy của LĐ3ND và do TĐ3ND phòng thủ. Tất cả các căn cứ ở hướng bắc Đường 9 được đổ bộ và thiết lập trước 5 giờ chiều ngày N của cuộc hành quân (trừ TĐ39BĐQ). Như vậy, năm tiểu đoàn tác chiến và ba đại đội pháo binh (pháo đội) sẽ lập thành một lá chắn phòng thủ hướng bắc của trục tiến quân. Ở phía nam Đường 9. Ba tiểu đoàn của Trung Đoàn 3 Bộ Binh, SĐ1BB (TrĐ3/SĐ1BB) chiếm những cao điểm trải dài từ đỉnh Co Roc đến nửa đường đến Bản Đông. Theo dự trù, trong vài ngày sắp tới, thêm hai trung đoàn của SĐ1BB sẽ đổ bộ lên những cao điểm để bảo vệ phía nam Đường 9 từ Bản Đông đến nửa đường về Tchepone — một hành lang dài hơn 20 cây số. Hai Trung Đoàn 1 và 3 của SĐ1BB có đến tám tiểu đoàn tác chiến. Kế hoạch hành quân ước lượng SĐ1BB có đủ quân để chu toàn trách nhiệm.[1]
Ngày 8 tháng 2, khi lực lượng đặc nhiệm Dù-Thiết Kỵ dùng chân nghỉ qua đêm ở cây số thứ 10 trên đường tiến quân, 6.200 quân VNCH đã có mặt ở Hạ Lào. Ba chết, 14 mất tích; 38 bị thương; ba trực thăng bị bắn rơi, trong đó có một đang đổ bộ lính Dù xuống CC31ND. Đó là thiệt hại của ngày đầu trên đường đến Bản Đông. Ngày N +1 (9 tháng 2). Trời mây thấp, có mưa rào từng cơn. Đường ướt, lầy lội, khó đi hơn. LĐ3ND tiếp tục nới rộng vòng đai phòng thủ của họ ở hướng tây bắc. Ngày N +5 (13 tháng 2), hai đại đội của TĐ6ND đổ bộ xuống phía tây CC31ND để thiết lập CC32ND như tiêu lệnh hành quân. Nhưng cuộc đổ quân không yên thấm như những ngày trước, khi kháng cự của địch hầu như không có. Lần này đại đội của TĐ6ND đổ bộ ngay vào vị trí của địch. Hỏa lực phòng thủ và kháng cự của địch mạnh đến độ đại đội được lệnh rời vị trí, di tản về hướng CC31ND. Một số quân được trực thăng bốc trở lại Khe Sanh, một số rút vào đóng chung với TĐ3ND ở CC31ND. Cuộc đổ bộ “lầm” mục tiêu gây thiệt hại cho TĐ6ND 28 chết; 50 bị thương; và 23 mất tích. Sức kháng cự của Quân giải phóng được BTL MACV ghi nhận và đề cập vài ngày sau ở Sài Gòn.[2]
Ngày hành quân N+1, trên Đường 9, Quân Dù và Thiết Kỵ di chuyển chỉ được năm cây số ngày hôm đó. Một số phi vụ đổ quân bằng trực thăng bị hủy bỏ; không lực yểm trợ bị giới hạn tối đa cho ngày 9. Thời tiết tiêu biểu ở Hạ Lào: buổi sáng chừng 10 giờ đến 12 giờ sương mù mới tan; sương mù lại che phủ sau mặt trời lặn. Lính ở các căn cứ bung ra lục soát và xây dựng thêm hầm hố phòng thủ. Số hàng tiếp liệu khám phá chung quanh vùng hành quân làm bộ chỉ huy phấn khởi: ở ngoài Bản Đông mà nhiều như vậy, thì ở Bản Đông, ở Tchepone, hàng hóa tiếp liệu dự trữ sẽ còn nhiều hơn. Báo cáo từ TĐ2 và 3 Dù; TĐ21BĐQ, và các tiểu đoàn bộ binh ở hướng nam … họ khám phá nhiều hầm chứa vũ khí và hàng quân nhu quân dụng. Phản ứng của địch rất chậm và yếu trong hai ngày đầu: Từ Đông Hà về Lao Bảo, các lực lượng của B-5 chỉ bắn phá lẻ tẻ và phục kích các đoàn xe chở tiếp liệu, mặc dù B-5 có hai trung đoàn tác chiến, hai trung đoàn pháo binh, và một tiểu đoàn đặc công đang ứng chiến tại mặt trận. [3]
Ở hai hướng bắc nam của Đường 9, phản ứng của địch là pháo kích hay chống trả cầm chân rồi di tản khi vị trí bị khám phá. Tình hình chung có vẻ yên lặng. Nhưng truyền tin điện tử nghe được cho thấy địch đang tiếp viện thêm quân; củng cố lực lượng; và xác định tọa độ của các căn cứ để chuẩn bị phản công. Trong vài ngày đầu, chiến thuật của địch dường như là “tránh voi chẳng xấu mặt nào.”
Ngày hành quân N+2 (10 tháng 2). TĐ4/TrĐ3/SĐ1BB đổ bộ xuống căn cứ Delta ở hướng nam với thiệt hại hai trực thăng bị bắn rơi. Ở Bản Đông, những cuộc đổ quân bằng trực thăng của TĐ9ND gặp trở ngại với năm ổ phòng không 12 ly 7. Nhưng đến chiều thì tiểu đoàn chiếm được Bản Đông để bắt tay với cánh quân đi vào bằng đường bộ. Địch biết Bản Đông sẽ bị tấn công bằng trực thăng vận, nên họ di tản trước. Phi cơ quan sát thấy 11 xe kéo đại bác phòng không 37 ly đi về hướng Tchepone trước đó.[4] Lực lượng đặc nhiệm Dù-Thiết Kỵ đến giao điểm Đường 9 và 92 gần như cùng lúc với cuộc trực thăng vận của TĐ9ND vào Bản Đông, cách đó không hơn 1 cây số. Chiếm xong Bản Đông, lực lượng đặc nhiệm bung ra lục soát. Trinh sát về hướng tây Bản Đông cho biết đường lộ về Tchepone còn tốt; cơ giới có thể di chuyển nhanh được.[5] Nhưng vào ngày 10 tháng 2 bộ tư lệnh QĐI bị một thiệt hại rất nặng về tâm lý: Hai trực thăng trên đường thị sát mặt trận ở CCHotel và CC21BĐQ, bị phòng không 37 ly bắn rơi. Trên một trực thăng có một đại tá trưởng phòng hành quân quân đoàn; và một trung tá trưởng phòng tiếp liệu của quân đoàn. Vị đại tá trưởng phòng hành quân có mang theo bản đồ LS719 với tất cả mật hiệu và ghi chú, do chính ông góp phần sọan thảo. QĐI lập tức cho thám sát tìm vị trí của trực thăng bị nạn nhưng không kết quả. Vì một lý do không giải thích được, hai trực thăng bị lạc và bay ngay vào vùng phòng không của địch. Trinh sát của Không Kỵ Mỹ đã lưu ý tất cả phi công trực thăng về cường độ phòng không của địch ở trong vùng. Đến ngày 10 tháng 2, quân báo chưa xác định được lực lượng địch ở chung quanh CC21BĐQ, nhưng lúc đó bộ chỉ huy SĐ308 đang đóng ở hướng bắc, cách đó “vài ba cây số,” với hai trung đoàn cơ hữu của sư đoàn.[6] Tin không chánh thức cho biết cái chết của đại tá Trưởng Phòng 3 làm xao động tâm lý của Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh QĐI.[7] Nếu địch tìm thấy được bản đồ hành quân, thì tất cả những kế hoạch LS719 sẽ bị lộ từng chi tiết.
Ngày N+3, SĐ1BB đổ bộ và thiết lập thêm một căn cứ ở hướng nam; BĐQ đưa TĐ39BĐQ vào CBĐQB; và lực lượng đặc nhiệm Dù-Thiết Kỵ đi được thêm năm cây số ra khỏi Bản Đông. Chỉ được như vậy cho ngày N+3: Tất cả các toán quân khác gần như án binh bất động vì không nhận được chỉ thị nào — hay là họ nhận được chi thị án binh bất động — từ bộ chỉ huy tiền phương ở Khe Sanh. Như trình bày ở chương trước. Theo kế họach, sau Bản Đông, LĐ1ND sẽ lập thêm ba căn cứ 11, 13 và 14, theo một trục tây bắc, nối Đường 9 và 914. Nhưng khi lực lượng đặc nhiệm đến địa điểm để lập CC11 thì họ đứng lại. Hai ngày 11 và 12 thời tiết xấu, nhưng đó có phải là lý do cho sự dậm chân tại chổ của cuộc hành quân?
|
|
|
Logged
|
|
|
|
altus
Moderator
Bài viết: 1782
|
|
« Trả lời #55 vào lúc: 02 Tháng Tám, 2014, 10:52:51 pm » |
|
Hai ngày trước khi Hành Quân Dewey Canyon II khai diễn, tướng Viên, Abrams và Tổng Thống Thiệu có nói chuyện với nhau. Tướng Abrams nói nếu đánh nhanh, lực lượng đặc nhiệm có thể đến Tchepone trong 48 tiếng [8]. Tổng thống Thiệu và tướng Viên không phản đối. Trên thực tế, đến chiều ngày N của cuộc hành quân, lực lượng đặc nhiệm Dù-Thiết Kỵ đã đi 10 cây số — một phần tư đọan đường đến mục tiêu Tchepone. Nhưng nếu quân Dù phải lập ra thêm ba căn cứ và phải có trách nhiệm phòng thủ như lệnh hành quân chỉ thị, thì quân tác chiến nào sẽ “tùng thiết” với thiết kỵ trên đường vào Tchepone? Bãi đáp Bravo trên Đường 9; tay phải là hướng tây đi về Bản Đông. Lệnh hành quân cho thấy lữ đoàn Nhảy Dù nào sẽ có trách nhiệm phòng thủ các căn cứ được thiết lập: LĐ3ND coi CC30, 31, 32; LĐ1ND, CC11, 13, 14; và LĐ2, sau khi đổ bộ bằng trực thăng chiếm Tchepone, sẽ giữ CC21 và CC22. Quân tấn công có đủ quân để bảo vệ nhiều cứ điểm như được sọan thảo hay không? LĐ1TK chỉ có hai thiết đoàn dưới tay, ThĐKB11 và 17. Mỗi thiết đoàn có một chi đội xe tăng và hai chi đội thiết giáp xung kích. Với số quân này, nếu không có quân nhảy dù đi kèm, họ không thể vừa giữ Bản Đông, vừa tiến đánh Tchepone. Có thể toán quân Dù-Thiết Kỵ ngừng lại để chờ quân tiếp viện thêm, sau khi ra khỏi Bản Đông năm cây số trên hướng về Tchepone. Trên Đường 9 về Bản Đông. Sông Xe Pone ở phía nam trục tiến quân. Ngày N +4 của hành quân, một vài thay đổi quan trọng trong kế hoạch xảy ra: Ngày 10 tháng 2, Tổng Thống Thiệu bay ra Đông Hà thị sát. Tại BTL tiền phương QĐI ông Thiệu ra chỉ thị: QĐ1 tạm thời giới hạn lại mục tiêu; chủ đích của cuộc hành quân trong vài ngày tới là căn cứ hậu cần 611 (A Ro, trong ngụy danh hành quân) ở phía nam Đường 9 — vùng trách nhiệm của SĐ1BB. Nếu sử liệu được kiểm chứng đúng, thì có thể vì quân lệnh này, lực lượng đặc nhiệm Dù-Thiết Kỵ dừng lại để phòng thủ những căn cứ đang có, và để bảo vệ hướng bắc cho SĐ1BB họat động ở phía nam.[9] Khi MACV biết được quyết định của Tổng thống Thiệu, tướng Abrams gặp tướng Viên ngày hôm sau, 13 tháng 2, để hỏi rõ ý định của BTTM VNCH. Tướng Viên xác định những thay đổi như Tổng thống Thiệu đã nói ở Đông Hà. Ba ngày sau, ngày 16 tháng 2, hai ông đại tướng tướng bay ra Đông Hà gặp tướng Lãm và tướng Sutherland. Sau khi bàn thảo, tất cả đồng ý (dù tướng Abrams lưỡng lự, nói nếu chần chờ địch sẽ viện quân kịp thời) kế hoạch và nhiệm vụ sẽ thay đổi. SĐ1BB sẽ là lực lượng chủ lực thay cho SĐND; mục tiêu Tchepone phải chờ thêm vài ngày nữa: Sau khi lục soát căn cứ 611 xong, quân cơ hữu của QĐI sẽ quay lại tiếp tục tấn công về mục tiêu Tchepone. Sự thay đổi kế hoạch hành quân của VNCH đưa đến tranh luận giữa MACV và BTTM; và giữa QĐI và QĐXXIV. Nhưng nhìn sâu bên trong, chúng ta có thể hiểu lý do của sự thay đổi từ phía VNCH: Sự phản công mãnh liệt của địch. Không phải ở mặt trận Hạ Lào mà thôi, mà cả mặt trận Cam Bốt. Vì một lý do nào đó, từ đầu năm 1971, tất cả chú ý đều hướng về Lào, trong khi ở Cam Bốt, quân số tham dự hai cuộc hành quân ở Cam Bốt tương đương, hay có thể hơn, quân số ở Hạ Lào. Điều đáng chú ý nhất, QLVNCH đang gánh vác một công tác hơn sức họ chịu đựng.[10] VNCH phải thay đổi kế hoạch vì đến lúc đó Hoa Kỳ đã không thực hiện đủ những yểm trợ mà họ đã hứa trước ba cuộc hành quân cấp quân đoàn (QĐI, QĐIII, và QĐIV). Chính Hoa Kỳ cũng đang gặp nhiều khó khăn hơn sức họ hứa hẹn được. Cuối năm 1970, BTL MACV vừa bị bộ quốc phòng thúc giục rút quân, vừa phải đương đầu với bảy chiến trường, như thuyết trình viên MACV đã một lần diễn giải: “Chiến trường Thượng Lào; oanh tạc ngăn chận Đường HCM; chiến trường Cam Bốt; chiến trường vùng hoạt động của B-2; vùng hoạt động của Quân Khu 5; B-5; và Trị-Thiên- Huế.” Và khi nghe lời “than” của tư lệnh Không Lực 7 Hoa Kỳ, chúng ta thấy quân lực Hoa Kỳ cũng có sự giới hạn của họ: “Chỉ tiêu là 14.000 phi vụ một tháng, nhưng cộng thêm vào đó tôi bay 12.000 phi vụ yểm trợ; 21.000 phi vụ vận tải; 850 đến 900 phi vụ thám thính. … Mình chỉ có thể thực hiện số phi vụ đến một giới hạn nào thôi" [11] Một mặt, BTL Thái Bình Dương và BTL MACV lưu ý, trong giai đọan đầu của chương trình “Việt-Nam-Hóa” đừng để quân lực VNCH “ăn nhiều quá khó tiêu.” (ngụ ý nói giao quá nhiều trách nhiệm, VNCH sẽ không quán xuyến nổi) Nhưng vì những áp lực và thúc giục chính trị nào đó, MACV và BTL Thái Bình Dương đề nghị hành quân cấp quân đoàn — không phải một, mà ba quân đoàn trong ba cuộc hành quân cùng một lúc. Cuộc Hành Quân Cửu Long 44-02 của Quân Đoàn IV tương đối “yên tĩnh.” Nhưng Toàn Thắng 1/71 thì hoàn toàn khác: Quân VNCH phải chạm trán với địch trên đất địch, và xa hậu cần tiếp liệu. Hơn nữa, khi Hành Quân Toàn Thắng 1/71 vừa khai diễn, thì BTTM và MACV rút đi những đơn vị chủ lực như kế hoạch nghi binh (một số đơn vị chủ lực như Nhảy Dù và TQLC có mặt trong Toàn Thắng 1/71 chỉ vài ngày đề đánh lừa đối phương … nhưng được di chuyển ra Vùng I ngay sau đó, đó để chuẩn bị cho LS719). Với 21 ngàn quân ở Cam Bốt và 17 ngàn ở Lào, MACV không còn đủ phương tiện để yểm trợ. Bây giờ, trong giai đoạn khốc liệt nhất của chiến trường mãnh liệt, khuyết điểm của MACV lộ ra trong những thông văn và thuyết trình báo cáo. … Nhưng đó là chuyện sẽ nói đến. Bây giờ trở lại với vùng hành quân. Ngày 14 tháng 2 tướng Sutherland báo cáo cho MACV biết về những “va chạm” đang xảy ra giữa QĐXXIV và QĐI; và những lý do đã làm Tổng Thống Thiệu chỉ thị thay đổi kế hoạch và nhiệm vụ vào ngày 12. Tướng Hoàng Xuân Lãm than phiền QĐXXIV không đủ trực thăng để yểm trợ theo nhu cầu của QĐI; và, theo đà trực thăng bị hỏa lực phòng không bắn rớt như đã xảy ra trong tuần lễ đầu, QĐXXIV sẽ không còn đủ trực thăng để yểm trợ trong những ngày sắp đến. Tướng Sutherland viết tiếp trong điện tín, qua cuộc nói chuyện, ông nghĩ tướng Lãm sẽ không giữ Tchepone hơn một tháng như trong kế hoạch. Tướng Lãm nói lý do thay đổi kế hoạch là vì áp lực của địch quá mạnh ở vùng trách nhiệm của LĐ1BĐQ và LĐ3ND. Thêm vào đó Lực Lượng Đặc Nhiệm (LLĐN) không thể di chuyển nhanh trên Đường 9 vì địa hình quá xấu, khác với ước lượng tình báo. Tướng Lãm muốn QĐXXIV dùng hỏa lực để “giới hạn” các Trung Đoàn 88, 24B, và 64 của Quân giải phóng trước khi SĐND tiến về hướng tây (Tchepone). Tướng Sutherland thú nhận ông ra lệnh cho trinh sát Không Kỵ tìm vị trí của SĐ308 nhưng chưa phát hiện được trung đoàn này đang đóng ở đâu.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
altus
Moderator
Bài viết: 1782
|
|
« Trả lời #56 vào lúc: 09 Tháng Chín, 2014, 01:39:31 am » |
|
Ở cuối bức điện tín dài bốn trang, Sutherland tiên đoán quân số cần cho chiến trường có thể gia tăng nhiều hơn ước lượng, dựa vào dấu hiệu tăng quân và sự kháng cự mãnh liệt của địch. [12] Điện tín của tướng Sutherland cho thấy ba chi tiết quan trọng: (a) Địa hình Đường 9 hoàn toàn khác không ảnh cung cấp; đường xấu hơn ước lượng; (b) hỏa lực không quân Mỹ không áp đảo hay giới hạn được mạng lưới phòng không của đối phương; và (c) địch tiếp viện quân nhanh hơn dự đoán. Ba chi tiết trên có thể làm ông Thiệu thay đổi ý kiến. VNCH thay đổi kế hoạch vừa đúng lúc địch chuẩn bị phản công. Với quân số hơn sáu trung đoàn tác chiến, Quân giải phóng bắt đầu phản công: Chiều ngày 20, căn cứ đầu tiên của VNCH bị thất thủ.
Trận Liệt Quân Giải Phóng Cho Đến Ngày CCBĐQN/B Bị Thất Thủ
Sau gần một tuần trấn thủ; sau khi hứng chịu hơn 2.000 đạn súng cối 82 ly, căn cứ BĐQ bắc của TĐ39BĐQ thất thủ lúc 5 giờ 10 chiều ngày 20 tháng 2 (N +12), với 178 chết và 148 bị thương.[13] Trong số 200 tay súng phá vòng vây di tản về CCBĐQN, chỉ còn 107 quân tác chiến được; số còn lại bị thương. Trung Đoàn 102/SĐ308 QGP mất 639 quân để chiếm ngọn đồi.[14] Lý do SĐ308 phản ứng quyết liệt và sẵn sàng chịu thiệt hại để triệt tiêu CCBĐQB, vì cao điểm của căn cứ nằm sát BTL SĐ308 CSVN. Càng nguy hiểm hơn, vị trí của TĐ39 nhìn xuống kho trữ hàng quan trọng Mường Trương (hướng tây bắc CC39BĐQ; nơi một kho hàng bị bom đánh, vũ khí và hàng dự trữ cháy, nổ hai ngày mới dứt).[15] Để triệt tiêu CC39BĐQ, ngoài TrĐ102 đã nói, SĐ308 còn chi viện thêm một tiểu đoàn tác chiến và năm pháo đội. Sau khi CC39BĐQ mất, CC21BĐQ, ở phía sau chừng hai cây số, bị tấn công ngay ngày hôm sau. Lần này TrĐ88/SĐ308 là lực lượng chính tấn công TĐ21BĐQ đang trấn thủ CCBĐQN. Quân báo MACV đã ước lượng sai về thời gian cần thiết để địch tiếp viện thêm quân: MACV ước lượng QGP cần ít nhất 10 đến 14 ngày để di chuyển quân đến chiến trường (ngày hành quân N+18). Nhưng đến ngày N+12, số QGP có mặt trong vùng hành quân đã tăng gấp đôi. Tù binh mới khai báo họ đến từ những đơn vị khác với những đơn vị đã được ghi trong trận liệt trong những ngày đầu hành quân. Ngày 18 quân báo Mỹ xác định sự hiện diện của SĐ308 QGP, với ba trung đoàn cơ hữu, 36, 88, và 102. Trung Đoàn 64/ SĐ304 có mặt ở vùng Bản Đông từ ngày N-4 (4 tháng 2); Xe tăng lội nước PT-76 đang có mặt ở phía nam CC31 của Nhảy Dù từ ngày 13 (và địch đã dùng xe tăng tấn công các tiền đồn bên ngoài vòng đai căn cứ từ ngày 16). Và cũng cho đến thời gian này quân báo mới biết chính xác vị trí của Binh Trạm 41 với TrĐ141/SĐ2BB QGP đang ở phía nam vùng hoạt động của SĐ1BB VNCH. Căn cứ hậu cần 611 trên đường 914 — mục tiêu tạm thời của SĐ1BB — bây giờ có ba Trung Đoàn 812 và 29 của SĐ324 và TrĐ141/SĐ2BB bảo vệ.[16] Ngày 20 tháng 2 tại BTL MACV, Thiếu Tướng William Potts thông báo, “Trừ SĐ325 và TrĐ9/SĐ304 còn ở lại miền bắc, tất cả các đơn vị QGP đang trên đường đến chiến trường [Hạ Lào].” Báo cáo của tướng Potts (Phòng 2 MACV) cho thấy MACV đã ước đoán sai trận liệt QGP từ lúc đầu. QGP đang có sáu trung đoàn từ các Sư Đoàn 308, 2, 304, 320, và 324B hoạt động ở vùng hành quân.[17] Ước lượng vào ngày 8 khi bắt đầu cuộc hành quân: Địch có ba trung đoàn và bốn binh trạm; ngày 20: địch có sáu trung đoàn và sáu binh trạm — con số này tăng lên tám trung đoàn vào đầu tháng 3. Đó là ước lượng của quân báo Mỹ, nhưng theo quân sử QĐNDVN , đầu tháng 2, vào ngày hành quân, họ đã có 60.000 lính (gấp ba lần ước lượng) tại vùng hành quân.[18] Về tổn thất, đến ngày 20 tháng 2, QGP có số thương vong tương đương bốn tiểu đoàn sau những lần tấn công vào bốn căn cứ ở mặt bắc Đường 9. Trong thời gian đó, VNCH di chuyển về Khe Sanh thêm ba tiểu đoàn bộ binh; ba tiểu đoàn BĐQ; và hai tiểu đoàn Thiết Kỵ. LĐ147 và 258 TQLC, đang hành quân nghi binh ở Vùng I, cũng được thông báo chuẩn bị tham gia hành quân LS719.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
altus
Moderator
Bài viết: 1782
|
|
« Trả lời #57 vào lúc: 09 Tháng Chín, 2014, 01:48:38 am » |
|
Vào ngày N +12 (20 tháng 2), chiến trường ở Hạ Lào được năm cánh quân Quân giải phóng phụ trách: Ở hướng bắc Đường 9, từ Lao Bảo về Tchepone, do Binh Đoàn 70 (B70) với ba Sư Đoàn 308, 304 và 320; cùng với các Binh Trạm 8, 9, 12, 16, và 27 chịu trách nhiệm; B-5 với bốn trung đoàn tăng cường (+), đánh phá đọan đường từ Đông Hà về Lao Bảo làm đình trệ đường tiếp vận bộ; ở Phía nam Đường 9, Sư Đoàn 2 và 324B và các Binh Trạm 33, 34, 41 và 42 cô lập các đơn vị VNCH đóng ở những cao điểm từ Co Roc về phía tây Bản Đông. Ngày 21 tháng 2, sau một tuần pháo kích nát căn cứ, TrĐ88/SĐ304 dùng bộ binh tấn công CC21BĐQ. Sau khi mất CCBĐQ39, vị trí của CC21BĐQ rất “bơ vơ,” vì họ chỉ cách CC39BĐQ khoảng hai cây số, và trước mặt họ là SĐ308. Hỏa lực pháo binh yểm trợ từ CCLĐ1BĐQ ở Ta Puc/ Phú Lộc không đủ để làm giảm áp lực địch đang tiến vào vòng đai của CC21BĐQ — chính căn cứ Ta Puc cũng đang bị pháo cầm chân để giới hạn sự yểm trợ lại. Đây là một chiến thuật quân Quân giải phóng sử dụng liên tục — và thành công — vào tất cả căn cứ ở phía bắc Đường 9. Hỏa lực pháo binh của đối phương đã làm tê liệt căn cứ mục tiêu, và gây khó khăn cho căn cứ yểm trợ.
Để đi kèm với trận liệt, xin nói qua một ít về hỏa lực pháo binh của lực lượng quân Quân giải phóng ở mặt trận Hạ Lào. Cộng với tám trung đoàn pháo binh riêng biệt, pháo binh ở đây kể luôn những đại đội/ trung đội súng nặng như súng cối 60, 82, và 120 ly. Trong một ý nghĩa thực dụng, những đại đội súng nặng là những đơn vị “pháo binh cơ hữu” của cấp tiểu đoàn/ trung đoàn. Một trung đoàn quân chủ lực Quân giải phóng có cấp số từ 60 đến 65 súng cối 60 và 82 ly; và bốn đến sáu cối 120 ly. Mỗi súng cối có cấp số đạn 30 đến 40 viên; đôi khi 60 đến 100 viên, tùy theo mặt trận đang tham chiến. Lấy BTL B70 với ba Sư Đoàn 308, 304, và 320 làm thí dụ: Theo tài liệu hậu cần, B70 (ba sư đoàn cộng lại) có tất cả 104 súng cối 60 ly; 64 cối 82 ly; 30 cối 120 ly; và 30 đại bác 122 ly. Trong chiến dịch Nam Lào, ba sư đoàn của B70 tiêu thụ gần 10.000 quả đạn lọai 60 và 82 ly — chưa kể đến đại bác tầm xa như 122, 130 và 152 ly. Trong khi đó, ở mặt trận hướng hướng nam Đường 9, SĐ2BB Quân giải phóng tiêu thụ 2.762 đạn 60 ly, và 5.598 đạn 82 ly; SĐ324B xài hơn 5.000 quả 82 ly và gần 1.900 đạn 60 ly. [19]
Điểm muốn nhấn mạnh ở đây, lọai vũ khí như súng cối đã làm tê liệt hệ thống tiếp tế đường không vận cho các căn cứ. Súng cối là một vũ khí đơn giản, dể xử dụng, và rất hiệu quả nếu xử dụng thuần thục. Cối 82 ly có tầm bắn hơn bốn cây số; 60 ly thì ba cây số. Chừng mười khẩu cối trãi rộng ra trên một chu vi có đường bán kính vài ba cây số, pháo vào một căn cứ nằm trên đỉnh đồi … thì căn cứ khó có thể phòng thủ lâu được được. Đối phương không thấy vị trí của súng cối để phản pháo, nhưng xạ thủ súng cối quan sát vị trí của đối phương rõ. [20] Kinh nghiệm ở trận Khe Sanh cho thấy phi trường lớn rộng như Khe Sanh vẫn bị tê liệt cũng vì pháo — pháo tầm xa 130 ly cũng như tầm gần 82 ly. Đường phi đạo, bãi đáp trực thăng, chỉ giới hạn vào một khoảng trống nào đó. Một khi xạ thủ súng cối đã xác định được bãi đáp, thì những quả bắn kế tiếp sẽ dể như lấy đồ trong túi. Khó tìm ra vị trí của cối để phản pháo, dù cho có trực thăng trinh sát liên tục. Một lối bài binh của của súng cối điển hình ở Hạ Lào: pháo thủ và pháo công kéo vài ba khẩu cối và đạn đến những vị trí đã định. Sau đó, lúc tác chiến, pháo thủ liên tục di chuyển đến từng khẩu để tác xạ. Như vậy pháo thủ tránh được thương vong hơn là ở tại một chổ khi súng bị khám phá. Sự khó khăn của trinh sát không kỵ là phải bay chậm và sát để truy lùng lọai vũ khí quá nhỏ (súng cối dài không hơn 1,2 mét). Và nếu bay quá thấp, quá chậm, thì sẽ gặp nguy hiểm với phòng không loại nhỏ, nhưng dầy đặc bầu trời, như đại liên 12 ly 7.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
altus
Moderator
Bài viết: 1782
|
|
« Trả lời #58 vào lúc: 09 Tháng Chín, 2014, 01:56:49 am » |
|
Bài học kinh nghiệm sau cuộc hành quân LS719 ở Hạ Lào cho thấy, hỏa lực đến từ hàng rào súng cối chung quanh các căn cứ hỏa lực đã giới hạn chiến thuật xử dụng căn cứ hỏa lực để bảo vệ và yểm trợ vùng hành quân. Căn cứ hỏa lực chỉ thành công ở một vài địa hình trống trải, kèm theo những yểm trợ mạnh đủ để đè bẹp những “quấy nhiễu” chung quanh. Nhưng tất những căn cứ hỏa lực ở Hạ Lào không có được những tiện nghi về hỏa lực hay tiếp liệu liên tục như trong lý tưởng. Để so sánh một căn cứ hỏa lực của Mỹ ở thung lũng A Shau (bên này biên giới Việt) và một căn cứ hỏa lực của Nhảy Dù VNCH ở Hạ Lào. Căn cứ Ripcord ở A Shau được một tiểu đoàn Nhảy Dù Hoa Kỳ trấn đóng. Tiểu đoàn này có ba tiểu đoàn tác chiến khác thường trực bổ sung quân số khi cần. Căn cứ Ripcord được hai tiểu đoàn trực thăng phục vụ và năm tiểu đoàn pháo binh yểm trợ. Nhưng sau hơn bốn tháng cố thủ, SĐ101 Nhảy Dù Mỹ ra lệnh di tản Ripcord vì chịu không nổi áp lực của địch, và thương vong. [21] Trong thời gian bốn tháng, Mỹ đã yểm trợ tất cả những gì có thể yểm trợ được về pháo binh và không lực, nhưng vẫn không giữ được. Đó là tháng 7-1970, khi SĐ101ND Hoa Kỳ có tất hỏa lực trong tay để yểm trợ cho căn cứ Ripcord. Trong khi đó ở Hạ Lào, Mỹ chỉ có ba tiểu đoàn trực thăng (hai không vận, một xung kích) để yểm trợ và vận chuyển tiếp tế cho 10 căn cứ hỏa lực VNCH. Dù Hoa Kỳ cố gắng đến đâu, chắc chắn những căn cứ của VNCH sẽ không được yểm trợ như quân trú phòng mong muốn. Chiến thuật căn cứ hỏa lực thất bại ở Hạ Lào vì địa hình rừng rậm, vì khó khăn về tiếp tế và hỏa lực yểm trợ. Căn cứ hỏa lực nếu không có hỏa lực mạnh, thì sẽ là cứ điểm bất động; trở thành một tấm bia cho pháo binh đối phương: nằm cao, nhô lên lộ liễu giữa rừng, pháo thủ đối phương khó bắn trật. [22] Trường hợp này đúng cho tất cả căn cứ hỏa lực VNCH ở Lào. Từ ngày 17 đến ngày 22 (N +9 đến N +14) thời tiết xấu bao trùm vùng hành quân: mưa và sương mù giới hạn tất cả các phi vụ yểm và trợ tiếp tế. Sáng Chủ Nhật ngày 21 tháng 2, SĐ308 dùng tất cả TrĐ88 và lực lượng cơ hữu tấn công CCBĐQN. Lý do SĐ308 phải tấn công và triệt tiêu CCBĐQN nhanh chóng, vì họ không thể bao vây lâu để chịu đựng những cơn mưa bom của B-52 như họ đã bị ở CCBĐQB. Ngay sau đêm CCBĐQB thất thủ, tướng Lãm yêu cầu QĐXXIV dội bom hủy bỏ căn cứ của TĐ39BĐQ. B-52 dội bom liên tiếp hai ngày. Có thể những phi tuần B-52 đã thúc đẩy SĐ308 tấn công CCBĐQN: Đánh sát vào căn cứ; đánh kiểu “nắm thắt lưng địch,” thì có cơ hội sống nhiều hơn. Cùng lúc tấn công vào CCBĐQN, pháo binh của B70 pháo kích vào CC30 và CC31 của Nhảy Dù. Ở phía nam hai căn cứ 30 và 31, TRĐ64/SĐ320 phục kích và đánh chận, không cho TĐ8ND và ThĐ17KB từ CCLĐ1ND ở Bản Đông tiến về gần CC31ND để yểm trợ. Tối thứ tư, 24 tháng 2, biết không thể giữ được CCBĐQN, tướng Lãm cho lệnh TĐ21BĐQ di tản. Đến lúc này không còn quyết định nào khác hơn di tản: TĐ21BĐQ không còn đạn, nước, hay lương thực để chiến đấu. Một số BĐQ rút ra khỏi căn cứ bằng đường bộ; một số lớn được trực thăng vận về CC30ND, và từ đó trở về đơn vị mẹ ở CCLĐ1BĐQ tại Phú Lộc, Ta Puc. [24] Đến lúc hai căn cứ BĐQ bị thất thủ; và lúc áp lực đang đè nặng vào hai căn cứ Nhảy Dù còn lại ở bắc Bản Đông, BTL QĐXXIV Hoa Kỳ mới lên tiếng thông báo cho BTL MACV biết họ đang gặp khó khăn để tiếp tế và cung cấp trực thăng vận chuyển: Quân Đoàn XXIV không còn trực thăng để đáp ứng yêu cầu từ các căn cứ hỏa lực. Thật là một thiếu thốn chết người trong lúc khó khăn và cần thiết nhất. Ngày 23 tháng 2, Trung Tướng Sutherland báo cho Đại Tướng Abrams của MACV, “Trong vài ngày qua, QĐXXIV cần phải giới hạn lại những yểm trợ không vận, vì không còn đủ lọai trực thăng võ trang UH-1C và AH-1G.” câu văn “trong ngày vài ngày qua,” có nghĩa là QĐXXIV đã gặp khó khăn để yểm trợ trước ngày CCBĐQB và CCBĐQN thất thủ. Cũng trong nghĩa đó, hai căn cứ của Nhảy Dù CC31ND và CC30ND cũng bị nằm trong tình trạng thiếu thốn. CC31ND nằm trong tình trạng nguy hiểm nhất: căn cứ nằm sát vùng hoạt động của BTL B70. Hai căn cứ BĐQ Bắc và Nam mất ngày 21 và 24 là một chấn động ở chiến trường Hạ Lào. Nhưng chấn động đó bị loãng đi kế bên một biến cố quan trọng hơn, có nhiều ảnh hưởng ở “cấp trên” hơn: Trung Tướng Đỗ Cao Trí, tư lệnh Hành Quân Toàn Thắng 1/71 kiêm tư lệnh QĐIII, bị tử nạn trực thăng tại chiến trường ngày 23 tháng 2. Tin không chánh thức cho biết tướng Trí — ngay ngày trực thăng bị nổ trên không — đang chuẩn bị lên đường ra QĐ1 thay thế Trung Tướng Lãm chỉ huy cuộc Hành Quân LS719. Mất hai căn cứ; tướng Trí chết; và khó khăn về yểm trợ cho mặt trận. Chiến trường Vùng III mất đi một sĩ quan chỉ huy; trong khi quân nhân ở Vùng I thì mất lòng tin vào người sĩ quan chỉ huy của họ. Đó là tình hình của mặt trận Hạ Lào ngày 25 tháng 2-1971. Câu nói “Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí” diễn tả đúng nhất trong trường hợp này: Nhiều chuyện không may đến cùng một lúc, như đang xảy ra trên toàn cõi chiến trường ở Hạ Lào lúc đó.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
quangcan
Global Moderator
Bài viết: 3233
|
|
« Trả lời #59 vào lúc: 17 Tháng Chín, 2014, 11:28:55 am » |
|
Em xin phép tham gia một số ý kiến nhỏ, kiểu "tiểu tiết nhặt sạn": 1. ...Trung Đoàn 64/ SĐ304 có mặt ở vùng Bản Đông từ ngày N-4 (4 tháng 2)....Ngày 21 tháng 2, sau một tuần pháo kích nát căn cứ, TrĐ88/SĐ304 dùng bộ binh tấn công CC21BĐQ.... Ở phía nam hai căn cứ 30 và 31, TRĐ64/SĐ320 phục kích và đánh chận, không cho TĐ8ND và ThĐ17KB từ CCLĐ1ND ở Bản Đông tiến về gần CC31ND để yểm trợ.... E88 lúc này nằm trong đội hình F308 là đương nhiên rồi, và F308 chịu sự chỉ huy của BTL chiến dịch . F320 thì có E64 đang hành quân vào chiến trường, nó gần như là trung đoàn độc lập do BTL chiến dịch chỉ đạo trực tiếp; còn E48 thì được bổ sung cho sư đoàn 2 để đủ 3 trung đoàn trực thuộc. 2. ...Để đi kèm với trận liệt, xin nói qua một ít về hỏa lực pháo binh của lực lượng quân Quân giải phóng ở mặt trận Hạ Lào. Cộng với tám trung đoàn pháo binh riêng biệt, pháo binh ở đây kể luôn những đại đội/ trung đội súng nặng như súng cối 60, 82, và 120 ly. Trong một ý nghĩa thực dụng, những đại đội súng nặng là những đơn vị “pháo binh cơ hữu” của cấp tiểu đoàn/ trung đoàn. Một trung đoàn quân chủ lực Quân giải phóng có cấp số từ 60 đến 65 súng cối 60 và 82 ly; và bốn đến sáu cối 120 ly. Mỗi súng cối có cấp số đạn 30 đến 40 viên; đôi khi 60 đến 100 viên, tùy theo mặt trận đang tham chiến. Lấy BTL B70 với ba Sư Đoàn 308, 304, và 320 làm thí dụ: Theo tài liệu hậu cần, B70 (ba sư đoàn cộng lại) có tất cả 104 súng cối 60 ly; 64 cối 82 ly; 30 cối 120 ly; và 30 đại bác 122 ly. Trong chiến dịch Nam Lào, ba sư đoàn của B70 tiêu thụ gần 10.000 quả đạn lọai 60 và 82 ly — chưa kể đến đại bác tầm xa như 122, 130 và 152 ly. Trong khi đó, ở mặt trận hướng hướng nam Đường 9, SĐ2BB Quân giải phóng tiêu thụ 2.762 đạn 60 ly, và 5.598 đạn 82 ly; SĐ324B xài hơn 5.000 quả 82 ly và gần 1.900 đạn 60 ly [19] .... Rất mong đợi tác giả hoặc bác altus cung cấp sớm phần chú thích, quả thật có vài điểm hơi bất ngờ và rất mong cùng xác nhận . Xin lấy một ví dụ: Dẫn chứng từ tài liệu tổng kết của Binh chủng pháo binh Việt Nam về trận trung đoàn 141 sư đoàn 2 được hỗ trợ pháo binh của mặt trận quyết tâm tiêu diệt cao điểm 723/ Phu Rệp/ Ph. Rep tại nam đường 9. Vị trí chiến thuật tiên quyết mở màn cho các loạt trận khác của F2 tại cánh nam đường 9 trong chiến dịch đường 9 Nam Lào: - Phía VNCH: ...Trong hai ngày 1 và 2 tháng 3 năm 1971, địch huy động 105 lần chiếc máy bay phản lực, 15 lần chiếc máy bay B52 và nhiều lần chiếc máy bay trực thăng vũ trang liên tục bắn phá vào điểm cao 723 và các khu vực lân cận. Liên tiếp các ngày 3 và 4, địch dùng hơn 500 lần chiếc máy bay lên thẳng đổ một trung đoàn bộ binh, một tiểu đoàn pháo binh, một đại đội công binh cùng bốn khẩu pháo 155mm, bốn khẩu pháo 105mm, ba khẩu cối 81mm xuống điểm cao 723... Chưa tính các lực lượng trực thăng và pháo binh hỗ trợ khi chiến sự nổ ra nhằm bảo vệ cao điểm. - Phía QĐ NDVN: ...Quyết tâm của sư đoàn là sử dụng Trung đoàn bộ binh 141 được phối thuộc một đại đội pháo 85mm (3 khẩu) tiến hành vây ép và tiêu diệt địch. Ngoài ra để bảo đảm cho trung đoàn hoàn thành nhiệm vụ, sư đoàn điều Tiểu đoàn 3 Trung đoàn bộ binh 48 lên chốt ở Tây Tà Păng, Tiểu đoàn đặc công 10 đánh sở chỉ huy và trận địa pháo địch. Trung đoàn pháo 368 tổ chức cụm pháo binh sư đoàn trực tiếp chi viện cho Trung đoàn bộ binh 141. Tư tưởng chỉ đạo tác chiến là bao vây, áp sát, đánh sát, diệt gọn; đối với pháo binh là bám sát địch, nắm chắc mục tiêu, đánh phủ đầu kịp thời, đánh liên tục không cho địch khôi phục công sự và chướng ngại vật, bảo đảm cho bộ binh vây ép và tiêu diệt toàn bộ quân địch. Lực lượng pháo binh sử dụng: tám khẩu Đ74, ba khẩu 81mm, hai khẩu cối 160mm, bốn khẩu ĐKB, bốn khẩu cối 120mm, chín khẩu cối 82mm, chín khẩu ĐKZ75mm, tổng số 39 khẩu (13 khẩu pháo xe kéo, 26 khẩu pháo mang vác).
Phân chia lực lượng: Cụm pháo sư đoàn chi viện chung có hai đại đội Đ74 (8 khẩu) và một đại đội ĐKB (4 khẩu). Trên hướng chủ yếu của Trung đoàn bộ binh 141 có một đại đội 85mm (3 khẩu), một đại đội cối 120mm (2 khẩu), hai đại đội cối 82mm (5 khẩu), năm trung đội ĐKZ (5 khẩu); trong quá trình chiến đấu tăng cường hai khẩu cối 120mm, bốn khẩu cối 82mm và bốn khẩu ĐKZ75mm đưa tổng số pháo trên hướng chủ yếu lên 25 khẩu. Đội hình bố trí: đài quan sát trung đoàn pháo binh ở điểm cao 595, tiểu đoàn pháo binh ở điểm cao 550, Đại đội pháo binh 11 và Đại đội pháo binh 13 bên phải điểm cao 550 - một ki-lô-mét. Trận địa các đại đội Đ74 cách điểm cao 723 từ 17 đến 22 ki-lô-mét, pháo 85mm cách 10 đến 12 ki-lô-mét, cối 160mm cách 6,5 mét, trận địa ĐKB, cối 120mm, cối 82mm, ĐKZ bố trí tập trung trên hai mũi của hướng tiến công chủ yếu, khoảng cách đến mục tiêu từ 300 đến 2.500 mét, sở chỉ huy ở điểm cao 595 và điểm cao 521 cạnh sở chỉ huy Sư đoàn bộ binh 2....
|
|
|
Logged
|
|
|
|
|