nkp
Thành viên
Bài viết: 80
|
|
« Trả lời #60 vào lúc: 18 Tháng Chín, 2014, 06:46:54 am » |
|
Em xin phép tham gia một số ý kiến nhỏ, kiểu "tiểu tiết nhặt sạn": 1. ...Trung Đoàn 64/ SĐ304 có mặt ở vùng Bản Đông từ ngày N-4 (4 tháng 2)....Ngày 21 tháng 2, sau một tuần pháo kích nát căn cứ, TrĐ88/SĐ304 dùng bộ binh tấn công CC21BĐQ.... Ở phía nam hai căn cứ 30 và 31, TRĐ64/SĐ320 phục kích và đánh chận, không cho TĐ8ND và ThĐ17KB từ CCLĐ1ND ở Bản Đông tiến về gần CC31ND để yểm trợ.... E88 lúc này nằm trong đội hình F308 là đương nhiên rồi, và F308 chịu sự chỉ huy của BTL chiến dịch . F320 thì có E64 đang hành quân vào chiến trường, nó gần như là trung đoàn độc lập do BTL chiến dịch chỉ đạo trực tiếp; còn E48 thì được bổ sung cho sư đoàn 2 để đủ 3 trung đoàn trực thuộc. 2. ...Để đi kèm với trận liệt, xin nói qua một ít về hỏa lực pháo binh của lực lượng quân Quân giải phóng ở mặt trận Hạ Lào. Cộng với tám trung đoàn pháo binh riêng biệt, pháo binh ở đây kể luôn những đại đội/ trung đội súng nặng như súng cối 60, 82, và 120 ly. Trong một ý nghĩa thực dụng, những đại đội súng nặng là những đơn vị “pháo binh cơ hữu” của cấp tiểu đoàn/ trung đoàn. Một trung đoàn quân chủ lực Quân giải phóng có cấp số từ 60 đến 65 súng cối 60 và 82 ly; và bốn đến sáu cối 120 ly. Mỗi súng cối có cấp số đạn 30 đến 40 viên; đôi khi 60 đến 100 viên, tùy theo mặt trận đang tham chiến. Lấy BTL B70 với ba Sư Đoàn 308, 304, và 320 làm thí dụ: Theo tài liệu hậu cần, B70 (ba sư đoàn cộng lại) có tất cả 104 súng cối 60 ly; 64 cối 82 ly; 30 cối 120 ly; và 30 đại bác 122 ly. Trong chiến dịch Nam Lào, ba sư đoàn của B70 tiêu thụ gần 10.000 quả đạn lọai 60 và 82 ly — chưa kể đến đại bác tầm xa như 122, 130 và 152 ly. Trong khi đó, ở mặt trận hướng hướng nam Đường 9, SĐ2BB Quân giải phóng tiêu thụ 2.762 đạn 60 ly, và 5.598 đạn 82 ly; SĐ324B xài hơn 5.000 quả 82 ly và gần 1.900 đạn 60 ly [19] .... Rất mong đợi tác giả hoặc bác altus cung cấp sớm phần chú thích, quả thật có vài điểm hơi bất ngờ và rất mong cùng xác nhận . Cảm ơn Quangcan đã để ý "tiểu tiết nhặt sạn" sau khi đọc bài viết. Và tiên sinh nhặt ra được một cục sạn! 1. Đính chánh: "Một trung đoàn quân chủ lực Quân giải phóng có cấp số từ 60 đến 65 súng cối 60 và 82 ly; và bốn đến sáu cối 120 ly." Câu văn này phải được sửa lại là " Một sư đoàn (ba trung đoàn) chủ lực Quân giải phóng có cấp số từ 60 đến 65 súng cối 60 và 82 ly; và bốn đến sáu cối 120 ly." Chi tiết này tôi trích từ, Công Tác hậu Cần Chiến Dịch Đường 9-Nam Lào (Quân Đội Nhân Dân Việt Nam: Hà Nội, Tổng Cục Hậu Cần, 1987. Chỉ Đạo: Thiếu tướng Hoàng Điền, đại tá Ngô Vi Thiện; Ban Biên Tập: đại tá Nguyễn Viết Phương, trung tá Từ Quy.). Trong tài liệu này tôi đếm số súng cối cơ hữu (biên chế) của từng trung đoàn, rồi trung bình hóa tổng số súng cho một sư đoàn. Ở trang 223 trong tài liệu, cho thấy B70 có tất cả:104 súng cối 60 ly; 64 cối 82 Ly; và 30 cối 120 ly. Chi tiết hơn về cầp số sư đòan, trang 383 cho biết su uđoàn 324 có, 40 cối 60 ly; 34 cối 82 ly; và 4 cối 120ly. Trang 396 cho biết sư đoàn 2 có 36 cây 60 ly và 24 cây 82 ly. Riêng B-5 có 88 cây 60 ly; 48 cây 82 ly; và 11 cây 120 ly (trang 458). 2. Cũng theo sách trên (trang 75) thì "Trung Đoàn 64 từ Trạm 10 (Ca Đát) vào cao điểm 456 ngày 6 tháng 2." Và hai ngày sau, 8 tháng 2, Trung Đoàn 88 từ bắc Gian h mới vào đến Xê Muộn. 3. Trong sách của tôi, nguyên tác trích dẫn đến từ: Công Tác Hậu cần Chiến Dịch Đường 9 Nam Lào, tr. 116-119, 379, 458. Tiếp liệu hậu cần của CSVN được chia ra từng khu vực/ : B70; B-5; Binh Đoàn 559; SĐ324B, và SĐ2BB. Trung bình mổi sư đoàn có chừng 65 cối 60 và 82 ly. TrĐ102/308 CSVN cho biết họ bắn 2.083 đạn 82 ly vào CCBĐQB; và để kềm chế CCBĐQ37/LĐ1BĐQ ở Ta Puc, họ tiêu thụ hơn 2.900 đạn cối 82 và 120 ly vào mục tiêu này. Đọc Công Tác Hậu Cần Chiến Dịch Đường 9 Nam Lào, tr. 343. 4. Thật tình tôi rất vui khi trả lời những thắc mắc của Quangcan. Đây là cách căn bản nhất để đi nguồn tìm sử liệu. Lẽ ra tôi phải thấy sự "khó tin" của câu căn khi viết "một trung đoàn có từ 60 đến 65 súng cối ..." Rất cảm ơn bạn nhắc về chi tiết này.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
nkp
Thành viên
Bài viết: 80
|
|
« Trả lời #61 vào lúc: 18 Tháng Chín, 2014, 11:15:12 am » |
|
Em xin phép tham gia một số ý kiến nhỏ, kiểu "tiểu tiết nhặt sạn": 1. ...Trung Đoàn 64/ SĐ304 có mặt ở vùng Bản Đông từ ngày N-4 (4 tháng 2)....Ngày 21 tháng 2, sau một tuần pháo kích nát căn cứ, TrĐ88/SĐ304 dùng bộ binh tấn công CC21BĐQ.... Ở phía nam hai căn cứ 30 và 31, TRĐ64/SĐ320 phục kích và đánh chận, không cho TĐ8ND và ThĐ17KB từ CCLĐ1ND ở Bản Đông tiến về gần CC31ND để yểm trợ.... Lại bắt thêm được một lỗi typo nữa: Trung Đoàn 88 của Sư Đoàn 308, không như đã viết là của SĐ304. Câu văn viết TrĐ88 đánh căn cứ Biệt Động Quân Nam của tiểu đoàn 21 BĐQ, thì đơn vị đánh phải thuộc về SĐ 308 của tướng Nguyễn Hữu An; SĐ304 không thể có mặt trong vùng trách nhiệm như đang nói. Chiến trường Đường 9-Nam Lào có nhiều binh đoàn, sư đoàn, trung đoàn tham dự, và đôi khi lỗi ấn công sẽ xảy ra -- như trong trường hợp này. Xin người đọc tha thứ.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
altus
Moderator
Bài viết: 1782
|
|
« Trả lời #62 vào lúc: 19 Tháng Chín, 2014, 04:50:32 am » |
|
Trực Thăng, Trực Thăng, và Cần Nhiều Trực Thăng Nữa!
Điện tín của tướng Sutherland gây chấn động ở BTL MACV trong buổi họp Cập Nhật Tình Báo Hàng Tuần ngày 24 tháng 2. Bắt đầu buổi họp, thuyết trình viên cho biết tình hình hành quân cho đến ngày hôm đó: Phía VNCH có 276 chết; 842 bị thương; 101 mất tích. Phía Hoa Kỳ, 54 chết; 325 bị thương; 26 trực thăng bị bắn rơi; và 15 mất tích. Quân giải phóng có 2.191 chết. Sau thuyết trình viên, tướng Abrams đặt câu hỏi đầu tiên: “Ai có ý kiến gì về bức điện tín [của Sutherland] này không?”
Xin nói thêm chi tiết trong nội dung bức điện tín ngày 23 tháng 2 của tướng Sutherland, báo cáo về tình trạng thiếu trực thăng của QĐXXIV. Đây là một báo cáo trễ, nhưng ông ta phải báo cáo để có thể tránh tội về sau. Trong điện tín gởi MACV ngày 14 tháng 2 trước đó, khi kể lại lời phàn nàn của QĐ I về yểm trợ không vận, tướng Sutherland đã úp mở thú nhận với tướng Abrams là ông đã không thật sự giải thích cho tướng Lãm biết rõ số trực thăng QĐ XXIV có bao nhiêu, và sự yểm trợ cho 32 tiểu đoàn VNCH ở vùng hành quân ra sao. Sutherland viết, ngày 12 (ngày Tổng Thống Thiệu ra thị sát hành quân ở Đông Hà) khi tướng Lãm tỏ ý lo lắng về số trực thăng bị bắn rơi; vàthời gian chờ từ lúc yêu cầu đến lúc được thỏa mãn. … Tướng Sutherland nói với số trực thăng UH-1H (lọai chuyên chở) đang có, chắc chắn QĐ XXIV sẽ cung ứng đủ nhu cầu cho các đơn vịVNCH. Nhưng Sutherland không nói rõ thêm là số trực thăng chuyên chở đó cũng phụ trách luôn cho tất cả các đơn vị Mỹ đang yểm trợ song song trong cuộc hành quân. Sutherland thú nhận với tướng Abrams về chuyện đã “không giải thích rõ ràng hơn” cho tướng Lãm biết. Sau khi đọc điện tín, tuớng Abrams đề nghị tướng Sutherland nên “giới thiệu” cái thực tế về khả năng tiếp vận/ không vận của QĐXXIV cho tướng Lãm và các tư lệnh Hành Quân LS719 biết.[27]
Ngày 12 ở Đông Hà, khi nghe tướng Lãm lo sợ không đủ trực thăng, tướng Sutherland trấn an tướng Lãm bằng một thí dụ: Ông nói ngày 8 (ngày hành quân N), trực thăng đã đổ bộ sáu tiểu đoàn VNCH cùng một lúc, an toàn và đúng giờ, và chỉ cần 95 trực thăng UH-1H. Và theo ông thấy, trong lệnh hành quân sẽ không có giai đoạn nào phải cần đến sáu tiểu đoàn đổ bộ cùng lúc như ngày hôm đó. Với số lượng 130 trực thăng UH-1H, yểm trợ và tiếp liệu không phải là một vấn đề lo lắng. Đúng, tướng Sutherland nói đúng về khả năng không vận/ yểm trợ của Hoa Kỳ cho đến ngày hành quân N +4. Và tướng Lãm đồng ý. Nhưng đến ngày 23, tướng Sutherland thú nhận qua báo cáo với MACV ông không còn khả năng yểm trợ, và xin MACV tiếp viện thêm trực thăng. Ở đây cần một giải thích cho sự mâu thuẫn thay đổi đó.
Phần lớn số trực thăng yểm trợ cho HQ LS719 đến từ Liên Đoàn Không Vận 101, đơn vị cơ hữu của SĐ101ND (101stAviation Group/ 101stAirborne Division/Airmobile). Trong HQ LS719, Liên Đoàn 101 thống thuộc QĐ XXIV. Báo cáo của LĐKV101 (Liên Đoàn Không Vận 101), cho biết họ có tổng cộng 239 trực thăng đổ quân lọai UH-1H. Điện tín của Sutherland ngày 23 nói ông cần trực thăng võ trang Cobra và UH-1C. Lý do: mỗi phi vụ trực thăng chuyên chở cần hai trực thăng võ trang yểm trợ. Liên Đoàn 101 Không Vận, tuy thống thuộc QĐXXIV, nhưng họ làm việc theo qui củ của họ (trực thăng chyên chở phải có trực thăng võ trang bảo vệ đi kèm), và QĐ XXIV không thay đổi được qui tắc hành quân của LK101KV. Với 239 trực thăng này, QĐ XXIV dành ra 130 chiếc phục vụ cho 32 tiểu đoàn VNCH ở Hạ Lào, số còn lại phải cung ứng cho tất cả lực lượng Việt-Mỹ đang hoạt động ở toàn lãnh thổ Vùng I. Nhìn vào trận liệt của Mỹ đang yểm trợ cho LS719, họ có tất cả 19 tiểu đoàn.[28] Như vậy, 109 trực thăng còn lại là để cung ứng nhu cầu chiến trường cho 19 tiểu đoàn tác chiến Mỹ — và những nhu cầu trực thăng khác cho toàn Vùng I.[29]
Khi nói QĐ XXIV phải giới hạn lại phi vụ không vận vì thiếu trực thăng võ trang hộ tống, Tướng Sutherland giải thích. Theo chương trình (theo cấp số mà lẽ ra ông phải có) ông được cung cấp 86 trực thăng AH-1G và 44 UH-1C. Nhưng trong số này, đến ngày 23, chỉ có 25 AH-1G và tám UH-1C bay được. Trong khi đó, 16 AH-1G và ba UH-1H bị bắn rớt cho đến ngày 23 vẫn chưa được thay thế bù lại. Những phi vụ tiếp tế, tải thương, đổ quân, phải đình trệ vì không đủ trực thăng hộ tống. Sutherland giải thích thêm, vì trực thăng bay nhiều phi vụ hơn giới hạn nên hư nhiều, và không có phụ tùng để thay/ sửa chữa. Trực thăng vận tải nặng như CH-47, CH-54, CH-53 phải bay nhiều phi vụ hơn lượng định trong soạn thảo: Trong sọan thảo hành quân nguyên thủy, trực thăng hạng nặng chỉ dùng cho đoạn đường bay từ Khe Sanh đến mặt trận Hạ Lào. Nhưng trên thực tế 30% các phi vụ này là tải đồ từ những căn cứ yểm trợ xa như Đông hà, Quảng Trị đến Khe Sanh, vì bộ tư lệnh tiếp vận không vận chuyển đủ qua đường bộ — nói một cách khác vận chuyển bằng đường bộ bị giới hạn tối đa vì nguy hiểm phục kích. Cuối cùng của điện tín, tướng Sutherland xin MACV cung cấp thêm ba đại đội trực thăng AH-1G (Cobra), và một đại đội CH-47 (một đại đội trực thăng có 16 chiếc theo cấp số của Liên Đoàn 101 Không Vận). Sutherland nhấn mạnh ông cần trực thăng võ trang lập tức và trực thăng vận tải nặng CH-47 trước khi đánh về hướng tây (về Tchepone).
Điện tín này dẫn điện tín kia, ba ngày sau, tham mưu trưởng của Lục Quân Hoa Kỳ, Việt Nam (US Army, Vietnam) báo cáo với tham mưu trưởng MACV, và chỉ huy trưởng Phòng 3 MACV về vấn đề trực thăng. Tổng số trực thăng đang phục vụ HQLS719 là 672 trực thăng đủ lọai, nhưng chỉ có 497 chiếc bay được.[30] Nói tóm lại: Vì lý do này hay lý do nọ (không có phụ tùng thay thế; bay quá nhiều phi vụ; phải “gồng” thêm nhiệm vụ mà đơn vị vận tải đường bộ không làm đủ; hay không đủ chuyên viên bảo trì), QĐ XXIV không đủ trực thăng để cung ứng cho HQ LS719 với số trực thăng đang có. Lời yêu cầu gấp rút tiếp viện thêm hai đại đội trực thăng của Sutherland đã làm cho MACV “nổi trận lôi đình.” Trong buổi họp ngày thứ Tư, 24 tháng 2, Thiếu Tướng Donald Cowles, Phòng 3 MACV, trình bày tình hình trực thăng ông đã đích thân ra quan sát, và đã nói chuyện với tướng Sutherland. Tướng Cowles nói cung cấp thêm cho QĐ XXIV một đại đội trực thăng C-47 thì không có vấn đề. Nhưng thêm một đại đội trực thăng võ trang AH-1G như tướng Sutherland yêu cầu thì không thể được. Cowles thông báo, tất cả Vùng I chỉ còn lại 16 AH-1G. Sáu trong 16 chiếc đó thuộc về lực lượng tình báo quân sự MAC-SOG, và họ không thể cho “mượn” được.
Nghe xong tường trình, tướng Abrams lên tiếng, với vài tiếng chữi thề đệm trong câu. Ông đổ lỗi cho Trung Tướng William J. McCaffrey, tư lệnh phó Lục Quân Hoa Kỳ, Việt Nam.[31]BTL QĐXXIV] đang có vấn đề với tổ chức và cơ cấu. Anh ta không biết chuyện gì đang xảy ra. Một tiểu đoàn [VNCH] nằm hai ngày ở Đường 914 rồi sau đó anh ta mới biết [vị trí ở đâu] — mà chúng ta [MACV] đã biết trước. Như vậy, nói cho tôi nghe, liên lạc giữa bộ tư lệnh của anh ta và của tướng Lãm có hữu hiệu hay không. USARV phải có đại diện tại đó. Từ đây [BTL USARV ở Long Bình] đến mặt trận quá xa.”
Sau vài phút yên lặng, tướng Abrams kết thúc buổi họp, ra lệnh MACV gởi người ra bộ tư lệnh tiền phương ở Khe Sanh để quan sát lối điều khiển và quản trị cuộc hành quân, rồi trực tiếp báo cáo về cho ông.[32]
Qua những trao đổi trong buổi họp MACV, và nội dung điện tín của Sutherland, chúng ta thấy (a) QĐXXIV thật sự không đủ khả năng để tiếp tế cho chiến trường LS719. Chúng ta cũng thấy ba quân đoàn VNCH ở ba Vùng II, III, và IV đều đang hành quân. Những BTL cố vấn Mỹ đi kèm đang yểm trợ và không còn khả năng tiếp tế cho đơn vị bạn ở các Vùng/ Quân Đoàn khác (Sau điện tín yêu cầu tiếp viện trực thăng võ trang AH-1G, QĐXXIV “mượn” được 16 chiếc từ MAC-SOG và Field Force I ở Vùng II).[33] Và, (b) bộ tư lệnh yểm trợ quá xa chiến trường để có thể liên lạc trực tiếp và cấp thời giữa yểm trợ và nhu cầu chiến trường. Nói ngắn gọn hơn, MACV soạn thảo một cuộc hành quân quá lớn để bộ tư lệnh tiếp liệu có thể chu toàn.
Theo kế họach hành quân, mỗi sư đoàn VNCH được một tiểu đoàn trực thăng phụ trách nhu cầu vận tải (tiếp tế, trinh sát, tải thương).[34] Trong điều kiện thông thường, một tiểu đoàn trực thăng (khoảng 48 đến 54 trực thăng đủ lọai) phục vụ dể dàng cho một sư đoàn của Mỹ (Một thí dụ: Tiểu Đoàn 14 Trực Thăng Xung Kích, là tiểu đoàn không vận cơ hữu của SĐ23 Hoa Kỳ, phụ trách cho SĐ1BB VNCH; TĐ158 Trực thăng Xung Kích, của SĐ101 Nhảy Dù, phụ trách phục vụ cho SĐ Nhảy DùVNCH ...). Nhưng trận Hạ Lào đã thay đổi tất cả ước lượng cho hành quân trong một hoàn cảnh “thông thường.” Ước lượng hành quân nói có thể chở tiếp liệu bằng đường bộ từ Đông Hà về Khe Sanh; và từ Khe Sanh đến Bản Đông. Nhưng thực tế cho thấy Đường 9 không an toàn; và phải lấy trực thăng để vận chuyển thay cho các tiểu đoàn vận tải đường bộ. Phi Trường Khe Sanh, theo dự định, sẽ nhận được phi cơ vận tải nặng C-130. Nhưng đến ngày Hành Quân N +8 (16 tháng 2) Khe Sanh mới nhận được tiếp liệu chở từ C-130. Như vậy chín ngày đầu hành quân, trực thăng lại phải bị trực dụng. Đổ lỗi hoàn toàn cho QĐ XXIV thì không đúng, vì họ đang nhận lãnh luôn trách nhiệm của những tiểu đoàn vận tải đường bộ. Nhìn vào lệnh hành quân của SĐ Nhảy Dù cho thấy sự lạc quan của QĐI và QĐXXIV (với những hứa hẹn không vận cho SĐ Nhảy Dù). Ở phần Không Vận, lệnh hành quân viết: “Quân Đoàn I cung cấp L. 19 và khu trục theo nhu cầu; Hoa Kỳ cung cấp mỗi ngày một phi cơ OV-10 bao vùng và 24 phi tuần khu trục; Hoa Kỳ cung cấp mỗi ngày 2 trực thăng chỉ huy và 8 trực thăng đa dụng; trực thăng chỉ huy, tiếp tế, tải thương, chuyển quân, và võ trang theo nhu cầu.” Sự lạc quan ở đây là họ (ban soạn thảo hành quân ở MACV, QĐI và QĐXXIV) nghĩ hai trực thăng chỉ huy, tám trực thăng đa dụng, và 24 phi tuần khu trục oanh tạc sẽ thỏa mãn nhu cầu của chín tiểu đoàn tác chiến và ba tiểu đoàn pháo binh của Sư Đoàn Nhảy Dù. Lạc quan sai lạc đó cũng xảy ra cho SĐ1BB và SĐTQLC. QĐXXIV thiếu trực thăng và không giải quyết được. Nhưng sự đã rồi!
Ngày 24 và 25 tháng 2, Căn Cứ 31 của Nhảy Dù đang hấp hối.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
altus
Moderator
Bài viết: 1782
|
|
« Trả lời #63 vào lúc: 19 Tháng Chín, 2014, 05:10:32 am » |
|
Căn Cứ Hỏa Lực 30 và 31 Thất Thủ
Cùng ngày khi CCBĐQN của TĐ21BĐQ thất thủ, Quân giải phóng khởi động áp lực trên toàn vùng hành quân. Ở nam Đường 9, mặt trận của SĐ1BB, các đơn vị Quân giải phóng bám chặt vào CC Hotel2, tấn công TĐ2/TrĐ3/SĐ1BB. SĐ1BB gởi thêm một tiểu đoàn vào chiến trận, hy vọng cứu TĐ2 và giải tỏa áp lực; nhưng địch vẫn bám sát. Ý định của SĐ1BB là muốn rút pháo đội đại bác 105 ly ra khỏi CC Hotel2 để chuẩn bị di chuyển về hướng Tchepone. Dưới hỏa lực pháo của địch, đến tối ngày 23 một phần pháo đội mới di tản được khỏi CC Hotel2. Nhưng sau nhiều ngày tác chiến liên tục, TĐ2/TrĐ3 gần như tan nát. Ngày 24 tướng Lãm được lệnh thay đổi kế hoạch hành quân: Thay vì LĐ2/SĐND là đơn vị được trực thăng vận vào chiếm Tchepone, nhiệm vụ đó bây giờ được giao cho SĐ1BB. Nhiệm vụ mới của LĐ2ND là tăng cường yểm trợ cho tuyến/ bãi đáp Alpha (nửa đường từ Bravo về Bản Đông) trên Đường 9. LĐ147/SĐTQLC sẽ thay vào chỗ trống của những tiểu đoàn của SĐ1BB đang đóng trên CCHotel1 và CCDelta; LĐ258TQLC sẽ thay bộ binh đóng trên cao điểm Co Roc và những cao điểm lân cận.
Hai ngày trước đó, ngày 22, Tổng Thống Thiệu nói với tướng Abrams Giai Đọan III (giai đoạn đổ bộ vào Tchepone) sẽ bắt đầu trong ba ngày nữa. Đồng thời ông Thiệu thay đổi luôn Giai Đoạn IV (giai đọan lui quân): Trên đường về SĐ1BB sẽ đi theo đường 922 để tiếp tục phá hủy các kho hàng trong căn cứ hậu cần 611.[36] Đó là ý muốn của Tổng Thống Thiệu — một ý muốn quá xa thực tế của chiến trường. Trừ khi Abrams báo cáo lộn, hay Tổng Thống Thiệu nhớ lộn, chứ từ Tchepone hành quân trở ngược về biên giới Việt Nam qua Đường 922 là chuyện khó tưởng tượng. Đến giờ phút đó mà Sài Gòn vẫn còn nghĩ lực lượng VNCH sau khi tấn công Tchepone, có thể đi theo Đường 922 về thung Lũng A Shau, để đánh trở lại căn cứ hậu cần 611 (căn cứ bị Mỹ tấn công tháng 2-1969, trong phạm vi thung lũng A Shau-Sekong). Nguyên thủy kế hoạch hành quân là quân rút lui sẽ về theo Đường 914 để phá những kho hàng chung quanh Mường Nông (giao điểm của Đường 92C và 914). Đoạn Đường 922 về biên giới xa hơn Đường 914 hơn gấp đôi. Có thể vào ngày 22 khi các căn cứ phía bắc chưa mất, BTTM/ Sài Gòn vẫn còn lạc quan (CC BĐQB mất đêm 20, nhưng không biết đến lúc nào Sài Gòn mới nhận tin chính thức từ QĐI). Đến ngày 25 thì tình hình chiến trường cho thấy rút quân trở về biên giới — cùng lúc phá hủy và lục soát trên đường về — qua ngã Đường 922 là chuyện vô cùng nguy hiểm, nếu không nói khó thực hiện.
Sáng ngày 25, TrĐ64/SĐ320 Quân giải phóng với xe tăng yểm trợ, tấn công mãnh liệt vào CC 31 ND. Sử dụng hơn 20 chiến xa giữa ban ngày trước hỏa lực không kích của Mỹ cho thấy quyết tâm của địch muốn triệt tiêu căn cứ. Cùng lúc tấn công CC31ND, địch dùng cối và đại bác tầm xa bắn rất chính xác vào CC30ND và CCBảnĐông, gây trở ngại cho hai pháo đội đang yểm trợ về hướng căn cứ bị tấn công. Pháo súng cối của địch càng lúc càng chính xác: Trong hai ngày cách nhau, ngày 23 ở CC31 và ngày 25 ở CC30, súng cối bắn ngay vào bãi đáp trực thăng đang lên xuống, gây tử thương cho phi hành đoàn và hành khách. [37] Hai lần tấn công buổi sáng và trưa ngày 25 từ hướng đông bắc và tây nam không thành; 4 giờ chiều địch chuyển hướng, tấn công ồ ạt từ hướng đông nam của căn cứ. Như đã nói, ở CC 31 ND có bộ chỉ huy LĐ3ND; bốn đại đội tác chiến cơ hữu của TĐ3; một đại đội trinh sát; và một pháo đội 105 ly. Hai đại đội 31 và 32 đóng tiền đồn ở hướng đông và đông bắc; đại đội trinh sát đóng trên một cao điểm ở tây tây bắc; hai đại đội 33 và 34 và pháo đội đóng bên trong căn cứ. Ngày 25, trước khi căn cứ bị tấn công và thất thủ, hai đại đội 31 và 32 được lệnh di chuyển về hướng nam và đông nam để đón nhận một lực lượng thiết kỵ-nhảy dù (đơn vị của ThĐ17TK và TĐ8ND) từ Bản Đông lên tiếp viện. Theo một một sĩ quan của đại đội 32 thuật lại, đại đội không đến điểm hẹn đúng như dự liệu. Nhưng không thành vấn đề nữa, vì đơn vị Thiết Kỵ-Nhảy Dù từ hướng nam đi lên cũng gặp trở ngại, vì vừa đi họ vừa phải “nhổ” những chốt của địch cản đường. [38] Trong hai đại đội còn lại phòng thủ căn cứ, đại đội 34 đã bị tổn thất nhiều trước ngày thất thủ. Báo cáo cho biết đại đội 34 chỉ còn 60 tay súng. [39] Như vậy, hai đại-đội-thiếu (-) và một pháo đội 105 ly là tất cả những gì còn lại của CC 31 ND để “đi tiền” với ba tiểu-đoàn cộng (+) của TrĐ64/SĐ320 và TrĐ1/SĐ2BB Quân giải phóng.
Trung Đoàn 64/SĐ320 gồm hai Tiểu Đoàn 8 và 9 (tám đại đội) cộng với một đại đội xe tăng, có mặt ở vùng hành quân từ 6 tháng 2, và bắt đầu bao vây CC 31 ND từ ngày 20. TrĐ64/320 được nhắc đến trong điện tín của tướng Sutherland ngày 22. Điện tín cho biết TrĐ64 và TrĐ1/SĐ2BB Quân giải phóng đang họat động phía tây, sát Bản Đông và bắc Đường 9. Nhiệm vụ của hai trung đoàn này là gài mìn, đóng chốt và làm lô cốt kháng cự trên Đường 9 về hướng Tchepone. Sutherland trấn an MACV với nhận định, “Tôi không quân tâm về những kháng cự này; B-52 sẽ hủy diệt được.” [40]
Quan tâm hay không, 11 giờ sáng ngày 25 hai đại đội của TrĐ64 tấn công căn cứ ở hướng bắc sau khi nã pháo liên tục từ 7 giờ sáng; 12 giờ: địch thay đổi hướng tấn công vào phía đông nam; 1giờ: một đại đội địch chọc thủng phòng tuyến của căn cứ ở phía bắc; 3 giờ chiều: 20 xe tăng và bộ binh tùng thiết tấn công vào căn cứ từ hai hướng đông và tây bắc; 5 giờ chiều: ba xe tăng với hai đại đội bộ binh tùng thiết đã đến trên đầu hầm bộ chỉ huy LĐ3 và ban chỉ huy TĐ3. Căn cứ 31 của Nhảy Dù kể như bị tràn ngập khi một vài sĩ quan chỉ huy lên máy truyền tin chào vĩnh biệt đồng đội. Đích thân Đại Tá Nguyễn Văn Thọ, lữ đoàn trưởng LĐ3ND, gọi về Trung Tâm Hành Quân SĐND ở Khe Sanh: “Lương ơi! Căn cứ đã bị tràn ngập. … Vĩnh biệt bạn!” (Lương là Đại Tá Nguyễn Thu Lương, trưởng phòng hành quân SĐND trong thời gian đó.) Ở CC 30 ND, cách CC 31 ND chừng năm cây số, Đại Úy Trương Duy Hy, pháo đội trưởng 155 ly, nhận lời chào cuối cùng của đại úy pháo đội trưởng Nguyễn Văn Đương ở đầu giây, “… Việt Cộng tràn lên bãi trực thăng đông quá. … Tôi phải ra trực xạ đây.” Và Đại Úy Đương chỉ có thể trực xạ đến 4 giờ 16 chiều, vì đến giờ đó, tiểu đoàn phó TĐ3 Pháo Binh Dù, Đại Úy Phương, lên máy truyền tin cảm ơn lần cuối: “Thành thật cảm ơn các bạn đã tác xạ hết mình. Nhưng bây giờ không còn cách nào cứu vãn. Vĩnh biệt các bạn. Vĩnh biệt các bạn.” Truyền tin qua lại của hai đại đội 31 và 32 cho thấy họ di chuyển khỏi vị trí, rút về hướng nam chờ bắt tay với TĐ8ND và ThĐ17KB từ Bản Đông lên. Đại đội trinh sát của LĐ3ND, đang đóng ở hướng tây tây bắc, được lệnh đánh trở lại căn cứ để cứu những quân nhân còn tử thủ. [41]
Nhiều chuyện không may xảy ra cho sự thất thủ của CC31ND: máy bay tiền sát hướng dẩn hỏa lực đến không kịp giờ vì bị lạc tọa độ; phản lực cơ Mỹ đang đánh bom yểm trợ bỏ vị trí đi cứu bạn (một phản lực cùng phi tuần bị bắn rơi trong lúc yểm trợ) trong khi xe tăng của địch tiến lên đồi; từ 3giờ 30 đến 5 giờ hơn, một cơn mưa giông trút xuống vùng Khe Sanh Lao Bảo, ngăn cản mọi yểm trợ không lực, sau khi không lực Mỹ đã thực hiện được 108 phi vụ yểm trợ cho CC 31 ND. Trong đêm 25, đại đội trinh sát đụng mạnh với địch khi họ tiến về CC 31 ND với hy vọng cứu bộ chỉ huy lữ đoàn, hay bất cứ ai còn sống sót. Đại đội bị thiệt hại nặng nhưng vẫn không vào được bên trong căn cứ. Rạng sáng ngày 26, B-52 bay 15 phi vụ, trải bom bắc, tây bắc và đông bắc CC 31 ND. [42] Ngày 26, TĐ8ND và TĐ17TK trên đường tiến lên CC 31 ND tiếp viện, quần thảo với một đại đội của địch đóng ở phía tây nam, cách căn cứ chừng 200 đến 400 mét. Quân tiếp viện nhìn thấy căn cứ, nhưng không vượt qua được sức kháng cự của địch. Một đại đội của TĐ8/TrĐ64 Quân giải phóng đang đóng chốt cản hướng đi. Tại vị trí này, từ ngày 26 đến ngày 3 tháng 3, ở phía nam và tây nam CC31ND xảy ra nhiều trận giao tranh đẫm máu giữa hai lực lượng đối kháng. Đến ngày 3 tháng 3 hai tiểu đoàn của TrĐ64 gom quân lại và đẩy lực lượng Dù-Thiết Kỵ ngược về Bản Đông. [43]
Trận đánh đêm 2 tháng 3 giữa lực lượng đặc nhiệm Dù-Thiết Kỵ và TrĐ64/SĐ320, xảy ra cách CC 30 ND chừng năm cây số về hướng tây, nhưng ở Căn Cứ 30 những người lính của TĐ2ND có thể cảm nhận được hỏa lực địch — Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù bây giờ đứng bơ vơ một mình giữa Binh Đoàn 70.
Tình hình Căn Cứ 30 Nhảy Dù được tướng Sutherland nhắc đến trong một điện tín báo cáo về MACV ngày 22 tháng 2. Sutherland cho biết pháo nòng dài và pháo cối của địch rất chính xác, làm giới hạn tối đa những phi tuần tiếp liệu cho căn cứ. Hỏa lực phòng không đầy trời, nhưng máy bay quan sát không tìm được mục tiêu đặt súng. Sutherland báo cáo bốn đại bác 105 ly trên căn cứ bị hư và cần thay thế. Trừ những trở ngại đó, căn cứ của Nhảy Dù “vẫn bình yên.” [44] Báo cáo của Sutherland cũng đúng: Cho đến ngày 22 tháng 2, mặt trận của vùng hành quân ở phía tây tương đối yên tĩnh — yên tĩnh cho đến khuya 24 khi CCBĐQN của TĐ21BĐQ thất thủ; đêm 25 đến lượt CC 31 ND của LĐ3ND và TĐ3ND bị mất. Và sau khi củng cố tập trung lại quân số sau trận Căn Cứ 31, lực lượng của B70 mạnh hơn. Tối đêm 3 tháng 3, lực lượng Dù-Thiết Kỵ được lệnh bỏ tuyến; và bỏ luôn ý định trở lại CC 31 ND. Nhưng trước khi rời vị trí, Thiết Đoàn 17 và TĐ8ND đánh một trận để đời ở Hạ Lào: Giao chiến với một tiểu đoàn địch, lực lượng Dù-Thiết Kỵ đổi 100 thương vong để lấy 383 xác đối phương. [45] Sau trận đánh lực lượng đặc nhiệm lui về Đường 9, về phòng tuyến ở Bản Đông. Cho đến lúc đó, trừ sự hiện diện của TĐ2ND ở đông bắc Bản Đông, vùng hành quân từ biên giới đến bắc Bản Đông nằm trong gọng kềm của Binh Đoàn B70. Chỉ sau một tuần phản công, ba sư đoàn Quân giải phóng đàn áp tất cả các lực lượng VNCH ở hướng bắc của trục tiến quân.
Đến ngày cuối của Tháng 2 (ngày 28) trên CC 30 ND vẫn còn một số lính BĐQ kẹt lại (quân của hai TĐ39 và 21). Căn cứ đông và chật hơn. Theo quan sát của phi công trực thăng yểm trợ, căn cứ đông và chật đến độ nếu pháo binh địch bắn vào, thì thế nào cũng có lính bị thương hoặc chết. Lính bị thương mà không được di tản ngay, lại trở thành một gánh nặng cho quân trú phòng. [46] Vòng đai phòng thủ của căn cứ càng ngày càng nhỏ lại. Ngày 27 địch đã đột nhập đến bãi đáp trực thăng, quân trú phòng phải nghênh chiến cách phòng tuyến của họ chưa đến 50 mét. Trong ba ngày 26 đến 28, các đơn vị của TrĐ64/SĐ320 và TrĐ88/SĐ308 thay phiên nhau tấn công vào CC30ND nhưng thất bại: Địch không dám tập trung quân nhiều vì sợ trúng bom B-52 (B-52 đánh hàng ngày chung quanh căn cứ); nếu dùng ít quân thì đánh không qua được phòng tuyến của Nhảy Dù. Nhưng địch không cần tràn ngập phòng tuyến bằng lính bộ binh và xe tăng nữa. Họ chỉ cần tiếp tục pháo … pháo cho đến khi quân trú phòng phải di tản khỏi cao điểm. Ngày 2 tháng 3 địch pháo vào căn cứ hơn 1.000 quả đạn, trong đó có đạn đại bác 152 ly. Đạn pháo kích bắn trúng vào hầm đạn 105 ly, và nổ lan qua hầm đạn 155 ly, thiêu hủy một góc của căn cứ, phá hủy tất cả đại bác của hai pháo đội. Tiểu đoàn được lệnh chuẩn bị chờ trực thăng đến di tản. Nhưng trực thăng nào dám đáp xuống một giữa một xạ trường như vậy. Rút lui bằng trực thăng không được, xế trưa ngày 3 tiểu đoàn được lệnh di chuyển bằng đường bộ. Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù VNCH, sau sau hai mưoi lăm ngày phòng thủ CC 30 ND, rời căn cứ vào 5 giờ chiều. Hai giờ sáng ngày 4 tháng 3, sau khi tất cả đã xuống được chân đồi, trên đường di chuyển, tiểu đoàn Đ2ND đánh một điện tín, yêu cầu phi cơ tiền sát đang bay trên đầu nếu nhận được thì chuyển về cho BTL hành quân/ tư lệnh SĐND ở Khe Sanh. Điện tín vắn tắt, “Bị vây hãm và bị tấn công liên tục mười ngày; không nhận được tiếp tế; có 200 thương vong. … Hai ngày không có lương thực và nước uống. … Cần trực thăng tải thương và tiếp tế gấp khi trời sáng.” [47]
Hơn một tuần trước khi TĐ2ND bỏ cứ điểm CC 30 ND, SĐND đã thực hiện kế hoạch tái phối trí vị trí và trách nhiệm của sư đoàn. Thay vì nhảy vào Tchepone như kế hoạch hành quân nguyên thủy, LĐ2ND, với ba tiểu đoàn 5, 7 và 11, bây giờ có trách nhiệm củng cố an ninh trên Đường 9 từ Lao Bảo đến Bản Đông: BTL LĐ2ND đóng ở Lao Bảo; TĐ11ND phụ trách bãi đáp/ tuyến Bravo; TĐ5ND, tuyến Alpha; và TĐ7ND đi xa về hướng bắc để đón TĐ2ND trên đường di tản từ CC30ND về, và làm một hành lang kiểm soát ở hướng bắc, khoảng giữa Alpha và Bản Đông. Cùng lúc, SĐTQLC, từ vai trò trừ bị, cũng được điều động vào vùng hành quân: Hai Lữ Đoàn 147 và 258 sẽ thay thế hai Trung Đoàn 1 và 3, SĐ1BB ở một vài cao điểm, để hai trung đoàn này rời vị trí, tiến xa về phía tây. Ngày 3 tháng 3, hành quân ngày N+23, trận liệt của VNCH và Quân giải phóng hoàn toàn thay đổi. Theo báo cáo của Phòng 2 BTTM VNCH, đến thời điểm đó lực lượng Quân giải phóng có 16 trung đoàn ở vùng hành quân. Mười một trong số mười sáu trung đoàn này đã tham chiến; năm trung đoàn còn lại nằm trong vùng hành quân và có thể tham chiến bất cứ lúc nào. Đó là các trung đoàn bộ binh, đơn vị yểm trợ của Quân giải phóng trong vùng hành quân gồm một trung đoàn chiến xa; một phòng không; và hai pháo binh. Cùng ứng chiến như một đơn vị độc lâp, Binh Đoàn 559 có 12 tiểu đoàn phòng không; 12 tiểu đoàn vận tải; và 17 tiểu đoàn công binh trong vùng hành quân, với nhiệm vụ bảo vệ căn cứ của họ.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
altus
Moderator
Bài viết: 1782
|
|
« Trả lời #64 vào lúc: 19 Tháng Chín, 2014, 05:24:05 am » |
|
Sư Đoàn 1 Bộ Binh và Mặt Trận Phía Nam
Trong khi ở hướng bắc Đường 9, Nhảy Dù và BĐQ đương đầu với năm trung đoàn Quân giải phóng (chưa kể các đơn vị xe tăng, phòng không, và pháo binh), ở phía nam, hai trung đoàn của SĐ1BB quần thảo với sáu trung đoàn địch (chưa kể những đơn vị yểm trợ và hai binh trạm). Sáu trung đoàn Quân giải phóng đến từ các Sư Đoàn 324B, 304, và một trung đoàn của SĐ2BB.
Vào tuần lễ đầu hành quân, tám tiểu đoàn của TrĐ1 và TrĐ3/SĐ1BB đóng trên chín cao điểm, trong đó có năm căn cứ hỏa lực. Từ cao điểm Co Roc gần biên giới cho đến phía đông nam Bản Đông. Những căn cứ hỏa lực quan trọng là CCHotel; CCHotel2; CCDelta; Don; và CCDelta1. Tất cả những căn cứ này nằm trong phạm vi Đường 914 và biên giới Việt Nam — cũng đồng thời nằm trong vùng hoạt động của căn cứ hậu cần 611. Căn cứ hậu cần 611 do hai Binh Trạm 31 và 41 phụ trách, có nhiệm vụ tải hàng từ hai Binh Trạm 33 và 42 ở Tchepone (căn cứ hậu cần 604) về mặt trận B-4 và quân khu Trị-Thiên-Huế. Những căn cứ/ cao điểm này nằm cách Sông Xe Pone/ Đường 9 từ năm đến 12 cây số. Căn cứ hỏa lực xa nhất về hướng nam là CCHotel2. Từ đây pháo binh có thể tác xạ xuống Mường Nông — cũng là một một mục tiêu quan trọng của LS719. Nếu ở hướng bắc Đường 9 những căn cứ của Nhảy Dù và BĐQ đóng theo đội hình để kềm chế trục lộ 92A và 1093; ở hướng nam, SĐ1BB đóng trên những cao điểm để ngăn chận lưu thông về hướng đông nam trên đường 914 và 92C. [49]
Lực lượng Quân giải phóng mà SĐ1BB VNCH đang đối đầu trong vùng trách nhiệm của họ là SĐ2 Sao Vàng với hai Trung Đoàn 3 và 41; ba Trung Đoàn 29, 812, và 803 của SĐ324B. Phản ứng của địch ở phía nam (vùng trách nhiệm của SĐ1BB) tương đối chậm và kém mãnh liệt hơn ở phía bắc (vùng trách nhiệm của BĐQ và Nhảy Dù). Nhưng sau khi hai căn cứ BĐQ và CC31ND bị thất thủ; sau khi địch viện thêm quân từ hướng B3 (Tây Nguyên) lên, các tiểu đoàn của hai Trung Đoàn 1 và 3/SĐ1BB chạm địch thường xuyên và mãnh liệt hơn. Vào ngày 27 tháng 2, chung quanh CCHotel2, căn cứ hỏa lực lớn nhất và xa nhất phía nam Đường 9, địch bao vây TĐ2/TrĐ3 đang bảo vệ một pháo đội 105 ly trên căn cứ. Khi đánh hơi biết TrĐ3 sẽ di tản pháo đội và quân trú phòng đến một cao điểm khác, địch dùng tất cả hỏa lực tấn công mạnh. Một trực thăng CH-53 bị bắn tan xác trên không trung khi đang móc một khẩu pháo trên đường di tản. Đêm 28 căn cứ được lệnh phá hủy đại bác và di chuyển khỏi căn cứ bằng đường bộ (Pháo đội đã được lệnh di tản từ ngày 23, nhưng chỉ một số di tản được vì phòng không quá mạnh). Hai Tiểu Đoàn 2 và 3/TrĐ3 cũng được lệnh rút đi, tìm một chổ an toàn để trực thăng có thể di tản họ. Trong hai ngày, 28 tháng 2 và 1 tháng 3, trên đường di tản Tiểu Đoàn 2 và Tiểu Đoàn 3/TrĐ3 bị hai Trung Đoàn 29 và 814/SĐ324B tấn công liên tục. Sau cùng, hai tiểu đoàn được trực thăng bốc về Khe Sanh và CCDelta1. Báo cáo từ QĐXXIV cho biết TĐ2/TrĐ3 bị thiệt hại nặng và được đưa về Huế để bổ sung và tái trang bị. [50]
Tình hình chiến trường ở phía nam Đường 9 đến ngày CCHotel2 di tản, đã trở nên ác liệt. Địch điều động thêm bốn trung đoàn vào vùng tác chiến. Đường bộ từ Đông Hà đi Khe Sanh bị phục kích thường xuyên; đường Khe Sanh về Lao Bảo cũng không khá gì hơn. Vận chuyển đường bộ không còn tin tưởng được. Ngay cả những căn cứ tiếp liệu tiền phương do lính Mỹ trấn giữ cũng bị tấn công: Trong bốn ngày, đặc công của Mặt Trận B-5 (đơn vị phụ trách khoảng đường từ Đông Hà về Lao Bảo) tấn công hai lần vào căn cứ Vandegrift (khoảng giữa Cam Lộ và Khe Sanh), phá hủy 320.000 lít xăng máy bay và hơn 16.000 đạn đại bác 20 ly. [51] Trong một điện tín báo cáo tình hình chiến trường cho đến ngày 3 tháng 3, tướng Sutherland thú nhận (1) trong ba lần tấn công vào các Căn Cứ 31, 30 và Hotel2, hỏa lực phòng không, súng cối và pháo binh của địch đã là cho vấn đề tiếp liệu bằng trực thăng khó khăn, nếu không nói là không được. (2) mặc dù bị tổn thất tương đương một trung đoàn một tuần, nhưng địch vẫn quyết liệt tác chiến, và, (3) đối phương đã quen với kỹ thuật và chiến thuật [tác chiến] của quân lực VNCH, và từ đó phối hợp hỏa lực của họ để đối phó. [52] Nói một cách khác, điện tín của tướng Sutherland cho biết, dù thiệt hại nặng — và sẵn sàng chịu thiệt hại nặng — nhưng địch đang nắm thế thượng phong ở chiến trường.
Ngày 28 tháng 2 tướng Lãm bay về Sài Gòn hội kiến với Tổng Thống Thiệu và Đại Tướng Cao Văn Viên. Buổi họp thực tế hóa quyết định đưa thêm chín tiểu đoàn vào thay thế năm tiểu đoàn đã bi thiệt hại trong hơn ba tuần giao chiến. Những tiểu đoàn bị thiệt hại là TĐ3ND; TĐ39 và 21BĐQ; TĐ2 và 3/TrĐ3/SĐ1BB. Chín tiểu đoàn được đưa vào chiến trường là LĐ147 và LĐ258TQLC (sáu tiểu đoàn); Thiết Đoàn 7; và, TrĐ2/SĐ1BB (TĐ2 và 3). Buổi họp đồng thời khẳng định một lần nữa, SĐ1BB sẽ là đơn vị nhảy vào Tchepone thay vì Nhảy Dù như trong kế hoạch nguyên thủy, hay là TQLC như đã được đề nghị sơ qua ở BTL tiền phương ở Khe Sanh.[53] Ngày 1 tháng 3, Tổng Thống Thiệu cho Đại Tướng Abrams biết kế hoạch mới như đã nói trên.[54]
|
|
|
Logged
|
|
|
|
altus
Moderator
Bài viết: 1782
|
|
« Trả lời #65 vào lúc: 19 Tháng Chín, 2014, 05:31:05 am » |
|
[1] Sư Đoàn 1 Bộ Binh trong thời điểm HQLS719 có năm trung đoàn: 1, 2, 3, 4, và 54 (thống thuộc SĐ1BB). Trung Đoàn 1 và 3 mỗi trung đoàn có bốn tiểu đoàn; Trung Đoàn 2 có năm; và Trung Đoàn 54 có ba. Sau HQLS719, tháng 10-1971, BTTM thành lập Sư Đoàn 3 Bộ Binh, Trung Đoàn 2 được tách ra để làm trung đoàn cột trụ cho Sư Đoàn 3BB (với Trung Đoàn 2, 56, và 57). Khi VNCH thất thủ năm 1975, SĐ1BB có Trung Đoàn 1, 3, 51, và 54. Đọc Nguyễn Duy Hinh, sđd tr. 173; Personnel Occupying Key Positions in the Republic of Vietnam Armed Forces During the Final Enemy Offensive in 1975 (General Research Corporation: McLean, VA, 1975), tr. 9.
[2] Sorley, The Abrams Tapes, tr. 359; đọc thêm Giang Văn Nhân, “Khóa 22 Đà Lạt Trong Trận Hạ Lào,” đây là một bài viết tổng hợp lời kể của các sĩ quan tốt nghiệp Khóa 22 tham dự LS719, viết qua dạng e-mail; và tổng hợp tương tự của Kiều Công Cự trong, “Những Emails Rất Ngắn và Rất Thật về Cuộc Hành Quân Lam Sơn 719”, Đặc San Sóng Thần 2013, tr. 117. Theo bản đồ hành quân của BTL B70, CC31ND và căn cứ tương lai 32ND, đang nằm sát vòng đai của BTL B70. Số thiệt hại của hai đại đội TĐ6ND nằm trong Nguyễn Duy Hinh, sđd, tr. 81. Theo Đại Tá Nguyễn Thu Lương, Phòng 3 Sư Đoàn Nhảy Dù, thì TĐ6ND nhảy xuống để yểm trợ thêm cho LĐ3ND, hơn là thành lập CC32. Đại tá Lương nói lệnh hành quân của sư đoàn thay đổi khi áp lực của Quân giải phóng đè xuống CCBĐQB và CCBĐQN. Sách của tướng Hinh cũng viết tương tự như lời giải thích của Đại Tá Nguyễn Thu Lương.
[3] B-5 có hai Trung Đoàn Bộ Binh 31 và 27; hai Trung Đoàn Pháo Binh 84 và 38. Tiểu Đoàn Đặc Công Nước 126 gây nguy hiểm cho xà lan chở hàng từ cảng Mỹ Thủy về Cửa Việt và từ đó vào Đông Hà bằng đường sông. Cản trở này đặt gánh nặng thêm cho phương tiện không vận đang kiệt quệ. Đọc Project CHECO, đã dẫn, tr. 49, trích ở phụ chú dưới.
[4] Headquarters Pacific Air Force. Project CHECO, “Lam Son 719, 30 January – 24 March 1971” tr. 43-44.
[5] Như trên; cùng trang.
[6] Nguyễn Hữu An, Chiến Trường Mới, tr.109. Tướng An nói SĐ308 hạ trại ở Sa Rit, “Tiểu đoàn biệt động quân 21 đóng ở điểm cao 500 chặn trước mặt, cách chúng tôi vài cây số.” Tác giả nói thêm sư đoàn của ông đóng trên đầu Sông Sa Mu. Cao điểm 500 mét của TĐBĐQ21 nhìn xuống Sông Sa Mu. Nếu đây là vị trí đúng của SĐ308 thì CCBĐQN nằm ngay sát vòng đay của Tr88/308 Quân giải phóng. Và như vậy, ngày hôm sau (N +3) CCBĐQB của TĐ39BĐQ đóng ngay vùng tác chiến của TrĐ102/SĐ308. Hai căn cứ Bắc và Nam cách nhau khoảng hai cây số.
[7] Vị sĩ quan tử nạn là Đại Tá Cao Khắc Nhật, Trưởng Phòng 3, QĐI. Theo sách tướng Nguyễn Duy Hinh, giữa tháng 1 khi Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3, BTTM, ra Huế thông báo cho tướng Lãm nội dung HQ LS719, Đại Tá Nhật không được phép tham dự vì lý do bảo mật. Sau buổi thuyết trình, Đại Tá Nhật hỏi tướng Thọ, “Tại sao tôi không được tham dự? Tôi là người đóng góp sọan thảo hành quân này.” Đọc Nguyễn Duy Hinh, sđd, tr. 34. Đoàn trực thăng này có năm chiếc, do hoa tiêu Không Quân VNCH bay. Tác giả Trần Đỗ Cẩm viết (theo lời thuật của các sĩ quan BĐQ) bến đến của đoàn phi cơ năm chiếc là bộ chỉ huy LĐ1BĐQ ở Tà Púc. Nhưng nếu trực thăng bị bắn ở giữa Đường 9 và phía nam CCBĐQN, thì trực thăng đã bay lạc hướng. Sách của tướng Hinh ghi bến đến của trực thăng là CCBĐQN. Nguyễn Duy Hinh, sđd, tr. 34; Trần Đỗ Cẩm, tr. 6. Theo hai tác giả Richard Pyle và Horst Faas trong Lost Over Laos (De Capo Press, 2002), đoàn trực thăng có năm chiếc, trong đó một chiếc chở tướng Lãm, hai chiếc chở sĩ quan quân đoàn và phóng viên báo chí ngoại quốc, hai chiếc còn lại chở tùy viên. Mục đích của chuyến bay là thị sát căn cứ Hotel ở nam Đường 9, rồi bay về hướng bắc thị sát CCBĐQN của TĐ21BĐQ. Trực thăng đến CCHotel an toàn. Trên đường đến CCBĐQB, trực thăng của tướng Lãm dẫn đầu, hai trong bốn chiếc còn lại bay lạc. Khi ba chiếc trong đoàn đáp xuống CCBĐQN, chờ một hồi lâu không thấy hai trực thăng kia xuất hiện, tướng Lãm nói ông có linh cảm chuyện không may đã xảy ra (theo lời tướng Lãm kể lại trong sách của hai tác giả). Lost Over Laos, tr. 143, 158.
[8] FRUS, sđd, Document 113. Ngày 29 tháng 1-1971, tướng Abrams nói ước lượng đó là dựa vào cuộc hành quân qua Cam Bốt tháng 5-1970.
[9] Điện tín 121144Z Feb 1971, QTR 0064, Sutherland gởi Abrams. Sutherland báo cáo Tổng Thống Thiệu muốn nổ lực tạm thời của QĐI là khu vực có tọa độ “XD 5720, XD 6320, XD 5724, và XD 6324 (mục tiêu A Ro).” Căn Cứ 611 nằm dọc theo đường 914 dẫn về Vùng I và Vùng II. Theo tài liệu của Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh, ông Thiệu ra thị sát Đông Hà vào ngày 19 tháng 2. Nhưng tất cả tài liệu người viết tìm được, đều nói ngày 12 tháng 2. Điện tín của Sutherland ghi ngày 12 tháng 2 (121144Z Feb 1971: 11:44 giờ Zulu, 12 tháng 2), và bắt đầu, “Trong lúc thăm viếng vùng hành quân Lam Sơn 719 hôm nay …”
[10] Đến ngày 12 tháng 2 VNCH có 17.822 quân ở Cam Bốt trong hai cuộc hành quân Cửu Long 44-02, và Toàn Thắng 1/71, do Quân Đoàn III và Quân Đoàn IV thực hiện. Quân số này tăng lên 21.000 ngày 27 tháng 2. Theo báo cáo của MACV, trong tuần lễ đầu của LS719, VNCH có 10.621 quân ở Lào. Không Quân VNCH đảm nhiệm đa số phi vụ tiếp vận, tải thương và yểm trợ cho hai cuộc hành quân Cửu Long và Toàn Thắng. Đọc Sorley, The Abrams Tapes, tr. 520, 535, 549.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
canaris
Thành viên
Bài viết: 78
|
|
« Trả lời #66 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2014, 10:34:59 pm » |
|
Tiếp nữa đi các bác, đang hay mà. Lót dép hóng vậy Hóng hớt được là hình như các ad bên này cũng cập nhật tình hình topic này qua một bài mới về diễn biến chiến dịch phản công của QDND Việt Nam hòng đập tan cuộc hành quân Lam Sơn 719 của VNCH. Link đây: Chiến dịch phản công Đường 9 – Nam Lào năm 1971
|
|
|
Logged
|
Khi con sinh ra mọi người đều cười chỉ mình con khóc. Con hãy sống sao cho: khi con chết đi, mọi người đều khóc chỉ mình con cười.
|
|
|
altus
Moderator
Bài viết: 1782
|
|
« Trả lời #67 vào lúc: 24 Tháng Chín, 2014, 04:00:19 am » |
|
[11] Sorley, sđd, tr. 506. B-5 là bộ tư lệnh có trách nhiệm 15 cây số bắc, và 15 cây số nam Sông Bến Hải; Đại Tướng Julius D. Clay, tư lệnh Không Lực 7, nói về giới hạn của Không Lực 7 trong buổi họp ở MACV, ngày 13 tháng 2, Lewis Sorley, cùng sách, tr. 534.
[12] Điện tín 141220Z, Feb 14 1971, DNG 0443, Sutherland gởi Abrams.
[13] TrĐ102/308 QĐND cho biết họ bắn 2.083 đạn 82 ly vào CCBĐQB; và để kềm chế CCBĐQ37/LĐ1BĐQ ở Ta Puc, họ tiêu thụ hơn 2.900 đạn cối 82 và 120 ly vào mục tiêu này. Đọc Công Tác Hậu Cần Chiến Dịch Đường 9 Nam Lào, tr. 343.
[14] Nguyễn Duy Hinh, sđd, tr. 79; “Bản Đồ Tổ Chức Hậu Cần Mặt Trận 702 Chiến Dịch Đường 9 Nam Lào (Tháng 2-3 Năm 1971)” trong Chiến Dịch Phản Công Đường 9 Nam Lào.
[15] Nguyễn Hữu An, sđd, tr. 109-110.
[16] Bản đồ đã dẫn trong Chiến Dịch Phản Công Đường 9 Nam Lào; Nguyễn Duy Hinh, sđd, tr. 77-79.
[17] Sorley, The Abrams Tapes, tr. 538.
[18] Trong Victory in Vietnam: The Official History of People’s Army of Vietnam, 1954-1975, tr. 274, QĐND ghi đã có những đơn vị sau vào ngày 8 tháng 2 tại vùng hành quân: Năm sư đoàn chánh quy; hai trung đoàn độc lập; tám trung đoàn pháo; ba trung đoàn xe tăng, ba trung đoàn công binh; sáu trung đoàn phòng không; tám trung đoàn đặc công; và, những đơn vị cơ hữu phụ thuộc. Đây là bản dịch Việt ngữ Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân, Tập II: Thời Kỳ Trưởng Thành của Quân Đội Nhân Dân Trong Thởi Kỳ Kháng Chiến Chống Mỹ, Cứu Nước (1954-1975) (Merle L. Pribbenow, translator, Kansas: University of Kansas Press, 2002). Quân số của QĐND ghi theo sách trên mâu thuẩn với nhiều sách quân sử riêng của các sư đoàn, hay sách của tổng cục hậu cần. Một số trung đoàn vẫn đang trên đường đến chiến trường vào ngày 8 tháng 2, như trường hợp của TrĐ64/SĐ320 và TrĐ36/SĐ308.
[19] Công Tác Hậu cần Chiến Dịch Đường 9 Nam Lào, tr. 116-119, 379, 458. Tiếp liệu hậu cần của QĐND được chia ra từng khu vực/ : B70; B-5; Binh Đoàn 559; SĐ324B, và SĐ2BB. Trung bình mổi trung đoàn có chừng 65 cối 60 và 82 ly.
[20] Đại Úy Trương Duy Hy, chỉ huy pháo đội C/TĐ44 ở CC30ND, kể lại trưởng hợp CC21BĐQ xin ông phản pháo … hai pháo đội liên tục phản pháo nhưng không hiệu quả vì không thấy hướng súng của địch. Đại Úy Trương Duy Hy, Tử Thủ Căn Cứ Hỏa Lực 30 Hạ Lào, tr. 72, 87.
[21] Keith W. Nolan, Ripcord: Screaming Eagals Under Seige, Vietnam 1970, tr. 476, 480. Căn cứ Ripcord, từ lúc chiếm cho đến khi di tản hơn bốn tháng. Tuy nhiên chỉ có 23 ngày sau cùng (1 đến 23 tháng 7-1970) là bị tấn công mạnh: Mỹ có 74 tử thương và 400 bị thương trong ba tuần (254 tử thương trong bốn tháng). Súng cối của QĐND bắn vào căn cứ đặt xa mục tiêu từ 400 mét đến 3.500 mét. Chỉ trong ba tuần, cố thủ một cứ điểm bất động, với 74 chết và 400 bị thương, thì không thể giữ căn cứ được.
[22] Nguyễn Duy Hinh, sđd, tr. 142, 159-160. Tướng Hinh viết, tất cả 96 khẩu đại bác bị bỏ lại, là ở những căn cứ hỏa lực: Trực thăng không câu đại bác ra được vì pháo và phòng không của địch quá mạnh.
[23] Điện tín 210525Z, Feb 1971, QTR 0116, Sutherland gởi Abrams; Điện tín 221745Z, Feb 1971, QTR 0125, Sutherland gởi Abrams. Trong điện tín ngày 21 tháng 2, Sutherland nói tướng Lãm xin phi vụ B-52 hai ngày liên tiếp để “hủy diệt hoàn toàn TrĐ102 và những đơn vị của SĐ308 trong vùng.” Điện tín ngày 22, Sutherland nói tướng Lãm ra lệnh cho một lực đặc nhiệm tiến về tiếp cứu CCBĐQN. Từ ngày 17 tháng 2, Sutherland đã xin phép Không Quân cho B-52 dội bom cách lực lượng bạn chừng 1.500 mét, thay vì căn bản an toàn là cách 3.000 mét. Điện tín 170300Z, Feb 1971, QTR 0096, Sutherland gởi Đại Tướng Clay (Tư Lệnh Không Lực 7).
[24] Đọc thêm nhiều chi tiết về những trận đánh ở CCBĐQB và CCBĐQN của TĐ39 và 21 BĐQ trong Trần Đỗ Cẩm, “Các Trận Đánh Của Biệt Động Quân Tại Hạ Lào”, Nguyệt San Đoàn Kết (Austin, Texas, Tháng 9, 2001); hai bài viết của Kiều Công Cự; và Giang Văn Nhân, đã dẫn như trên. Cả ba tác giả đều nhắc đến sự mãnh liệt của súng cối và đại bác không giật. Kiều Công Cự viết, “Trong một ngày mà có bốn sĩ quan bị thương, tất cả do đạn pháo kích,” Đặc San Sóng Thần 2013 (Garden Grove, California), tr. 129.
[25] Điện tín 231600Z Feb 1971, QTR 0135, Sutherland gởi Abrams. AH-1G là trực thăng loại “Cobra”; UH-1C là lọai võ trang “gunship.”
[26] Chuẩn tướng Trần Quang Khôi, một trong những tư lệnh (đại tá chỉ huy trưởng Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ) trong HQ Toàn Thắng 1/71 ở Cam Bốt, qua phỏng vấn điện thoại với người viết, tướng Khôi nói hai ngày trước khi tử nạn (ngày 21 tháng 2), tướng Trí có nói cho tướng Khôi biết ông được lệnh đi Vùng I để chỉ huy Hành Quân LS719. Tướng Trí nói ông muốn tướng Khôi ra Vùng I với ông.
[27] Điện tín 121114Z Feb 1971, Sutherland nói về lời phàn nàn của tướng Lãm; điện tín 141200Z, cùng tháng, Sutherland thú nhận ông đã không nói với tướng Lãm về số lượng trực thăng và số lượng cung ứng; điện tín 231600Z, tướng Sutherland nói ông ta cần thêm trực thăng để hoạt động theo nhu cầu; Đoạn Abrams khuyên Sutherland nên nói thẳng ra hoàn cảnh thực tế cho tướng Lãm biết, trích theo Lewis Sorley, Thunderbolt: General Creigton Abrams and the Army of His Times, tr. 308-309.
[28] Sơ lược về lực lượng Hoa Kỳ yểm trợ Hành Quân LS719: Liên Đoàn 108 Pháo Binh (bốn tiểu đoàn); Liên Đoàn 45 Công Binh (hai); LĐ3/SĐ101ND (sáu); LĐ1/SĐ5 Cơ Giới (năm); và hai tiểu đoàn của TrĐ11/SĐ23Americal. Tổng cộng 19 tiểu đoàn. Đọc Shelby L. Stanton, The Rise and Fall of an American Army, 1965-1973, tr. 351.
[29] Nguyên văn điện tín 141220Z Feb 14 của Sutherland, “Điều không giải thích cho họ [tướng Lãm và QĐI] biết là tất cả trực thăng này cũng dùng cung ứng cho tất cả nhu cầu ở Vùng I … cho SĐ101 Nhảy Dù, cho LS719, cho Dewey Canyon II, cho các đơn vị của SĐ1BB không đang ở Hạ Lào, và cho nhu cầu của chi và tiểu khu của QĐI.”
[30] Điện tín 260900Z Feb 71, Thiếu Tướng Gettys (USARV) gởi Trung Tướng Dolvin (MACV). Giống như tình trạng tiếp liệu của các quân đội trên thế giới: cấp số lý thuyết và số nhận được khác nhau. Khác xa hơn là đồ nhận vào nhưng không xử dụng được vì bị hư/ khiếm khuyết: cấp số trực thăng là 696 chiếc; nhận 672; nhưng chỉ có 497 chiếc “hoạt động” (bay) được. Một thí dụ: lọai võ trang UH-1C, theo cấp số sẽ nhận 44; nhận 42; nhưng chỉ 17 chiếc bay được. Lọai võ trang Cobra: 123; nhận được 113; bay 85. Lọai trực thăng chuyên chở căn bản UH-1H: cấp số 329; nhận 325; bay được 245. Những lọai trực thăng còn lại là OH-6; OH-58; CH-47 — hai lọai trực thăng quan sát, và chở nặng. Số 479 trực thăng của QĐXXIV đang hoạt động, trong đó có 51 chiếc “mượn” từ các đơn vị Lục Quân ở Vùng II và III; và 16 chiếc CH-53 kèm theo trực thăng hộ tống, từ TQLC Hoa Kỳ ở Vùng I.
[31] Lục Quân Hoa Kỳ, Việt Nam (U.S. Army, Vietnam/ USARV) là một bộ tư lệnh cấp quân đoàn, trừ thẩm quyền về hành quân, có thẩm quyền hành chánh quân sự và tiếp liệu cho tất cả quân chủng Lục Quân Hoa Kỳ ở Việt Nam. Tư lệnh MACV (Đại Tướng Abrams) đồng thời là tư lệnh USARV. Dưới Abrams là hai tư lệnh: tư lệnh phó MACV về hành quân (Đại Tướng Weyand); tư lệnh phó MACV về tiếp liệu và hành chánh, đồng thời là tư lệnh phó USARV (Trung Tướng William J. McCaffrey). Dưới quyền của USARV là các bộ tư lệnh, liên đoàn không vận; các lữ đoàn cứu thương, quân cảnh; vận tải, truyền tin, và tiếp liệu. Quân số của USARV hơn phân nữa số quân Mỹ ở Việt Nam. Bộ tư lệnh của USARV ở Long Bình. Đây là một lối hành chánh quân sự rất phứt tạp của của MACV ở Việt Nam, vì USARV phụ thuộc vào tiếp liệu của Lục Quân Hoa Kỳ, Thái Bình Dương (U.S. Army, Pacific/ USARPAC), một ở cách xa chiến trường hơn một phần tư trái đất. Một phụ chú bên lề: Trung Tướng William McCaffrey (khoá 1939 võ bị West point) có con trai là Barry R. McCaffrey (West Point 1964), năm 1966-67 là trung úy cố vấn cho một đơn vị Nhảy Dù VNCH. Barry McCaffrey lên đến chức đại tướng về sau, và là một đại tướng trẻ nhất khi về hưu.
[32] Lewis Sorley, The Abrams Tapes, tr. 543-546. Một buổi họp của các tư lệnh MACV, khi hiện diện đầy đủ, có ba đại tướng; ba hay bốn trung tướng; 11 thiếu tướng; tám chuẩn tướng; và bốn, năm đại tá quan trọng của các lực lượng biệt lập (như chỉ huy trưởng LLĐB, MAC-SOG, quân báo điện tử).
[33] Tài liệu đầy đủ về trực thăng yểm trợ cho HQLS719 đến từ Vietnam Helicopter Pilots Association (VHPA). Bản liệt kê cho biết từng lọai trực thăng và những đơn vị VNCH họ yểm trợ. Địa chỉ web site của VHPA: w.w.w.angelfire.com/ga2/vnhistory/D94lam/html.
[34] Nguyễn Duy Hinh, sđd, tr. 47-48.
[35] Lệnh Hành Quân, Sư Đoàn Nhảy Dù, ở phần phụ lục cuối sách.
[36] The Joint Chiefs of Staff and the War in Vietnam, vol. 1971-1973, tr. 8-9. Ngày 25 tướng Abrams gởi về BTMLQ Hoa Kỳ một điện tín, xác nhận thay đổi trên.
[37] Trương Duy Hy, Tử Thủ Căn Cứ Hỏa Lực 30, tr. 106, 108, 113. Tướng Sutherland trong điện tín 221745Z Feb 1971, gởi MACV, báo cáo, đại bác và súng cối pháo của địch bắn vào hai căn cứ của Nhảy Dù (30 và 31) rất chính xác. Ngày 22 trực thăng VNCH chở một toán tác chiến điện tử vào CC31ND, và để di tản phi hành đoàn trực thăng VNCH bị bắn rơi hôm trước. … Phi vụ trực thăng ngày 22 bị phòng bắn rơi khi sắp sửa đáp, và vài phút sau, súng cối của địch tiêu hủy luôn chiếc trực thăng bị nạn. Súng cối của địch là trở ngại chính cho tất cả phi vụ trực thăng tiếp tế các căn cứ hỏa lực.
[38] Theo tác giả Nguyễn Duy Hinh, sđd, tr.84, hai đại đội 31 và 32 của TĐ3ND được lệnh di chuyển về hướng nam để đón lực lượng tiếp viện từ Bản Đông lên. CC31ND nằm ở bên tay trái của đường 92, cách bắc Bản Đông chừng tám cây số. Đường 92 đi về hướng đông bắc sẽ trở thành Đường 1032 đi thẳng vào Bản A-Choc, Quảng Bình, một trong bốn cửa khẩu quan trọng của hệ thống đHCM. Trong bài viết của Giang Văn Nhân, Trung Úy Phạm Xuân Thiếp, đại đội trưởng ĐĐ32 thuật lại, ngày 25 anh dẩn đại đội về hướng nam để đón quân tiếp viện, nhưng không gặp như dự định.
[49] Nguyễn Duy Hinh, sđd, tr. 84.
[40] Điện tín 221745Z Feb 1971, QTR 0128 Eyes Only, Sutherland to Abrams. Điện tín này đồng thời cho biết Trung Tướng Dư Quốc Đống bỏ ý định lập CC32ND như theo kế hoạch hành quân (Sau lần trực thăng vận xuống ngày 13 tháng 2 của TĐ6ND bị hủy bỏ vì thiệt hại quá nặng, khi bãi đổ quân nằm ngay vùng tác xạ của địch.). [41] Đại Tá Nguyễn Thu Lương, trong Tình Đồng Đội (Đặc San Cánh Dù Viễn Xứ, Tháng 4-2008). Trong bài viết Đại Tá Lương cho biết sau khi CC31ND thất thủ, Đại Đội 3 Trinh Sát từ đó thống thuộc LĐ1ND, và hai đại đội tác chiến còn lại, 31 và 32, thống thuộc TĐ8ND; Đại Úy Trương Duy Hy, sđd, trang 116-118; bài viết Khóa 22 và Lam Sơn 719 Hạ Lào của Giang Văn Nhân về truyền tin của Đại Đội 32 nghe được từ Trung Tá Lê Văn Phát và Đại Úy Đương. Giờ phút của trận đánh CC31ND, người viết ghi theo Trương Duy Hy; Giang Văn Nhân; bản đồ tác chiến trong “Chiến Dịch Đường 9 Nam Lào,” chi tiết ngày 25 tháng 2-1971; và CHECO Report, Lam Son 719, 30 January-24 March, 1971.
[42] CHECO Report, tr. 59; Trương Duy Hy, sđd, tr.128.
[43] CC31ND coi như mất hoàn toàn vào 11:30 đêm 25, nhưng đến ngày 28 ba đại đội còn lại của TĐ3ND (đại đội trinh sát; ĐĐ31 và 32) vẫn giao chiến trên đường củng cố vị trí về hướng nam đông nam (đi về hướng Bản Đông). Nằm cản ngay trên Đường 92 chận quân cứu viện, là một đai đội của TĐ8/TrĐ64. Ba ngày sau, sáu đại đội của hai TĐ8 và 9/TRĐ64 QĐND mới tập trung lại để tấn công đơn vị Dù-Thiết Kỵ tiếp viện từ Bản Đông lên. “Đồi Không Tên” là một vị trí nằm ở phía nam sát chân đồi 31, cạnh một con suối có tên Kim Lan (trên bản đồ, đây là Bản Kim Lan). Tại đây đơn vị đặc nhiệm Dù-Thiết Kỵ bị chận lại, hai bên giao chiến với nhau cho đến khuya ngày 3 tháng 3 thì lực lượng VNCH phải rút trở lại Bản Đông. Điện văn ngày 4 tháng 3 của tướng Sutherland cho biết TrĐ64/SĐ320 và TRĐ1/SĐ2BB đã chết gần 800 quân ở những vị trí chung quanh Đồi Không Tên và CC31ND. Điện tín 040740Z March 1971, QTR 0220, Sutherland gởi Abrams; Chi tiết của Trung Úy Trần Cảnh viết trong “Những E-mails Rất Ngắn …” tả vị trí của Đồi Không Tên giống những chi tiết trong sử liệu quân đội QĐND.
[44] Điện tín 221745Z February 1972, QTR 0128, Eyes Only, Sutherland gởi Abrams.
[45] Nguyễn Duy Hinh, sđd, tr. 92.
[46] Đóng trong căn cứ, theo Đại Úy Trương Duy Hy, pháo đội của ông có 75 quân nhân; BĐQ di tản về đó khoảng 200 người; cộng thêm pháo đội Nhảy Dù của Đại Úy Trí; và hai đại đội cơ hữu của TĐ2ND.
[47] Chi tiết này đến từ Project CHECO, đã dẫn, tr. 102, do phi công FAC (Forward Air Controller) thuật lại. Trong một lần nói chuyện qua điện thoại với Thiếu Tá Trần Công Hạnh (đại úy Ban 3 TĐ2ND trong cuộc hành quân), người viết hỏi tại sao phải đánh điện tín qua máy bay FAC? Có phải vì không liên lạc được với trung tâm hành quân SĐND ở Khe Sanh? Thiếu Tá Hạnh cho biết, đã liên lạc lúc được lệnh di tản. Nhưng lúc đó đại bác của địch bắn liên tục, không còn thì giờ báo cáo và nhận lệnh mạch lạc, nên phải nhắn tin qua phi cơ tiền sát để Khe Sanh biết được tình hình rõ ràng hơn. Chi tiết từ MACV cho biết địch pháo hơn 1.000 quả đạn vào CC30ND vào ngày 2 tháng 3, trong Sorley, The Abrams Tapes, tr. 554.
[48] Tài liệu theo báo cáo của Đại Tá Phạm Ngọc Thiệp, Phòng 2 BTTM, “Nhận Định Tình Hình Hành Quân Lam Sơn 719 và Ảnh Hưởng Đối Với CSQĐND,” KBC 4002 ngày 29.3.1971. Những trung đoàn có mặt trong vùng hành quân nhưng chưa tham chiến là các Trung Đoàn 48/SĐ302; 9/SĐ304; 31/SĐ2; 803/SĐ324B; và 6/QKTTH (Quân Khu Trị-Thiên-Huế). MACV cũng ghi nhận những trung đoàn này trong báo cáo hàng tuần. Đọc Sorley, sđd, tr. 536.
[49] Như đã sơ lược ở đầu chương, Bản Đông nằm gần ngả tư Đường 9 và 92. Đường 92 ở bắc Đường 9 gọi là 92A. 92A sẽ trở thành Đường 1032. Đường 92 ở phía nam là 92C. Đường 92C sẽ nhập vào Đường 914. Tại ngã ba 914 và 92C là Mường Nông. Trong mật danh Hành Quân LS719, Bản Đông là A Lưới; Mường Nông là A Ro, và Tchepone là A Shau.
[50] Điện tín 040740Z March 1971, QTR 0220, Eyes Only, Sutherland gởi Abrams; Nguyễn Duy Hinh, sđd, tr. 89.
[51] Trong 45 ngày Hành Quân LS719, đặc công của B-5 phá hủy 880.000 lít xăng máy bay và 700 tấn đạn đủ lọai. Trích theo tài liệu, Da Nang Support Command, National Archive II, Record Group 472 (270-25-05-5, Box 1).
[52] Điện tín Sutherland gởi Abrams ngày 4 tháng 3, coi phụ chú 49.
[53] Đại Tá Hoàng Tích Thông (lữ đoàn trưởng LĐ147TQLC trong HQ LS719) trong bài viết Thủy Quân Lục Chiến Trong Hành Quân Lam Sơn 719, (TQLC Tập 2, tr.236-237), cho biết trong một buổi họp ở Khe Sanh có sự tham dự của Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ (lúc đó là đại tá), Trưởng Phòng 3 BTTM, ông nghe QĐI đề nghị chọn TQLC thay thế Nhảy Dù đổ bộ vào Tchepone. Người viết qua một lần nói chuyện với Chuẩn Tướng Thọ, ông cho biết BTTM (ở đây là Tổng Thống Thiệu) chỉ có ý định cho TQLC thay Nhảy Dù tại vùng Nhảy Dù đang trách nhiệm, để Nhảy Dù nghỉ dưỡng sức và tái bổ sung, chứ không phải thay Nhảy Dù đổ bộ vào Tchepone. Quyết định đưa SĐ1BB đổ bộ vào Tchepone đã được chánh thức trước đó. Tuy Đại Tá Thông không ghi ngày tháng buổi họp ở Khe Sanh, nhưng theo tài liệu, chúng ta có thể suy luận buổi họp xảy ra sau ngày 25 (sau khi CC31ND mất) và trước ngày 28 tháng 2 (Sau khi TĐ2/TrĐ3 di tản khỏi CCHotel2, như đại Tá Thông viết ở trang 236; và cùng ngày tướng Lãm về Sài Gòn gặp ông Thiệu; sự kiện và thời điểm cũng tương tự như vậy trong bài viết của Thiếu Tá Trần Vệ, tr. 258, TQLC Tập 2.). Tướng Hinh trong Operation Lam Son 719, tr. 89. cũng có nhắc đến chuyện ông Thiệu có ý nghĩ muốn TQLC thay Nhảy Dù, nhưng cũng chỉ thay ở khu vực trách nhiệm hành quân. Tài liệu giãi mật đến từ MACV cho thấy SĐ1BB đã bắt đầu thực thi quyết định của Tổng Thống Thiệu từ ngày 28 tháng 2, sau khi rút khỏi CCHotel2.
[54] Nguyễn Duy Hinh, sđd, tr. 90; The Joint Chiefs of Staff and the War in Vietnam, tr. 10.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
nkp
Thành viên
Bài viết: 80
|
|
« Trả lời #68 vào lúc: 24 Tháng Chín, 2014, 12:33:29 pm » |
|
Xin Chào Diễn Đàn VMH. Cảm ơn Mr. Altus đã bỉnh bút và đăng Chương 7, "Nữa Đường Đi Xuống." Để cho có sự liên tục trong câu chuyện chúng ta đang nói đến -- Hành Quân Lam Sơn 719 -- tôi xin đăng tiếp Chương 8, "Đường về Tchepone." Cũng như mọi khi, xin người đọc lượng tình cho những lỗi chánh tã rất ngây ngô trong sách. Chương Tám Đường về Tchepone
Lolo, Liz, Sophia … và Hy Vọng Những ngày đầu của tháng 3, các đơn vị tăng viện của VNCH lần lược đến Khe Sanh để chuẩn bị nhảy vào vùng hành quân. Ngày 1 và 2 tháng 3, LĐ147/TQLC được trực thăng vận xuống CCDelta; ngày 4 và 5, LĐ258TQLC đáp xuống cao điểm Co Roc; Thiết Đoàn 7 Kỵ Binh trên Đường 9 đến Bản Đông; và bốn tiểu đoàn của TrĐ2/SĐ1BB đến nằm chuẩn bị ở Khe Sanh. TrĐ2/SĐ1BB có năm tiểu đoàn đang hành quân sát vùng phi quân sự. Trung đoàn chỉ để lại một tiểu đoàn, đưa bốn tiểu đoàn kia vào vùng hành quân. Để thay vào chổ trống, SĐ101ND Hoa Kỳ đưa một lữ đoàn về thay TrĐ2. Trong khi đó, xa hơn về hướng tây, lần lược những tiểu đoàn của TrĐ1 và TrĐ3/SĐ1BB đổ bộ lên những cao điểm nối tiếp dẫn về Tchepone, bắt đầu là những cao điểm ở hướng đông nam thành phố. Những điểm đóng quân được chọn đều nằm gần nhau trong tầm đại bác, để có thể yểm trợ cho nhau. Tình hình chiến trường sau khi TĐ2ND rút khỏi CC30ND bớt sôi động hơn. Một sự yên lặng bất thường; một sự yên lặng hình như có tính toán. Bất thường hơn, là báo cáo từ các đơn vị gởi về cho biết tinh thần binh sĩ phấn khởi, khi họ lục soát chung quanh vùng trách nhiệm và thấy tận mắt thiệt hại của QĐND. Những phi tuần B-52 gây thiệt hại về nhân mạng cho các đơn vị QĐND không thể tưởng: Xác chết vì bom B-52 và không pháo đếm đến hàng trăm, chứ không còn hàng chục. Chung quanh vùng hoạt động chổ nào cũng có xác chết vì bom. Nhưng thời gian “ngừng để lấy hơi” nầy là thời gian Binh Đoàn 70 củng cố lực lượng. Binh Đoàn B70 biết nước cờ sắp tới của QĐI là gì, và họ yên lặng để chuẩn bị: VNCH kéo về hướng tây; các đơn vị của B70 cũng di chuyển về hướng tây. Trong lúc đó, hai TrĐ 66 và 64 đang đứng hai bên hướng đông và tây của Đường 92A, trên đầu Bản Đông; cùng với hai trung đoàn của SĐ2BB QĐND đang có mặt ở bắc Tchepone. Mặt trận Hạ Lào vào đầu tháng 3 được phân chia rõ: bắc Đường 9 thuộc về Binh Đoàn 70; nam Đường 9 thuộc về VNCH. Nhưng các đơn vị VNCH chỉ giữ được phần “bất động sản” từ Bản Đông trở về biên giới, cách hai mặt bắc nam Đường 9 không quá năm cây số mỗi bên. CCDelta của LĐ147TQLC, cách Đường 9 chừng bảy cây số, là địa điểm xa nhất về hướng nam quân VNCH giữ được vào đầu tháng 3.
Mười giờ sáng ngày 3 tháng 3, cuộc tiến quân vào Tchepone khai diễn. Mười chín trực thăng chở ban chỉ huy và một phần của TĐ1/TrĐ1/SĐ1BB đổ bộ xuống một cao điểm được đặt tên là Lolo, để thiết lập căn cứ hỏa lực đầu tiên (đầu tiên ở tây nam Bản Đông) trên đường tiến về Tchepone.[1] Cuộc đổ bộ xuống Lolo cho thấy một mình Lục Quân Hoa Kỳ thì không đủ hỏa lực để dọn bãi đáp trực thăng vận cho an toàn, nhất là nhữ bãi đáp xa như Lolo. Mặc dù từ khuya đêm 2 tháng 3 đã có tám phi vụ B-52 oanh tạc dọn bãi ở phía nam căn cứ. Nhưng hai lần đổ bộ bị chận đứng vì hỏa lực phòng không đầy đặc của địch.[2] Không quân chiến thuật được gọi trở lại oanh tạc thêm một lần nữa. Sau sáu tiếng dội bom tới lui, cuộc trực thăng vận hoàn tất lần thứ ba vào lúc 6 giờ 30 chiều. Ngày hôm sau, từ 11 giờ sáng đến 5 giờ chiều, hai TĐ2 và TĐ4/TrĐ3, và một pháo đội 105 đổ bộ tiếp theo và hoàn tất thiết lập cao điểm 723 mét thành căn cứ hỏa lực Lolo. Kinh nghiệm về phòng không của địch chung quanh Tchepone chẳng những làm cho các phi công trực thăng “ớn lạnh,” còn làm cho QĐXXIV nghĩ lại về hỏa lực không pháo của họ so với hỏa lực phòng không của đối phương. Buổi chiều cùng ngày CCLolo được thành lập, 65 trực thăng chở TĐ1/TrĐ1 đến cao điểm Liz, cách CCLolo chừng bảy km hướng tây bắc. Cuộc trực thăng vận xuống bãi đáp Liz cũng không kém phần “hào hứng” như lần đổ bộ xuống CCLolo: Mặc dù bãi đổ bộ đã được 70 phi tuần không quân chuyến thuật và 14 phi vụ B-52 cày nát trước đó, nhưng vẫn có 18 trực thăng bị trúng đạn phòng không; có hai chiếc bị rơi tại chổ. Thiệt hại qua lần đổ bộ xuống CCLolo cho thấy các đơn vị phòng không của địch đang tập trung về chung quanh Tchepone — họ đã rãnh tay ở hướng bắc Đường 9. Lần đổ bộ xuống CCLolo có 42 trực thăng bị trúng đạn. Trong số đó 11 chiếc bị bắn tan xác tại bãi đáp (có tài liệu nói 7 chiếc); và hai mươi chiếc bị trúng đạn hư nặng đến độ không còn sửa chữa để bay lại được.[3] Trừ khi QĐXXIV và Liên Đoàn Không Vận 101 của Lục Quân Hoa Kỳ tìm ra một giải pháp nào khác hơn để triệt hạ hỏa lực phòng không, kinh nghiệm từ CCLolo tiên đoán những cuộc trực thăng vận đổ quân tương lai ở chung quanh Tchepone sẽ rất gian nan, rất tốn kém. Sau khi bị thiệt hại nặng (về trực thăng) ở CCLolo, đại diện Lục Quân của QĐXXIV và LĐKV101 đến gặp đại diện của Không Lực 7 để “điều nghiên” một kế hoạch dọn bãi đổ quân. Ở bãi đáp Lolo, theo lời kể của một phi công trực thăng bị bắn rơi khi đổ bộ. Anh ta nói, sau khi trực thăng võ trang đã oanh kích bãi đáp gần bốn tiếng … khi chúng tôi xà xuống thì “tưởng chừng như có một triệu người nổ súng vào chúng tôi.7] Thành phố Tchepone, ở tây nam Hope, mục tiêu xa nhất về hướng tây quân lực VNCH đến được, bây giờ đang nằm trong tầm súng cối của SĐ1BB. Theo kế hoạch, hai tiểu đoàn đi đường bộ vào thành phố. TĐ2 lục soát hướng đông; TĐ4 khai thác hướng đông nam. Ngày đầu ở Tchepone, địch phản ứng rất yếu đối với đoàn quân đổ bộ, nhưng gia tăng hoạt động pháo kích vào những căn cứ khác như CCSophia; CCLolo; và bãi đáp Liz. CCLolo bị nặng nhất (bị đạn pháo 130 ly và 152 ly). CCLolo bị pháo liên tục đến độ chỉ sau ba phi vụ tiếp tế, phải hủy bỏ tất cả những phi vụ còn lại. Sau hai ngày lục soát — không gặp một kháng cự nào của địch — chiều ngày 8 hai tiểu đoàn chuẩn bị vượt Sông Xe Pone để đi về hướng nam. Đêm đó đoàn quân qua bên kia sông. Sau khi các đơn vị đã an toàn, tướng Lãm ra lệnh rãi bom CBU-42 nổ chậm ở hai hướng tây Sông Xe Banghiang và bắc Sông Xe Pone (Xe Pone chảy hướng đông tây và gặp sông Xe Banghiang theo hướng bắc nam. Tchepone nằm ngay góc của ngả ba hai sông, bắc Xe Pone và đông Xe Banghiang). Chín giờ sáng ngày 9, hai tiểu đoàn bắt đầu leo triền núi lên CCSophia. Như vậy, cuộc đột kích vào Tchepone coi như hoàn tất.[8]
Ngày 9 khi hai tiểu đoàn của TrĐ2/SĐ1BB đã di chuyển khỏi Tchepone, tướng Lãm bay về Sài Gòn gặp Tổng Thống Thiệu và Đại Tướng Viên. Buổi nói chuyện ở Sài Gòn đưa đến nhiều tranh luận trong nội bộ Hoa Kỳ, và không ít trong nội bộ VNCH.
Chú Thích [1] Tên của tất cả các căn cứ hỏa lực từ phía tây Bản Đông về Tchepone đều do Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai đặt (đại tá tư lệnh phó hành quân, SĐ1BB, lúc đó). Tướng Giai đặt tên như vậy cho các phi công Mỹ dể nhớ và không lầm được. Kinh nghiệm về một tiểu đoàn bộ binh bị bỏ quên ở khu vực Đường 914, và tọa độ của CC31ND bị nhầm đưa đến lối đặt tên này. Nguyễn Duy Hinh, sđd, tr. 95.
[2] Theo tài liệu Không Quân Hoa Kỳ, rạng sáng ngày 3, tám phi vụ B-52 oanh tạc chung quanh CCLolo. Phi vụ cuối cùng thực hiện lúc 5 giờ 45 sáng, chỉ cách căn cứ 1,5 km về hướng nam. Project CHECO, tr. 97.
[3] Project CHECO, đã dẫn, tr. 62.
[4] David Fulghum and Terence Maitland, South Vietnam on Trial: Mid-1970 to 1972, tr. 85.
[5] Trong HQLS791 Không lực Mỹ dội bom lầm vào vị trí của VNCH ba lần: lần đầu Hải Quân Mỹ bỏ lầm ngày 7 tháng 2 ở Lao Bảo (sáu chết, 51 bị thương); lần thứ nhì, Không Quân Mỹ đánh lầm ở bãi đáp Sophia; lần thứ ba, Không Quân Mỹ đánh vào một đơn vị của SĐ1BB vào ngày 14 tháng 3 (chết chín, bị thương 13, nhưng tài liệu không nói địa điểm nào). Project CHECO, tr. 120-121. Lần đánh bom lầm vào CCSophia được nhân chứng, Trung Úy Trương Thanh Nhạc, thuật lại như sau: “… khi tiểu đoàn nhảy vào thì thấy tiểu đoàn phó Thiếu Tá Huỳnh Bá An khóa 20 [Võ Bị Đà Lạt]; đại đội trưởng Niệm; với một số lính quấn đầy băng băng, không nói năng gì, ngồi một chổ trên bãi chờ tản thương. Chao ôi! Mới phút đầu mà sao thê lương quá! Rồi trực thăng chở tiểu đoàn trưởng Thiếu Tá Lê Văn Định khóa 19 lại bị bắn rơi … lòng tê tái, núi rừng thêm buốt giá …”. Trong Kiều Công Cự, Đặc San TQLC 2013, tr. 130.
[6] Điện tín 061014Z MAC 02372 Eyes Only, Abrams gởi Sutherland; điện tín 091232Z MAC 02455 Eyes Only, Abrams gởi Sutherland.
[7] Project CHECO, tr. 101. Ngày giờ và chi tiết đổ bộ vào Lolo, Liz, Sophia, và Hope, tác giả trích theo Project CHECO (đến từ nhật ký trung tâm hành quân hành quân MACV).
[8] Nguyễn Duy Hinh, sđd, tr. 99-100.
|
|
« Sửa lần cuối: 24 Tháng Chín, 2014, 01:13:28 pm gửi bởi nkp »
|
Logged
|
|
|
|
nkp
Thành viên
Bài viết: 80
|
|
« Trả lời #69 vào lúc: 24 Tháng Chín, 2014, 01:02:13 pm » |
|
Trong buổi nói chuyện ngày 9 tháng 3, tướng Lãm — với sự đồng thuận của tướng Viên — đề nghị với Tổng Thống Thiệu kết thúc HQLS719 và rút quân về biên giới ngay.
Đề nghị chấm dứt cuộc hành quân sớm hơn thời gian dự định rất nhiều (theo dự định, ít nhất là hết tháng 4). Đề nghị của tướng Lãm đi ngược lại những gì ông Thiệu quyết định hơn một tuần trước: TrĐ2 sẽ hành quân trong Tchepone từ bốn đến sáu ngày. Sau đó đi theo Đường 914 về hướng nam, tập trung quân với hai TrĐ1 và TrĐ3, rồi hành quân về biên giới theo Đường 922, ngang qua Muong Nong. Thời hạn cho kế hoạch hành-quân-trong-khi-rút-quân đó khoảng một tháng. Theo tướng Nguyễn Duy Hinh, lúc di chuyển khỏi Tchepone, TrĐ2 chưa lục soát hết những ngọn đồi ở phía đông Tchepone, nơi có nhiều kho tàng dự trữ tiếp liệu; TrĐ2 chưa thám sát phía tây bờ Sông Xe Banghiang, một trung tâm nhận đồ tiếp liệu thả theo đường thủy từ đầu nguồn sông ở phía tây Quảng Bình; và TrĐ2 cũng chưa tảo thanh Tchepone tỉ mỉ như dự định. Nhưng đối diện với tình thế đang xảy ra ở chiến trường, rút quân ngay lúc này là quyết định phải chọn. Vấn đề tiếp tế ngày càng khó khăn hơn với địa hình chiến trường ở mặt tây Bản Đông: Trực thăng chỉ có một đường vào; phòng không đối phương đặt đầy trên những triền núi. Mục tiêu của phòng không không chỉ là phi cơ, mà còn những đoàn xe đi trên Đường 9 — những mục tiêu rất dể triệt hạ. Nhưng lý do mạnh nhất thúc đẩy quyết định rút quân là khả năng tiếp viện quân của địch. Địch có ba trung đoàn ngày TrĐ2 xuống Hope. Nhưng họ có thể tăng lên năm trung đoàn trong một tuần.[9] Rồi còn pháo nòng dài của đối phương: những căn cứ hỏa lực bất động của VNCH sẽ là mục tiêu lộ liễu cho đại bác tầm xa 130 ly và 152 ly của QĐND. Tóm lại, lý luận của tướng Lãm là, đã vào được Tchepone như tuyên bố; bây giờ là lúc nên rút quân về.[10]
Nếu lệnh rút quân được chấp thuận, tướng Lãm đề nghị kế hoạch rút quân như sau: TrĐ2, sau khi đi bộ đến CCSophia, sẽ được trực thăng vận về một căn cứ hoả lực mới, CCBrick, chừng chín cây số ở nam Bản Đông. CCSophia sẽ đóng cửa. Từ CCBrick, TrĐ2 bỏ ra bảy đến 10 ngày lục soát chung quanh Binh Trạm 33 trên Đường 914. Sau đó, SĐ1BB rút về trước; SĐND tiếp theo; CCLolo đóng cửa trước, rồi CCBrick. Các đơn vị của TrĐ3 ở chung quanh bãi đáp Brown và CCDelta sẽ đi sau khi CCBản Đông di tản. Hai LĐ147 và 258/TQLC sẽ là hai đơn vị chót rời vùng hành quân trở về bên này biên giới. Gia đoạn rút quân sẽ hoàn tất cuối tháng 3; và BTL tiền phương ở Khe Sanh sẽ đóng cửa khoảng 15 tháng 4. Sau khi nghỉ bồi dưỡng từ hai đến ba tuần, SĐND và SĐTQLC sẽ quay trở lại tấn công căn cứ hậu cần 611 từ hướng thung lũng A Shau đi ra.[11] Tiếp theo đó tướng Lãm phàn nàn với Tổng Thống Thiệu những khó khăn về chỉ huy và điều khiển trong cuộc hành quân. Trong cuộc hành quân, tướng Lãm phàn nàn với Tổng Thống Thiệu, hai vị tư lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù và TQLC không bao giờ thi hành quân lệnh của ông. Và nếu ông không có được thẩm quyền từ tổng thống, thì cho ông xin từ chức. Và tướng Lãm cũng rất buồn khi nghe báo chí nói Tổng Thống Thiệu đã muốn thay thế ông bằng tướng Đỗ Cao Trí. Lời phàn nàn của tướng Lãm là về vấn đề xung đột thâm niên chức vụ với hai tướng Lê Nguyên Khang và Dư Quốc Đống. Nói tóm lại, các đơn vị TQLC và Nhảy Dù làm việc theo tư lệnh của họ, và không thống thuộc vào QĐI như lệnh hành quân chỉ thị; nói tóm lại, tướng Lãm không có được cái uy và thẩm quyền để chỉ huy SĐND và SĐTQLC trong cuộc hành quân. Tướng Lãm nói hai tướng Đống và Khang không bao giờ đi họp ở quân đoàn.
Sau khi nghe tướng Lãm trình bày, Tổng Thống Thiệu không còn chọn lựa nào khác, hơn là phải đi theo đề nghị của vị tư lệnh QĐI: Bom CBU nổ chậm đã rải hai bên kia bờ sông; muốn quay lại Tchepone cũng không được.
Phản ứng trong nội bộ Hoa Kỳ: Sự hiểu lầm hay hiểu trễ của tướng Abrams về hiện tình mặt trận (đang xảy ra), gây nhiều sáo trộn trong Hội Đồng An Ninh Quốc Gia (HĐANQG) Mỹ. Từ ngày 1 tháng 3, Kissinger gởi Đại Sứ Bunker một điện văn, nhờ Bunker hỏi tướng Abarms tình hình thật sự của Hạ Lào ra sao (Lý do Kissinger không hỏi thẳng tướng Abrams mà phải nhờ Đại Sứ Bunker, vì theo hệ thống quân giai, đó là câu hỏi phải hỏi Đô Đốc Thomas Moorer, tham mưu trưởng BTMLQ. Nhưng Kissinger nghĩ tướng Abarms cập nhật với tình hình chiến sự hơn Đô Đốc Moorer.).[12] Vì một lý do nào đó, Hoa Thịnh Đốn nghĩ MACV, QĐXXXIV, QĐI, và BTTM VNCH không nói thật về tình hình và những quyết định đang xảy ra. Mỗi lần HĐANQG (HĐANQG ở đây là cá nhân của hai ông Nixon và Kissinger) muốn đề nghị một quyết định nào ngược lại MACV hay BTTM VNCH, thì mọi sự đã xảy ra rồi. Khi biết VNCH không đi theo lịch trình hành quân (cho đến cuối tháng 4), Kissinger và Nixon lồng lộn lên với nhiều câu hỏi cho MACV ở Sài Gòn và BTMLQ Hoa Kỳ ở Hoa Thinh Đốn. Trong khi điện tính giữa Abrams và Sutherland coi chuyện rút quân là chuyện đã rồi, ở Hoa Thịnh Đốn Đô Đốc Moorer báo cáo với Kissinger và Nixon là QĐI vẫn giữ đúng lịch trình hành quân. Đến tuần lễ thứ nhì của tháng 3, ở phía Hoa Kỳ hình như không ai biết chuyện gì đang xảy ra ở chiến trường, hay cuộc hành quân đã đến giai đọan nào. Qua những điện tín trao đổi giữa Abrams và Sutherland vào ngày 9 và 10 tháng 3; qua điện thoại giữa Đô Đốc Moorer và Tổng Thống Nixon ngày 3 tháng 3; và điện tín của Kissinger hỏi Abrams (chuyển qua tay Đại Sứ Bunker) … chúng ta thấy hình như “mạnh ai nấy nói.”
Khó tìm được trong một cuộc hành quân nào mà ông tổng thống hỏi chuyện đại tướng tham mưu trưởng BTM Liên Quân hàng đêm trên điện thoại; hay là ông cố vấn anh ninh quốc gia đi ra ngoài hệ thống quân giai, nan nĩ một tư lệnh mặt trận nói rõ sự thật ở chiến trường. Nhưng thành thật mà nói, hai ông Nixon và Kissinger có lý do để nghi ngờ: báo cáo hành quân của MACV lúc nào cũng đi sau tình hình chiến trường chừng một, hai ngày. Khi Tòa Bạch Ốc muốn quyết định chuyện gì thì quá trễ. Đến ngày 9, 10 tháng 3 mà Tòa Bạch Ốc còn hỏi các đơn vị của TrĐ2/SĐ1BB sẽ còn ở lại ở Tchepone lục soát đến bao lâu; đến ngày 12 Đại Sứ Bunker vẫn thông báo cho Kissinger biết VNCH không rút quân về luôn, mà các đơn vị chỉ về bổ sung rồi thay phiên nhau trở lại chiến trường; và hai SĐ1BB và SĐTQLC sẽ hành quân ở Đường 914 cho đến đầu tháng 4, rồi sẽ hành quân trở lại căn cứ 611.[13]
Nhưng đến ngày 18 tháng 3 thì Kissinger biết được thời khóa biểu thật của QĐ1: Các đơn vị của SĐ1BB đang trên đường rút về biên giới; và kế hoạch rút quân được sự ủng hộ của MACV (ủng hộ trong nghĩa MACV cũng đồng ý đã đến giờ rút quân). Trong một bức thư đầy trách móc viết cho Đại Sứ Bunker, Kissinger nói tất cả báo cáo từ MACV về cho ông (và cho BTM Liên Quân) đều không đúng tình hình thật sự đang xảy ra ở mặt trận. Kissinger nói Tổng Thống Nixon rất lo lắng về những thay đổi không báo trước này.[14] Sau điện tín đó, thái độ của Kissinger về tướng Abrams hoàn toàn thay đổi: ông báo cáo với Tổng Thống Nixon nhiều chi tiết không tốt và rất cá nhân về tướng Abarms: Kissinger nói tướng Abrams bây giờ uống rượu trong giờ làm việc; và đi Thái Lan thăm vợ hàng tuần … không còn quan tâm đến cuộc hành quân. Báo cáo của Kissinger làm Tổng Thống Nixon không còn tin tưởng nào vào MACV nữa. Tài liệu từ BTMLQ và Tòa Bạch Ốc cho thấy Tổng Thống Nixon muốn cuộc hành quân kéo dài qua hết tháng 4 để thuận lợi cho vấn đề chính trị nội địa.[15] Nếu chúng ta nghĩ sự xáo trộn giữa những cấp chỉ huy VNCH trong LS719 là một chuyện bẽ mặt, thì ở phía ngưòi Mỹ, chuyện cấp chỉ huy báo cáo sau lưng, nói xấu, và dọa thám nhau, lại là chuyện càng bẽ mặt hơn nhiều.[16] Tướng Alexander Haig thuật lại, Tổng Thống Nixon nỗi giận (không còn tin MACV và tướng Abrams) và ra lệnh cho Haig phải qua Sài Gòn thay thế Đại Tướng Abrams. Ông muốn giải nhiệm tướng Abarms ngay lập tức.[17] Nhưng sau cơn nóng giận, Nixon đồng ý cho tướng Haig đến Việt Nam để “thị sát” HQ LS719. Sự hiện diện của tướng Haig ở mặt trận chỉ gây thêm sự khó chịu và bất mãn cho các sĩ quan tướng lãnh — Chuẩn Tướng Haig kém thâm niên quân vụ hơn tất cả các tướng lãnh Mỹ ở Việt Nam trogn thời gian đó. Ngày 19 tháng 3, từ Sài Gòn, tướng Haig gởi về Kissinger một báo cáo, ông đồng thuận với các tướng lãnh tại chiến trường là tình hình đòi hỏi rút quân.[18] Vấn đề còn lại là phải phải rút quân như thế nào để tránh rối lọan khi bị đánh chận đường trở về biên giới. Đến ngày 19 tháng 3 tình hình của các tiểu đoàn thuộc SĐ1BB VNCH đã rất bi quan: Tiểu đoàn còn lại cuối cùng của TrĐ2/SĐ1BB nhảy vào Tchepone đã bị tràn ngập.
Chú Thích
[9] Theo MACV, hai trung đoàn mới xuất hiện ở tây bắc Bản Đông (bắc Tchepone) là TrĐ66 và TrĐ9/SĐ304. Ở phía nam, hai Trung Đoàn mới là 812 và 48/SĐ2BB. Lewis Sorley, sđd, 552-553.
[10] Nguyễn Duy Hinh, sđd, 100-103.
[11] Nguyễn Duy Hinh, sđd, trang 101; điện văn 091232Z MARCH 1971 MAC 02455, Abarms gởi Sutherland; điện văn 100850Z March 1971 QTR 0308, Sutherland gởi Abarms. Điện tín của Abrams thông báo cho Sutherland biềt kế hoạch được hai ông Viên và Thiệu chấp nhận (chắc Abrams được thông báo sau khi tướng Viên, Lãm, và Tổng Thống Thiệu họp xong). Nội dung điện tín của Abrams giống như tác giả Hinh ghi lại, chỉ khác nhau ở phần đầu, khi tướng Abarms viết, “Hai tiểu đoàn của TrĐ2 sẽ lục soát Tchepone thêm một đến ba ngày nữa.” Lúc điện tín gởi đi, thì TrĐ2 đã rời Tchepone rồi. Trong điện tín 091232Z, Abrams muốn tướng Sutherland báo cáo cho ông biết sau khi nói chuyện với tướng Lãm.
[12] FRUS, Document 142. Điện tín ngày 1 tháng 3, 1971. Cuối bức điện tín “cá nhân và không chánh thức” này, Kissinger xin Đại Sứ Bunker đừng cho tướng Abrams đọc điện tín ông gởi, vì lời yêu cầu của ông không chánh thức (đi sau lưng đô đốc tham mưu trưởng BTMLQ). Đây là một cá tính bẩm sinh “đi sau lưng/đi đêm” của Kissinger trong suốt sự nghiệp ngoại giao. Nếu Kissinger nói ông không liên hệ nhiều trong HQ LS719, thì những điện tín này là những thí dụ phản biện.
[13] FRUS, Document 149. Trong điện tín này Đại Sứ Bunker nói TrĐ51/SĐ1BB và SĐTQLC chưa tham chiến nhưng sẽ tham chiến. Nhận định này chỉ đúng với TrĐ51/SĐ1BB. Hai LĐ147/TQLC và LĐ258/TQLC đã đổ bộ vào mặt trận và tham chiến hơn 10 ngày rồi.
[14] Kissinger biết được kế họach rút quân từ báo cáo cùng ngày của Giám Đốc CIA Richard Helms. FRUS, Document 156.
[15] Kissinger báo cáo về chuyện tướng Abrams uống rượu và rời nhiệm sở đi Thái Lan thăm vợ hàng tuần là chuyện đúng. BTL Thái Bình Dương đồng thời báo về BTMLQ chuyện tướng Weyand lấy phép 10 ngày ở Hawaii; đôi khi cả Weyand và Abrams vắng mặt ở nhiệm sở cùng lúc — ngay trong những giai đọan mãnh liệt của cuộc hành quân.. (Hơn một năm sau, trong cuộc tổng tấn công của QĐND năm 1972 “Mùa Hè Đỏ Lữa,” tướng Abrams cũng không có mặt tại nhiệm sở tuần lễ đó.) Vợ tướng Abrams ở Bangkok. Một đại tướng cùng khóa Võ Bị West Point với Abrams nói sau giờ làm việc Abrams chỉ uống rượu và nghe nhạc. Tướng Abrams chết tại nhiệm năm 1974 vì ung thư gan. Đọc Bruce Palmers, Jr., The 25-Year War: America’s Role in Vietnam, tr. 107; The Joint Chiefs of Staff and the War in Vietnam, tr. 13-18. “Thuận lợi chính trị nội bộ”: Đầu tháng 4, Tổng Thống Nixon sẽ họp báo trên đài truyền hình quốc gia. Nixon muốn đến thời gian đó ông ta còn có thể tuyên bố quân lực VNCH vẫn còn hành quân ở Hạ Lào (đó là lý do tại sao phía Hoa Kỳ muốn VNCH hành quân qua tháng 4).
[16] Ban Tham Mưu Liên Quân không tin tuởng (nếu không nói là nghi ngờ) cố vấn tổng thống Kissinger đến độ họ gài một hạ sĩ quan hải quân thư ký (phục dịch trong văn phòng của Hội Đồng Anh Ninh Quốc Gia) dọa thám và lấy tài liệu/ thông văn của Kissinger về đọc lén. Vụ gián điệp “nội bộ” có tên là “Moorer-Radford Affair,” kéo dài gần hai năm ở Tòa Bạch Ốc.
[17] Alexander M. Haig, Inner Circle, tr. 275; Lewis Sorley, A Better War, tr. 262-263, và phụ chú liên hệ ở tr. 241-242; H.R. Haldeman, The Haldeman Diaries, tr. 250-259. Trong nhật ký của tham mưu trưởng Haldeman, ngày 18 tháng 3 Tòa Bạch Ốc mới biết được lịch trình rút quân của VNCH.
[18] FRUS, Document 158. Trong báo cáo này tướng Haig viết, với hai lực lượng Nhảy Dù và Bộ Binh bị thiệt hại nặng sau nhiều tuần giao chiến, tư lệnh của hai sư đoàn muốn tướng Lãm cho lệnh rút quân càng sớm càng tốt. Báo cáo của tướng Haig cũng nói đến sự hủy diệt của TĐ2/TrĐ2/SĐ1BB trên đường lui quân.
|
|
« Sửa lần cuối: 24 Tháng Chín, 2014, 01:21:33 pm gửi bởi nkp »
|
Logged
|
|
|
|
|