Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 08:07:33 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Giải phẫu một cuộc chiến tranh  (Đọc 96866 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #180 vào lúc: 25 Tháng Chín, 2008, 09:34:53 pm »

CUỘC KHỦNG HOẢNG NGÀY CÀNG SÂU SẮC CỦA CHẾ ĐỘ VIỆT NAM CỘNG HÒA, CHIẾN TRANH NHƯ LÀ MỘT QUÁ TRÌNH XÃ HỘI

Mặc dù chính quyền Ních-xơn tin rằng chiến lược của họ ngày càng có cơ hội đưa lại thành công, nhưng trên thực tế chính sách của họ đã cộng thêm vào các vấn đề chính trị và kinh tế của Việt Nam cộng hòa và bắt đầu đưa lại những thay đổi nguy hiểm cho tương lai của họ. Trước lòng thiết tha cực độ mong muốn hòa bình của một tỷ lệ to lớn nhân dân, sự hung hăng tiếp tục chiến tranh đưa lại một thách thức nghiêm trọng với Việt Nam cộng hòa trong hầu như mọi lĩnh vực kinh tế, quân sự, chính trị và tâm lý, rất thiết yếu cho kết quả cuối cùng của chiến tranh.

Bởi vì hứa hẹn hòa bình của Hiệp định Pa-ri bản thân nó là một thực tế chính trị bao trùm cho những người Nam Việt Nam đã kiệt quệ kể cả số đông quân đội Việt Nam cộng hòa. Vấn đề hòa bình và hòa hợp do đó đã trở thành một lực lượng mới đầy uy thế trong vũ đài trọng yếu của đấu tranh chính trị.

Cố gắng của Việt Nam cộng hòa kiểm soát sự đi lại và buôn bán của nhân dân không những chỉ vi phạm Hiệp định Pa-ri mà còn phá hoại nguyện vọng được ổn định của họ. Về vấn đề này, Thiệu đi vào một chiều hướng thất bại. Thiệu và các cố vấn Mỹ của ông ta không sao thấy được tác động của hình tượng hòa bình đối với thái độ của quân đội Việt Nam cộng hòa cũng như đối với khả năng chiến đấu của họ. Việt Nam cộng hoà luôn luôn gặp thế khó xử là muốn kiểm soát nhân dân nhưng không bao giờ tranh thủ được lòng trung thành của họ.

Những thất bại đó sau năm 1972 lại càng trở nên to lớn hơn bao giờ hết. Càng ngày càng có thêm chứng cớ rằng những nơi mà Việt Nam cộng hòa chỉ có thể hoạt động ban ngày cũng ngày càng tăng lên và những nông dân trước kia trung lập bây giờ càng ngày càng hoan nghênh Chính phủ Cách mạng lâm thời.

Bắt đầu năm 1973, Cách mạng đã tìm cách dàn xếp với các lực lượng địa phương và dân vệ hoặc ngay cả với các vị trí của quân đội Việt Nam cộng hòa. Những thỏa thuận về tuần tra và tiếp xúc đã đạt được trong nhiều khu vực và lần đầu tiên tình thân thiện đã xảy ra trong nhiều bộ phận. Còn đáng lo ngại hơn cho Việt Nam cộng hòa là sự buôn bán với các khu vực Cách mạng, kể cả nhiên liệu và vũ khí, nhất là bây giờ Cách mạng có thể trả giá cao cho những sĩ quan và binh lính túng thiếu. Và mặc dù Việt Nam cộng hòa coi sự trao đổi đó là bất hợp pháp, nhưng hòa bình tuyên bố trong Hiệp định Pa-ri lại đưa lại một sự thừa nhận mạnh mẽ.

Thực vậy, tác động của hiệp định vượt xa các chính sách của Việt Nam cộng hòa và trực tiếp ảnh hưởng đến các hành động của quần chúng và binh lính. Không ở đâu các xu hướng này quan trọng hơn là ở vùng chiến thuật IV là nơi chiếm gần một nửa nhân dân miền Nam. Tại đây, để bù lại sức mạnh bị suy giảm của mình, Việt Nam cộng hòa đã phạm một sai lầm lớn nhất bằng việc tiến hành một cuộc "chiến tranh lúa gạo" do đó mà thúc đẩy các mâu thuẫn ngày càng tăng của mình.

Đồng bằng sông Cửu Long bị chia ra thành những vùng kế cận với Cách mạng, những vùng không kế cận nhưng dễ đi vào và những vùng an toàn. Các gia đình trong những vùng kế cận chỉ được giữ lại một tuần gạo dự trừ, còn bao nhiêu đều bị tịch thu và được cấp cho những giấy để nhận gạo hàng tuần tại kho của Việt Nam cộng hòa. Số thừa ra được trả bằng tiền với giá thấp hơn giá thị trường 50 phần trăm. Đối với những vùng dễ vào thì được giữ lại một dự trữ gạo cho ba mươi ngày và cũng theo những điều kiện như đã nói trên. Vì vậy không những một số lớn nông dân gặp trở ngại gay gắt và mất những số tiền lớn mà còn bị trả rất chậm số tiền được trả lại và chất lượng gạo thì thường bị hạ thấp hơn mức thực tế rất nhiều.

Chiến tranh lúa gạo gây ra sự tham nhũng quy mô lớn bao gồm toàn bộ hệ thống chính quyền của Việt Nam cộng hòa, từ các tỉnh trưởng cho đến binh lính ở các trạm kiểm soát. Nó cũng bộc lộ vô số điểm yếu của toàn bộ chế độ Việt Nam cộng hòa và khuyến khích nông dân ngả theo Chính phủ Cách mạng lâm thời.

Trong năm tháng đầu năm 1974, trên tám mươi đồn, bốt của Việt Nam cộng hòa rơi vào tay Chính phủ Cách mạng lâm thời và Cách mạng hoạt động công khai hơn nhiều so với những năm trước. Những sĩ quan Mỹ ở địa phương theo dõi những xu hướng tai họa đó một cách lo sợ vì Thiệu đã đi vào một chiến lược đầy mạo hiểm ở phần đất đông dân và giàu nhất đó và đã thất bại thảm khốc.

Trong khi Thiệu hết sức lợi dụng ưu thế vật chất của ông ta thì chính bản chất của quân đội ông ta đã mang theo mình những nguy cơ nghiêm trọng hơn nhiều nguy cơ dựa vào kỹ thuật và trang bị mà họ cuối cùng không thể sử dụng được hoặc không thể tiếp tục có mãi. Sự phụ thuộc của họ vào học thuyết chiến tranh của Mỹ và vào hy vọng rằng không quân Mỹ sẽ can thiệp khi cần thiết, đã làm mê hoặc các tướng cấp cao Việt Nam cộng hòa và không bao giờ họ nghĩ đến việc tìm biện pháp nào khác. Quân đội Việt Nam cộng hòa không bao giờ chiến đấu nếu xa sự yểm trợ bằng không quân Mỹ và một bộ phận lớn không quân của họ phải bất động vì thiếu phi công và thiếu các nhà kỹ thuật để bảo dưỡng.

Tuy vậy, Lầu Năm Góc cũng không ngừng cho sang những máy bay hiện đại, vi phạm các điều khoản của Hiệp định Pa-ri. Trên thực tế, quân đội Việt Nam cộng hòa không thể tiến hành cả chiến tranh quy ước lẫn chiến tranh không quy ước và bản năng đầu tiên của họ là thay không quân bằng đạn mặt đất.

Trong khi Cơ quan tùy viên quốc phòng vạch ra và ủng hộ chiến lược cơ bản cùng hệ thống quân sự của Việt Nam cộng hòa, việc Sài Gòn mù quáng dựa vào trọng pháo làm cho các quan chức Mỹ ngày càng lo âu, bởi vì quân đội Việt Nam cộng hòa tiêu phí quá nhanh số lượng đạn pháo của Mỹ cung cấp. Bắn "quấy rối và ngăn chặn" là việc làm hàng ngày cho đến giữa năm 1974, thường không trúng vào đâu trong tất cả các trường hợp và đôi khi còn dùng làm lý do để có thể thu nhặt đuôi đạn đồng mà các sĩ quan có thể bán làm đồng nát rất giá trị. Dù một số cố gắng quân sự của Thiệu có thành công như thế nào, hầu hết các người Mỹ tham gia chiến tranh ngày càng có ý thức rằng quân đội Việt Nam cộng hòa không có tiến bộ nào về hậu cần và đã lãng phí số lớn trang bị mà, như một quan chức thừa nhận, "đang bị han gỉ".
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #181 vào lúc: 25 Tháng Chín, 2008, 09:35:45 pm »

CHIẾN TRANH NHƯ MỘT QUÁ TÌNH XÃ HỘI: CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ NGÀY CÀNG SÂU SẮC CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA

Vào năm 1973 các chuyên gia cả Mỹ lẫn Việt Nam cộng hòa công khai thừa nhận rằng chính quy mô của quân đội tạo ra một thế tiến lui đều khó rất nghiêm trọng. Đào ngũ đạt đỉnh cao 200.000 trong năm 1974 vì những điều kiện kinh tế, và con số lính ma cũng tăng lên. Duy trì một đội quân 1,1 triệu đòi hỏi phải tuyển dụng hàng năm 200.000 đến 250.000 và đến năm 1974 thì tỷ lệ phát triển số nam giới không đủ để thay thế số bị tiêu hao.

Quân đội việt Nam cộng hòa thật sự có số lượng có lẽ dưới 800.000 binh lính nhưng dù như vậy cũng là quá lớn ngay đối với một nền kinh tế lành mạnh và có hiệu quả. Những nhà vạch kế hoạch kinh tế Mỹ và Việt Nam cộng hòa đã chuyển một cách có ý thức những tổn phí của họ cho nhân dân bằng một thủ đoạn đơn giản của thuế gián tiếp: binh lính được trả lương rất ít để cho họ buộc phải sống nhờ bằng xoay xở của họ. Vô số những vấn đề nghiêm trọng xuất phát từ quyết định này.

Ít tàn phá nhất về mặt xã hội là lính ma và đào ngũ và nguy hiểm nhất cho sự nghiệp của Mỹ là tham nhũng, cướp bóc, và làm cho nhân dân khánh kiệt. Chính sách này tai hại đến mức, ngay trước khi viện trợ quân sự và kinh tế bị cắt cuối năm 1974, Việt Nam cộng hòa đã bắt đầu sụp đổ rồi. Thu nhập thực tế của binh lính đã bị giảm khoảng hai phần ba từ 1963 đến 1969. Việc rút quân Mỹ và số thất nghiệp tăng lên sau năm 1972 đã làm mất những việc làm đã từng giúp cho gia đình họ thoát khỏi những cảnh khốn cùng thảm khốc.

Giữa tháng giêng 1973 đến tháng 5 năm 1974, thu nhập lại giảm đi hai phần ba nữa. Người lính trung bình có gia đình nhận được một món lương chỉ bằng một phần ba số tiền cần thiết để nuôi sống gia đình với mức tối thiểu. Ý thức trách nhiệm với gia đình buộc người lính phải tham nhũng và bòn rút nhân dân. Cuối cùng, quần chúng phải trả hóa đơn kinh tế bằng một cách hết sức tàn bạo, mất nhân phẩm với những hậu quả chính trị rất rõ rệt.

Khi tham nhũng tăng lên thì nạn nghiện rượu, nghiện ma túy và những trường hợp chống lệnh cũng tăng lên. Việc bán vũ khí trực tiếp cho Cách mạng có lẽ bây giờ cũng xảy ra lần đầu, tuy buôn bán gián tiếp đã có từ nhiều nărn rồi.

Những người lái máy bay lên thẳng bắt đầu đòi các binh lính bị thương phải trả một số tiền thù lao nhất định mới được chuyển ra khỏi mặt trận, và ngay một số khẩu đội trọng pháo cũng đòi các đơn vị được yểm trợ phải trả 1 đến 2 đô-la một viên đạn bắn đi. Chính nhu cầu kiếm tiền của quân đội Việt Nam cộng hòa là lý do cơ bản để có những dàn xếp địa phương với các lực lượng cộng sản.

Vào giữa năm 1974, trước khi Quốc hội ban hành việc giảm viện trợ quân sự và kinh tế cho Việt Nam cộng hòa, thì tham nhũng, mất tinh thần và cảnh khốn cùng về kinh tế đã đạt những tỷ lệ lan tràn và sâu sắc khắp nơi.

Thế tiến lui đều khó cơ bản của Việt Nam cộng hòa bắt rễ trong những tiền đề mà Pháp và Mỹ đã xác định khi họ làm cho nó ra đời. Nó chủ yếu là một đội quân, với một nhà nước và một nền kinh tế ghép một cách ngẫu nhiên lên nó, nhưng vào năm 1973, nếu không có một người đỡ đầu ngoại quốc không thể thiếu được để bảo vệ nó thì chính bản chất của một hệ thống xã hội như vậy cũng chắc chắn đưa lại sự sụp đổ trước mắt. Sức mạnh vật chất danh nghĩa, rất to lớn về mặt quân sự bắt đầu không còn ý nghĩa gì nữa. Nền kinh tế của nó hoàn toàn mất cân đối và khu vực đô thị của nó hoàn toàn giả tạo.

Với một cơ cơ mong manh hơn bao giờ hết như vậy, những người ủng hộ còn lại của Việt Nam cộng hòa ngày càng bị lôi cuốn vào những khó khăn hàng ngày của chính mình và lòng tin của họ vào các nhà lãnh đạo và vào tương lai cũng giảm sút một cách rõ ràng. Trong một hoàn cảnh như vậy, Oa-sinh-tơn không hình thành được sự kiện mà chỉ đáp ứng các sự kiện.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #182 vào lúc: 25 Tháng Chín, 2008, 09:39:39 pm »

Chương ba mươi sáu
THẾ TIẾN LUI ĐỀU KHÓ VỀ QUYỀN LỰC CỦA CHÍNH QUYỀN NICH-XƠN

NHỮNG THẤT VỌNG ĐANG NỔI LÊN CỦA CHIẾN LƯỢC TOÀN CẦU MỸ

Sự ám ảnh tai họa của Mỹ với Việt Nam, như Kít-xin-giơ đã hiểu một cách hoàn hảo, đã làm lạc hướng nghiêm trọng chính sách đối ngoại của Mỹ sau năm 1965, và bắt đầu từ năm 1973, Nhà Trắng có ý định chuộc lại tình hình đó. Diễn văn "năm châu Âu" của ông ta trong tháng 4, phản ánh sự nhận thức rằng tách ra khỏi Việt Nam là một sự cần thiết và Nhà Trắng bằng cách đó và bằng vô số cách khác đã giúp chuyển Quốc hội và Lầu Năm Góc sang những lo toan và ưu tiên khác.

Nhà Trắng không có ý định giảm các cam kết của mình đối với Việt Nam trong quá trình đó, bởi vì họ tin chắc rằng chính sách của họ có thể đưa lại thời gian cho Thiệu củng cố quyền lực của mình. Bằng cách tập trung vào những vấn đề quan trọng hơn, Nhà Trắng củng cố lại xu hướng của mọi người muốn giảm ý nghĩa tương đối của Việt Nam.

Về phần mình, Lầu Năm Góc không cần ai xúi giục, nhắc nhở, bởi vì chiến tranh đã làm cho họ thiếu kinh phí một cách nghiêm trọng cho các nhu cầu toàn cầu khác. Phần của họ trong ngân sách liên bang và trong tổng sản phẩm quốc dân đã giảm mạnh mẽ sau năm 1969 và họ tin rằng họ đang mất ưu thế kỹ thuật đối với người Nga. Việc Mát-xcơ-va thử thành công các tên lửa nhiều đầu đạn trong mùa hè năm 1973 đặc biệt làm cho họ lo ngại, bối rối. Để chỉnh đốn lại cán cân, cần phải chi tiêu thêm nhiều hơn, nhưng vì không thể có thêm kinh phí từ Quốc hội, cho nên điều hiển nhiên là phải sắp xếp lại kinh phí hiện có để đáp ứng những thách thức như vậy.

Bộ Quốc phòng không đặt thành vấn đề một cách công khai quan hệ giữa vấn đề Việt Nam và các ưu tiên còn lại của Mỹ trên thế giới, nhưng cách trình bày công khai của họ cho thấy muốn tránh lặp lại những sai lầm quá khứ.

Kít-xin-giơ đã nhớ lại: "Tôi đã tiến hành một cuộc đấu tranh liều lĩnh nhưng thất bại chống lại ý muốn của Lầu Năm Góc triển khai lại các lực lượng không quân và hải quân ra khỏi Đông Nam Á để dành số kinh phí ít ỏi dôi ra cho việc mua vũ khí mới".

Kít-xin-giơ thừa nhận cuối năm 1973 rằng "trong quan hệ của chúng tôi với bạn bè ở châu Âu thì đó là năm đầy thất vọng". Các vấn đề kinh tế và quân sự vẫn gây chia rẽ và sau cuộc chiến tranh tháng 10 giữa I-xra-en và Ai cập, chúng càng trở nên gay cấn hơn nhiễu.

Các nhà lãnh đạo châu Âu không ưa thích gì những phong cách độc đoán, dạy đời của Kít-xin-giơ và họ không chịu bị ràng buộc vào bá quyền của Mỹ đối với những vấn đề kinh tế sống còn như chính sách Trung Đông trong cuộc cấm vận đầy tai họa. Những vấn đề này cần phải được giải quyết nhưng sự xuất hiện của chúng dưới hình thức quá rõ ràng trong năm 1973 càng làm rõ nhu cầu của Oa-sinh-tơn phải ít quan tâm đến Đông Dương.

Nếu Kít-xin-giơ có khả năng theo đuổi một chính sách nhất quán sắp xếp lại các ưu tiên của Mỹ trong suốt năm 1973 thì chính quyền Mỹ có thể đã giành được một số các mục tiêu của mình nhưng Việt Nam vẫn còn ẩn náu như một ám ảnh tiếp tục của chính quyền. Nhà Trắng đã nổi lên từ thắng lợi bầu cử năm 1972, tự tin nhiều hơn và kiêu căng hơn bao giờ hết. Ních-xơn công khai xem xét những biện pháp để giảm quyền lực của báo chí và Kít-xin-giơ thì ngày càng xem thường Quốc hội.

Ngoài việc dùng mưu mô để ngăn cản những quyết định về ngân sách của Quốc hội đối với Đông Dương, Nhà Trắng luôn luôn đe dọa dùng không quân chống lại Việt Nam. Những cảnh cáo công khai liên tục của Kít-xin-giơ đối với Việt Nam dân chủ cộng hòa trong suốt nửa đầu của năm 1973, mỉa mai thay đã làm cho Quốc hội khiếp sợ hơn là Hà Nội. Quốc hội đã biết qua những điều trần tại Quốc hội và qua những việc chuẩn bị ào ạt tại Viễn Đông rằng không thể coi thường việc Tổng thống có ý đính nối lại cuộc chiến tranh không quân.

Một sự va chạm với Quốc hội không thể tránh khỏi bởi vì, mặc dù Ních-xơn có phiếu bầu cao, thành phần chính trị của Thượng viện đã chuyển một cách quyết định sang phía chống chiến tranh và hầu như chắc chắn rằng Quốc hội sẽ tiến hành một cuộc tiến công trực diện vào các quyền lực làm chiến tranh của Tổng thống. Nhà Trắng đã hiểu nhầm một cách tai hại kết quả phức tạp của cuộc bầu cử tháng 11.

Những cuộc xét xử Oa-tơ-ghết, triển khai đầy đủ vào tháng 3 năm 1973, củng cố sự sẵn sàng và khả năng của Quốc hội thách thức chính quyền, nhưng ở một chừng mực nhất định, sức chiến đấu mới của Quốc hội cũng đồng thời là sản phẩm của sự thất vọng sâu sắc đối với cách điều hành chính sách đối ngoại của tổng thống, mà Giôn-xơn đã bắt đầu nhưng Ních-xơn lại tiếp tục với sự trả thù.

Kít-xin- giơ trắng trợn thách thức Quốc hội bằng cách khẳng định rằng thắng lợi chính sách đối ngoại của ông ta làm cho các chi tiết của hình thức trở nên hoàn toàn phụ. "Lời phán quyết cuối cùng về chính sách đối ngoại là vấn đề thực chất chứ không phải vấn đề cách làm", ông ta không thể không huênh hoang như vậy ngay vào cuối năm 1973 là lúc mà Quốc hội không còn có thể tha thứ cho sự lảng tránh và vin vào lý do bí mật nữa. Sự tiếp tục những nguyên tắc mà được xem là đồng nghĩa với những đặc quyền của ông ta, tỏ ra rất hấp dẫn đối với ông ta bất chấp những thất bại của chúng ở Đông Nam Á và ngày càng tăng ở châu Âu và Trung Đông.

Vào đầu năm 1971 Quốc hội ngăn cản việc sử dụng các lực lượng trên bộ của Mỹ ở Cam-pu-chia và tháng 6 năm 1973, Thượng viện bỏ phiếu với một đa số lớn, cắt chi phí cho bất cứ hình thức chiến đấu nào của Mỹ trên Đông Dương Việc này không chỉ chấm dứt chiến tranh không quân lúc đó đang xảy ra ở Cam-pu-chia mà còn ngăn cản việc nối lại ném bom chống Việt Nam.

Ních-xơn phủ quyết đạo luật ngày 27 tháng 6 sau khi đạo luật được Hạ viện thông qua cùng với một đa số lớn. Thượng viện thông qua lại đạo luật và theo lời khuyên của Le-đô, bất chấp sự phản đối của Kít-xin-giơ, Ních-xơn chấp nhận đạo luật có hiệu quả ngày 15 tháng 8. Nhà Trắng mất con bài lớn nhất trong chiến lược Đông Dương của nó. Cả bí mật lẫn công khai, Kít-xin-giơ phàn nàn thất bại của ông ta và nói rõ rằng: "Tôi muốn ném bom Hà Nội, nhưng Quốc hội không để tôi làm. Ném bom sẽ làm cho nó (Hiệp định Pa-ri) được tôn trọng".

Tuy vậy, Nhà Trắng vẫn tuyên bố công khai rằng tổng thống sẽ trở lại xin quyền nối lại việc ném bom. Giữa tháng giêng năm 1974, Le-đô công bố rằng Quốc hội sẽ và phải bác bỏ vêu cầu ném bom lại của Nhà Trắng. Tóm lại tất cả những đe dọa mà Nhà Trắng đưa ra chỉ đẩy những người trước kia ủng hộ họ đi vào phía đối lập.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #183 vào lúc: 25 Tháng Chín, 2008, 09:40:44 pm »

VAI TRÒ CỦA HÒA DỊU

Vì chính quyền Ních-xơn không còn tự do nối lại cuộc chiến tranh không quân, nên hòa dịu, một trong ba trụ cột của chiến lược Việt Nam đã bắt đầu sụp đổ. Hòa dịu không mất đi một cách đột ngột; nó chỉ chìm đi trong những thực tế lâu dài của một thế giới quá phức tạp để có thể chịu sự kiểm soát của các nước lớn, cũng như bị chìm đi trong những di sản thâm căn cố đế của nửa thế kỷ chống cộng.

Ngoài tình trạng phức tạp vốn có trong việc sử dụng khéo léo thế tam giác giữa Liên Xô và Trung Quốc, chính quyền Mỹ có quá nhiều sức ép của Quốc hội trong nước nên không thể hòa giải được đồng thời cũng có quá nhiều cam kết ở châu Âu và Trung Đông. Những điều đó sớm làm cho các quan hệ Trung - Xô - Mỹ nhằm giải quyết thế khó xử của Mỹ ở Việt Nam không còn thích hợp nữa.

Nhưng vì sự tiêu tan của hòa dịu là một quá trình khá chậm và kéo dài, nên nó ấp ủ những tàn dư và bóng gió của tiến bộ làm cho Tổng thống tiếp tục hy vọng, mong ước và ảo tưởng.

Cố gắng của Kít-xin-giơ khai thác hòa dịu để điều hòa vấn đề Việt Nam tiếp tục tồn tại cho đến khi chiến tranh kết thúc, nhưng đặc biệt nổi bật năm 1973. Bản thân Thiệu rất khuyến khích cố gắng này và Kít-xin-giơ năm 1973 cho rằng ông ta đang thành công với một mức độ quan trọng. Không nghĩ như vậy, tức là thừa nhận thất bại của chiến lược cơ bản của Nhà Trắng kể từ năm 1969 và Kít-xin-giơ không thể nào làm như vậy được dù cho không công khai.

Nhưng chính quyền Mỹ cần chiến tranh lạnh, đặc biệt là với Liên Xô để tranh thủ phiếu của Quốc hội về vũ khí mới như tàu ngầm Tri-den và để giữ nguyên kinh phí nhằm duy trì quân Mỹ ở châu Âu. Một khi bóng ma của sự bành trướng Xô-viết được làm sống lại theo đơn đặt hàng, thì những ảo vọng của sự cùng tồn tại hòa bình cũng tan biến trong quá trình đó. Việc Liên Xô cung cấp vũ khí cho các nước Ả-rập trong cuộc chiến tranh Trung Đông tháng 10 đã đẩy nhanh quá trình tan rã đó, Kít-xin-giơ buồn rầu ghi nhận vào cuối năm 1973 rằng "hòa dịu có chọn lọc" không còn có thể làm được nữa.

Việt Nam bây giờ chỉ còn là một trong số các vấn đề giữa người Xô-viết và người Mỹ, nhưng không còn là vấn đề quan trọng nhất nữa. Sự thay đổi vị trí của Việt Nam từ trung tâm ra ngoại vi của lợi ích Mỹ đã làm cho nó trở thành một nguồn làm mất phương hướng cho chính quyền vì chính quyền luôn luôn ấp ủ hy vọng hão huyền khi giao thiệp với Liên Xô.

Vấn đề của Trung Quốc trong chiến lược này rõ rệt hơn, đơn giản hơn. Khi thăm Bắc Kinh tháng 2 năm 1973, Kít-xin-giơ kêu gọi Chu Ân Lai với dụng ý gợi ra một sự cộng tác trên thực tế để chống lại Liên Xô ở châu Á, một sự sắp xếp để duy trì cán cân lực lượng ở khu vực nhưng cũng bao hàm một sự có mặt tiếp tục của Mỹ và sự Ban-căng hóa Đông Dương. Ông ta nhận thấy Mao Trạch Đông thực sự không tin gì vào những cam kết công khai về hệ tư tưởng và nghĩ rằng có thể khai thác được một cái gì đó từ Bắc Kinh để gây sức ép với Mát-xcơ-va.

Nhưng Chu và Mao còn phải giữ ảnh hưởng trong nước và trước so sánh lực lượng mong manh giữa các phe phái trong tập đoàn lãnh đạo, họ phải chiều theo ý của những địch thủ hùng mạnh chống lại sự hợp tác như vậy với kẻ thù truyền thống. Hơn nữa, một sự thỏa hiệp cơ bản với Mỹ đang cho quá sớm vì vấn đề Đài Loan. Cũng còn nhiều điều phức tạp đáng phiền khác nữa. Kít-xin-giơ luôn luôn khoe khoang khoác lác và tháng 2 năm 1974 thì khẳng định rằng ông ta đang chơi con bài Trung Quốc để chống Nga, nhằm giành thêm nhượng bộ từ Mát-xcơ-va. Sợ tỏ ra là thua trí, cùng tháng, Chu đưa ra học thuyết "ba thế giới" chủ trương đoàn kết chống lại bá quyền của cả Mỹ lẫn Liên Xô.

Vào mùa thu năm 1973, nhiều thành viên của chính quyền Mỹ công khai tỏ ra nghi ngờ thắng lợi của hòa dịu và những hứa hẹn giả tạo của nó. Cuộc chạy đua chiến tranh lạnh truyền thống ít nhất cũng có cái lợi là tập hợp Quốc hội và các đồng minh châu Âu sau lưng Tổng thống. Nhà Trắng tiếp tục cả hai biện pháp và Kít-xin-giơ luôn luôn khẳng định rằng hòa dịu đã làm cho Liên Xô và Trung Quốc giúp ích hơn trong vấn đề Đông Dương, đặc biệt là giảm viện trợ cho Cách mạng.

Tháng 2 năm 1975, Kít-xin-giơ thừa nhận rằng vấn đề là, tuy viện trợ có giảm nhiều nhưng cố gắng của Mỹ nhằm ngăn chặn việc di chuyển trang bị, đạn dược xuống miền Nam đã bị chấm dứt hoàn to ông ta cho rằng tuy viện trợ có kém hơn nhưng vẫn còn quá nhiều. Trên thực tế, thắng lợi bộ phận đã làm cho chính quyền quá tin và đó là điều tỏ ra vô cùng tai hại cho những tham lam của họ.

Về phía Việt Nam dân chủ cộng hòa, họ theo dõi các sự phát triển đó và đối phó với những cố gắng của Mỹ tiếp tục tranh thủ đồng minh của mình như trước khi ký Hiệp định Pa-ri. Kết quả là so với năm 1972, toàn bộ viện trợ có thấp hơn một ít trong năm 1973 nhưng tăng 40 phần trăm năm 1974. Tuy Mỹ khoe khoang rằng trước năm 1973, không quân của họ đã phá hủy phần lớn trang bị quân sự trước khi có thể được dùng ở miền Nam, nhưng trên thực tế Cách mạng sau năm 1972 có nhiều vũ khí hơn bao giờ hết.

Với ý nghĩa này, người Xô-viết và người Trung Quốc đã làm phần của mình đối với Mỹ và Cách mạng. Nhưng điều mà họ không thể làm, tất nhiên là duy trì quan hệ giữa chính quyền và Quốc hội, càng không thể làm hơn nữa là giữ cho chế độ xã hội của Thiệu khỏi tan rã.
Như vậy rõ ràng là chiến lược lớn của Nhà Trắng sẽ thất bại. Hơn nữa, dù Nga và Trung Quốc có muốn giúp ích thế nào đi chăng nữa, họ cũng không thể bỏ hoặc làm gì Việt Nam dân chủ cộng hòa quá hơn việc giảm viện trợ quân sự. Và thật là mỉa mai, tuy Cách mạng không muốn nói đến việc đó, nhưng sự tự dối mình của Mỹ xem vai trò của viện trợ có tính chất quyết định là một điều lợi cho Cách mạng.

Hơn nữa, quan điểm đơn giản của chính quyền đề cao tầm quan trọng của việc giảm viện trợ đã làm cho họ trở nên ít nguy hiểm hơn. Nếu họ không tin rằng họ thành công, trong việc cắt giảm viện trợ, thì chắc chắn họ sẽ cố gắng nhiều hơn nữa để yêu cầu Quốc hội cho nối lại cuộc chiến tranh không quân hoặc, ít nhất là gửi thêm vũ khí hơn nữa cho Việt Nam cộng hòa. Sự thiển cận của chính quyền do đó làm cho Nhà Trắng mất thời gian, trong khi cả ở Quốc hội lẫn ở Nam Việt Nam các sự kiện cho thấy rằng nền ngoại giao và sự can thiệp quân sự của Mỹ ngày càng trở nên hão huyền.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #184 vào lúc: 26 Tháng Chín, 2008, 12:49:06 pm »

Chương ba mươi bảy
PHỤC HỒI VÀ PHẢN ỨNG: CHIẾN LƯỢC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN CHO ĐẾN GIỮA NĂM 1974

CHIẾN LƯỢC QUÂN SỰ CỦA CÁCH MẠNG CHO ĐẾN THÁNG 6 NĂM 1974

Khi Hiệp định Pa-ri được ký, Đảng Cộng sản dự kiến những khó khăn do Thiệu gây ra, nhưng khi Đảng gửi Nghị quyết 02 cho các ngành, các cấp ở miền Nam, thì Đảng chủ trương một cuộc đấu tranh chủ yếu là chính trị. Điều mà Đảng cần nhất là thời gian để củng cố vị trí của mình và lấy lại sức sau cuộc tiến công hao tổn 1972.

Chính sách quân sự của Đảng trong suốt năm 1973 phản ánh nhu cầu đó. Nghị quyết 03 trong tháng 3 của Đảng cũng khẳng định lại sự nhấn mạnh về chính trị. Tuy nhiên. Đảng vẫn xây dựng lại và vũ trang lại các đơn vị địa phương và du kích. Trong nửa đầu của năm 1973, Việt Nam cộng hòa còn khả năng làm tiêu hao lực lượng và tranh chiếm lãnh thổ của Cách mạng một cách đáng kể vì Cách mạng tránh chiến đấu. Ước tính của Mỹ cho thấy số lượng quân đội của Cách mạng ở miền Nam là từ 200.000 đến 253.000 mùa xuân năm 1973 xuống còn 184.000 tháng 4 năm 1974.

Cách mạng đã thành công trong việc dùng chủ yếu lực lượng địa phương để ghìm càng nhiều lực lượng vũ trang Việt Nam cộng hòa càng tốt và buộc họ vào thế thụ động, phòng ngự và dễ bị tiến công. Riêng ở đồng bằng sông Cửu Long, vấn đề sống còn đòi hỏi các lực lượng địa phương tiến hành những hoạt đông quân sự đã không được Cách mạng cho phép, vì vậy chỉ ở đồng bằng sông Cửu Long vị trí của Cách mạng mới có những tiến bộ đáng kể trong suốt thời gian đó.

Về thực chất, chiến lược của Đảng cho đến tháng 8 năm 1974 là xây dựng lực lượng của mình và đợi thời cơ khi Thiệu trở nên yếu hơn về chính trị và kinh tế, và Mỹ trở nên quẫn trí hơn. Nhưng do Thiệu phá hoại các bộ máy chính trị và các hy vọng trong Hiệp định Pa-ri nên Đảng không "còn cách nào khác ngoài việc nối lại cuộc đấu tranh quân sự". 

Trên thực tế, chính sách thận trọng của Đảng phải thay đổi bởi vì những thắng lợi liên tiếp cho thấy rằng Đảng đã phục hồi sức mạnh và quân đội Việt Nam cộng hòa thì yếu đi một cách nhanh chóng hơn trước nhiều. Ở đồng bằng sông Cửu Long, Cách mạng tiếp tục lấp những lỗ trống chính trị, tuy ở những nơi khác Đảng còn phải bỏ hoặc mất một số thôn xóm.

Tháng 3 năm 1974, ủy ban quân sự của Đảng vẫn còn chủ trương thực hiện chiến lược đề ra trong Nghị quyết 21 trong "vài năm tiếp theo nữa" nghĩa là theo đuổi con đường chính trị đồng thời tăng cường chuẩn bị quân sự. Đảng thảo luận học thuyết chiến tranh. Số đông còn nhấn mạnh yếu tố tinh thần và chính trị nhưng một số bàn đến "phương pháp tiên tiến của một đội quân chính quy và hiện đại" đồng thời nhìn rõ mặt kỹ thuật của chiến tranh.

Đảng cũng thảo luận mối quan hệ của những nhu cầu của nhân dân và của nền kinh tế ở miền Bắc với những đòi hỏi của chiến tranh ở miền Nam. Chính vì những lý do này mà trong khoảng một năm rưỡi không có sự nhất quán lớn giữa những ưu tiên kinh tế và những khả năng quân sự của Đảng và đa số các nhà lãnh đạo chưa tính đến một thắng lợi trước mắt. Và một bộ phận lớn giới quân sự dốc tâm vào một chương trình hiẹn đại hóa quân đội, đòi hỏi cả thì giờ lẫn tiền của để thực hiện.

Nói một cách khác, các sự kiện bây giờ đang vượt quá kế hoạch và sức tưởng tưởng của Đảng.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #185 vào lúc: 26 Tháng Chín, 2008, 12:49:47 pm »

CHIẾN LƯỢC CHÍNH TRỊ CỦA CÁCH MẠNG

Tổ chức chính trị của Đảng ở miền Nam bị thiệt hại nặng nề sau năm 1968 và với việc ký Hiệp định Pa-rỉ, các nhà lãnh đạo rất thiết tha xây dựng lại, tin rằng làm tốt việc đó sẽ là điều kiện tiên quyết cho tất cả các cố gắng khác của họ. Công việc của Đảng trong các vùng nông thôn do Việt Nam cộng hòa kiểm soát, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long đã thành công nhanh chóng. Đảng tăng cường sự chung sống giữa khu vực Việt Nam cộng hòa, khu vực giải phóng và khu vực tranh chấp có thể nói là thuộc cả hai bên mà Đảng muốn giữ nguyên trạng để được cung cấp hàng hóa và che chở.

Những điều kiện kinh tế, việc quân đội Việt Nam cộng hòa làm cho nông dân xa lánh và việc Sài Gòn dựa vào binh lính và hỏa lực của mình để gây đau khổ cho những khu vực rộng lớn, đã đẩy nhân dân buôn bán với Chính phủ Cách mạng lâm thời và trở thành ngày càng thù địch với chế độ Thiệu. Thiệu làm cho một số lớn nhân dân căm tức và một số những người ủng hộ Việt Nam cộng hòa trước đây, nay trở thành chờ thời và những người chờ thời lại trở thành những người bạn công khai của Cách mạng.

Việc làm của Đảng trong các thôn xóm trên ba mươi năm qua bắt đầu ra hoa kết quả lần nữa và thích nghi với những điều kiện mới. Thật là chẳng ngoa chút nào nếu nói rằng Đảng đã xây đắp một nền văn hóa cấp tiến một cách sâu sắc ít nhất là trong hàng ngũ bần cố nông.

Chính phủ Cách mạng lâm thời cũng có một khu vực công khai thuộc quyền hành chính của mình mà các quan chức Mỹ đầu năm 1975 thừa nhận gồm 25 đến 30 phần trăm lãnh thổ Nam Việt Nam với khoảng 1,2 triệu dân. Bản thân Chính phủ Cách mạng lâm thời cuối năm 1974 tính rằng chỉ khu vực B2 không thôi cũng đã có 3,4 triệu dân, đưa các tổ chức của Cách mạng "không kém hơn bao nhiêu mức năm 1968".

Quy mô và tốc độ tiến bộ chính trị ở miền Nam làm cho các nhà lãnh đạo Đảng ở Việt Nam dân chủ cộng hòa ngạc nhiên. Thậm chí những người đã từng tính đến cuộc chiến tranh kéo dài hàng thập kỷ và tập trung vào một đội quân chính quy hiện đại, bây giở phải suy nghĩ lại. Các đô thị trở thành một thách thức phức tạp hơn nhiều cho Chính phủ Cách mạng lâm thời, nhưng mọi khủng hoảng chính trị đặc biệt là kinh tế trong chế độ Việt Nam cộng hòa cũng làm cho vấn đề đô thị có thêm hứa hẹn.

Sự chống đối Thiệu ở đô thị phát triển nhanh hơn nhiều sự phát triển của chính tổ chức Chính phủ Cách mạng lâm thời. Chính phủ Cách mạng lâm thời sẵn sàng hợp tác với những nhóm của lực lượng thứ ba như một bộ phận của Hiệp định Pa-ri. Giai cấp tư sản dân tộc nhất là con em của họ, chủ yếu là sinh viên và trí thức, sẵn sàng vứt bỏ giai cấp cũ và tham gia công tác chính trị trên cơ sở lý tưởng chứ không phải quyền lực. Công nhân là nhóm đô thị sẵn sàng hy sinh và tỏ ra là hữu ích nhất.

Nhờ làm việc hăng say và nhờ tính linh hoạt về chính trị, nên sau năm 1972, Đảng đã xây dựng lại được một cơ cấu trong môi trường chín muồi một cách khách quan của đô thị. Vào giữa năm 1974 Đảng tìm được cách thực hiện sự có mặt của mình trong các tổ chức sinh viên, công đoàn và trong hàng ngũ những phần tử trí thức và tôn giáo. Cuối năm 1974, Đảng đã lập lại sự có mặt chính trị có ý nghĩa của mình trong các đô thị. Điều cũng quan trọng là Đảng biết với ai Đảng có thể làm việc và có thể chờ mong gì từ họ. Năm 1975, Đảng đã có khả năng tập hợp những người không phải là đảng viên, kể cả nhiều người chờ thời, có thể giúp ích trước và sau khi quân đội vào đô thị. Cuối cùng họ tỏ ra là một vốn lớn của Cách mạng. 
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #186 vào lúc: 26 Tháng Chín, 2008, 12:50:50 pm »

Chương ba mươi tám
CUỘC KHỦNG HOẢNG NGÀY CÀNG SÂU SẮC CỦA CHẾ ĐỘ XÃ HỘI VIỆT NAM CỘNG HÒA

TRẬT TỰ CHÍNH TRỊ VIỆT NAM CỘNG HÒA CHO ĐẾN MÙA HÈ NĂM 1974

Toàn bộ khả năng quân sự của Việt Nam cộng hòa phụ thuộc một cách quyết định vào tính chất và sức mạnh của trật tự chính trị và kinh tế của họ. Trong các cuộc chiến tranh chống các phong trào cách mạng, giữa các hệ thống xã hội và hệ tư tưởng cũng như giữa các quân đội, những thay đổi lớn trong tình hình sức mạnh xã hội và kinh tế của bên này hay bên kia đều có thể có ảnh hưởng quan trọng đến kết quả của cuộc đấu tranh.

Từ đầu, Mỹ đã ở trong thế bất lợi nghiêm trọng, nhưng sau năm 1972, tình hình của Mỹ còn trở nên mong manh hơn nhiều bởi vì trong khi họ có thể cung cấp trang bị quân sự cho Việt Nam cộng hòa, họ không có cách nào duy trì Thiệu về mặt chính trị trong một tình hình mà toàn bộ cố gắng chống cộng không mạnh hơn khâu yếu nhất của tình hình. Chính trị là gót A-sin của cố gắng chiến tranh Mỹ kể từ khi Mỹ ủng hộ Ngô Đình Diệm và gửi quân của chính mình sau đó để cứu các chế độ hỗn loạn của những người kế tục Diệm, và thành công hay thất bại của cố gắng khổng lồ của Mỹ bây giờ vẫn còn hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng và vai trò của một con người: Nguyễn Văn Thiệu.

Đầu năm 1973, Nhà Trắng cam kết duy trì Thiệu nắm chính quyền. Nhưng vấn đề là trong khi Việt Nam cộng hòa tự tuyên bố là một nhà nước ở Nam Việt Nam và có tất cả trách nhiệm của một nhà nước, thì Việt Nam cộng hòa không có cơ sở xã hội rộng rãi hoặc tính chất hợp pháp, và Thiệu cũng không quan tâm gì đến việc tạo ra cơ sở như vậy. Ông ta điều khiển Việt Nam cộng hòa hoàn toàn như một công cụ chính trị để duy trì sự kiểm soát của ông ta.

Không có những điều kiện tiên quyết của một cơ sở nhà nước bởi vì từ Diệm đến Thiệu, Việt Nam cộng hòa chỉ là một bộ máy khác nhau liên tiếp nhưng cá nhân hóa ở mức cao mà trách nhiệm và chức năng lại đến từ Oa-sinh-tơn cùng với vũ khí và tiền của để duy trì bộ máy đó. Do tính chất đặc biệt và lơ lửng bên trên và không có một cơ cấu giai cấp vững chắc bên dưới những nhóm nhỏ nắm quyền, nên cố gắng của Mỹ ngay từ đầu đã phải tính đến ngày tận số.

Sự ủng hộ của Nhà Trắng là vốn quý nhất của Thiệu và chừng nào sự ủng hộ đó còn được thể hiện bằng viện trợ vật chất thì Thiệu còn có thể duy trì cái tổ chức đang giữ ông ta nắm chính quyền. Mọi sự nhất trí, mà Thiệu đạt được không phải đơn giản chỉ vì ông ta xảo quyệt thao túng các đối thủ mà còn do ông ta sẵn sàng và có khả năng chia bổng lộc của chính quyền cho một nhóm người trung thành với ông ta. Phải thấy rằng Thiệu ít tham lam hơn Diệm tuy ông ta vẫn rất hám lợi, nhưng sau năm 1972, lợi lộc của ông ta không đủ để phân chia và lợi lộc càng ít, khó khăn càng tăng. Phân tích đến cùng, khủng hoảng chính trị của chế độ Việt Nam cộng hòa đến từ nhiều hướng: kinh tế, tổ chức và tư tưởng, tất cả kết hợp lại làm cho chế độ đi vào bế tắc mùa hè năm 1974.

Trong tình trạng không có một thế hợp pháp về chính trị và tư tưởng nhưng lại còn sức mạnh về kinh tế và chính quyền, thì một nhà nước chỉ có thể dùng chính sách đàn áp, và đàn áp thì nhất định đưa lại nhiều mức chống đối. Trong những năm 1972, và đầu 1973, chế độ của Thiệu còn là một nhà nước cảnh sát. Cơ cấu hợp pháp của nó chỉ biết có đàn áp, nhưng 120.000 cảnh sát và các tòa án quân sự vì là rất tham nhũng nên rất có thể bị mua chuộc để giảm bớt sự tàn bạo của chúng. Một đạo luật báo chí tháng 8 năm 1972 đóng cửa mười bốn trong số bốn mươi mốt tờ báo, số còn lại buộc phải nộp tại cơ quan kiểm duyệt một số tiền lớn để làm bảo đảm.

Việc thiết quân luật sau giữa năm 1972 đưa lại cho Việt Nam cộng hòa nhiều quyền lực tàn bạo kể cả việc bỏ tù hàng năm không cần xét hỏi. Ngoài con số chưa rõ là bao nhiêu đã nằm trong nhà giam vào giữa năm 1972, những trợ lý của Thiệu thừa nhận rằng 40.000 nữa đã bị bắt mùa thu năm 1972. Nhiều người bị bắt sau Hiệp định Pa-ri và bị kết án như thường phạm. Số người bị giết không được tiết lộ, nhưng tính chất đàn áp và khủng bố không ai không biết. Năm 1973 Mỹ còn 160 cố vấn cảnh sát ở Nam Việt Nam.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #187 vào lúc: 26 Tháng Chín, 2008, 12:51:26 pm »

Thiệu thừa nhận có 32.000 tù dân sự các loại khi hiệp định Pa-ri được ký kết, nhưng CIA thì cho rằng con số còn cao hơn nhiều. Con số của một ủy ban Lực lượng thứ ba là 202.000. Các nhà báo Mỹ và Quốc hội đưa ra tài liệu là có rất nhiều tù chính trị và nhiều người bị tra tấn và ngược đãi khủng khiếp. Thiệu ra sức phá hoại việc trao đổi tù chính trị và việc Thiệu điều khiển một nhà nước cảnh sát đàn áp, với tiền và giúp đỡ kỹ thuật của Mỹ, là điều mà không ai còn có thể nghi ngờ được. Thiệu cố gắng tạo ra một cơ cấu chính quyền mà ông ta có thể hoàn toàn kiểm soát. Trước tiên ông ta thành lập tháng 11 năm 1972 một đảng riêng của mình, nửa bí mật, đảng Dân chủ mà ông ta hy vọng là qua nó có thể làm chủ bộ máy nhà nước như Diệm đã làm qua đảng Cần lao. Năm 1973, ông ta sửa đổi lại hiến pháp để có thể được bầu lại một nhiệm kỳ 5 năm nữa vào tháng 10 năm 1975.

Quan trọng hơn nữa là ông ta cố gắng củng cố sự kiểm soát của mình đối với ngành dân sự như đã làm đối với giới quân sự. Tháng 7 năm 1973 được sự ủng hộ nhiệt tình của Mỹ, Thiệu tuyên bố một chương trình gọi là "cách mạng chính quyền”. Ông ta cho các tỉnh trưởng toàn quyền kiểm soát những quan chức dân sự trong lĩnh vực của mình, kể cả quyền bổ nhiệm và cách chức. Quyền làm ra quyết định được chuyển từ các bộ xuống các tỉnh. Đó là một sự sao lại của tổ chức quân đội Việt Nam cộng hòa, và ngoài việc các tỉnh trưởng đều là sĩ quan, Thiệu giữ độc quyền bổ nhiệm họ.

Trên thực tiễn, kế hoạch mới này bảo đảm cho Thiệu một độc quyền hoàn toàn về quyền lực, với tất cả các dây ràng buộc trong các hệ thống quân sự và dân sự tập trung về văn phòng của ông ta. Một biến đổi về tổ chức với một tính chất như vậy đòi hỏi phải có một giai đoạn chuyển tiếp dài nếu không muốn xảy ra một sự hỗn loạn. Nhưng việc Thiệu tìm kiếm một sự kiểm soát hoàn toàn như vậy đã gây nên tổn thương cho một bộ phận lớn những người ủng hộ ông ta vì các tỉnh trưởng của ông ta vừa bất tài vừa tham nhũng, tuy mỗi tháng thu nhập của họ theo báo cáo của tờ Thời báo Niu Yoóc là 100.000 đô-la.

Thiệu chắc chắn cũng tạo ra một cơ sở cho một giai đoạn hỗn loạn chính trị kéo dài, gây kiệt quệ, và một số ít cố vấn Mỹ có khả năng đã thấy điều này một cách rõ ràng nhất. Chính sách của Thiệu sau năm 1972 đã ngày càng làm cho bộ máy chiến tranh khổng lồ mà Mỹ xây dựng cho ông ta trở nên mất hiệu lực. Những hành động của ông ta đã phục vụ cho lợi ích riêng của ông ta đến mức tự đặt mình vào một vị trí dễ bị các đối thủ tiến công để bảo vệ hoặc mở rộng chính những quyền lợi của họ, Thiệu phải tự bảo vệ mình bằng việc giữ cho được lòng trung thành của các tư lệnh các vùng chiến thuật và các tỉnh trưởng. Ông ta phải chấp nhận sự tham nhũng của họ trong khi phải cải tiến hình ảnh của mình trước những người chỉ trích trong nước. Những người này tìm cách tố giác sự tham nhũng của tay chân Thiệu để chống lại Thiệu.

Trung tướng Đặng Văn Quang, trợ lý an ninh của Thiệu bị tố cáo buôn lậu thuốc phiện, gạo, và phần đông các tư lệnh quân khu đều mắc vào vòng phạm pháp, bất lương. Các tướng không còn bao nhiêu thì giờ cho công việc quân sự trong suốt thời gian sau Pa-ri. Thực vậy, đó là lô-gích bất di bất dịch của chế độ Thiệu.

Những rạn nứt trong chế độ Thiệu là kết quả tất yếu của thế dễ bị tiến công của ông ta, của những người tham lam quanh ông ta và cả chính sự thèm khát thêm quyền lực của bản thân ông ta. Đảng Dân chủ nhanh chóng lôi kéo một số những kẻ bon chen, và người đứng đầu đảng, Nguyễn Văn Ngạn, trợ lý của Thiệu cho rằng đảng phải đề ra chính sách cho chính phủ.

Va chạm với người anh em họ của Thiệu, Hoàng Đức Nhã và đồng thời cũng là trợ lý và kiến trúc sư của cuộc "Cách mạng chính quyền", Ngạn lên án Nhã là tham nhũng. Kết quả là một cuộc cải tổ nội các tháng 2 năm 1974 bộc lộ một rạn nứt chủ yếu tự mình gây ra trong giới thân cận của Thiệu. Người có lợi nhất là thủ tướng Trần Thiện Khiêm, đã từng rút vào bóng tối trong vài năm nay và đang sẵn sàng xuất hiện lại. Rõ ràng Nhã bị giáng chức nhưng chờ thời cơ và cuối cùng làm cho Ngạn bị xem là một tay chân của Cộng sản và bị cách chức. Bây giờ Khiêm được hỏi ý kiến khi cử các tỉnh trưởng. Mùa xuân năm 1974 lòng tham ô vô hạn của Thiệu gây tác hại và về mặt chính trị, ông ta yếu hơn bao giờ hết kể từ năm 1968.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #188 vào lúc: 26 Tháng Chín, 2008, 12:52:12 pm »

THẾ TIẾN LUI ĐỀU KHÓ CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA VỀ TÍNH HỢP PHÁP CHÍNH TRỊ

Vào mùa xuân 1974 thế giới chính trị được cân đối thận trọng quanh Thiệu đang tan rã, với giới quân sự trở thành hơn bao giờ hết nguồn ủng hộ chính, trong khi giới dân sự đã từng cộng tác với ông ta nhiều năm nay, bây giờ bắt đầu ngả qua tả và qua hữu của ông ta. Sự phức tạp và đa dạng của nhóm chống đối tăng lên đó mang tên là Lực lượng thứ ba, còn đi xa hơn trí thức đô thị sẵn sàng chiến đấu cho việc thực hiện Hiệp định Pa-ri hoặc đi xa hơn số người mong muốn hòa bình đông hơn rất nhiều nhưng hoàn toàn không có tổ chức.

Chính vì nhiều kẻ thù mới là những người đã từng ủng hộ ông ta, nên Thiệu đứng trước một thách thức còn nguy hiểm hơn nhiều. Việc chống lại và đe dọa giới dân sự là một sai lầm chiến thuật lớn của Thiệu bởi vì họ sẵn sàng gia nhập bất kỳ nhóm đối lập nào. Một số cá nhân đã làm sống lại một lực lượng thứ ba thân Pháp, chống Mỹ nhưng chưa thống nhất với nhau về thái độ đối với Chính phủ Cách mạng lâm thời. Sứ quán Pháp rất tích cực trong việc khuyến khích các phát triển này, mà họ hy vọng có thể khôi phục danh dự cho nghĩa vụ khai hóa của Pháp.

Tháng 4 năm 1974, Thiệu công kích lực lượng thứ ba là con đẻ không chỉ của Cộng sản mà còn là của những "thực dân" mà ông ta cho là đã cung cấp tiền của. Còn có thế lực hơn nữa là nhóm chống đối của những người theo đạo Thiên Chúa nhưng còn đang chia rẽ giữa các phái tả và phái hữu. Thiệu bắt đầu mất sự ủng hộ của các phần tử đạo Thiên Chúa trong năm 1972. Năm sau, Tòa thánh Va-ti-can tán thành một chính sách hòa giải với Chính phủ Cách mạng lâm thời, khuyến khích một thiểu số những người tiến bộ đạo Thiên Chúa trở nên tích cực hơn vì hòa bình.

Quan trọng hơn nhiều là sự xuất hiện lại của cánh hữu dưới sự lãnh đạo của cha Trần Hữu Thanh, một trong những người cộng tác trí thức gần gũi của Diệm và là người tổ chức cho Nhu: ông ta ra một tuyên bố tháng 6 năm 1974 chống lại sự tham nhũng và suy đồi xã hội và được 301 cha cố ký tên. Cha Thanh cho rằng chỉ một nhà nước trong sạch mới có thể đánh bại Cộng sản và nhiều người cho ông ta là diều hâu hơn cả Thiệu. Tiếp xúc với nhiều nhà lãnh đạo đang vươn lên và rêu rao rằng ba nghìn sĩ quan cấp cao là học trò cũ của mình, cha Thanh trở thành một nhân vật chống đối lớn.

Ngay đảng Dân chủ của chính Thiệu cũng trở thành một đá nam châm thu hút những người chống đối hùng mạnh. Sau tháng 5 năm 1974, đảng đó do Trần Văn Đôn, sinh ở Pháp và có thành tích lâu dài về mưu mô và cơ hội, lãnh đạo.

Thiệu cũng gặp khó khăn ngày càng tăng ở các tỉnh. Giáo phái Hòa Hảo ở sâu phía nam đồng bằng sông Cửu Long thành lập lại đội quân riêng với vũ khí mua của quân đội Việt Nam cộng hòa. Đối phó với họ là một nhu cầu quan trọng, buộc Thiệu phải xâm chiếm lãnh thổ của họ. Tháng 2 năm 1975. Tại cao nguyên Trung Bộ thiết yếu về mặt chiến lược, như một bộ trưởng của Thiệu về sau báo cáo lại những người miền núi chống lại Thiệu bởi vì quân đội Việt Nam cộng hòa "ăn trộm gà và giết hại gia súc, phá hoại mùa màng, đốt nhà và bắt bớ dân làng".

Những chuyên gia Mỹ ở Sài Gòn rất hoảng hốt trước những xu hướng này bởi vì Thiệu đối với họ là nền móng cho cố gắng của Mỹ. Tóm lại, Thiệu cũng giống như phần đông các nhà độc tài có quyền lực nhưng lại không có tính hợp pháp. Khi tình trạng này trở nên rõ ràng sau giữa năm 19?3, thì sự sống còn của Thiệu hoàn toàn phụ thuộc vào đồng đô-la Mỹ, cần thiết để nuôi sống các sĩ quan và trí thức là những người sống nhờ vào chế độ trong những năm béo bở. Dựng lên một lực lượng chính trị khả dĩ thay thế Cách mạng, từ một mớ hỗn độn những phe phái, những phần tử đứng ngoài, những quan chức chỉ biết có mình, và những tướng lĩnh đứng trên một xã hội đô thị, thụ động, tách ra khỏi họ, là một điểm hoàn toàn không thể làm được.

Sự tập trung nhân dân vào thành thị đã đẩy nhanh quá trình tan rã của Việt Nam cộng hòa bởi vì bây giờ càng khó duy trì một trật tự xã hội mà Mỹ đã tạo ra. Cách duy nhất để gạt vô số những mâu thuẫn phức tạp của một chế độ như vậy là tranh thủ lòng trung thành hoặc ít nhất sự thụ động của giới trí thức và quần chúng đô thị. Muốn thế phải duy trì vững chắc mặt kinh tế của toàn bộ cố gắng Mỹ.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #189 vào lúc: 26 Tháng Chín, 2008, 12:53:04 pm »

CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ CỦA MỘT TRẬT TỰ PHỤ THUỘC

Việt Nam cộng hòa đã rơi vào một hội chứng tai hại sau năm 1972 trong đó những tham lam quân sự đã phá hoại nghiêm trọng nền kinh tế, những thất bại kinh tế làm yếu sự ủng hộ chính trị vốn đã nhỏ bé, và những xu hướng kinh tế và chính trị nhanh chóng hủy hoại cơ cấu quân sự. Chế độ Việt Nam cộng hòa đang chìm sâu với tư cách là một thực thể toàn bộ.

Thế tiến lui đều khó, rõ ràng nhất của Việt Nam cộng hòa trong năm 1973 là các mục tiêu chiến tranh của Thiệu; chúng mang theo những hậu quả của kinh tế không thể tránh khỏi được. Việc cung cấp tài chính cho chiến tranh rõ ràng là chìa khóa để đạt những mục tiêu quân sự của ông ta cho nên không giải quyết được vấn đề đó sẽ là một nhân tố lớn trong thất bại quân sự của Việt Nam cộng hòa. Có nhiều cách làm cho Việt Nam cộng hòa sụp đổ, cách nào cũng sẽ là quyết định cả, nhưng vì kinh tế là một điều kiện đầy đủ cho sự mai một cuối cùng của Việt Nam cộng hòa, cho nên trong một thời gian trung hạn, nó làm nghiêm trọng thêm và nảy sinh ra vô vàn những vấn đề khác.

Mọi chỉ số của nền kinh tế đã giảm sút sau năm 1972 mặc dù số lớn viện trợ của Mỹ. Sản xuất công nghiệp năm 1972 thấp hơn một ít mức năm 1971, nó giảm 8 phần trăm năm 1973 và 23 phấn trăm năm 1974. Sản lượng nông nghiệp có tăng nhưng phải nhập 382.000 tấn gạo năm 1973 và 319.000 tấn năm 1974 gần gấp đôi số lượng nhập những năm 1971-1972.

Vấn đề cơ bản của nền kinh tế là hơn một nửa tổng sản phẩm quốc dân của Việt Nam cộng hòa là thuộc ngành dịch vụ và trên 27 phần trăm những người làm việc là làm công tác dịch vụ. Tình hình kinh tế bất thường và tai họa mà Mỹ đã tạo ra đó làm cho nền kinh tế hoàn toàn phụ thuộc vào khu vực đô thị hóa và giả tạo.

Số người Việt Nam làm cho các cơ quan Mỹ đã giảm từ 145.000 năm 1969, gấp ba lần số người làm trong công nghiệp chế tạo, xuống còn 15.000 cuối năm 1973. Số lượng mua của Mỹ bằng tiền Việt Nam đã giảm từ 347 triệu đô-la năm 1969 xuống còn 97 triệu đô-la năm 1974. Những việc làm gián tiếp như cô hầu gái, mối lái, đĩ điếm cũng giảm theo tỷ lệ đại khái như vậy. .

Lạm phát tỏ ra là vấn đề cấp bách, nhất là đối với những người làm bàn giấy và quân đội. Giá ở Sài Gòn tăng 26 phần trăm năm 1972, lên 45 phần trăm năm 1973 và 63 phần trăm năm 1974. Giá nhập khẩu năm 1973 cũng tăng hơn năm 1972 là 35 phần trăm và năm 1974 tăng hơn năm 1973 tới 5 phần trăm. Kết quả là một cuộc khủng hoảng ngày càng sâu sắc về ngân sách, mà đại bộ phận là do viện trợ cung cấp hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. Một nửa ngân sách là dùng cho chi tiêu quân sự tuy phần gián tiếp của quân sự còn lớn hơn nhiều.

Do việc sử dụng đến 1,4 triệu người, ngân sách Việt Nam cộng hòa tăng từ 19 phần trăm của tổng sản phẩm năm 1960 lên 30 phần trăm năm 1973. Phần của quân sự trong tổng sản phẩm quốc dân tăng từ 9 đến 18 phần trăm trong cùng thời kỳ. Xuất khẩu của Việt Nam cộng hòa không bao giờ vượt quá một phần mười của nhập khẩu và thường là vào khoảng một phần hai mươi. Thu nhập trong nước là do thuế chung đánh vào hàng tiêu dùng và nhập khẩu. Thuế thuốc lá cao hơn nhiều thuế thu nhập trực tiếp. Xét về mặt nào cũng vậy, nền kinh tế Việt Nam cộng hòa ở trong điều kiện khốn khổ không sao tự túc được. Việt Nam cộng hòa không sẵn sàng giảm chi tiêu của bộ máy quan liêu khổng lồ và cũng không sao xin đủ viện trợ để giữ nền kinh tế gần với mức 1969-1971.

Những con số đơn giản trên đây không sao nói lên được thực chất cuộc khủng hoảng kinh tế, nó làm cho sự kết thúc chiến tranh trở nên nhanh chóng. Cuộc khủng hoảng biểu hiện rõ nhất là ở các đô thị. Vì lạm phát mà buộc phải giảm nhập và giảm sản xuất sau đó cho nên thất nghiệp lên cao hơn bao giờ hết. Cơ quan phát triển quốc tế của Mỹ ước tính một cách dè dặt rằng một phần ba lực lượng lao động đô thị năm 1974 là thất nghiệp và thu nhập tính theo đầu người giảm đi từ 36 đến 48 phần trăm từ 1971 đến 1974.

Khủng hoảng kinh tế cùng với những chuyện kinh khủng về tham nhũng và bất lương là nội dung sự chống đối đô thị ngày càng tăng mà Thiệu phải đương đầu. Lần đầu tiên một câu hỏi cơ bản được thảo luận trong giới bảo thủ ở Sài Gòn là cơ cấu chính trị và xã hội của Việt Nam cộng hòa có thể tồn tại thêm được bao lâu nữa.

Giữa tháng 4 năm 1974, một cuộc họp đặc biệt của các quan chức chủ chốt và các nhà vạch chính sách kinh tế của Việt Nam cộng hòa để nghe Nguyễn Hữu Hạnh, một quan chức cao cấp rất được kính trọng của Quỹ tiền tệ quốc tế, đánh giá tương lai. Ông ta dự kiến viện trợ nước ngoài giảm sút, do đó tăng thêm thâm hụt về nhập. Vào cuối 1974 hoặc đầu 1975, do thiếu ngoại tệ mà phải giảm nhập rất lớn, Hạnh dự đoán như vậy. Cuối cùng, chẩn đoán của Hạnh được tóm tắt như sau "các hoạt động kinh tế sẽ đến chỗ bế tắc... lạm phát vượt ra ngoài sự kiểm soát, kinh doanh và nông nghiệp ngừng hoạt động do thiếu nguyên liệu, thất nghiệp sẽ đạt tỷ lệ kinh khủng, và hỗn loạn xã hội và chính trị bắt đấu".
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM