Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 11:44:05 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Giải phẫu một cuộc chiến tranh  (Đọc 97080 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #30 vào lúc: 29 Tháng Tám, 2008, 06:22:38 pm »

chương năm
SỰ CỦNG CỐ QUYỀN LỰC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN

HỘI NGHỊ GIƠ-NE-VƠ VÀ CUỘC THẮNG PHÁP

Chiến tranh cách mạng không phải là một hoạt động quân sự đơn thuần mà là một bộ phận không thể tách rời của chính trị và mối quan hệ của nó với nhân dân. Chiến lược quân sự luôn luôn phản ánh nhận định căn bản đó. Khả năng của Đảng đóng vai trò lãnh đạo của mình một cách lâu dài do đó phụ thuộc vào việc, liệu về chiến thuật, Đảng có thể nắm được quần chúng vào những lúc nhất định và hiểu rõ những hạn chế vật chất của mình cũng như hiểu rõ cán cân lực lượng ở mỗi giai đoạn của cuộc đấu tranh kéo dài hay không. Sau năm 1953, quyền chủ động về vấn đề ruộng đất đã được chuyển cho nông dân nghèo, Đảng đưa ra một chính sách mà đa số nông dân đó tán thành nhưng lại có những hậu quả lớn không lường trước được. Các nhà lãnh đạo Đảng ở trong tình trạng bị động và sự bất động của họ quá lớn nên kết quả là không đạt được sự nhất trí để có bất kỳ hành động quyết định nào.

Năm 1954, bắt đầu một giai đoạn quá độ, kéo dài cho đến năm 1959. Trong sự lãnh đạo và trong chính sách của Đảng ở giai đoạn này các nhu cầu kinh tế buộc Đảng phải có những điều chỉnh về ngoại giao và chính trị và sức ép của thực tế đã thắng thế hơn so với những mong muốn. Các chính sách ít khi thật triệt để, trái lại ngày càng trở nên có nhiều sắc thái và đôi khi có tính chất thử nghiệm, vì Đảng sẵn sàng sửa chữa mọi sai lầm có thể có. Nhìn chung thời kỳ 1954-1959 là thời kỳ trưởng thành của lý thuyết và thực tiễn của chủ nghĩa cộng sản Việt Nam và của phương pháp khắc phục những giới hạn và khai thác những khả năng.

Thêm vào những hậu quả chính trị, tổ chức và xã hội của cải cách ruộng đất, Việt Nam dân chủ cộng hòa phải giải quyết những khó khăn chồng chất của nền kinh tế chiến tranh trong các vùng giải phóng ngày càng thêm rộng lớn. Từ năm 1946 cho đến cuối năm 1951, Việt Nam dân chủ cộng hòa đã giải quyết ba phần tư chi tiêu ngày càng tăng của mình bằng in tiền, gây ra một sự lạm phát choáng váng trong khu vực của mình, mà về lâu về dài có thể đe dọa chính sự sống còn của đất nước. Trong năm 1951, Việt Nam dân chủ cộng hòa bắt đầu tìm cách cân đối ngân sách và kết quả là năm 1953 đã trở thành năm đầu tiên Cách mạng không bị thâm hụt. Nhưng Cách mạng cần thời gian củng cố và giải quyết nhiều vấn đề nội bộ của mình, sau một thập kỷ đấu tranh khốc liệt, và để rồi gánh vác với những nhiệm vụ còn lại. Chính trong hoàn cảnh của những sức ép vật chất như vậy mà Cách mạng đến Hội nghị Giơ-ne-vơ.

Trung Quốc cũng đến Giơ-ne-vơ với những khó khăn nội bộ tương tự, bị xâu xé giữa những ưu tiên quốc gia và những ưu tiên quốc tế nói là ít vụ lợi hơn mà những người Trung Quốc rêu rao theo đuổi. Và, vì cả Trung Quốc lẫn Việt Nam dân chủ cộng hòa đều chịu những ép buộc tương tự cho nên, phân tích đến cùng, chính lợi ích quốc gia sẽ quyết định mục tiêu của mỗi bên. Về phần Trung Quốc những hậu quả của chính sách chỉ vì mình như vậy của Trung Quốc đã có những tác động to lớn hơn nhiều đối với những láng giềng và khu vực của họ.

Lịch sử bi thảm của các quan hệ Trung - Việt sau năm 1975 không thể che lấp được thực tế rằng, mặc dù chính sách của Trung Quốc luôn luôn được triển khai vì những nhu cầu và quyền lực của họ, các quan hệ giữa hai nước suốt cả thập kỷ vừa qua là hết sức thân thiện. Trong khi món nợ tư tưởng của Đảng đối với Trung Quốc là to lớn, người Việt Nam, tuy vậy, vẫn xây dựng học thuyết riêng biệt của chính mình, mặc dù một số kinh nghiệm và thực tiễn trùng lặp nhau và không thể tránh khỏi ở hai quốc gia chủ yếu là nông dân. Về mặt vật chất và ngoại giao, quan hệ của họ rất gần gũi.

Trung Quốc bắt đầu cung cấp vũ khí cho Việt Nam dân chủ cộng hòa đầu năm 1950, ngay sau khi họ có thể làm như vậy; năm 1953, khi họ tăng gấp đôi viện trợ vũ khí so với năm trước, họ bắt đầu cung cấp trang bị nặng. Phần lớn số đạn dược dùng ở Điện Biên Phủ, kể cả việc huấn luyện để sử dụng, đều đến từ Trung Quốc. Đồng thời, trước năm 1954, Trung Quốc không hề bao giờ cung cấp đủ viện trợ cho Việt Nam để có thể gây ra một sự đe dọa các lực lượng của Pháp đến mức kéo Mỹ vào cuộc chiến tranh và thắng lợi tháng 5 năm 1954 tại Điện Biên Phủ cuối cùng là hậu quả của sự ngớ ngẩn của Pháp và sự động viên quần chúng của Việt Nam dân chủ cộng hòa. Chính sách của Trung Quốc chủ yếu là kết quả của kinh nghiệm trong chiến tranh Triều Tiên tróng đó họ mất khoảng nửa triệu người. Mục tiêu chính của họ là khuyến khích hòa bình trong khu vực, để cho họ có thể tập trung chú ý vào sự phát triển kinh tế trong nước và trên hết để tránh một sự can thiệp có thể có của Mỹ vào chiến tranh Đông Dương.

Hội nghị Giơ-ne-vơ là bài học lớn đầu tiên của chủ nghĩa cộng sản Việt Nam về tính chất và những giới hạn của chủ nghĩa quốc tế vô sản, và tác động của bài học đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới quan của Đảng... Sự hòa giải nhanh chóng với Trung Quốc chỉ là một giai đoạn của cố gắng chung của Việt Nam dân chủ cộng hòa nhằm củng cố quyền lực của mình bắc vĩ tuyến 17 trước khi đi vào giải quyết các vấn đề của sự thống nhất quốc gia. Bởi vì, suy đến cùng, không phải người Trung Quốc hoặc người Xô-viết ép buộc những điều khoản tại Giơ-ne-vơ cho Đảng mà chính là sự đánh giá của Đảng về những hạn chế của chính mình, về những nhu cầu cấp bách nhất và những triển vọng và khả năng tiềm tàng trong tương lai.

Nếu Việt Nam dân chủ cộng hòa cảm thấy hùng mạnh hơn, họ có thể chống lại đòi hỏi của Trung Quốc và Liên Xô. Thành công của những đồng minh không phải là nguyên nhân của những điểm yếu của Việt Nam mà phản ánh những điểm yếu đó. Đứng trước vô vàn khó khăn về kinh tế, chính quyền và ruộng đất, các nhà lãnh đạo Đảng kết luận rằng sự củng cố quyền lực ở miền Bắc là thiết yếu, và sự khôn ngoan của họ và thời gian sẽ chuyển cán cân lực lượng có lợi cho Đảng. Họ cho rằng sau này họ sẽ có khả năng đương đầu với vấn đề của miền Nam trên một thế mạnh hơn nhiều, một nhận định mà cuối cùng đã tỏ ra là đúng.

Cuộc bầu cử tháng 7 năm 1956 được hứa của Hiệp định Giơ-ne-vơ để hòa bình thống nhất Việt Nam, đối với họ, là một liều thuốc giải độc có thể có được cho tình trạng chia cắt nhưng chẳng có tý nào chắc chắn cả. Nhưng bản thân cuộc bầu cử chỉ có giá trị khi họ hy vọng có một lỗ trống về quyền lực ở miền Nam và không có thách thức nào nghiêm trọng cho Đảng ở đó. Tất cả các yếu tố của sự lạc quan của Đảng đều có một cơ sở hợp lý, nhưng sự phân tích đã hóa ra là không đúng.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #31 vào lúc: 31 Tháng Tám, 2008, 09:57:57 am »

Chương sáu
SỰ ĐỐI ĐẦU CỦA MỸ VỚI NHỮNG GIỚI HẠN CỦA QUYỀN LỰC THẾ GIỚI
1946 – 1960

Chiến tranh Việt Nam là chiến tranh dài nhất và chia rẽ nhất của Mỹ trong thời kỳ sau năm 1945, và về nhiều mặt, là cuộc xung đột quan trọng nhất của Mỹ trong thế kỷ thứ XX. Rõ ràng sức bật của Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm cho Việt Nam trở nên đặc biệt sau năm 1946, nhưng việc Mỹ đối đầu với những kẻ thù đáng gờm như vậy là kết quả tự nhiên hợp với lô-gích và với những mục tiêu thể hiện vai trò của Mỹ trong thời hiện đại. Nhìn ngược lại rõ ràng có hai lực lượng bất di bất dịch. Trong hai lực lượng đó không có lựa chọn nào khác ngoài việc theo đuổi chính sách mà Mỹ đã từng lao vào, và như vậy là Mỹ đã đi theo dấu chân của Pháp chứ không học hỏi được gì từ thất bại của họ. Mỹ đưa ra quyết định lớn lao đó như thế nào và Mỹ tự thấy có thể làm gì, điều đó nói lên tính chất thời đại của chúng ta và khung cảnh chính trị, xã hội trong đó hình thành lịch sử hiện đại. Bởi vì Việt Nam cuối cùng là một tình tiết chính trong một quá trình can thiệp lớn hơn đã từng xảy ra trước Việt Nam và còn tiếp tục sau Việt Nam. Tất cả những thất vọng và khó khăn nổi lên ở Việt Nam đã từng xảy ra cho Oa-sinh-tơn trước năm 1960 và chúng còn tiếp tục cho đến ngày nay. Điều duy nhất làm cho chiến tranh Việt Nam trở nên độc đáo đối với Mỹ là nó đã bị thất bại hoàn toàn.

Đặc điểm chính sách đối ngoại của Mỹ sau 1945 là việc Mỹ cam kết tạo ra từ sự hỗn loạn của Chiến tranh thế giới thứ hai và từ di sản của những hệ thống thuộc địa, một cơ cấu thế giới nhất thể hóa mà chủ yếu là tư bản chủ nghĩa. Mỹ là người thừa hưởng chính áo cẩm bào của chủ nghĩa đế quốc trong lịch sử hiện đại; Mỹ hành động không phải vì ý muốn bảo vệ đất nước chống lại bất cứ mối đe dọa cụ thể nào mà vì Mỹ muốn tạo ra ở nơi khác một trật tự có thể kiểm soát được sẵn sàng đáp ứng một cách có lợi các mục tiêu và lợi ích của Mỹ, vượt xa những nhu cầu xã hội trong nước. Mỹ tin rằng sức mạnh của Mỹ đủ sức điều chỉnh thế giới và chịu đựng những tổn phí như các cường quốc đế quốc trước đây đã làm để hoàn thành nghĩa vụ và trách nhiệm quốc tế. Vấn đề này trên thực tế đã vượt xa vấn đề quan hệ với Liên Xô. Mối quan hệ với Liên Xô không gây ra biến cố nào trên thế giới nhưng bản thân nó là kết quả của cuộc khủng hoảng kéo dài của chế độ thực dân châu Âu bắt đầu từ năm 1914, tuy rằng Mỹ luôn luôn đổ cho Mát-xcơ-va chịu trách nhiệm về nhiều trở ngại mà Mỹ phải đương đầu. Lịch sử của thời kỳ sau chiến tranh, chủ yếu là lịch sử của những cố gắng to lớn của Mỹ - mà cũng là những thất bại của Mỹ - trong việc tạo ra một trật tự toàn cầu và cũng là lịch sử của những lực lượng xã hội hùng mạnh và sinh động xuất hiện trên khắp thế giới để làm thất bại những tham vọng của Mỹ.

Những tham vọng đó ngay tức khắc đưa Mỹ mặt đối mặt với điều mà ngày nay vẫn còn là một vấn đề chính của Mỹ: đó là mâu thuẫn giữa những khát vọng quá mức với khả năng hạn chế của Mỹ và với sự xác định những ưu tiên thực tế. Mặc dù phải mất nhiều năm những hạn chế đó mới trở nên rõ đối với các nhà lãnh đạo Mỹ mà phần đông cũng mới chỉ thấy được một phần, chính vấn đề chọn ưu tiên và biện pháp thực hiện, nó chia rẽ các nhà lãnh đạo Mỹ chứ không phải vì những mục tiêu trừu tượng. Điều quan trọng nhất cho phần lớn thời kỳ sau năm 1945 là sự tin tưởng quá vênh váo của các nhà lãnh đạo Mỹ rằng sắp xếp và điều chỉnh tất cả các vấn đề chính trị và kinh tế của thế giới không những là điều rất được mong muốn mà còn có thể làm được do có tài và có sức. Họ không muốn và không thể thừa nhận rằng những biến chuyển kinh tế và chính trị của xã hội trên phần lớn thế giới đã vượt quá khả năng kiểm soát của bất kỳ nước nào và thậm chí một nhóm nước nào. Điều đang lâm nguy là những lợi ích chiến lược và kinh tế to lớn và ngày càng tăng trong các quốc gia không ổn định và đang trải qua những biến động lớn lao đó.

Những tác động qua lại trong một thế giới phức tạp, những hạn chế đối với sức mạnh Mỹ và những nhận thức của Oa-sinh-tơn, kể cả những ảo tưởng và những điều không biết của họ, là chủ đề cho phần lớn lịch sử của chính sách đối ngoại Mỹ đương thời. Tính chất "ngẫu nhiên" của chính sách đó sau năm 1946 là hậu quả của những thế tiến lui đều khó bên trong của tính tham lam đó chứ không phải là nguyên nhân. Việc xác định những ưu tiên của Mỹ là điều khá đơn giản. Châu Âu đã, và vẫn còn đứng đầu bản kê lợi ích chính trị, kinh tế và chiến lược đã được công nhận chính thức của Mỹ. Tình trạng khó xử của các ưu tiên là không có ưu tiên nào hoàn toàn loại trừ các ưu tiên khác, do đó các nhà lãnh đạo Mỹ không hề bao giờ loại trừ sự can thiệp vào bất cứ bộ phận quan trọng nào khác của thế giới. Phân tích đến cùng thì chính phạm vi các mục tiêu Mỹ và những khủng hoảng, những vấn đề không thể tránh khỏi, nổi lên khi quá trình can thiệp bắt đầu, đã làm cho Mỹ mất chủ động trong việc xác định những ưu tiên và hành động của mình.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #32 vào lúc: 31 Tháng Tám, 2008, 09:58:32 am »

Vào cuối những năm 1940, Mỹ đã bắt đầu đương đầu với những thế tiến lui đều khó mà Mỹ sẽ phải gặp trong phần còn lại của thế kỷ này. Xác định ưu tiên là một bộ phận không thể tách rời khỏi lập luận của Mỹ, và việc chống chủ nghĩa cộng sản cũng là một ưu tiên dù biểu hiện dưới bất kỳ hình thức nào và bất kỳ ở đâu trên thế giới. Những lợi ích của chính Mỹ đã được công bố hoàn toàn rõ ràng hoặc bằng những tuyên bố về mục tiêu hoặc bằng việc hình thành các tổ chức và liên minh chính trị, quân sự và kinh tế mà Mỹ khống chế một cách có hiệu quả, trong đó Mỹ lấy danh hiệu "chủ nghĩa quốc tế" do Mỹ lãnh đạo làm một tiêu chuẩn cho những cố gắng sau chiến tranh của Mỹ.

Sự ngăn ngừa mở rộng chủ nghĩa cộng sản, chính sách "ngăn chặn" đã trở thành chính thức trong năm 1947 và năm 1950 thì chính sách "đẩy lùi" chủ nghĩa cộng sản đã được bí mật đưa vào chính sách 68 nổi tiếng của Hội đồng an ninh quốc gia. Năm 1947, học thuyết gọi là đô-mi-nô xuất hiện đầu tiên dưới hình thức học thuyết Tru-man về Hy Lạp. Tháng 2 cùng năm ngoại trưởng Gioóc-giơ Mác-san lập luận rằng nếu Hy Lạp mất thì Thổ Nhĩ Kỳ có thể mất theo và "sự thống trị Xô-viết có thể do đó mà mở rộng ra toàn Trung Đông và châu Á". Cuối năm đó cũng do lô-gích như vậy mà phải xây dựng lại Tây Đức vì sợ rằng yếu kém của Tây Đức sẽ tạo ra một lỗ hổng quyền lực mà chủ nghĩa cộng sản có thể tràn vào và nhân đó mà mở rộng ra toàn châu Âu.

Giữa năm 1949, khi cộng sản thành công ở Trung Quốc, Mỹ đưa ra quyết định chính thức vạch ra một đường ranh giới không cho xuất hiện bất kỳ quốc gia cộng sản mới nào nữa ở châu Á, tuy rằng lúc đó Mỹ còn rất bận với các vấn đề châu Âu. Nhưng ở Đông Dương, tác động qua lại của các vấn đề châu Âu với các vấn đề châu Á luôn luôn tỏ ra quan trọng với các nhà lãnh đạo Mỹ bởi vì việc Pháp càng ngày càng bị thu hút vào Đông Dương sẽ làm cho Pháp phủ quyết việc tái vũ trang Tây Đức, và Pháp càng thắng và đưa quân trở về nước nhanh bao nhiêu để cân đối lại với sức mạnh dự định của Đức, thì việc tái vũ trang Tây Đức sẽ được thực hiện nhanh bấy nhiêu. Không kém phần cốt yếu là địa vị tương lai của Nhật Bản ở châu Á và trong nền kinh tế thế giới, nếu Nhật Bản mất con đường tiếp xúc với nguyên liệu và thị trường Đông Nam châu Á.

Tóm lại, những thế tiến lui đều khó ban đầu của Mỹ về mặt chính trị quốc tế không hề do sự can thiệp vào Việt Nam gây ra. Các nhà lãnh đạo Mỹ đã nói rõ những ý kiến của họ về thuyết đô-mi-nô, về lòng tin vào sức mạnh của họ, về hệ thống nguyên liệu trong thế giới từ rất lâu trước khi có hành động ở Đông Dương. Và chính chính sách ngăn chặn, thuyết đô-mi-nô, vấn đề can thiệp và sự kết hợp các vấn đề riêng biệt của chính sách đối ngoại Mỹ ở các nơi khác trên thế giới đã làm cho Mỹ có quyết định không đảo ngược được nhằm đưa cuộc chiến tranh Việt Nam đi đến cùng. Ngay nhiều thế tiến lui đều khó thuần túy quân sự xảy ra ở Việt Nam đã từng xảy ra trước kia ở Triều Tiên.

Cho đến tận những năm 1960, Việt Nam chỉ là một trong nhiều nước mà Mỹ vừa dính líu vào vừa cam kết để giữ cho được nằm trong phạm vi hữu nghị với Mỹ. Và từ năm 1953 cho đến cuối năm 1962, Mỹ đã cung cấp viện trợ kinh tế và quân sự nhiều hơn cho Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Triều Tiên và Đài Loan, gần bằng như vậy cho Pa-ki-xtan và chỉ có phần ít hơn cho Hy Lạp và Tây Ban Nha. Do sự giàu có và những mục tiêu của mình, Mỹ đã dính líu sâu trên khắp thế giới, xem đó như một vấn đề bình thường. Sự việc đó đã khuyến khích một sự can thiệp mới đến mức đã duy trì được các chế độ khách hàng nhưng đồng thời cũng có thể trở thành một trở ngại khi đòi hỏi của một nước trở nên quá lớn đến mức đe dọa vị trí của Mỹ ở các nơi khác.

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #33 vào lúc: 31 Tháng Tám, 2008, 09:59:27 am »

ĐÔNG NAM CHÂU Á VÀ THUYẾT ĐÔ-MI-NÔ

Thuyết đô-mi-nô đã được nhắc lại nhiều nhất ở Đông Nam Á và khái niệm đó bao gồm cả mặt chiến lược lẫn mặt kinh tế mà các nhà lãnh đạo Mỹ không hề bao giờ tách ra. Bộ tham mưu liên quân Mỹ lập luận tháng 4 năm 1950 rằng "việc mất Đông Dương chắc chắn đưa đến việc mất các quốc gia lục địa Đông Nam Á" và với việc đó, Nga sẽ kiểm soát "tiềm lực chiến tranh của châu Á... ảnh hưởng đến cán cân lực lượng". Không những "các nguồn chính của một số nguyên liệu chiến lược" sẽ bị mất mà còn mất cả các đường giao thông nữa. Bộ Ngoại giao Mỹ cũng theo một đường lối tương tự vào lúc đó, cho rằng Thái Lan và Miến Điện sẽ mất nếu Đông Dương mất. Điều này đã trở thành học thuyết chính thức của Mỹ khá lâu trước cuộc xung đột Triều Tiên, và cuộc chiến tranh ở đó càng củng cố cam kết này. Oa-sinh-tơn chính thức nói rõ tháng 6 năm 1952 rằng việc mất Đông Dương "sẽ có những hậu quả tâm lý, chính trị và kinh tế trọng yếu . . . việc mất bất kỳ một nước riêng lẻ nào sẽ đưa đến một sự khuất phục tương đối nhanh chóng hoặc một sự liên kết với chủ nghĩa cộng sản của các nước còn lại của nhóm đó.

Hơn nữa, một sự liên kết với chủ nghĩa cộng sản của phần còn lại của Đông Nam Á, Ấn Độ, và lâu dài hơn, cả Trung Đông (với sự loại trừ ít nhất là Pa-ki-xtan và Thổ Nhĩ Kỳ) chắc chắn sẽ diễn ra tiếp theo. Một sự liên kết rộng lớn như vậy sẽ gây nguy hại cho sự ổn định và an ninh của châu Âu". Nó sẽ "làm cho địa vị của Mỹ trên dãy đảo ngoài khơi Thái Bình Dương trở nên bấp bênh và sẽ gây nguy hại nghiêm trọng cho lợi ích an ninh căn bản của Mỹ ở Viễn Đông". "Nguồn cao su và thiếc chính của thế giới cùng nơi sản xuất dầu và các hàng chiến lược quan trọng khác" sẽ bị mất ở Ma-lai-xi-a và In-đô-nê- xi-a. Những việc xuất cảng gạo của Miến Điện và Thái Lan sẽ gây khó khăn cho Ma-lai-xi-a, Xây Lan, Nhật Bản và Ấn Độ.

Cuối cùng, sẽ có "những sức ép chính trị và kinh tế như vậy ở Nhật Bản làm cho khó mà có thể giữ cho Nhật Bản cuối cùng không đi với cộng sản". Đó là sự hợp nhất hoàn hảo các nhân tố của học thuyết đô-mi-nô, bao gồm cả nguyên liệu, căn cứ quân sự lẫn cam kết của Mỹ bảo vệ khu vực ảnh hưởng của mình. Về nguyên tắc mà nói, trong khi giúp đỡ Pháp chiến đấu cho một sự nghiệp lớn hơn mà Mỹ coi như của chính mình, các nhà lãnh đạo Oa-sinh-tơn vẫn chuẩn bị cho sự can thiệp sâu hơn khi họ thấy là cần thiết để ủng hộ con đô-mi-nô hàng đầu là Đông Dương.

Về lợi ích và mục tiêu cho quyền lực Mỹ, rõ ràng không có ảo tưởng hoặc công cộng hoặc riêng tư nào. Ngay đầu năm 1953 Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ đã nhắc đi nhắc lại: “Các nước phương Tây và Nhật Bản ngày càng cần nhiều nguyên liệu và lương thực cũng như thị trường cho sản xuất công nghiệp của họ. Những khó khăn về cán cân thanh toán của họ, một phần rất lớn là do kết quả của việc sản xuất nguyên liệu và lương thực ở các khu vực không thuộc đồng đô-la không tăng nhanh bằng sản xuất công nghiệp". "Tại sao Mỹ tiêu hàng trăm triệu đô-la ủng hộ các lực lượng của Liên hiệp Pháp trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cộng sản?".

Tháng 12 năm 1953 phó tổng thống Ri-sớt Ních-xơn giải thích công khai "nếu Đông Dương đổ, Thái Lan sẽ bị đặt vào một vị trí hầu như rất khó khăn. Đối với Ma-lai-xi-a giàu cao su và thiếc thì cũng vậy. In-đô-nê-xi-a cũng không khác gì. Nếu toàn bộ vùng đó của Đông Nam Á rơi vào sự thống trị hoặc ảnh hưởng của cộng sản, thì Nhật Bản, nước buôn bán và phải buôn bán với khu vực đó để tồn tại, sẽ không tránh khỏi phải hướng vào chế độ cộng sản". Việc nhắc đến thiếc, cao su, gạo, cùi dừa khô, .. quặng sắt, tung-xten và dầu, khi Mỹ xem xét chính sách ngay từ đầu là vừa tự nhiên vừa lô-gích.

Chừng nào còn là tổng thống, Ai-xen-hao không hề bao giờ quên sự phụ thuộc của đất nước ông ta vào việc nhập khẩu nguyên liệu và sự cần thiết phải kiểm soát những nguồn đó. Tháng 4 năm 1954 khi lần đầu tiên ông ta đưa ra công khai hình tượng "con đô-mi-nô” bị đổ ông ta cũng thảo luận những nguy cơ mất thiếc, tung-xten và cao su của khu vực và những mạo hiểm đẩy Nhật Bản phụ thuộc vào các nước cộng sản về đời sống công nghiệp của họ. Điều có thể hiểu ngầm trong thuyết đô-mi-nô là những tài nguyên kinh tế của những nước láng giềng của con đô-mi-nô đầu tiên, dù là Hy Lạp hoặc Đông Dương, đều rất thiết yếu cho nên khi Mỹ can thiệp vào những nước bất hạnh và tương đối nghèo đó Mỹ luôn luôn đặt vòng chung quanh trong mọi tính toán của mình. Sự sẵn sàng chấp nhận tổn phí to lớn của cả khu vực luôn luôn là điều nằm trong đầu óc của những ai quyết định sự can thiệp.

Sự tác động qua lại phức tạp của các mục tiêu quá lớn của Mỹ, của nhận thức về tính chất sức mạnh của mình, của cách nhìn những chống đối theo khái niệm đô-mi-nô và của nhận thức về ưu tiên, từ năm 1953 đã bắt đầu quy tụ lại thành cuộc thảo luận triền miên và thành cuộc khủng hoảng trong học thuyết chiến lược và ngoại giao Mỹ.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #34 vào lúc: 31 Tháng Tám, 2008, 10:00:28 am »

SỰ TÌM KIẾM MỘT CHIẾN LƯỢC NHẤT QUÁN

Vào khoảng năm 1947, Oa-sinh-tơn hoàn toàn tin rằng Liên Xô đã lãnh đạo nhiều cuộc nổi dậy chính trị và xã hội trên thế giới do có những hậu quả của sự nghèo đói, của chủ nghĩa thực dân, của các tập đoàn chính trị đầu sỏ, và Liên Xô do đó đã phá hoại nghiêm trọng việc Mỹ muốn đạt một trật tự thế giới tư bản được cải tổ do Mỹ lãnh đạo. Vào cuối cuộc chiến tranh Triều Tiên, những xung đột còn phôi thai do một nhận thức như vậy về thế giới hình thành nên đã bị làm trầm trọng thêm bởi một cuộc khủng hoảng về kỹ thuật quân sự và về học thuyết quân sự của Mỹ. Hai sợi chỉ đó tất nhiên dệt lại với nhau vào cuối năm 1953 trong cuộc thảo luận "cách nhìn mới" và trong sự bắt đầu tìm kiếm lâu dài một chiến lược toàn cầu có thể tổng hợp những mục tiêu và khả năng của Mỹ.

Chiến tranh Triều Tiên thí nghiệm sự hơn hẳn về quân sự, về hỏa lực và kỹ thuật của Mỹ, cùng khả năng gánh chịu những tổn thất về kinh tế và chính trị của một cuộc chiến tranh kéo dài. Với sự kết thúc chiến tranh mà không đưa lại kết quả gì, vẫn trở lại vĩ tuyến 38 sau ba năm chiến đấu, với thất bại hoàn toàn của mục tiêu tháng 9 năm 1950 của Oa-sinh-tơn nhằm thống nhất đất nước bằng vũ lực, cuộc chiến tranh đã hoàn toàn bộc lộ những hạn chế của quyền lực Mỹ. Cuộc tranh cãi chính trị trong nước do chiến tranh Triều Tiên gây ra ít quyết định hơn nhưng nó cũng cho thấy những món nợ chính trị to lớn mà các cuộc đấu tranh đau khổ đó đưa lại cho đảng cầm quyền. Và trong năm tài chính 1953, với chi tiêu quân sự chiếm 13,8 phần trăm tổng sản phẩm quốc dân, gấp ba lần tỷ lệ của năm 1950, lạm phát và thâm hụt ngân sách cho thấy những hạn chế của khả năng kinh tế Mỹ. Tóm lại, Mỹ đã tiến hành một cố gắng đồ sộ và đạt những kết quả không đi đến đâu; thực tế đó làm nổi lên vấn đề lòng tin đối với sức mạnh Mỹ. Không kém phần quan trọng là thực tế rằng Mỹ đã bị sa lầy ở châu Á đúng vào lúc những ưu tiên chính và mối quan tâm của Mỹ lại tập trung ở châu Âu và Trung Đông. Giải quyết những thế tiến lui đều khó đó đã trở thành một ám ảnh ở Oa-sinh-tơn, một ám ảnh tác động đến mỗi một khu vực của thế giới và ảnh hường đến việc thảo luận chiến lược của Mỹ cho phần còn lại của thế kỷ.

Cố gắng xác định một "cái nhìn mới" cho chính sách đối ngoại Mỹ mà đỉnh cao là diễn văn ngày 12 tháng 1 năm 1954 nổi tiếng của Đa-lét, đã chết yểu, bởi vì cuộc thử bom khinh khí tháng 8 năm 1953 của Liên Xô đã phá một cách quyết định độc quyền vũ khí hạt nhân chiến lược của Mỹ. Đa-lét tuyên bố rằng chiến tranh trên bộ có thể do các lực lượng của các đồng minh Mỹ tiến hành nhưng bản thân Mỹ sẽ dựa vào "sức mạnh trả đũa ào ạt của mình... bằng biện pháp và địa điểm do chúng ta tự chọn". Đó là "con đường hiện đại duy nhất để đạt sự bảo vệ tối đa với những tổn phí có thể chịu được", bởi vì chiến tranh thông thường hạn chế ở Triều Tiên đã gây ra những tổn thất không giới hạn. Việc bắn tin đen tối rằng Mỹ có thể phá hủy Bắc Kinh hoặc Mát-xcơ-va vì đã để xảy ra những sự kiện ở một nơi xa xôi nào khác là nhằm bắt đầu tìm kiếm một chiến lược mới, nhưng những máu thuẫn nội bộ của quan điểm đó đã bị chỉ trích ngay tức khắc ở Oa-sinh-tơn.

Sự tìm kiếm đó không loại trừ những phản ứng tương đối nhỏ đối với những chống đối nhỏ, và vì tỷ lệ chi tiêu quân sự so với nền kinh tế quốc dân đã được giảm nhiều trong phần còn lại của thập kỷ và vì các vũ khí chiến lược trở nên nổi bật hơn, nên Nhà Trắng dựa nhiều hơn vào chiến tranh bí mật của CIA mà thắng lợi ở I-ran và Goa-tê-ma-la đã khuyến khích nhiều hình thức can thiệp tương đối rẻ tiền, thường là không lộ liễu. Chẳng kể lý thuyết là như thế nào, trên thực tế, Mỹ tiếp tục dính sâu vào nhiều tình hình chính trị rất khác nhau trong mọi nơi của thế giới. Trong suốt những năm 1950, tuy Mỹ có thể làm chủ được quân sự, nhưng Mỹ khỏng thể nào hạ thấp mức xác định phạm vi và địa điểm của lợi ích Mỹ trên thế giới.

Các nhà lãnh đạo Mỹ nhận thức được tính chất của mâu thuẫn đó. Nhưng họ bao giờ cũng tin là có thể tìm ra một giải pháp. Những cuộc thảo luận quốc phòng sôi nổi ở giữa và cuối những năm 1950, đã từng làm nổi tiếng những nhà trí thức quân sự như Hăng-ri Kít-xin-giơ, Mác-xoen Tay-lơ và W. W. Rô-xtốp, nhưng cuối cùng đã đối lập họ với nhau. Nhưng có một điếu bất di bất dịch trong tất cả các lý thuyết là phải giữ thế chủ động chứ không được thụ động trong việc đối phó với các vấn đề và thách thức mới. Phát triển một ý thức làm chủ vấn đề là mục tiêu, nhưng những kỹ thuật và chiến lược để đạt mục tiêu đó lại luôn luôn đưa lại những khó khăn ít có khả năng giải quyết.

Chính trong bối cảnh tìm kiếm một chiến lược và học thuyết toàn cầu quyết định trong suốt những năm 1950 mà vấn đề Việt Nam gắn liền với bao nhiêu vấn đề quốc tế khác. Oa-sinh-tơn luôn luôn coi thách thức của Đông Dương như một bộ phận của một vấn đề lớn hơn nhiều mà nó phải đương đầu trên khắp thế giới: hiệu quả của chiến tranh hạn chế, nguy cơ của những đô-mi-nô, lòng tin vào quyền lực Mỹ, vai trò của Pháp ở châu Âu, và nhiều vấn đề khác. Việt Nam trở thành điểm tiếp nối của cuộc khủng hoảng sau chiến tranh của chủ nghĩa đế quốc Mỹ, đúng vào lúc Mỹ phải cố gắng lớn hơn nhiều để giải quyết những nghi ngờ của chính Mỹ về khả năng bảo vệ môi trường kinh tế quốc tế rộng lớn trong đó lợi ích của Mỹ có thể sống còn và phát triển. Vào khoảng năm 1960, tình hình đòi hỏi rằng lòng tin vào sức mạnh Mỹ phải được thử thách, nếu không tất cả những thất bại và khó xử từ năm 1916 sẽ làm phương hại đến chính cơ sở của hệ thống mà Mỹ tìm cách xây dựng trên toàn thế giới. Chính vì tình cờ mà Việt Nam trở thành nơi thử thách chủ yếu bởi vì Mỹ đã dự định từ trước tìm một nơi nào đó để đạt thắng lợi, không phải chỉ một thắng lợi mà nhiều thắng lợi nhằm đảo ngược tình thế ngày càng lún sâu vào lịch sử sau chiến tranh. 

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #35 vào lúc: 01 Tháng Chín, 2008, 02:08:06 pm »

Chương bảy
NAM VIỆT NAM CHO ĐẾN NĂM 1959
NHỮNG NGUỒN GỐC CỦA CUỘC XUNG ĐỘT

CHÍNH SÁCH MỸ: TỪ BẢO ĐẠI CHO ĐẾN HỘI NGHỊ GIƠ-NE-VƠ

Từ cuối Chiến tranh thế giới thứ hai cho đến Hội nghị Giơ-ne-vơ, lập trường cơ bản của Mỹ về Việt Nam là hết sức ủng hộ cố gắng của Pháp nhằm kiểm soát thuộc địa của họ. Oa-sinh-tơn luôn luôn nhìn tác động chính sách của mình đối với châu Âu bằng con mắt vừa để ý đến vai trò của Việt Nam trong việc gây ảnh hưởng đến tình hình chính trị nội bộ Pháp, vừa để ý đến quan hệ toàn bộ của Pháp đối với các vấn đề châu Âu. Khi chính sách ngăn chặn của Mỹ nổi lên hàng đầu, nhất là sau sự sụp đổ của Quốc dân đảng ở Trung Quốc trong năm 1949, vấn đề ngăn cản không để cho một quốc gia cộng sản khác xuất hiện ở châu Á bắt đấu có sức nặng lớn hơn, cả hai cách suy xét đó đã đưa đến việc Mỹ ủng hộ các cố gắng của Pháp nhằm quét sạch Cách mạng, và cuối năm 1949, Oa-sinh-tơn đã dự đoán trước về một cuộc khủng hoảng ở Đông Dương.

Mỹ luôn luôn thúc Pháp thành lập một cơ cấu quốc gia chống cộng và tiến tới thành lập một nhà nước Việt Nam tự trị, một lập trường mà Pháp cho là một đòi hỏi của Oa-sinh-tơn muốn mở rộng ảnh hưởng của mình ở khu vực. Việc Pháp lựa chọn vua Bảo Đại tháng 6 năm 1948 đứng đầu "quốc gia Việt Nam" mà không có quyền lực gì không được Mỹ xem là một bước đi đúng hướng, và cũng là bước đi chắc chắn cũng không hấp dẫn gì đối với nhân dân. Lịch sử cộng tác của Bảo Đại với Pháp từ năm 1932, rồi với Nhật và thậm chí cả với Việt Minh trong thời gian rất ngắn, đã được mọi người biết rõ, cũng như đã biết rõ những yếu kém của ông ta về thể xác và về tâm hồn. Và trong khi những nhượng bộ của Pháp có vẻ như một trò cười trước con mắt của phần lớn thế giới, thì Giôn Phô-xtơ Đa-lét tổng hợp lập trường của Mỹ cuối năm 1950 khi ông ta nói "giữa hai cái xấu thì cách thực tiễn là chọn cái ít xấu hơn bởi vì giải pháp lý tưởng về mặt lý thuyết không thể thực hiện được rồi vì nhiều lý do mà chính sách của Pháp mới chỉ là một".

Trên thực tế, ủng hộ của Mỹ đối với Pháp là không có gì úp mở cả. Đầu năm 1950, Oa-sinh-tơn thừa nhận các quốc gia độc lập về danh nghĩa ở Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia mà Pháp đã thành lập trên giấy tờ, và bắt đầu viện trợ kinh tế trực tiếp cho các quốc gia đó, tuy Oa-sinh-tơn sẵn sàng tăng nhiều việc ủng hộ Pháp. Mỹ tán thành thêm cải cách, nhưng không quá nhiều, sợ rằng Pháp mất động cơ chiến đấu nhưng việc Mỹ bị bận tâm vào Triều Tiên và việc Mỹ ngày càng quan tâm đến việc tranh thủ sự ủng hộ của Pháp đối với việc tái vũ trang châu Âu làm cho Pháp rảnh tay hơn trong các vấn đề chính trị.

Trong thời gian 1950 - 1954, Pháp nhận 3,6 tỷ đô-la viện trợ quân sự mà phần lớn là đã được đổ vào Đông Dương cho nên đa số chi tiêu chiến tranh đã được trang trải. Nhưng dù Pháp nghĩ gì về việc họ đang làm, trên thực tế Pháp ngày càng trở nên một con tốt đen trong chiến.lược toàn cầu của Mỹ. Để đóng vai trò này một cách đầy đủ, Pháp phải giành cho được một chiến thắng quân sự. Nhưng khi đã chắc chắn là không thắng, Oa-sinh-tơn vẫn chống lại một sự kết thúc chiến tranh bằng thương lượng.

Khi Hội nghị Giơ-ne-vơ khai mạc ngày 8 tháng 5 năm 1954, lập trường công khai của Mỹ tỏ ra rất hiếu chiến, nhưng chính quyền Ai-xen-hao vẫn chờ đợi cho đến khi có thể làm rõ chính sách của mình. Cuộc thảo luận "cách nhìn mới" kèm theo lời cảnh cáo đáng ngại rằng Mỹ có thể dựa vào vũ khí hạt nhân, đã được đưa ra từ lâu trước khi trận chiến đấu Điện Biên Phủ bắt đầu và nhằm để làm cho Oa-sinh-tơn có vẻ dữ tợn. Tuy vậy, bên dưới lời tuyên bố, có thể thấy một sự thiếu kiên định rõ rệt.

Sự thù địch của Mỹ đối với bất kỳ cuộc thương lượng nào với Trung Quốc và Việt Nam dân chủ cộng hòa vào lúc mà những cuộc thương lượng đó không thể nào tránh khỏi được, phản ánh sự bất lực của Oa-sinh-tơn trong việc kiểm soát các sáng kiến ngoại giao quan trọng của các đồng minh Anh và Pháp, một thách thức đối với bá quyền của Mỹ, vượt xa vấn đề Đông Dương. Do đó có thể thấy trước rằng một chính phủ Mỹ ngày càng chia rẽ sẽ phải xem xét các khả năng lựa chọn trước khi tán thành một sự kết thúc chiến tranh thông qua thương lượng và chính quá trình xem xét đó làm cho sự ủng hộ về sau của Mỹ đối với Hiệp định Giơ-ne-vơ là không thể tránh khỏi.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #36 vào lúc: 01 Tháng Chín, 2008, 02:08:58 pm »

Vì sự can thiệp quân sự của Mỹ vào cuộc chiến tranh luôn luôn bị đặt dưới điều kiện là phải có sự đồng tình của Anh và những nhượng bộ lớn của Pháp về các vấn đế chính trị ở Việt Nam, và vì các điều kiện đó không thể xảy ra, cho nên tất cả những gì Oa-sinh-tơn cuối cùng có thể có được là một biện pháp gỡ thể diện tức là sự thỏa thuận thành lập Tổ chức hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) để đối phó với những cuộc khủng hoảng tương lai có thể xảy ra trong khu vực.

Những tin đồn cố tình đưa ra đầu tháng 4 năm 1954 rằng Mỹ có thể dùng không lực để cứu Điện Biên Phủ có vẻ đáng tin trong một thời gian, chỉ vì Đa-lét nhai đi nhai lại một cách mập mờ trong những tháng trước đó. Nhưng cả Đa-lét lẫn Ai-xen-hao chưa bao giờ ủng hộ việc sử dụng không quân hoặc hải quân, đừng nói gì đến vũ khí hạt nhân. Điều mà họ rõ ràng tán thành là gây nên những hồ nghi và lo sợ về một phiêu lưu Mỹ có thể có, bởi vì ngay dù cho Mỹ tự thấy không đủ sức hành động về mặt chính trị cũng như quân sự nhưng nếu Mỹ làm ra vẻ càng nguy hiểm bao nhiêu thì càng thực hiện được mục tiêu của mình bấy nhiêu.

Đô đốc Ác-tơ Rát-pho, chủ tịch bộ tham mưu liên quân gợi ý nhiều lựa chọn khác nhau, kể cả việc dùng bom nguyên tử gần Điện Biên Phủ nhưng Tổng thống, Đa-lét và các thành viên khác của bộ tham mưu liên quân đã bác bỏ tất cả các đề nghị như vậy. Trên thực tế Mỹ không tán thành cả chiến tranh lẫn hòa bình, bởi vì Mỹ bị buộc phải đương đầu với những hạn chế chính trị và quân sự của học thuyết chiến lược "cách nhìn mới" trong khung cảnh của chiến tranh Việt Nam. Chính nhận thức khổ sở đó cũng như những sự kiện ở Việt Nam đã giải thích cách cư xử của chính quyền Mỹ trong mùa xuân năm 1954.

Mỹ không chịu bỏ phiếu cho quyết định ngày 21 tháng 7 của hội nghị và tuyên bố không bị ràng buộc vào các quyết định của hội nghị, nhưng khi nói chuyện riêng, Mỹ tin là đã đạt được một thời gian nghỉ ngơi quý giá và một cách giải quyết tốt nhất có thể có, nếu xét những thực tế chính trị và quân sự lúc bấy giờ và những yêu sách của phía Việt Nam "tương đối khiêm tốn nếu so với những khả năng thực tế của họ".

Câu hỏi đầu tiên của Đa-lét là "liệu chúng ta có thể cứu vãn được cái mà những người cộng sản đã bỏ ra ngoài tầm chiếm giữ của họ ở Đông Dương không?". Hoạt động cứu vãn của Mỹ, ngay tức khắc, phải đương đầu với một số vấn đề. Vấn đề quan trọng nhất là củng cố những người chống cộng ở Việt Nam, một việc làm mà Mỹ xem như là đồng nghĩa với việc gạt ảnh hường của Pháp.

Tiếp theo là vấn đề biến sự chia cắt tạm thời của Việt Nam dọc theo vĩ tuyến 17 thành một sự chia cắt vĩnh viễn bằng cách phá hoại điều khoản của hiệp định về cuộc bầu cử giữa năm 1956 nhằm thống nhất đất nước, bởi vì vào giữa tháng 5 Đa-lét đã tuyên bố công khai rằng ông ta sẽ chống mọi cuộc bầu cử trong một tương lai vô hạn định.

Ngay trước khi hiệp định được ký, Mỹ đã tiến hành một bước đi lớn vào chiều hướng đó khi Mỹ thuyết phục người Pháp để cho Bảo Đại cử Ngô Đình Diệm làm thủ tướng và vận động cho nhà vua đồng ý ở lại châu Âu trong khi Diệm trở về Sài Gòn để lãnh đạo miền Nam. Vào ngày 7 tháng 7 năm 1954, Diệm đã thành lập được một nội các hoàn toàn có tổ chức.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #37 vào lúc: 01 Tháng Chín, 2008, 02:09:54 pm »

NGÔ ĐÌNH DIỆM, MỸ VÀ SỰ BẤT ỔN CỦA TRẬT TỰ MỚI

Ngô Đình Diệm đã làm việc trong bộ máy cai trị của Pháp trong một thập kỷ cho đến năm 1933 khi ông ta trở thành thượng thư Bộ Lại của Bảo Đại. Ông ta rút lui khỏi chính trị sau một cuộc tranh cãi gay gắt với người Pháp về quyền hành của ông ta và trong chiến tranh, ông ta đặt quan hệ với người Nhật và được họ bảo vệ. Tháng 3 năm 1945, ông ta thương lượng với họ để trở thành thủ tướng nhưng họ không dàn xếp được với nhau một cách kịp thời. Vào năm 1954 Diệm là một trong rất ít những nhà chính trị tích cực chống Pháp và chống Cộng sản mà Mỹ có thể tranh thủ.

Năm 1954, Mỹ ít thấy tầm quan trọng to lớn của quyết định mà họ đưa ra khi tán thành ủng hộ Ngô Đình Diệm. Thật là không thể tưởng tượng được rằng Mỹ sẽ đưa lại một giai đoạn quan trọng trong lịch sử nước mình, một giai đoạn được hình thành chủ yếu bởi những chỗ mạnh, những tham vọng và những chỗ yếu của một con người. Và sự phụ thuộc của việc thực hiện các mục tiêu và lợi ích của Mỹ vào bộ mặt ngoại lai đó nói lên không phải lần đầu và cũng không phải lần cuối mức độ của tính thất thường trong việc tiến hành chính sách đối ngoại của Mỹ.

Một phần khá lớn cuộc đời của Diệm là sống như một người ẩn dật, không vợ con và trong những thời gian dài đó ông ta đi vào triết học, đưa lại một hổ lốn về chủ nghĩa nhân vị trong đó có đức tin đạo Thiên Chúa, những tư tưởng Khổng giáo và Ấn Độ giáo và nhiều khái niệm về cá nhân có lúc rất thịnh hành ở Pa-ri và nhiều thứ khái nữa. Kết quả là một sự hổ lốn không thể nào hiểu được, có thể bị gạt bỏ ngay nếu Diệm không nắm quyền và nếu triết học của ông ta không phải là hệ tư tưởng của một chính phủ được Mỹ ủng hộ. Cái lợi duy nhất của những tư tưởng của ông ta là ảnh hưởng của chúng đối với mối quan hệ của ông ta với nhân dân, đối với xu thế chính trị và đối với người Mỹ đang ủng hộ ông ta.

Những kỳ vọng tư tưởng của Diệm trở nên viển vông và làm cho ông ta càng xa cách và khó hiểu với nhân dân. Nhưng vì có quyền lực, Diệm cũng tập hợp được người theo chủ nghĩa nhân vị nhanh chóng biến thành một hệ tư tưởng trong việc sử dụng quyền lực cho mục đích riêng tư của gia đình và bạn bè quanh một nhà thống trị tự cho là đại diện cho lợi ích quốc gia cũng như cho các giá trị của con người. Bên cạnh việc làm cho nhà nước phục vụ lợi ích gia đình và giai cấp, lại có một xu hướng chống lại mọi kỹ thuật có thể gây nhiều tác động cho chính sách xã hội. Người Mỹ phải mất nhiều năm mới nắm được vấn đề mà triết lý của Diệm có thể gây ra, nhưng cuối cùng họ cũng không thể tránh những vấn đề đó.

Trong khi đó các quan chức Mỹ tìm cách lợi dụng thời gian nghỉ ngơi mà những điều khoản của Hiệp định Giơ-ne-vơ về chia cắt và bầu cử đưa lại cũng như tìm cách gạt nốt sự kiểm soát còn lại của Pháp đối với đời sống chính trị và kinh tế của Việt Nam, mà Oa-sinh-tơn không làm được tháng 8 trước đó. CIA kết luận một tháng sau Hội nghị Giơ-ne-vơ rằng: "Nếu cuộc tổng tuyển cử được tổ chức tháng 7 năm 1956 và nếu Việt Minh không tự phá hoại triển vọng chính trị của mình, thì họ chắc chắn sẽ thắng". Như vậy là chủ nghĩa cộng sản sẽ tìm cách chiếm nguồn ở miền Nam bằng phương pháp hòa bình và hợp pháp và sẽ thấy rằng sự mất đoàn kết chính trị kinh niên ở miền Nam sẽ làm cho nhiệm vụ đã dễ dàng của họ càng dễ dàng hơn. Do đó Mỹ và Diệm đưa ra nhiều lý do để từ chối tổng tuyển cử. Tuy nhiên, suốt năm 1954 các chuyên gia Mỹ ở khu vực không thấy gì khác hơn là thất bại ở phía trước.

Diệm rơi vào một tình trạng hỗn loạn của sự chống đối và âm mưu chính trị nói chung, của sự chống đối công khai của Pháp và của khả năng một cuộc đảo chính quân sự do Pháp ủng hộ. Vấn đề Bảo Đại cũng không kém gì. Cùng trong tháng cử Diệm làm thủ tướng, ông ta bán chức vụ cảnh sát trưởng Sài Gòn cho Bình Xuyên với giá một triệu đô la và bắt đầu tiếc về việc đã cử Diệm. Rồi đến vấn đề những người di tản chủ yếu là theo đạo Thiên chúa từ miền Bắc, lên đến con số 850.000. Tuy có những báo cáo hầu như nhất trí là bi quan gửi đến Oa-sinh-tơn nhưng triển vọng của Diệm không xấu hơn các độc tài của Mỹ ủng hộ ở các nơi khác.

Tháng 11, tướng J. Lo-tơn Cô-lin được cử làm đại sứ ở Sài Gòn để xem xét tình hình và kiến nghị chính sách tương lai. Mặc dù những nghi ngờ về khả năng của Diệm trong việc tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng và mặc dù những ý kiến gay gắt của mình về khả năng của Diệm trong việc tổ chức quân đội và giải quyết vấn đề ruộng đất, nhưng Cô-lin cuối cùng vẫn đề nghị giúp đỡ Diệm. Chính sự giúp đỡ đó đã giúp Diệm thoát khỏi thảm họa. Năm đầu sau Hội nghị Giơ-ne-vơ chế độ Diệm nhận 322 triệu đô-la viện trợ từ Oa-sinh-tơn và về sau còn nhiều hơn. Bây giờ Diệm có thể tiến hành củng cố quyền lực.

Mối quan hệ ban đầu giữa Diệm và Mỹ là rất lộn xộn và trong tháng 4 năm 1955, Oa-sinh-tơn hầu như sắp thay ông ta. Tuy có những lời phàn nàn thường xuyên và đôi khi gay gắt của người Mỹ, Diệm vẫn thấy rằng ông ta có thể dựa vào họ. Về cơ bản, Mỹ ủng hộ Diệm vì ông ta thực hiện tất cả các mục tiêu của họ tốt hơn bất kỳ ai khác. Ông ta cũng hăng hái như Mỹ trong việc phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ và sẵn sàng tiêu diệt cộng sản và xóa sạch di sản của Pháp. Đối với người Mỹ, Diệm là một nhân tố quan trọng trong việc xây dựng đất nước và trong việc tạo ra một sự hợp pháp chính trị và một sự mở rộng khu vực ảnh hưởng của họ. Vì Diệm là người cứng rắn trên vũ đài chính trị của Sài Gòn, và quyết tâm cũng như sự gan lì của ông ta đã giành được sự khâm phục của ngay những người Mỹ chỉ trích ông ta.

Những người Việt Nam thân Pháp và được Pháp ủng hộ đặt ra cho sự củng cố quyền lực của Diệm một mối đe dọa trước mắt hơn đe dọa của những người cộng sản. Khả năng của Diệm trong việc xóa sạch ảnh hưởng của Pháp tùy thuộc vào số lượng viện trợ kinh tế và quân sự của Mỹ. Vào giữa năm 1955, các lực lượng của Diệm tìm cách tiến công và kiềm chế các đội quân riêng của Bình Xuyên, Cao Đài và Hòa Hảo mà Pháp còn cung cấp tài chính cho đến đầu năm đó. Tháng 10 năm 1955 Diệm truất ngôi Bảo Đại; cuối năm đó ông ta cắt đứt quan hệ kinh tế với Pháp và bỏ Liên hiệp Pháp, tuyên bố thành lập "Việt Nam cộng hòa". Những di tích chính thức của chế độ thuộc địa Pháp đã bị xóa sạch cùng với mọi hy vọng thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ. Sau năm 1955, những mục tiêu chung của Mỹ và Diệm trùng hợp với nhau và Diệm trở thành cần thiết cho các mục tiêu chung của Oa-sinh-tơn.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #38 vào lúc: 01 Tháng Chín, 2008, 02:10:37 pm »

DIỆM CỦNG CỐ QUYỀN LỰC

Với sự ủng hộ của Oa-sinh-tơn được bảo đảm và ngày càng vững chắc, Diệm tiến hành củng cố một trật tự chính trị theo kiểu riêng của mình. Bước đầu tiên của ông ta sau khi lên nắm quyền tháng 7 năm 1954 là làm cho gia đình ông ta trở thành hạt nhân của cơ cấu chính trị. Trong 9 bộ trưởng nội các của chính phủ đầu tiên, Diệm nắm ba bộ quan trọng nhất, bố vợ của em ông ta là Ngô Đình Nhu, nắm một bộ khác, và cậu vợ của Nhu là ngoại trưởng. Một người bà con khác nắm bộ giáo dục. Ngô Đình Cẩn, em của Diệm thống trị các tỉnh phía bắc quanh Huế mà không giữ một chức vụ cụ thể nào, và một người anh khác, giám mục Ngô Đình Thục điều khiển Nhà thờ Thiên chúa ở Việt Nam. Ngô Đình Nhu và vợ, người đứng đầu phong trào phụ nữ, ngay từ đầu là những người tâm phúc của chế độ, với ảnh hưởng rất lớn đối với Diệm. Việc Diệm tập trung các quyết định then chốt của nhà nước vào tay gia đình ông ta đã ngay tức khắc làm cho chính quyền trở nên bất lực. Những người nhà ông ta cũng đều đồi bại và sớm bắt đầu cóp nhặt tiền của vào ngân hàng nước ngoài.

Sau khi đặt gia đình vào trung tâm của quyền lực, Diệm dành những chức vụ cao sang và quan trọng nhất cho những người ủng hộ trung thành chung quanh Huế. Những người đó chủ yếu là những địa chủ tham lam và thuộc tầng lớp quý tộc của xã hội. Chủ nghĩa địa phương mà đạo Thiên chúa tăng thêm sức mạnh là con đường quan trọng đi vào chính trị và quyền lực cho những người di cư từ miền Bắc Việt Nam. Chính những người di cư này đã đưa lại cho chế độ cái vẻ bề ngoài duy nhất của sự ủng hộ của quần chúng trong một lãnh thổ mà 90 phần trăm không phải theo đạo Thiên chúa. Mảnh uy quyền cuối cùng nhằm đưa lại cho chế độ một cơ sở về mặt tổ chức là đảng Cần lao nhân vị được thành lập năm 1956 và là đảng hợp pháp duy nhất.

Đảng Cần lao gồm khoảng mười sáu nghìn đảng viên bí mật năm 1959, do Nhu và Diệm điều khiển. Với hệ tư tưởng nhân vị về danh nghĩa, đảng Cần lao là một sự kết hợp của bộ máy chính trị cá nhân với một kiểu hội kín mang tính chất trả thù và hăm dọa kiểu ma-phi-a. Sự tham gia đảng này là một tiền đề để tiến lên chức vụ cao hơn trong chính phủ và quân đội.

Bằng cách kiểm soát sự kết nạp đảng viên, Diệm và gia đình ông ta có thể nắm chắc lòng trung thành của những người chủ chốt trong bộ máy nhà nước và quân đội và có thể gạt bỏ tất cả những ai do Pháp để lại hoặc thuộc các nhóm chống đối khác. Các đảng viên Cần lao trong quân đội đôi khi có quyền ra lệnh cho cấp trên danh nghĩa của mình và, dưới quyền của Nhu, Cần lao đã gây ra phần lớn những tội ác ở miền Nam để xây dựng quỹ cho mình. Cần lao cũng hoạt động như cảnh sát bí mật, theo kiểu mà người Nhật Bản đã sử dụng ở Việt Nam trong Chiến tranh thế giới thứ hai và đã được Diệm nghiên cứu một cách chi tiết.

Việc thành lập đảng Cần lao đã buộc Mỹ phải để cho Diệm được tự do cai trị miền Nam theo ý ông ta, và cho mãi đến năm 1963, Mỹ mới hủy bỏ được sự ủy nhiệm đó. Tổ chức của đảng, đứng đầu chế độ gia đình trị và đế chế không chính thức của Diệm, cũng nói lên rằng quyền hợp pháp chính trị và quyền thừa kế là những đặc quyền của Diệm và chỉ có thể đưa đến sự mất ổn định. Đại tá Et-oát Lên-xđên, người đã từng là một trong những người ủng hộ Diệm kiên quyết nhất đang hoạt động ở Việt Nam, đã tiên đoán rằng nhà nước cảnh sát đang xuất hiện đó sẽ gây ra những biến động và khủng hoảng chính trị đẩy tất cả các chính đảng khác vào sự chống đối ngấm. CIA lập luận rằng trừ những người Cộng sản ra, những đối thủ chính trị tiềm tàng của Diệm "chủ yếu là những người cơ hội tìm kiếm quyền lực". Nhiều người trong bọn họ là thân Pháp.

Mỹ ít quan tâm đến việc chống lại sự đàn áp của Diệm chừng nào Diệm còn ngăn cản sự thực hiện các cuộc tuyển cử đã được tán thành tại Giơ-ne-vơ, cả hai đều tuyên bố không ký hiệp định. Mục tiêu đầu tiên của Mỹ là giúp Diệm xây dựng quân đội và cảnh sát, một việc làm vi phạm các điều khoản của hiệp định. Những đối thủ Mỹ chống lại một cuộc bầu cử để thống nhất đất nước, bao gồm, Thời báo Niu Yoóc, thượng nghị sĩ Giôn F.Ken-nơ-đi và nhiều người khác, và cả Diệm lẫn Mỹ không thể đáp ứng yêu cầu của Việt Nam dân chủ cộng hòa và những đồng chủ tịch của Hội nghị Giơ-ne-vơ, nhằm gặp nhau để thảo luận những thể thức của bầu cử. Chính quyền Mỹ tin rằng Cộng sản sẽ thắng nên đã ủng hộ sự ngoan cố của Diệm, và trong khi đó thì Diệm củng cố quyền lực của mình.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #39 vào lúc: 01 Tháng Chín, 2008, 02:11:37 pm »

DIỆM GẠT BỎ NHỮNG NGƯỜI CHỐNG ĐỐI CÓ THỂ CÓ

Nhiệm vụ cấp bách nhất trước mắt Diệm là củng cố quyền lực của ông ta đối với trên 200.000 người Việt Nam mà người Pháp sau năm 1950 đã xây dựng thành một đội quân để chiến đấu với Việt Minh. Bởi vì trong chế độ một đảng thì quân sự là nhóm không cộng sản duy nhất có khả năng tiềm tàng thách thức chế độ độc tài của ông ta. Tính chất cá nhân hóa cao độ của nhà nước, với việc không có một cơ sở giai cấp hoặc thể chế nào đã làm cho đảo chính trở thành biện pháp duy nhất để thừa kế, và trong năm đầu của chế độ ông ta, sự mong muốn không che giấu của Pháp nhằm gạt ông ta ra khỏi chức vụ, đã đẩy ông ta đến việc phải đánh vào lực lượng duy nhất mà người Pháp có thể dựa vào để có kết quả nhanh chóng. Trong quá trình làm nhiệm vụ đó, Diệm hoàn toàn phá hủy hệ thống quan liêu và thể chế hàng thế kỷ nay của Pháp và thay nó bằng một bộ máy chính trị rõ ràng là chuyên chế của ông ta.

Tháng 6 năm 1954, Mỹ và Pháp đồng ý với nhau rằng người Mỹ sẽ chịu trách nhiệm huấn luyện và trang bị cho đội quân của Bảo Đại; mặc dù ý nghĩ đầu tiên của Mỹ là chuẩn bị để Diệm đối phó được với nổi dậy, nhưng ông ta đã dễ dàng chuyển cam kết đầu tiên của Mỹ thành việc tạo ra một đội quân chính quy có thể ngăn chặn một cuộc xâm lược từ miền Bắc. Trên thực tế, mục tiêu chính của Diệm là thành lập một đội quân mà nhiệm vụ thực sự là bảo vệ bộ máy chính trị của ông ta chống lại những người chống cộng địch thủ, những đội quân đó không thể nào chống lại ông ta được. Trong khi nhiều nhân tố khác cũng giải thích những yếu kém của quân đội Việt Nam cộng hòa, tính chất chính trị bên trong của nó nói lên rằng cuối cùng đội quân đó không thể chiến đấu thắng lợi trong một cuộc chiến tranh không quy ước hoặc một cuộc chiến tranh chính quy.

Bước đầu tiên của Diệm trong năm 1955 sau khi tiêu diệt các đội quân giáo phái độc lập, là đuổi mà không đền bù trên sáu nghìn hạ sĩ quan có kinh nghiệm chiến đấu nhưng là những người trung thành với Pháp trước kia. Diệm thành lập những trường sĩ quan mới mà chủ yếu là những trung tâm nhồi sọ chính trị và từ đó xuất thân phần lớn những sĩ quan cấp cao của quân đội Việt Nam cộng hòa. Những sĩ quan mà người của Diệm tín nhiệm, được đưa vào đảng Cần lao. Họ làm như vậy cho đến khi tất cả sĩ quan cấp cao đều được hoàn toàn tổ chức vào đảng. Vào đảng thì được thăng quan tiến chức cho nên những người tham lam sẵn sàng tham gia đảng. Nhưng đánh giá của tập đoàn Diệm về lòng trung thành cá nhân mới là quyết định hơn nhiều vì, chỉ tập đoàn đó mới được quyền kiểm soát sự đề bạt của sĩ quan cấp cao.

Những sĩ quan mà lòng trung thành đã trở thành tuyệt đối rồi thì nhanh chóng trở thành những nhà cai trị dân sự của Diệm. Năm 1956 cảnh sát là do các sĩ quan phụ trách và đến năm 1962 thì hầu như tất cả những tỉnh trưởng là quân nhân. Tình hình này đưa đến quân sự hóa trật tự dân sự. Trong quân đội thì Diệm tổ chức một cơ cấu chỉ huy xoắn lại nhau và trùng lặp lên nhau mà mục đích là làm cho không có nhóm sĩ quan nào có đủ sự kiểm soát để chống lại được với quyền lực của ông ta. Mỹ cố tìm cách nhưng không bao giờ chấm dứt được hệ thống song song đó và nó tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau cho đến năm 1975. Nhiều mặt pháp lý quân sự mâu thuẫn với nhau, nhiều quân khu, nhiều ngành quân sự không thể hợp tác với nhau, thậm chí không thể liên lạc với nhau, nói lên rằng quyền lực cuối cùng thuộc vào một con người ở chóp bu. Đó là mục tiêu của toàn bộ cơ cấu phiền toái và Diệm thì luôn luôn sử dụng quyền lực của ông ta. Vì tất cả những lý do chính trị đó mà quân đội Việt Nam cộng hòa chưa bao giờ hoạt động như là một lực lượng quân sự phối hợp và thống nhất trong những cuộc hành quân lớn.

Sau khi bắt đầu củng cố sự kiểm soát của mình đối với các giáo phái và quân đội, năm 1956 Diệm quyết định đương đầu với những đặc quyền dựa vào thực dân của cộng đồng người Trung Quốc. Vào đầu những năm 1950, người Trung Quốc chiếm khoảng một phần mười số dân Nam Việt Nam nhưng chiếm trên một nửa tư bản công cộng đầu tư vào thương mại, công nghiệp và các xưởng thủ công, cộng với hầu như tất cả số tư bản lớn hơn nhưng được che giấu. Họ kiểm soát trên bốn phần năm bán lẻ và khống chế ngành dệt, nhập xuất, vận tải, nghề kim khí và nhiều nghề khác. Thực tế rằng về mặt pháp lý họ chỉ phụ thuộc vào các bang của họ, không những đụng chạm đến chỉ vấn đề tự hào dân tộc đối với Diệm mà còn đụng chạm đến vấn đề kiểm soát thuế và nền kinh tế nữa.

Tháng 8 năm 1956, Diệm yêu cầu tất cả các người Trung Quốc sinh ở Việt Nam lấy quốc tịch Việt Nam và lấy tên Việt Nam. Các bang bị giải tán và phần lớn tài sản của họ bị tịch thu. Trong tháng tiếp theo, ông ta cấm những người nước ngoài tham gia mười một loại hoạt động kinh tế, đã từng là những hoạt động làm cho người Trung Quốc chiếm lĩnh nền kinh tế. Họ được một thời gian đến một năm để thanh toán công việc của họ và chuyển lại cho người Việt Nam. Việc này có nghĩa một cách đơn giản là họ phải lấy quốc tịch Việt Nam.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM