Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 06:30:01 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: ĐĂK TÔ ‘Lính nhà trời’ Mỹ trên cao nguyên trung phần Nam Việt Nam  (Đọc 98830 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
ngthi96
Thành viên
*
Bài viết: 498


« Trả lời #70 vào lúc: 18 Tháng Bảy, 2014, 08:41:48 am »

Babb nghĩ rằng Owens đang bị sốc. Anh bò tới trong khi Owens cố ngồi dậy. Babb tới vừa kịp đẩy Owens ngã xuống rồi lấy thân mình che cho anh này khi làn đạn súng cá nhân vừa bắn sượt qua. Rồi Babb xem xét vết thương toang hoác bên trái của Owens. Động mạch bị cắt đứt đẩy dòng máu tím thẫm tuôn đầy mặt đất cứ sau mỗi nhịp tim Owens đập. Babb hét to: “Cứu thương! Cứu thương!”. Nhưng Doc Richardson đang bận xử lý 1 ca bị thương nặng khác. Vì vậy Babb đành thọc tay vào vết thương của Owens và kẹp chặt lấy động mạch.

Owens vẫn tiếp tục lúc mê lúc tỉnh. Trong 1 khoảnh khắc tỉnh táo anh nghe thấy giọng Johnson oang oang trên điện đài. “Bravo Kilo đâu? Bravo Kilo sao vậy?”

Trong cơn đau mụ mị, Owens nghe có người trả lời. “Nó Whiskey rồi”, có nghĩa là anh đã bị thương. Nghe vậy Owens bắt đầu chú ý.

Lát sau anh nghe giọng của y tá Richardson: “Cậu ta sắp chết rồi. Tôi sẽ tiêm morphine để cậu ta ra đi thanh thản.” Owens tự nhủ ko biết người lính cứu thương đang nói về ai rồi lại ngất đi mà ko biết có mũi kim đang xuyên vào tay.

Đại úy Baldridge nhanh chóng nhẩm tính và thấy ngoài mình ra còn có 7 người nữa bị thương vì quả đạn cối. Anh gọi điện cho trung úy Moore, chỉ huy trung đội có thâm niên cao nhất hiện còn sống và báo cho anh này biết việc mình đã bị thương “Chuẩn bị lên nắm quyền chỉ huy nhé.” Baldridge nói.

Sau đó Baldridge gọi điện báo cáo thiệt hại cho trung tá Johnson. Anh nói: “Tôi dính chấu rồi, thưa sếp, nên sẽ ko thể chỉ huy lâu hơn được nữa. Lima Six đang chờ thay quyền nhưng tôi nghĩ anh ta chưa được sẵn sàng lắm.”

Johnson đồng ý. Ông gọi điện cho đại đội trưởng đại đội chỉ huy của mình ở Bến Hét là đại úy Ron Leonard, chuẩn bị sẵn sàng lên tiếp nhận đại đội Bravo. Tiếp đó ông lệnh cho chiếc trực thăng của mình đáp xuống bãi đáp trên cao điểm. 3 người trong đó nhảy ra để hoạt động như 1 ban chỉ huy lâm thời. Lúc mà thiếu tá Richard M. Scott, tiểu đoàn phó tiểu đoàn 4/503; Đại úy Shirley W. Draper, sĩ quan liên lạc của tiểu đoàn 3/319 pháo binh; và thượng sĩ cố vấn Ted Arthurs chạy dưới làn đạn địch lên đỉnh cao điểm thì các ‘thiên binh’ khác khiêng 1 số thương binh nặng xuống chỗ chiếc máy bay đang chờ.

Trung sĩ Owens bị ném bừa lên trên chiếc trực thăng chỉ huy. Sàn máy bay bằng kim loại mát lạnh tiếp xúc với lưng làm anh cảm thấy yên tâm. Johnson cúi xuống và nói: “Cậu sẽ ổn thôi, con trai ạ.” Owens lại ngất đi.

Ngay sau đó, chiếc trực thăng bốc lên giữa 1 cơn mưa đạn súng trường và súng máy địch, rồi chuyển hướng và bay về Bến Hét.

Thượng sĩ Okendo đang theo dõi làn sóng điện đài tại căn cứ hành quân (TOC) ở Bến Hét. Khi nghe Babb đã bị thương anh biết ngay điều gì sẽ xảy ra sau đó. Okendo tự nhủ: “Chó chết! Vậy là đi tong mất kỳ nghỉ rồi.”

Anh đã đúng. Ít phút sau trung tá Johnson lệnh cho Okendo và Leonard chuẩn bị đợi máy bay bốc lên ngay. Họ sẽ đến đại đội Bravo. Okendo chạy đi tìm Leonard.

Đại úy Leonard mới lên làm đại đội trưởng đại đội chỉ huy tiểu đoàn được mấy ngày. Từ khi sang tiểu đoàn 4 hồi cuối tháng 7, Leonard vẫn đảm nhận vị trí sĩ quan tình báo (S-2).

Okendo tìm thấy Leonard trong sở chỉ huy. Anh nói với Leonard :“Tôi sẽ bám đít anh, thưa sếp. Ta sẽ ra trận.”

Hai người nhanh chóng ra ngoài đường băng. Leonard và Okend leo lên chiếc trực thăng của Johnson sau khi thương binh trên được chuyển xuống hết. Trong chuyến bay ngắn tới cao điểm 823 Johnson phổ biến tình hình cho Leonard. Viên đại úy gật đầu quả quyết khi đã hiểu rõ nhiệm vụ.

Khi trực thăng của Johnson lại đáp xuống thì giao tranh đã giảm bớt. Sau khi Leonard và Okendo nhảy ra thì những thương binh còn lại, bao gồm cả Baldridge và Babb đã được chuyển lên tàu đi sơ tán.

Đại úy Leonard nhận thấy tình hình đang dần ổn định. Thiếu tá Scott đang tổ chức lại các trung đội. Chuyển quân từ trung đội Moore tới tăng cường cho phần đang bị đe dọa của chu vi phòng thủ. Đại úy Draper đã gọi pháo binh dựng lên 1 hàng rào lửa bảo vệ.

Thượng sĩ cố vấn Arthurs cùng thượng sĩ Okendo đi vòng quanh chu vi phòng thủ. Họ bảo lính dù gia cố lại công sự ở những nơi cần thiết. Cả 2 biết bộ đội Bắc Việt sẽ trở lại vào ban đêm và muốn tất cả các binh sĩ phải sẵn sàng.

Sau đó Okendo gọi về xin tiếp tế đạn và lựu đạn. Lúc 18g30, trực thăng chở chúng lên đến. Okendo trông coi việc phân phối đạn dược cùng đồ tiếp tế rồi tất cả cùng bình tĩnh chờ đợi cuộc tiến công sẽ xảy ra. Gần 20g, lính ở phía tây chu vi phòng thủ báo nghe thấy tiếng động phía dưới. 1 ‘thiên binh’ thận trọng thò đầu ra lén nhìn xuống từ miệng 1 hố bom và thấy 1 lính Bắc Việt đang cách đó chưa đầy 5m. Tay lính dù nâng súng lên hạ ngay người lính địch.

Ngay sau đó là hàng loạt lựu đạn cùng đạn B-40 và 1 vài trái đạn cối bắn lên đỉnh cao điểm. Bộ đội Bắc Việt dùng hỏa tiễn bắn quấy rối đại đội Bravo suốt đêm. Địch quân đã nhiều lần thậm chí dùng cả đất đá ném vào chỗ lính dù tìm cách bắt họ bộc lộ vị trí, nhưng các thành viên đại đội Bravo rất tuyệt vời trong việc tuân thủ kỷ luật khai hỏa.
Logged
ngthi96
Thành viên
*
Bài viết: 498


« Trả lời #71 vào lúc: 21 Tháng Bảy, 2014, 09:33:14 am »

Trung sĩ Leo Hill chiếm lĩnh vị trí cùng với người bạn thân là Specialist 4th Diaz và 1 lính công binh. Suốt đêm dài Hill đã nhiều lần nghe thấy tiếng quân Bắc Việt lén lút di chuyển trên sườn dốc phía dưới. Để đáp lại, Diaz giương khẩu M79 thẳng lên trời rót đạn xuống và tất cả lại hụp xuống mỗi khi có hỏa tiễn bắn tới rồi phát nổ cách đó chỉ từ 15 đến 20m.

Cậu lính công binh, mà Hill chưa bao giờ biết tên, có lúc đã bò về chỉ huy sở để lấy thêm lựu đạn. Cậu ta mang về 50 quả và cùng Hill sử dụng hết trước khi trời sáng.

Bảo vệ trên trời cho lính dù là những máy bay Hỏa Long với dàn minigun kinh khiếp của nó. Những phi tuần C-47 yểm trợ hỏa lực cho đại đội Bravo cũng hiệu quả như với đại đội Dog. Đám lính tráng ở cả 2 nơi đều cảm thấy dễ chịu khi thấy ánh sáng của những viên đạn vạch đường do các khẩu minigun tưới xuống. Mỗi phút có tới hàng ngàn viện đạn cày xới mặt đất xung quanh chân cao điểm 823. Thỉnh thoảng chúng bắn gần các ‘thiên binh’ đến nỗi họ phải lo ngại. Trung sĩ Hill đã mấy lần bị đất đá văng trúng khi đạn cày ngay phía trước hầm chiến đấu. Anh lo sợ bị chính đạn quân nhà 'xơi' phải khi đang ở trong công sự.

Máy bay thả pháo sáng Spooky cũng lượn vè vè trên đầu cả đêm. Những quả pháo sáng có độ sáng bằng 1 triệu ngọn nến cộng lại được thả xuống cứ mỗi 15 phút, nhuộm lên cảnh vật xung quanh tràn ngập 1 thứ anh sáng kỳ ảo.

Ngay khi trận đánh nổ ra chiều hôm ấy, tiền sát viên của trung sĩ Riley là trung sĩ John (“Mike”) Jeakle, đã tìm cách bò ra tận rìa tây chu vi phòng thủ. Từ cái vị trí trơ trụi đó, anh lính 21 tuổi quê Detroit, người từng bỏ học để đăng lính dù hướng dẫn cho đạn cối rót đều đều xuống đầu quân Bắc Việt.

Lúc tối Jeakle vẫn ở vị trí đó. Anh cũng nghe thấy tiếng quân địch di chuyển bên dưới. Anh ước lượng vị trí quân Bắc Việt rồi báo phần tử cho Riley. Tiếng la hét của lính địch bị thương báo cho anh biết những gì mình ngắm trong đêm tối là chính xác.

Có 1 lính địch đặc biệt quấy rối Jeakle. Lính tráng gán cho hắn ta biệt hiệu “cao bồi” vì hắn hay xông ra chỗ trống hét “Yahoo!” ném lựu đạn lên trên đồi rồi lại mất dạng trong bụi tre. Jeakle đã mấy lần định hạ hắn bằng đạn cối 60mm nhưng người lính địch phiền toái toàn thoát được. Bằng cách cẩn thận tính toáng cự ly tiếng hét của ‘cao bồi’, cuối cùng có thể Jeakle đã hạ được anh ta bằng 2 quả đạn hay ít nhất sau đó cũng ko còn nghe thấy tiếng hét “Yahoo!” nữa.

Suốt đêm lính dù trên tuyến đầu cứ gọi cho Jeakle bảo anh “Rót gần hơn nữa”. Anh hiệu chỉnh qua điện đài cho Riley bắn và rót đạn sát phòng tuyến nhất có thể. Chính Jeakle cũng bị những vụ nổ làm xây sát nhưng đây là điều cần thiết để ghìm chặt quân Bắc Việt. Những trái đạn cối đạt hiệu quả cao của Riley cùng với sự hiệu chỉnh chính xác của Jeakle đã góp phần quan trọng cho sự sống còn trên cao điểm 823.

Dù có sự hiện diện đông đảo của các loại hỏa lực chi viện, 1 số bộ đội Bắc Việt vẫn bò vào gần được để tấn công lính dù. Vào khoảng 5g sáng, có 10 lính địch từ 1 cái rãnh xông thẳng điểm tiếp giáp giữa trung đội 1 và trung đội 3.

Được súng RPG yểm trợ, quân Bắc Việt xung phong lên đồi sau khi ném 1 loạt lựu đạn. Suýt chút nữa thì địch đã chọc thủng chu vi phòng thủ. Chỉ có tinh thần điềm tĩnh can đảm của các thiên binh mới ngăn ko cho việc đó xảy ra. Trung sĩ tiểu đội trưởng Cabrera đã tử trận trong khi chỉ huy lính dưới quyền đẩy lùi cuộc tiến công khi lãnh nguyên 1 quả RPG bắn đến.

Sáng ra, đại úy Leonard cho đánh dấu vị trí đại đội bằng lựu đạn khói. Máy bay phản lực của không quân nhanh chóng nã rocket, thả bom oanh kích xuống cách đại đội tầm 200m. Tiếp đó, những chiếc phản lực khác ném nalpam xuống các sườn đồi xa hơn. Sau đó trực thăng vũ trang của đại đội Cao Bồi cũng đến tưới thêm hỏa lực xuống cao điểm.

Trong khi máy bay phản lực đang ném bom, 1 số bộ đội Bắc Việt đã tìm cách leo lên rìa ngoài của hố bom bên đầu tây chu vi phòng thủ. Thượng sĩ Okendo vừa nằm xuống cạnh binh nhất Wilbanks ở bờ bên kia hố bom bên phía đại đội Bravo thì quân Bắc Việt nhảy vào định tấn công lên. Okendo gan dạ nhô ra và dùng súng M16 bắn chết người lính đối phương đi đầu. Những lính địch khác bỏ chạy. Okendo và Wilbank xông tới rìa hố bom bên kia, ném lựu đạn truy kích.

Khi trực thăng vũ trang hoàn tất phi vụ, Leonard lệnh cho Proffitt cho quân xuống thám sát đường sống núi dẫn sang phía tây. Họ sẽ lục soát và thu súng đem về nếu tìm thấy xác địch.

Proffitt dẫn 1 toán lính dù rời chu vi phòng thủ. Họ thận trọng luồn qua đám cây cố gãy đổ và bụi rậm rồi di chuyển xuống dốc. Chỉ trong 15m đầu tiên họ đã tìm thấy từ 15 đến 20 xác lính Bắc Việt, nhiều xác trong số đó nằm trong tầm lựu đạn của Hill và Diaz. Hầu hết xác địch đều đã nát bấy do hiệu quả chết người vì mấy khẩu cối của trung sĩ Riley.

Đi xuống được nửa chừng thì toán thám sát bị súng cá nhân địch bắt đầu bắn. Sau khi tất cả đã ẩn nấp, Proffitt gọi súng cối. Trung sĩ Riley thuần thục rót 15 quả đạn cối xuống khu vực nghi có quân Bắc Việt. Súng địch thôi bắn. Toán thám sát lại tiến tiếp.

Thượng sĩ cố vấn Arthurs và thượng sĩ Okendo cũng ra khỏi chu vi phòng thủ sau toán thám sát của Proffitt. Khi toán thám sát đi xuống Okendo nghe thấy tiếng kêu của 1 thương binh Bắc Việt. Nếu như anh ta còn sống thì Okendo muốn bắt sống. Họ tìm thấy nhưng người này có vẻ ko sống được. Tuy thế anh ta vẫn cố giương súng về phía 2 hạ sĩ quan. Trước khi Okendo hay Arthur kịp phản ứng thì 1 lính dù cạnh đó đã nổ súng bắn chết người lính Bắc Việt.
Logged
ngthi96
Thành viên
*
Bài viết: 498


« Trả lời #72 vào lúc: 22 Tháng Bảy, 2014, 12:11:50 pm »

Okendo tháo cái máy ảnh luôn đeo trên cổ ra và đưa nó cho tay lính dù. Anh bảo người lính “Chụp đê.” Rồi Okendo và Arthurs tới ngồi xổm sau cái xác để cho người lính chụp ảnh.

Toán thám sát của Proffitt đã tiến tới cuối sống đồi và đi sâu vào những bụi tre nứa quanh đó thêm 100m. Gần chân cao điểm họ thấy 1 cây cao có thang dây. Proffitt bảo Specialist 4 Ramirez leo lên thang. Khi leo tới nơi anh lính trẻ reo lên là từ trên này có thể nhìn thấy căn cứ pháo binh 12 rõ mồn một.

Xung quanh khu vực này, lính dù tìm thấy 1 lượng lớn đồ trang bị còn mới của đối phương, từ súng ống cho đến mặt nạ phòng độc. Các ‘thiên binh’ rất đỗi ngạc nhiên trước chất lượng của những đồ trang bị này. Hiển nhiên là quân Bắc Việt cũng được trang bị tốt như họ.(?)

Lúc 8g toán thám sát của Proffitt lên dốc lại, họ cẩn thận càn quét 2 bên đường sống đồi. Thêm những bằng chứng nữa phơi bày mức độ tàn phá khủng kiếp của hỏa lực quân Mỹ khi họ tìm thấy thêm nhiều xác chết ko toàn vẹn nữa.

1 lính của Proffitt phát hiện 1 cái hầm chiến đấu lớn có nắp che nằm rất kín. Ngay lối vào hầm có 1 xác bộ đội Bắc Việt. Trung sĩ Wiggins liền xuống lục soát cái xác để tìm tài liệu cho tình báo. Khi anh này vừa nhảy xuống thì bị 1 lính Bắc Việt khác ở trong hầm dùng súng lục bắn. Wiggins, ko hề hấn gì, vội tìm chỗ nấp. Lính dù vây quanh hầm hét lớn gọi người lính Bắc Việt ‘chiêu hồi’ nhưng anh ta chỉ trả lời bằng 1 phát súng nữa.

Okendo kêu đưa lựu đạn lân tinh đến (white phosphorous grenade). Wiggins đưa cho anh 1 quả và Okendo thảy nó vào hầm. Đúng lúc đang thảy thì người lính địch bắn thêm 1 phát súng lục nữa, viên đạn găm trúng cổ tay Okendo.

Khi trái lựu đạn lân tinh đốt hết khí oxy trong hầm thì người lính Bắc Việt chỉ có 2 lựa chọn: Chết ngạt hoặc chạy. Anh ta từ trong hầm lao ra, khẩu súng lục điên cuồng nhả đạn. Specialist 4 Worrel, xạ thủ M60, đốn ngã tay lính địch bằng 1 loạt đạn. Dù đã bị trúng 5, 6 phát đạn trung liên, người lính Bắc Việt vẫn còn thở. Okendo bước đến về kết thúc cho anh này bằng 1 phát đạn vào đầu. Người lính địch được xác nhận là sĩ quan, trên người có mang 1 số tài liệu và lính dù đã tịch thu để lấy thông tin tình báo. Trung sĩ Wiggin lấy khẩu súng lục của người lính Bắc Việt, 1 lính khác thì lấy cái mặt khóa thắt lưng.

Toán thám sát của Proffitt kết thúc cuộc càn quét mà ko thấy 1 lính địch còn sống nào. Dường như đối phương đã rút lui do ngán sợ hỏa lực áp đảo của Mỹ. Khi thiếu úy Proffitt về tới chu vi phòng thủ, đại úy Leonard gọi các sĩ quan đến để bàn kế hoạch kế tiếp. Cùng lúc đó, thượng sĩ Okendo tổ chức đi thu dọn xác quân địch. Cả thảy có hơn 100 xác lính Bắc Việt được thu nhặt và ném xuống hố bom ở đầu tây cao điểm. Sau đó mới tính toán đến con số thương vong của đại đội Bravo. Okendo gọi điện báo cho trợ lý tiểu đoàn rằng đại đội Bravo có 9 tử trận và 28 bị thương.

Cao điểm 823 cũng cho 1 số toán quân nhỏ ra tuần tiễu cho đến hết ngày. Thêm 1 ít xác địch nữa được phát hiện. Những thứ tìm thấy trên các xác chỉ ra đối phương thuộc 1 bộ phận của trung đoàn 66.

Vào cuối buổi sáng, trung tá Johnson với điện đài viên là Sp4 Stanley Jones tháp tùng, đã đáp xuống cao điểm 823. Mặc dù cao điểm vẫn thỉnh thoảng bị đạn cối địch bắn phá, Johnson vẫn tới lui, nói chuyện với lính dù, tuyên dương bọn họ. Trong khi chờ phần còn lại của tiểu đoàn lên đến cao điểm 823, thì trung tá Johnson nhận được quân tăng viện. Tướng Schweiter đã điều đại đội Charlie, tiểu đoàn 1/503 sang cho tiểu đoàn 4. Vào khoảng 13g, trực thăng chở quân đã bắt đầu đưa họ lên cao điểm 823, và từ giờ là căn cứ pháo binh 15.

Chiều ngày 8 tháng 11, đại đội Bravo được rút khỏi cao điểm 823. Trung tá Johnson vẫn còn muốn truy kích kẻ thù nhưng tướng Schweiter lại muốn cho tiểu đoàn nghỉ ngơi ít hôm. Trong khi các đại đội khác của tiểu đoàn 1/503 tiến lên cao điểm 823. Thì tiểu đoàn của Johnson về chiếm lĩnh vị trí quanh Bến Hét. Những ngày kế tiếp họ sẽ làm nhiệm vụ đảm bảo đường giao thông và tuần tiễu ở mạn tây và bắc căn cứ pháo binh 12.

Nhiều đoàn khách tham quan toàn các vị tai to mặt lớn đã bay đến Bến Hét để nghe báo cáo về các trận đánh vừa xảy ra gần đây. Trong số đó có cả thủ tướng VNCH Nguyễn Cao Kỳ và tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Có lần trung tá Johnson vừa ra khỏi chiếc trược thăng chỉ huy thì đã thấy tư lệnh phó MACV là tướng Creighton W. Abrams đã đợi sẵn tại căn cứ pháo binh 12.

“Hãy nói cho tôi biết cái gì đã diễn ra ở đây nào, trung tá.” Abrams hỏi Johnson.

Johnson  đáp:“Tôi ko thể kể cho sếp nghe chuyện của lữ đoàn, nhưng tôi sẽ rất vui khi được kể về tiểu đoàn mình.”

Abrams chấp thuận và được Johnson dẫn vào trung tâm hành quân. Ở đó ông cùng với viên sĩ quan hành quân đang há hốc mồm vì ngạc nhiên ứng biến ngay 1 bài báo cáo cho vị thượng cấp. Ít lâu sau 1 nhóm sĩ quan tham mưu đầu não lữ đoàn đi xuống trung tâm hành quân và hộ tống Abrams về bộ chỉ huy lữ đoàn.
Logged
ngthi96
Thành viên
*
Bài viết: 498


« Trả lời #73 vào lúc: 23 Tháng Bảy, 2014, 08:39:58 am »

Chiều ngày 9 tháng 11, thượng sĩ Okendo nhận được tin nhắn của trung tá Johnson bảo ra trình diện tại bãi đỗ trực thăng. Anh có khách tới thăm. Okendo tự hỏi ko biết tên quái nào mà lại đến thăm mình nhỉ?

Tại bãi đỗ trực thăng, Okendo được đại tá William J. Livsey, trưởng ban 3 (hành quân) sư đoàn 4 bộ binh chào đón nhiệt tình cùng với cả thiếu tướng Peers tư lệnh sư 4. 15 năm về trước, khi còn là thiếu úy mới toe ở Triều Tiên, Livsey là trung đội trưởng của Okendo. Hai người cựu binh vui vẻ hàn huyên với nhau 1 lúc rồi sau đó tướng Peers lắng nghe Okendo trả lời các câu hỏi của Livsey về trận đánh trên cao điểm 823.

Livsey chuyển đến sư đoàn 4 bộ binh cuối tháng 6. Ông lập tức bắt tay vào nghiên cứu các chiến dịch của sư đoàn 4 ở chiến trường Tây Nguyên, trong đó có cả trận đánh của tiểu đoàn 2/503 ngày 22 tháng 6 và đã rút ra được 1 số kết luận. Tác chiến trên Tây Nguyên phải dùng chiến thuật khác hẳn. Bất kỳ đơn vị nào hành quân trong rừng, kể cả cấp tiểu đoàn, đều phải nằm trong cự ly mà các đơn vị có thể khác dễ dàng tăng viện. Không được phép đưa các đơn vị nhỏ riêng lẻ ra chiến trường vì quân Bắc Việt sẽ nhanh chóng cô lập, bao vây và tiêu diệt chúng ngay.

Thêm nữa, ông cho rằng các đơn vị mặt đất của Mỹ ko nên để bị lôi kéo vào chiến đấu với các lực lượng Bắc Việt trong công sự. Họ cũng có thể nhanh chóng bị mất đi ưu thế hỏa lực nếu sa vào lối đánh cận chiến. Livsey kết luận rằng lữ 173 sử dụng hỏa lực pháo binh yểm trợ quá ít. Ông cũng cho rằng pháo binh của họ hay ngừng lại để trực thăng vũ trang và máy bay phản lực vào oanh tạc, thả bom. Trực thăng vũ trang và máy bay phản lực thì thường ko đạt hiệu quả khi đánh xuống những tán cây rừng rậm rạp. Hơn nữa, ông tin rằng việc pháo binh ngưng bắn sẽ cho phép quân Bắc Việt áp sát chu vi phòng thủ của lính Mỹ, và lại càng làm giảm thêm hiệu quả của phi pháo.

Livsey ưu tiên cho việc tung ra các đơn vị trinh sát nhỏ để tìm kiếm những nơi tập trung quân Bắc Việt. 1 khi đã phát hiện thấy thì sẽ dùng hỏa lực pháo binh với số lượng lớn, cùng không quân chiến thuật đánh cho đến khi quân Bắc Việt bị tiêu diệt rồi sau đó mới cho bộ binh lên hành quân càn quét.

Livsey đã thử truyền đạt những kết luận của mình cho các sĩ quan hành quân, cũng như các tiểu đoàn trưởng của lữ đoàn 173, nhưng ko có kết quả. Bọn họ chẳng mảy may quan tâm. Ông cảm thấy dường như đám lính dù ko muốn nghe bộ binh dạy họ cách chiến đấu.

Vài tuần nữa sẽ tới và khi đó Livsey sẽ ước rằng phải chi đám dù chịu nghe lời mình.


 







Chương 9
Task Force Black






Lực lượng tăng viện của đồng minh vẫn đang được đổ vào Đắk Tô ngay cả sau khi tướng Rosson đã đưa lên đó 2 tiểu đoàn cuối cùng của lữ 173 (tướng Schweiter lý luận rằng tiểu đoàn 3 quá mới để có thể cho lên Tây Nguyên nên vẫn để họ lại Tuy Hòa thực hiện tiếp chiến dịch Bolling). Tướng Peers cũng điều động tiểu đoàn 1, trung đoàn 8 thuộc lữ đoàn 2 của mình từ Đắc Lắc lên Đắk Tô tăng phái cho lữ đoàn 1. Trong mấy ngày nữa, tướng Rosson sẽ chuyển thêm cho Peers 2 tiểu đoàn của sư đoàn 1 kỵ binh bay nữa là tiểu đoàn 1, trung đoàn 12 kỵ binh và tiểu đoàn 2, trung đoàn 8 kỵ binh.

Ngoài ra, tiểu đoàn 9 nhảy dù VNCH cũng từ Sài Gòn bay lên Đắk Tô trong lúc họ đang tham gia vào việc xây dựng lực lượng tổng trừ bị của nam VN. Tướng Peers đặt họ ở phía đông nam Đắk Tô để đối phó với trung đoàn 24 Bắc Việt. Tiểu đoàn 2, trung đoàn 42 VNCH sẽ đảm nhiệm việc bảo vệ khu vực đầu não của Đắk Tô, mà lúc này đã bao gồm bộ chỉ huy tiền phương sư đoàn 4 bộ binh cũng như bộ chỉ huy của tướng Schweiter. Tiểu đoàn 2, trung đoàn 42 cũng tiến hành tuần tra đường 512 cắt ngang Đắk Tô và Bến Hét , đường này đi sang phía tây nhập vào quốc lộ 14 ở Tân Cảnh rồi chạy sang Lào.

Bộ tổng tham mưu quân lực VNCH sẽ sớm cho thay tiểu đoàn 9 nhảy dù bằng tiều đoàn 3 dù. Rồi thì tiểu đoàn 2 nhảy dù và tiểu đoàn 3, trung đoàn 42 VNCH cũng lên tham gia. Cả 3 tiểu đoàn VNCH này sẽ tập trung nỗ lực đối phó với trung đoàn 24 Bắc Việt.

Tướng Rosson tăng thêm các tiểu đoàn cơ động vì những trận đụng độ với quân địch ngày càng nhiều lên. Gần như tất cả các lực lượng đang tuần tiễu quanh Đắk Tô đều chạm trán với các đơn vị Bắc Việt mà họ đã xác định từ trước. Ngày 7 tháng 11, chỉ cách cao điểm 830 về phía đông 3km, đại đội Alpha và đại đội Dog, tiểu đoàn 3, trung đoàn 8 đã bị tập kích, thiệt hại gồm có 10 chết, 35 bị thương. Sáng sớm hôm sau có thêm 8 lính cũng thuộc các đại đội này bị thương do 1 trận pháo kích bằng súng cối. Đến 18g30 cũng tại nơi này, diễn ra 1 trận tiến công dữ dội kéo dài 3 giờ đồng hồ của bộ đội Bắc Việt nhằm vào đại đội Alpha và đại đội Dog. Lại có thêm 11 lính Mỹ tử trận và 38 bị thương sau khi trận đánh kết thúc.

Trên sườn tây của cao điểm 1338, đại đội Charlie và đại đội Dog, tiểu đoàn 3, trung đoàn 12 cứ đi mỗi 1500 đến 2000m là phát hiện thấy những vị trí của đối phương có công sự tốt. 1 trận giao tranh ngắn ngủi sẽ nổ ra sau đó, pháo binh sẽ dập xuống đầu quân Bắc Việt, rồi lính Mỹ mới tiến lên đếm xác. Thường thì lại có hơn 1 chục xác địch và 2 đại đội sẽ bị mất từ 4 đến 5 người.

Đại đội thứ 3, đại đội Bravo, gia nhập với đại đội Alpha và Dog tiểu đoàn 3/8 ngày 9 tháng 11. Ngày kế tiếp, trong khi các đại đội đang di chuyển theo 1 sống núi chạy tới cao điểm 724, bộ đội Bắc Việt lại đột kích. Trận đánh khốc liệt diễn ra cho tới tận ngày hôm sau. Chỉ đến khi có sự tham gia với qui mô hùng hậu của phi pháo thì cuộc tiến công của địch mới bị bẻ gãy. Quân Bắc Việt để lại 92 xác đồng đội trên chiến trường. 18 lính bộ binh Mỹ tử trận, gần 120 bị thương. Mức độ thương vong cao đã khiến cho các đơn vị này kiệt sức, quân số của 1 đại đội chỉ còn 44, đại đội khác là 59; đại đội đông nhất thì cũng chỉ còn 79 quân.
Logged
ngthi96
Thành viên
*
Bài viết: 498


« Trả lời #74 vào lúc: 24 Tháng Bảy, 2014, 08:59:34 am »

Dù hiển nhiên với tướng Rosson và Peers là việc quân đồng minh ùn ùn đổ vào Đắk Tô đã khiến nguy cơ quân Bắc Việt tràn ngập căn cứ giảm đi nhiều, nhưng cũng họ cũng đã thấy đối phương ko hề có ý định từ bỏ vùng này cho Mỹ.

Để duy trì sức ép lên quân Bắc Việt, tướng Schweiter lệnh tăng cường cho trận địa pháo trên cao điểm 823. Căn cứ pháo binh 15 sẽ ko chỉ là nhà của pháo đội Charlie, tiểu đoàn 3/319 mà còn là sở chỉ huy của tiểu đoàn 1/503 khi nó lên tuần tiễu trong vùng hành quân được tiểu đoàn 4/503 bàn giao lại.

Đại tá John J. Powers, tư lệnh phó lữ đoàn từ hôm 1 tháng 11 cũng đặt sở chỉ huy tiền phương của lữ trên căn cứ pháo binh 15. Powers, 44 tuổi, tốt nghiệp học viện West Point năm 1945 đã công tác trong bộ tham mưu của quân đội Mỹ ở nam VN đóng tại Long Bình trong 6 tháng trước khi tới thay cho đại tá McQuarrie. Tuy thế ông cũng chẳng lạ gì những trận đánh khốc liệt. Ở Triều Tiên ông là 1 đại đội trưởng của sư đoàn 3 bộ binh và đã được thưởng huân chương chữ thập bội tinh vì lòng dũng cảm.

Tướng Schweiter lệnh cho tiểu đoàn 1/503 của trung tá David J. Schumacher truy kích đơn vị Bắc Việt đã chiến đấu với đại đội Bravo tiểu đoàn 4/503 hôm mồng 6 tháng 11 và ngăn ko cho bất cứ đơn vị Bắc Việt nào khác bén mảng gần Đắk Tô.

Trung tá Schumacher chỉ còn gần 3 tháng là kết thúc kỳ hạn phục vụ khi đưa tiểu đoàn 1/503 của mình lên căn cứ pháo binh 15 vào ngày mồng 9 tháng 11 năm 1967. 6 tháng đầu tiên trong kỳ hạn phục vụ ông là lữ đoàn phó (brigade's executive officer), xử lý thường vụ. Dù đây là 1 công việc vô thưởng vô phạt nhưng ông vẫn bị mang tiếng là sĩ quan hãnh tiến ít quan tâm, đồng cảm với cấp dưới.

Không được như Powers, Schumacher chỉ đơn giản là 1 sĩ quan muốn kiếm thêm cơ hộ thăng tiến sau khi đã tìm cách được chỉ huy 1 tiểu đoàn chiến đấu trước khi về Mỹ để nhận công việc nhàn nhã rồi thăng lên đại tá. Schumacher là 1 tiểu đoàn trưởng hợp chuẩn, đúng thế, nhưng ko bao giờ tạo dựng được sự trung thành của cấp dưới hay sự ủng hộ của cấp trên như thường vẫn tồn tại giữa các chiến hữu cùng binh chủng dù.

Để thực hiện sứ mệnh được giao, trung tá Schumacher lập ra 2 đội đặc nhiệm (task forces). Task forces Black bao gồm đại đội Charlie và 2 trung đội của đại đội Dog. Task forces Blue có đại đội Alpha và trung đội còn lại của Dog. Đại đội súng trường thứ 4 của Schumacher, đại đội Bravo, do đại úy Jerry Draper chỉ huy sẽ ở lại bảo vệ căn cứ pháo binh 15.

Chỉ huy đại đội Charlie là đại úy Thomas McElwain, 26 tuổi. McElwain sinh trưởng tại Logan, Tây Virginia, đã bỏ học để nhập ngũ từ năm 17 tuổi. Anh đã có 6 năm làm chuyên viên sử dụng chất nổ, và lấy bằng trung học vào những giờ rảnh rỗi. Năm 1963 vì muốn gầy dựng sự nghiệp trong quân ngũ nên xin đi học sĩ quan. Đến tháng 10 năm đó thì anh được gắn lon vàng thiếu úy.

Tháng 8 năm 1967, McElwain đến nam VN sau 1 kỳ hạn phục vụ với cương vị chỉ huy 1 đội danh dự của LHQ tại Nam Triều Tiên. Tháng 9, anh nhận quyền chỉ huy đại đội Charlie từ đại úy Kirby Smith. Vì đại đội Charlie những tháng gần đây ít đụng độ với kẻ thù, nên McElwain muốn xây dựng 1 số bài ôn luyện để cho lính dù ko bị trì trệ, nhưng việc này ko cần thiết. Nhiệm vụ đầu tiên trong cương vị đại đội trưởng đại đội Charlie là đi vào 1 bãi đáp ‘nóng’ ở phía tây Tuy Hòa. Khi trực thăng Huey đang đổ lính dù xuống đất thì đạn VC đã bay vèo vèo trong ko trung và McElwain thấy quân của mình lại trở nên hoạt bát như những chiến binh dù tinh nhuệ ngày nào.

Dù cho ban đầu bị các lính cựu trong đại đội Charlie đánh giá là quá hung hăng khi ham đánh nhau với kẻ địch, McElwain vẫn nhanh chóng được binh sĩ quí mến. Điều này càng trở nên rõ rệt hơn khi trái với địa vị của mình, anh lại thích lính tráng trong đại đội hơn là các sĩ quan. Anh nhậu nhẹt, đánh bạc và nói chuyện gái gú với bọn họ. Anh chơi đàn ghi ta và hát cứ như Glen Campbell (ca sĩ nhạc đồng quê nổi tiếng của Mỹ.ND) vậy. Lính tráng tôn sùng anh và sẵn sàng xông đến tận Hà Nội nếu anh yêu cầu.

McElwain nổi tiếng đến nỗi có cả ‘lính hầu’ riêng (batman). Specialist 4 Darryl Fitch, lái xe và lính liên lạc cũ của đại úy Smith giờ chuyển qua chăm sóc McElwain. Khi đi hành quân thì Fitch đào hầm, căng lều và nấu ăn cho McElwain. Viên đại úy đặc biệt khoái khẩu món đào và bánh bông lan, những thứ rất hiếm khi có trong khẩu phần C (khẩu phần ăn dã chiến. ND). Fitch đã dành nhiều thời gian kỳ kèo thương lượng với những lính khác nhằm lấy đào hộp và bánh về cho sếp. Theo ý kiến của Fitch thì McElwain ko những là sĩ quan giỏi nhất mà còn là con người tốt nhất mà anh từng biết.

Đại úy McElwain ngay lập tức thấy ko ưa trung tá Schumacher. Anh cũng cảm thấy Schumacher là điển hình của bộ phận sĩ quan háo danh trong quân ngũ. Anh coi viên tiểu đoàn trưởng là 1 kẻ cơ hội, chỉ biết lo thăng tiến, tìm kiếm vinh quang cho bản thân hơn là lo cho binh sĩ. Ví dụ như sau 1 cuộc hành quân thông thường ở Tuy Hòa, Schumacher đã lệnh ban tham mưu chuẩn bị đề xuất khen thưởng huân chương sao bạc cho mình.

McElwain biết đây là thành tích xạo và công khai tỏ vẻ hài lòng khi thấy trên lữ đoàn đã từ chối đề xuất đó.

Việc McElwain ghét Schumacher là việc lính tráng trong đại đội Charlie ai cũng biết. Mọi lần khi thấy Schumacher bay trực thăng lên sở chỉ huy của mình là McElwain lại bảo lính ném trái khói để báo cho phi công biết hướng gió. Lúc đó thế nào cũng sẽ có người đáp “Khói mà làm đếch giề. Ném 1 trái nổ cho rồi” và McElwain lại cười phe phé.
Logged
ngthi96
Thành viên
*
Bài viết: 498


« Trả lời #75 vào lúc: 25 Tháng Bảy, 2014, 09:07:23 am »

Ngày 8 tháng 11, trước khi rút khỏi cao điểm 823, thấy McElwain trả lời cuộc gọi của sĩ quan tiếp vận (S-4) về danh sách đồ tiếp tế anh cần là nước. Schumacher chen vào và bảo McElwain rằng: “Charlie Six, người ta ko dùng nước để thắng trận, chúng ta ko lãng phí trực thăng để chở nước. Dưới chân cao điểm có suối đó, cho quân tuần tiễu xuống đó mà lấy.”

McElwain miễn cưỡng lệnh cho trung úy Charles Brown chỉ định quân đi lấy nước. Anh kia tuân lệnh và tiểu đội này đã vấp phải quân Bắc Việt. Hậu quả của cuộc đọ súng là binh nhất John M. Kapeluck bị chết. Đó là 1 bi kịch, cái chết lãng nhách của Kapeluck khiến cho lính đại đội Charlie càng ghét Schumacher hơn.

Chỉ huy đại đội Alpha và cũng là chỉ huy trưởng Task Force Blue (đội đặc nhiệm Xanh. ND) là đại úy David Jesmer, 31 tuổi. Anh là 1 người to con cao tới 1m90 nặng gần 100 cân. Sau khi tốt nghiệp cao đẳng năm 1959, anh nỗ lực để tới chơi bóng cho đội New York Giants và San Francisco 49ers nhưng ko thành nên đã tham gia khóa đào tạo sĩ quan dự bị ROTC để vào phục vụ trong quân đội. Anh được tướng Westmoreland tuyển về chơi cho đội tuyển bóng bầu dục của sư đoàn dù 101 tại căn cứ Fort Campbell. Jesmer phục vụ được 2 năm rồi giải ngũ về quê ở Sacramento, California và làm việc cho 1 ngân hàng ở địa phương.

2 năm sau đó, tháng 1 năm 1965, sau khi chán làm việc trong ngân hàng, Jesmer lại nhập ngũ. Tháng 5 năm 1967, Jesmer sang nam VN. Sau 1 thời gian làm sĩ quan hành quân của tiểu đoàn 1/503, đến tháng 7 thì anh tới nắm đại đội Alpha. Jesmer được trực thăng vượt mưa bão chở tới nhiệm sở. Anh đáp xuống cao điểm 882, cách Bến Hét về phía nam 10km.

Jesmer đã bị sốc trước nhưng gì mình nhìn thấy. Dù trên danh sách đại đội có đông hơn, nhưng ngoài này chỉ có khoảng 85 lính. Anh gọi điện cho đại đội phó thu dung tất cả những người ko quan trọng ở tuyến sau đưa ra tiền tuyến ngay lập tức. 24 giờ sau đó, có thêm 50 người nữa góp mặt. Từ lúc này đại đội Alpha ko còn tên trốn việc nào nữa.

Trong mấy tuần kế tiếp, Jesmer chỉ huy đại đội tuần tiễu rộng khắp trên khu vực. Họ tìm được rất ít dấu vết của quân Bắc Việt. Thỉnh thoảng, trong đêm tối họ có nghe tiếng lính địch nhưng ko bao giờ nhìn thấy ai cả. Có lần Jesmer lần theo 1 lối mòn mới lên trên cao điểm 875 nhưng cũng ko thể tiếp cận được đối phương. Anh có cảm giác bộ đội Bắc Việt được lệnh né tránh quân Mỹ. Mãi đến khi đại đội Alpha chuyển đến Tuy Hòa thì họ mới đụng độ với quân địch. Trong cuộc chạm súng ngắn ngủi này, 1 số VC đã bị giết.

Để chuẩn bị cho lính đón nhận những trận tấn công ác liệt chắc chắn sẽ xảy ra, Jesmer tập trung vào công tác huấn luyện. Nguyên tắc chủ yếu của anh nếu khi trung đội xích hầu đụng địch, thì nó phải tổ chức phòng ngự theo hình mũi của móng ngựa ngay lập tức. 2 đại đội súng trường kia sẽ làm thành 2 chân của móng ngựa, trong khi trung đội hỏa lực sẽ bảo vệ phía sau. Sở chỉ huy đại đội sẽ nằm giữa chu vi phòng thủ. Với đội hình thế này Jesmer nghĩ đại đội mình sẽ là 1 chướng ngại lớn mà kẻ thù khó lòng đè bẹp.

Không như McElwain, đại úy Jesmer có quan hệ tốt với trung tá Schumacher hơn. Jesmer cho rằng Schumacher là 1 tiểu đoàn trưởng rất cừ với việc ra lệnh và hướng dẫn họ thực thi 1 cách chuyên nghiệp. Jesmer nghĩ ko thể đòi hỏi nhiều hơn thế nữa ở 1 sĩ quan lục quân.

Đại úy Abraham Lincoln Hardy chỉ huy đại đội Dog. Hardy, 25 tuổi, 1 dân Texas to lớn vạm vỡ, tới nam VN vào tháng 2 năm 1967. Chức vụ gần đây nhất của anh là sĩ quan cơ giới của tiểu đoàn. Đến tháng 9, khi Schumacher thành lập đại đội Dog, Hardy đã được chấp nhận về chỉ huy nó. Trung tá Schumacher chỉ đạo đại úy McElwain dẫn TF Black về phía tây căn cứ pháo binh 15, 2 cây số rồi rẽ xuống hướng nam tiến về cao điểm 889. Cùng thời gian đó, TF Blue sẽ rời căn cứ pháo binh 15 đi sang phía đông nam, rồi quay về phía tây, đi song song với tuyến đường của TF Black ở khoảng cách 1000m. 2 đơn vị sẽ hội quân trên cao điểm 889.

Sáng sớm ngày 15 tháng 11, 2 Task Force rời khỏi căn cứ pháo binh 15. Tiến độ hành quân chậm do các bụi cây rậm rạp ken lẫn với tre gai. Lính dù còng lưng dưới sức nặng của ba lô đi ngoằn ngoèo xuống sườn dốc của cao điểm 823, mạo hiểm dấn bước vào cõi hư vô.

Trung úy David Holland của đại đội Alpha, đánh vật với đồ đạc mang theo khi dẫn đắt trung đội hỏa lực tiến bước. Holland không thích chút nào khi bị đại úy Jesmer chuyển sang trung đội hỏa lực trước khi rời khỏi Tuy Hòa. Trung đội chỉ có 15 lính với 1 khẩu cối 81mm thế nên Holland cảm thấy mình giống tiểu đội trưởng hơn là 1 trung đội trưởng. Để phản ứng, khi dừng chân ở Kon Tum anh đã cùng mấy cậu lính trong trung đội mới đến 1 trong những quán bar nằm dọc phi đạo để nhậu nhẹt, đập phá.

Khi máy bay C-130 chở anh tới sân bay Đắk Tô vào hôm sau Holland thấy nhức đầu kinh khủng. Tuy nhiên anh nhanh chóng tỉnh rụi khi thấy trực thăng chở thương vong từ phía nam lên Đắk Tô. Anh nhìn những chiếc Huey bay ra từ những mỏm đồi màu xanh thẫm qua thung lũng rộng lớn mang theo những chấm nhỏ màu đen dưới bụng. Khi trực thăng đến gần hơn Holland mới nhận ra những chấm đen hóa ra là các xác lính tử trận. Lần đầu tiên, Holland phải đối mặt với thực tế là mình có thể bị giết trong chiến đấu. Thật kỳ diệu khi việc coi đây là vấn đề số mệnh đã khiến anh bình tĩnh trở lại và có thể thực hiện nhiệm vụ mà ko cần lo lắng nữa.
Logged
ngthi96
Thành viên
*
Bài viết: 498


« Trả lời #76 vào lúc: 28 Tháng Bảy, 2014, 09:57:18 am »

Khi 2 Task force đi gần đến chân điểm cao 823, những lính đi đầu bắt đầu tìm kiếm dấu vết về sự hiện diện của đối phương. Nhiều vết máu khô đã chứng minh hiệu quả chết chóc của hỏa lực bắn phá vào đêm trước. Task Force Black cũng phát hiện 1 số bậc cấp gia cố bằng tre được xẻ vào sườn dốc dưới chân cao điểm. Đồ trang bị do quân Bắc Việt bỏ lại nằm rải rác khắp nơi. Binh sĩ trong 2 task force, từ lính cựu cho đến lính mới, đều biết rằng mình đang mạo hiểm tiến sâu vào lãnh thổ quân Bắc Việt. Nếu giao tranh xảy ra thì sẽ là do đối phương chủ động muốn đánh chứ ko phải lính dù.

Task Force Blue đóng quân nghỉ đêm đầu tiên cách cao điểm 823 chừng 1000m về phía tây nam. Đại úy Jesmer thiết lập 1 chu vi phòng thủ chặt chẽ, tung ra các tổ cảnh giới, xin hỏa lực pháo binh chi viện. Đêm yên bình trôi qua với TF Blue dù trong nhiều lúc, 1 số tổ cảnh giới có báo về là nghe thấy tiếng động.

Quân của đại úy McElwain suốt ngày hôm đó khi đi trên lối mòn của bộ đội Bắc Việt đều cảm thấy căng thẳng. Cứ vài trăm mét các lính xích hầu lại bắt gặp các dấu vết. Có lần họ còn vướng cả vào dây điện thoại. McElwain bảo trung sĩ truyền tin của mình nối máy vào dây. Ít lâu sau họ được phản hồi. Đường dây vẫn đang hoạt động.

McElwain báo về cho đại úy Edward Sills, sĩ quan hành quân tiểu đoàn. Sills, người vùng Georgia, 28 tuổi đã cảnh báo McElwain.: “Cẩn thận nhé Tom, bọn ‘nhỏ con’ đều ở quanh đó đấy.”

McElwain đồng ý.

Task Force Black chuẩn bị nghỉ đêm trên 1 quả đồi nhỏ ko có số cách cao điểm 823 về phía tây 2000m. Đại úy Hardy đưa các trung đội vào chiếm lĩnh vị trí quanh chu vi phòng thủ trong khi McElwain lo bố trí các tổ cảnh giới.

Trung úy Edward Kelley, trung đội trưởng trung đội 1, đại đội Charlie, lấy 5 trong số 23 lính của trung đội quay lại đường tiến quân tổ chức phục kích phòng địch bám theo. Kelley, 26 tuổi người ở Dothan, Alabama, nhập ngũ khi còn là lính trơn cũng như McElwain. Năm 1962 sau khi kết thúc 3 năm phục vụ, Kelley vào đại học Auburn rồi ko chỉ tham gia khóa huấn luyện sĩ quan dự bị mà còn phục vụ trong lực lượng vệ binh quốc gia địa phương. Anh được phong thiếu úy sau khi tốt nghiệp vào năm 1966. 1 năm sau thì anh sang nam VN.

Kelly được của lính dưới quyền đánh giá là 1 sĩ quan có tác phong làm việc lạnh lùng nhưng hiệu quả đã cẩn thận cho các tổ vào vị trí, rồi nghỉ đêm tại chỗ với quân số trực gác là 50%. Một lúc sau trời đổ mưa. Mưa lớn ko chỉ hạn chế tầm nhìn khiến cho không có thể phát hiện cái gì trong rừng ban đêm mà còn át hết cả các tiếng động. Bộ đội Bắc Việt có thể tới sát bên Kelly và lính dưới quyền mà họ chẳng hề hay biết. Thế nhưng anh ko hiểu vì sao địch lại ko đến và đêm ấy trôi qua yên ổn.

Đại úy Sills, người được các đại đội trưởng đánh giá là 1 sĩ quan hành quân xuất sắc, truyền lệnh hành quân trong ngày 11 tháng 11 của trung tá Schumacher cho đại úy Jesmer. TF Blue sẽ tạt sang phía tây tiến về TF Black, bắt tay với họ ngay trong ngày hoặc vào ngày kế tiếp. Lực lượng kết hợp này sẽ tiến về phía tây nam song song với sống núi dẫn lên cao điểm 889. Dự kiến những dấu vết của trung đoàn 66 Bắc Việt sẽ được tìm thấy đâu đó trong khu vực.

Jesmer cho quân sẵn sàng đi lúc 8g00. 1 lính dắt chó trinh sát đi cùng với toán xích hầu. Jesmer ko tin con chó này lắm. Ngày hôm trước cứ đi được khoảng 100m là nó lại cảnh báo, khiến tốc độ hành quân của task force bị chậm. Jesmer tin tưởng vào bản năng của lính xích hầu dưới quyền hơn.

Thiếu úy  Ed Robertson, dẫn trung đội 2 rời chu vi phòng thủ đầu tiên. Theo sau anh là trung đội 1 của trung úy John Robinson, ban chỉ huy đại đội của Jesmer, trung đội hỏa lực của trung úy Holland và trung đội 3 của trung úy Larry Kennemer. Kennemer, 22 tuổi, tốt ngiệp đại học Texas, tới nam VN hồi tháng 6 năm 1967. Vì khi đó chưa có chức trung đội trưởng nào khuyết nên phần lớn 3 tháng đầu tiên anh làm ‘tà lọt’ cho trung tá Schumacher. Tháng 9 anh gia nhập đại đội Alpha.

Mới xuất phát chưa được 200m thì con chó trinh sát lại cảnh báo. Jesmer vừa mới định nghĩ đó là báo động giả thì đám rừng trước mặt Robertson bùng nổ. Lính tráng phản ứng ngay; họ lăn xuống đất tìm chỗ nấp. Các trung đội khác vội vã chiếm lĩnh vị trí tạo ra 1 chu vi phòng thủ hình móng ngựa mà Jesmer đã huấn luyện cho họ. Lúc đó là 8g28 phút.

Jesmer lập tức gọi về trung tâm hành quân báo cáo đã chạm địch. Schumacher đang ở tại đó vì sương mù buổi sáng làm ông ko thể lên trực thăng bay chỉ huy. Jesmer báo cho Schumacher biết: “Tôi đụng khoảng 1 trung đội địch.”

Ở phía trước, lính của Robertson đang đọ súng với đối phương. Cũng như mọi khi, rất ít khi nhìn rõ bộ đội Bắc Việt trong đám cây lá rậm rạp, nên ‘thiên binh’ chỉ có thể bắn trả vào những chớp lửa đầu súng và những cái bóng thấy loáng thoáng. Lựu đạn nổ tung bắn ra những mảnh sắt sắc lẻm găm vào da thịt con người.

Như mọi lần, Jesmer cho các trung đội của mình vừa đánh vừa lùi rồi cho các tiền sát viên pháo binh và cối 106,7 gọi về trung tâm chỉ huy hỏa lực của mình xin chi viện. Chỉ vài phút sau khi rút, đạn pháo 105mm đã dập xuống đầu quân địch. Ở khoảng cách gần hơn nữa, đạn cối 106,7 ly xuyên qua tán cây và nổ tung trong các vị trí của địch. Rủi thay, 1 trái đạn cối hụt tầm đã giết chết 1 lính của Jesmer và làm bị thương mấy người khác.

Lúc trận đánh nổ ra, trung đội hỏa lực của trung úy Holland thậm chí còn chưa rời khỏi chỗ đóng quân. Holland lập tức đặt súng cối. Do ko bị đạn địch bắn tới anh cùng binh sĩ dưới quyền rót đạn ngay xuống phía trước trung đội Robertson.
Logged
ngthi96
Thành viên
*
Bài viết: 498


« Trả lời #77 vào lúc: 29 Tháng Bảy, 2014, 09:47:03 am »

Trung đội của Kennemer, chỉ có 22 quân, đang nã đạn M16 và M60 vào rừng nhưng sự thực là họ có mục tiêu. Hầu hết hỏa lực của bộ đội Bắc Việt đang tập trung vào lính của Robertson.

Đáp lại yêu cầu của Jesmer, máy bay phản lực đã kéo tới lập khu chờ trên không. 1 tiền sát viên truyền những hướng dẫn của Jesmer để chúng cắt bom. Chỉ sau vài phút gầm rú trên cao, những trái bom 500 cân Anh của mấy chiếc F-100 đã xé toạc tán rừng già.

Lúc này đã quá 11g. Pháo vẫn giã thêm xuống các vị trí địch trong khi máy bay phản lực đã kết thúc phi vụ. 30 phút sau đó, Jesmer cho 1 tiểu đội thám sát cùng với con chó trinh sát tiến ra để tiến hành xem xét khu vực.

Quân Bắc Việt đã bỏ đi. Những gì còn lại chỉ là vài xác bộ đội bị phi pháo tiêu diệt. Jesmer kiểm tra các xác chết và rất ấn tượng trước đồ trang bị cùng súng ống mới toanh của địch. Dường như quân địch mới ra chiến trường chưa lâu.

Jesmer cũng lấy làm lạ là địch quân đều đeo ba lô và chưa chuẩn bị công sự. Anh nhận định đối thủ vừa rồi là quân chặn hậu với nhiệm vụ kìm chân quân Mỹ. Và rồi anh đã biết lý do vì sao địch muốn ngăn cản mình: Trong những cuộc đàm thoại nghe được qua điện đài giữa Schumacher với McElwain, thì rõ ràng TF Black đang lâm nguy. Jesmer liền cho quân mình di chuyển để tới cứu TF Black.

Nhật lệnh của trung tá Schumacher trong ngày 11 tháng 11 cho đại úy McElwain là lần theo sợi dây điện thoại. Tuy nhiên Schumacher cũng ko muốn anh này di chuyển quá xa vì còn  muốn TF Black ở lại khu vực ngày hôm sau, để tìm kiếm bộ đội Bắc Việt trong khi chờ hội quân với TF Blue.

McElwain và đại úy Hardy đồng ý cho lần theo sợi dây mỗi hướng 1 trung đội. Các trung đội khác thì tiến hành tuần thám khu vực.

Trung úy Brown lấy ra 1 tiểu đội cho đi càn quét quanh khu vực đóng quân rồi mới quyết định di chuyển. Toán phục kích của Kelley đã quay về chu vi phòng thủ mà ko tìm thấy dấu vết gì của quân Bắc Việt. Sau 8g00 thì Brown rời khỏi nơi đóng quân.

Đi chưa được 50m, lính xích hầu của Brown phát hiện 1 lính cảnh giới Bắc Việt cách đó chừng 20m. Lính dù nổ súng bắn bị thương người lính địch. Brown ra hiệu cho toán thám sát đuổi theo trong khi anh gọi điện báo cáo đại úy McElwain. Chưa kịp gọi thì McElwain đã lên máy.

McElwain gọi Brown: “November Six, cái quái gì xảy ra vậy?”

Brown kể lại sự việc rồi nói thêm: “Chúng tôi đang lần theo vết máu. Tôi sẽ đuổi theo nó.”

“Không” McElwain hạ lệnh. Anh mới được lệnh của Schumacher tới hỗ trợ cho Jesmer. McElwain ko muốn 1 đơn vị đi lẻ ra ngoài vì như vậy rất nguy hiểm.

“Ko có thì giờ mà lãng phí đâu” McElwain ngắt lời. “Tôi sẽ cho người khác ra ngoài đó.”

Brown cố nài nhưng ko có kết quả.

Trung đội 2 của trung úy Gerald Cecil được chỉ định lần theo sợi dây điện thoại nên đã sẵn sàng xuất phát. Trung đội đã được hưởng 1 buổi sáng tương đối thoải mái. Trung sĩ Philip H. Scharf, 20 tuổi quê Fond du Lac, Wisconsin thậm chí sau bữa sáng còn có thời giờ viết thư về nhà nữa. Sau đó có lệnh phải lên đường.

Scharf bắt cặp với anh bạn thân là trung sĩ Robert E. Wooldridge. Hầu hết lính đại đội Charlie, tiểu đoàn 1/503 đều gọi Wooldridge là trung sĩ Opie vì anh giống ngôi sao thiếu nhi Ronnie Howard trên tiết mục Andy Griffith Show nổi tiếng trên truyền hình 1 cách kỳ quái. Wooldridge, vừa mới bước sang tuổi 20 hồi tháng 10, là 1 phần huyền thoại của đại đội Charlie. Anh đến đại đội lần đầu tháng 5 năm 1966. Trong lần kỳ phục vụ đó 1 phóng viên ảnh đã chụp ảnh Wooldridge. Bức ảnh, với Wooldridge trong trang bị đầy đủ lệ bộ chiến đấu, được lưu hành rộng rãi ở quê nhà, làm anh chở nên nổi tiếng tí chút.

Khi kỳ hạn phục vụ đầu tiên kết thúc, Wooldridge tình nguyện phục vụ thêm 1 năm nữa ở nam VN, với điều kiện được ở lại đại đội Charlie. Sau khi được chấp nhận, Wooldridge được cho đi phép 30 ngày về quê nhà tại Newton, Iowa. Về nhà, anh đã gặp gỡ và kết hôn với 1 thiếu nữ rồi quay lại cuộc chiến.

Lúc này anh đang là tiền sát viên cho trung đội súng cối 81 ly. Anh đi cùng Scharf khi trung đội của Cecil xuất phát.

Nếu trung sĩ Opie là 1 huyền thoại, thì trung úy Cecil là ngôi sao của của đại đội Charlie. Anh là 1 trong 10 học viên West Point từng được tạp chí Newsweek chọn trong ấn bản đặc biệt viết về sinh viên tốt nghiệp năm 1966. Các phóng viên theo sát 10 sv này trong suốt 1 năm từ lễ tốt nghiệp, lễ cưới hay những khóa đào tạo thêm. Kết quả là bài viết đã xuất hiện trên tạp chí ngày 10 tháng 7 năm 1967, kết thúc là hình ảnh Cecil đã vượt qua khóa huấn luyện biệt động quân khắc nghiệt như thế nào. Anh đã qua nam VN được mấy tháng trước khi bài báo được phát hành.

Cecil ko những được các sĩ quan trong đại đội Charlie mà còn được lính trong trung đội mình tôn trọng nữa. Là người năng nổ, quyết đoán, Cecil dạy cho binh sĩ các thủ thuật tác chiến trong rừng già mà anh được học hồi ở trường biệt động quân. Kết quả là anh tin chắc 20 lính trong trung đội mình hoàn toàn có thể chiến đấu hiệu quả nếu xảy ra đụng độ.
Logged
ngthi96
Thành viên
*
Bài viết: 498


« Trả lời #78 vào lúc: 30 Tháng Bảy, 2014, 09:21:35 am »

Binh nhất John Rolfe, lính xích hầu của trung đội 2, dẫn trung đội rời chu vi phòng thủ. Cecil là người đi thứ 3 trong đội hình. Họ nhanh chóng vượt qua toán lính nhỏ của Brown, lúc đó đang quay về chu vi phòng thủ đại đội.

Trung đội Cecil tiến xuống 1 sống núi rộng 50m đại để dẫn về phía nam chu vi phòng thủ. Càng đi xuống tán rừng càng dày hơn, đổ 1 thứ ánh sáng kỳ ảo xuống mặt đất. Bụi rậm cao ngang ngực. Tầm nhìn trong thứ ánh sáng nhập nhoạng này hiếm khi vượt quá 5m.

Trung đội âm thầm nhích dần xuống sống núi. Rồi Rolfe bỗng giơ tay ra dấu cho mọi người dừng lại. Trong lúc Cecil đang lo lắng nhìn thì Rolfe từ từ quay đầu, đưa ngón tay trỏ lên môi ra 1 dấu hiệu cổ điển bảo mọi người im lặng. Sau đó, ko nói 1 câu anh quay lên và bắn hạ người lính cảnh giới khác của địch.

Sau đó là sự tĩnh lặng, đại úy McElwain đi xuống sống núi và cùng Cecil kiểm tra xác người lính địch. Cecil nói: “Nhìn này, tên này mới vừa vào nam. Quần áo, súng ống của nó còn mới cứng.”

McElwain đồng ý. Anh bỗng cảm thấy sống lưng ớn lạnh. Có cảm giác như trong rừng có những cặp mắt đang nhìn mình.

“Chúng ở đây đó, Jerry” McElwain nói: “Tôi cảm thấy thế. Hãy cẩn thận.”

McElwain quay về vị trí chỉ huy. Cecil ra dấu cho trung đội tiến tiếp. Càng xuống thấp sống núi càng hẹp, và 2 bên sườn ngày càng dốc. Đi thêm 100m nữa thì đường bắt đầu dốc hơn.

Cecil cho trung đội đi từ từ, tung ra những toán gồm 2 lính thực hiện cloverleaf dọc theo 2 bên sống núi. Người ngậm tăm, tất cả những gì cần liên lạc thì đều dùng thủ hiệu.

Trung đội 2 đi đến đầu mút sống núi thì thấy nó tạo thành 1 yên ngựa rồi đi lên mỏm bên cạnh. Giác quan thứ 6 báo cho Cecil biết sắp đánh nhau đến nơi rồi. Anh vội ra hiệu cho mấy toán cloverleaf rút về, rồi cho các tiểu đội lập tuyến phòng thủ. Tuyến này hơi cong về phía sau.

Cecil thì thầm với những người xung quanh: “Các cậu. Tôi biết bọn khốn đang ở đây đó. Khi tôi ra hiệu thì tất cả cùng bắn nhé.”

Ít giây sau Cecil quạt 1 loạt CAR-15.

Trước khi những người xung quanh kịp khai hỏa, rừng rậm phía trước bùng nổ với cơn bão lửa của đối phương. Những luồng đạn AK-47, RPD, rocket B-40 lao về phía các ‘thiên binh’. Lính dù nằm rạp xuống đất, bắn trả mãnh liệt.

Lúc đó Cecil chưa biết gì về việc mình vừa khai mào 1 trận phục kích lớn kiểu móng ngựa. Nếu anh tiến nhanh hơn thì hẳn cả trung đội đã bị chia cắt bởi hỏa lực bắn cánh sẻ dữ dội ấy. Và lúc đó, theo như Cecil ước tính, họ sẽ phải đối mặt với lưới lửa của nhiều tiểu đội quân Bắc Việt.

Các trung sĩ Wooldridge và Scharf đi đằng sau đội hình của Cecil nên ko bị hỏa lực trực tiếp của bộ đội Bắc Việt nhắm tới. Dù vậy, họ vẫn tích cực xông lên trước. Người lính ở cách phía trước họ 2m bị 1 phát đạn của quân Bắc Việt bắn trúng mặt. Thật là kinh dị khi thấy phía sau đầu anh lính này nổ toác, máu đỏ li ti văng tung tóe như bụi.

Sau đó mấy giây, 1 ‘thiên binh’ khác từ trên đầu hàng quân chạy về. Anh bị bắn vào ngực. Tuy nhiên có vẻ viên đạn AK-47 bị sao đó mà nó chỉ xuyên ngập có 1 nửa vào xương ức người lính. Wooldridge và Scharf lập tức đặt cho anh này biệt hiệu ‘trung sĩ Ricochet – trung sĩ đạn bật ra.ND’

2 người nằm rạp xuống rồi bắt đầu bò tới trước đến chỗ đang bắn nhau. Phía trước họ, tiếng súng M16 và M60 đang giận giữ đáp trả tiếng AK-47. 2 người lính có thể nhìn thấy bộ đội Bắc Việt chạy như tên bắn giữa các thân cây bên dưới sườn dốc sống núi. Họ bắn vào những cái bóng nhanh vun vút đó.

Sau đó cả 2 nghe thấ tiếng nổ đầu nòng đặc trưng của súng cối quân Bắc Việt. Wooldridge biết chúng ở rất gần và dựng nòng bắn gần như thẳng đứng. Anh gào “Chết rồi, Phil. Bọn ta tiêu mất“

Vậy là đủ, 1 quả đạn cối Bắc Việt từ trên tán lá rít lên rơi xuống ngay phía trước mấy người lính chưa đến 2 mét. Một trái đạn thối. Cả bọn chưa kịp mừng rỡ trước may mắn ấy thì 1 trái đạn cối khác đã nổ tung với ánh sáng chói lòa gần như ở đúng vị trí trái thứ nhất.

Sau tiếng nổ, Wooldridge nghe thấy Scharf kêu: “Opie, cậu dính chấu rồi. Cậu sẽ được thưởng huân chương cho coi.’’ Những mảnh thép sắc lẻm vừa mới găm vào tay phải của Wooldridge.

Wooldridge bảo: “Chó chết! Còn nói nữa hả. Nhìn lại mình đi !”. Cẳng tay của Scharf cũng bị mảnh cối cắm chi chít.

Thay vì chúc mừng huân chương trái tim tím (huân chương chiến thương. ND) bộ đôi dũng cảm lại tiếp tục tiến tới chỗ giao tranh. Ko đếm xỉa đến thương tích của mình, họ kéo thương binh rời xa tuyến lửa và chuyển đạn dược lên. Ở đằng sau trên đỉnh đồi, đại úy McElwain dựa vào báo cáo của Cecil gọi về báo cho trung tá Schumacher đang ở trung tâm hành quân biết việc Cecil đã chạm trán với 1 tiểu đội Bắc Việt. Lúc đó là 9g50 phút.

Mấy phút sau, khi thấy tiếng súng phía trước Cecil vẫn tiếp tục ko thuyên giảm. McElwain điều trung úy Brown dẫn trung đội xuống cứu viện. Khi Brown vừa xuống sống núi, thì Cecil gọi lại cho McElwain báo rằng anh cảm thấy đang phải đối mặt với 1 trung đội đầy đủ của đối phương. Súng địch bắn quá rát nên ko thể chỉ có duy nhất 1 tiểu đội được.
Logged
ngthi96
Thành viên
*
Bài viết: 498


« Trả lời #79 vào lúc: 31 Tháng Bảy, 2014, 08:31:47 am »

Quân của Brown cố tiến nhanh nhất có thể tới chỗ Cecil. Tiếng súng bắn ầm ầm rộ lên khi họ gần đến chỗ yên ngựa. Rồi thì đạn địch mau chóng bắn đến. Họ phải tìm chỗ nấp. Trung đội Brown đã bị hỏa lực mạnh mẽ của địch quân chặn lại khi chỉ cách vị trí của Cecil chừng chục mét.

Hai trung đội trưởng có thể hét lên gọi nhau qua lại nhưng ko sao hội quân được. Brown báo tình hình cho McElwain, và nói thêm lực lượng địch có tầm 1 đại đội hoặc hơn thế nữa. McElwain lại nghiêm túc báo cáo chuyển biến mới này cho Schumacher.

McElwain quyết định đích thân xuống chỗ giao tranh. Anh để trung đội của Kelley cùng trung đội hỏa lực dưới quyền trung úy Ray Flynn ở lại chỗ trú quân, rồi tập hợp đại đội bộ tiến xuống chỗ Cecil và Brown.

Khi tới nơi McElwain tìm chỗ đặt sở chỉ huy rồi nắm quyền chỉ đạo. Mức dữ dội của trận đánh làm cho McElwain bị sốc. Đạn súng nhỏ, súng lớn thi nhau bay vun vút khắp rừng. Cứ chốc chốc lại có tiếng nổ vang rền của lựu đạn, B-40, hay đạn cối. Tiếng la hét inh ỏi của thương binh khiến mọi thứ càng thêm hỗn loạn. McElwain nhận thấy tình thế kinh khủng hơn anh tưởng. Rõ ràng là bộ đội Bắc Việt có quân số đông hơn số lượng mà đại đội anh có thể đương đầu. Anh siết chặt chu vi phòng thủ để tập trung hỏa lực nhằm hạn chế khả năng bị địch quân chọc thủng. Từ sau 1 cái cây lớn, McElwain gọi điện bảo Cecil lùi về chỗ Brown.

Dù trận đánh chỉ mới bùng lên chừng 30 phút, Cecil đã có 3 lính chết và khoảng 1 chục bị thương, 1 số ca rất nặng hầu như ko thể di chuyển được. Để bảo vệ công tác rút quân, Cecil và lính cài mìn Claymore lại, vừa bò lui vừa rải dây điện rồi cho nổ loại vũ khí hiệu quả kinh khiếp này. Bằng cách đó, số quân tơi tả còn lại của trung đội 2 lùi gần về vị trí của Brown.

Có 2 lính của Cecil do bị thương quá nặng nên ko thể tự rút về. Vì ko muốn bắt ai phải liều mạng, nên Cecil đã 2 lần bò lên đưới làn đạn địch để mang thương binh về.

Có 1 số lính dù vẫn chưa thực sự nhìn thấy bộ đội Bắc Việt. Sau này họ được biết lính đối phương dùng lá cây ngụy trang cài khắp người. Địch ẩn nấp rất giỏi và chỉ có tia lửa đầu nòng khi bắn mới có thể làm họ lộ vị trí.

Ngoài hỏa lực súng cá nhân, súng cối cũng tiếp tục rót xuống đầu ‘thiên binh’. Khi trung sĩ Scharf vừa kéo 1 thương binh đến nơi an toàn, thì 1 quả đạn cối nổ tung ngay phía sau. Mảnh đạn cối nóng đỏ đã xuyên và xé toạc bắp đùi phải, khiến Scharf cảm thấy như bị ăn 1 cú đá trời giáng. Lính cứu thương vừa kịp tới thì 1 quả đạn cối nữa lại phát nổ, mảnh đạn bay tung tóe khắp nơi. Người lính cứu thương gục xuống, bị thương nặng. Scharf cũng bị mảnh cối cắm vào ngực và mặt. Mảnh đạn xé rách môi dưới của anh, làm gãy 3 cái răng rồi mới chui vào nằm dưới lưỡi. Máu nóng chảy tràn cuống họng khi cái lưỡi sưng lên làm cho anh khó thở. Scharf lật người, chống tay và quì bằng đầu gối, khạc ra bọt khí. Giờ thì bỏ mẹ rồi, anh nghĩ.

Người lính cứu thương thứ 2 nhanh chóng đến bên, băng bó vội vã cho anh rồi di chuyển qua chỗ khác. Sau đó có người kéo anh tới chỗ tập trung thương binh. 1 lính cứu thương định phẫu thuật mở khí quản, nhưng Scharf từ chối. Anh chẳng muốn cho ai mổ cuống họng mình ra cả.

Trận đánh vẫn ko hề thuyên giảm. Khi McElwain nhận thấy bộ đội Bắc Việt đi vòng men theo sườn dốc của sống đồi, anh gọi điện bảo Kelley cho quân lên tham gia. Đồng thời McElwain cũng gọi điện cho đại úy Hardy.

Sáng hôm đó Hardy đang dẫn 2 trung đội lần theo sợi dây điện thoại theo hướng ngược lại. Khi thấy McElwain báo mình đang gặp rắc rối thì Hardy lập tức quay lại.

Đằng trước Hardy, Kelley cũng đang cho trung đội tiến xuống phía có tiếng súng. Họ chưa đi được nửa đường, thì đã bị quân Bắc Việt bắn. 1 tay súng Bắc Việt ở gần đến nỗi Kelley thấy lá cây rụng lả tả từ miệng súng đang khạc lửa.

Lính của Kelley định tìm chỗ nấp, nhưng anh ra lệnh bảo họ đứng dậy vận động. Bằng cách lom khom rồi phóng chạy từ chỗ nấp này qua chỗ nấp khác, trung đội cũng tới được khu chiến và chiếm lĩnh vị trí bên sườn bỏ trống của chu vi phòng thủ.

Kelley ko thể tin rằng mọi thứ lại hỗn loạn đến thế. Súng bắn khắp nơi, đạn B-40 bay vù vù trên chiến trường, đạn cối phát nổ đinh tai nhức óc, lính tráng thét gào khi bị mảnh đạn găm vào cơ thể. Hỗn loạn kinh khủng.

Trong ít phút mà nhiều lính của Kelley đã bị trúng đạn. Lính cứu thương của anh bị trúng 6 phát đạn vào chân và đang nằm bất động. Chỉ mấy giây mà có tới 3 xạ thủ M60 bị giết khi bị đạn trung liên RPD xăm trúng vị trí.

Kelley vừa tham chiến thì đại úy Hardy cũng đưa quân đại đội Dog đến được chu vi phòng thủ. Cúng lúc ấy, trung úy Flynn ở chỗ đóng quân báo cho McElwain biết việc mình đang bị súng trường bắn.

McElwainko muốn để cho hơn chục lính của trung đội hỏa lực bị cô lập và tiêu diệt nên đã lệnh cho Flynn chôn súng cối rồi chạy xuống chỗ mình.

Flynn ném 2 khẩu cối xuống 2 hố cá nhân, dùng poncho phủ lên và lấp đất rồi xuống đồi. Đường đi rất ’nóng’. Trong quá trình chạy về chu vi phòng thủ, anh bị quân Bắc Việt bắn tứ phía. 170 lính dù của TF Black đã hoàn toàn bị bao vây.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM