Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 10:39:41 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Giải phẫu một cuộc chiến tranh  (Đọc 97078 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #160 vào lúc: 21 Tháng Chín, 2008, 10:18:07 am »

Những nhà phân tích chính thức của Mỹ lúc đó và về sau cảm thấy rằng đáng ra cuộc chiến tranh có thể kết thúc mùa xuân năm 1972 nếu Mỹ không dùng những số lượng khổng lồ không quân ở Nam Việt Nam. Ngay dù cho tỉnh lỵ Quảng Trị bị chiếm lại, nhưng Quân đội nhân dân Việt Nam đã giữ phần lớn các khu vực rộng lớn mà họ đã tiến công kể cả phần lớn tỉnh Quảng Trị.

Việc sử dụng ngay tức khắc và quá nhiều sức mạnh không quân và hải quân Mỹ đã gây những thiệt hại nặng nề cho Quân đội nhân dân Việt Nam, và giúp cho quân đội Việt Nam cộng hòa được chút nghỉ ngơi tối cần thiết. Tuy nhiên cuộc tiến công của Quân đội nhân dân Việt Nam đã dấy lên tại Nhà Trắng vấn đề cơ bản của lòng tin đối với cả chính sách ngoại giao hòa dịu lẫn sức mạnh toàn cầu của Mỹ. Nhà Trắng đặc biệt hy vọng người Xô-viết giúp đỡ để chấm dứt chiến tranh, nhưng bây giờ, ít nhất là theo ý kiến của Tổng thống và phụ tá của ông ta, nước Mỹ tỏ ra là uể oải và bất lực.

Theo bản năng, Ních-xơn tán thành dùng ào ạt sức mạnh không quân. Số tàu hải quân đậu ngoài khơi Việt Nam vào cuối tháng 5 đạt đỉnh cao của chiến tranh và số B.52 tăng hơn gấp đôi trong vòng hai tháng. Le-đô chống lại xu hướng này, sợ rằng Tổng thống lại đưa quân đội trở lại Nam Việt Nam vào lúc Việt Nam hóa tỏ ra thất bại, và trên thực tế ông ta đã tìm được cách chuồn nhẹ 27.000 quân nữa ra khỏi Nam Việt Nam trong tháng 4.

Bộ chỉ huy quân sự ở Sài Gòn, muốn thêm không lực nhưng muốn máy bay chỉ giới hạn trong việc giúp quân đội
Việt Nam cộng hòa ở miền Nam. Tuy nhiên đối với Ních-xơn và phụ tá của ông ta thì cứu Việt Nam cộng hòa không quan trọng bằng tránh một thất bại gây nhục nhã vào lúc ông ta sắp đi Mát-xcơ-va. Do đó khía cạnh "người mất trí" của chiến lược ông ta, của Ních-xơn, con đường đứng đầu giận dữ, thiếu lý trí của một cường quốc thế giới, đã nổi lên hàng đầu.

Để chứng minh khả năng hành động của Mỹ, phải có những biện pháp tàn bạo, và Tổng thống đã chon việc ném bom lại Việt Nam dân chủ công hòa và rải mìn các cảng của họ, do đó mà thách thức việc vận tải bằng tàu của cả Liên Xô lẫn Trung Quốc. Chính quyền Mỹ cũng tỏ ra một lập trường Việt Nam cộng hòa cứng rắn hơn trong các cuộc thương lượng với người Xô-viết về những vấn đề chủ yếu là kinh tế.

Nhưng chính quyền Mỹ bị chia rẽ trong vấn đề leo thang chiến tranh. Le-đô chống lại, cũng như E-bram ở Sài Gòn, nhưng Bộ tham mưu liên quan thì hăng hái tuy không bác bỏ lập luận của CIA rằng leo thang sẽ không ảnh hưởng gì về vật chất đến cuộc chiến tranh ở miền Nam.

Ngày 30 tháng 4, Tổng thống tuyên bố công khai rằng lòng tin quốc tế vào sức mạnh Mỹ chống lại một quốc gia được "hai siêu cường cộng sản, viện trợ ào ạt" bây giờ là một vấn đề hàng đầu. Càng đáng ngại hơn là không những ông ta đưa ra khả năng tăng cường chiến tranh không quân mà còn mô tả các đê, đập ở Việt Nam dân chủ cộng hòa là "một mục tiêu chiến lược, và gián tiếp là một mục tiêu quân sự", tuy là một mục tiêu sẽ gây ra "một số lượng khổng lồ thương vong dân sự nếu bị phá hủy.

Khi ngày 8 tháng 5 tổng thống ra lệnh rải mìn và phong tỏa Việt Nam dân chủ cộng hòa và tăng cường chiến định không quân chống lại các mục tiêu cũ và mới, Việt Nam dân chủ cộng hòa bắt đầu sơ tán Hà Nội và củng cố các đê đập. Họ cũng nhanh chóng hầu như tìm được cách gạt bỏ tác động quan trọng nhất của cuộc phong tỏa bằng việc xây đựng một đường ống dẫn dầu từ biên giới Trung Quốc đến Hà Nội và bằng việc phát triển một phương pháp có hiệu quả của chính mình để vô hiệu hóa những mìn đã thả xuống.

Những phi vụ B.52 trong những tháng tiếp theo lên đến đỉnh cao của chiến tranh, và máy bay thả bom các đê rất rộng khắp, nhưng không gây được thiệt hại nghiêm trọng chỉ vì công tác sửa chữa đã làm tốt và nhờ mưa ít một cách thất thường. Về mặt quân sự mà nói, điều này có nghĩa là vì các cuộc tiến công Việt Nam dân chủ cộng hòa bằng không quân tăng lên và chỉ phục vụ mục đích chủ yếu là tượng trưng chứ không phải quân sự cho nên chiến tranh không quân ở miền Nam đã kém mức đáng ra phải có.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #161 vào lúc: 21 Tháng Chín, 2008, 10:18:48 am »

Với Việt Nam cộng hòa bị đánh bại một cách tồi tệ, Nhà Trắng tin rằng những sáng kiến ngoại giao chứ không phải quân sự sẽ đưa lại cho họ nhiều thành tựu hơn. Cuộc tiến công Việt Nam dân chủ cộng hòa là triệu chứng của thất bại Việt Nam hóa. 

Các tướng và chuyên gia Mỹ phân tích tác động của cuộc tiến công 1972 đối với Việt Nam hóa và cán cân quân sự ở miền Nam. Sự bi quan càng sâu sắc là kết quả của phân tích. Thất vọng là tướng E-bram mà nhiệm kỳ năm năm kết thúc vào 30 tháng 6. Ních-xơn thường hay nhắc lại ý kiến của E-bram để chứng minh rằng Việt Nam hóa có kết quả, nhưng khi nói chuyện riêng với nhau thì E-bram ít chắc chắn hơn về kết quả đó, nhất là sau Lam Sơn 719.
Quy mô thất bại của quân đội Việt Nam cộng hòa trong tháng 7 làm cho ông ta rất ngạc nhiên và phần đông những sĩ quan cấp cao chia sẻ nỗi thất vọng sâu sắc của ông ta. Tinh thần và khả năng chiến đấu của các sĩ quan quân đội Việt Nam cộng hòa làm cho sĩ quan Mỹ hết sức sửng sốt vì họ là những người gần gũi nhất.

Sau khi tổng kết lại những thất bại to lớn và những thiếu sót của quân đội Việt Nam cộng hòa, nhiều người Mỹ ở Nam Việt Nam nghĩ rằng ít nhất phải ba năm nữa mời biến được quân đội Việt Nam cộng hòa thành một lực lượng phòng thủ có hiệu quả Tuy nhiên một số những người thông thạo nhất lại kết luận rằng quân đội Việt Nam cộng hòa đã rất kém trong việc sử dụng vũ khí hạng nặng cho nên ít có hy vọng về khả năng nói trên.

Tất cả các yếu kém của quân đội Việt Nam cộng hòa, từ việc đảo ngũ cho đến sự bất lực của sĩ quan và tinh thần chung sa sút đã cộng vào với một Việt Nam cộng hòa yếu hơn nhiều so với Cách mạng về mặt quân sự. Bây giờ việc nghiên cứu những khó khăn của Quân đội nhân dân Việt Nam không còn hấp dẫn đối với phái đoàn Mỹ ở Sài Gòn như trước kia nữa. Bởi vì bây giờ Cách mạng chiếm giữ một vùng rộng lớn lãnh thổ và đã thấy một cách rõ ràng, và chắc chắn rằng trong cả năm 1971 lẫn năm 1972, quân đội Việt Nam cộng hòa đã được cứu khỏi thất bại hoàn toàn chỉ là nhờ sự can thiệp của Mỹ.

Những báo cáo bi quan của Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ ở Nam Việt Nam về Oa-sinh-tơn đã hình thành quan điểm của họ về cán cân quân sự mới và về tác động của Việt Nam hóa. Tiền đề quân sự cơ bản của Thiệu, từ khi ông ta nắm quyền, là chiếm giữ càng nhiều lãnh thổ và nhân dân càng tốt và bây giờ khi thế phòng ngự tĩnh tại đó cực kỳ dễ bị tiến công thì ông ta cũng không chịu thay đổi hoặc làm cho nó thích nghi với khả năng của ông ta hoặc của Cách mạng. Vì ông ta không chiếm lại được đất đai đã bị mất sau khi cuộc tiến công của Quân đội nhân dân Việt Nam chấm dứt, tình trạng yếu kém của ông ta đã làm tiêu tan mọi ảo tưởng còn lại của Nhà Trắng.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #162 vào lúc: 22 Tháng Chín, 2008, 03:37:48 pm »

NHỮNG HẬU QUẢ CHÍNH TRỊ VÀ NGOẠI GIAO CỦA CUỘC TIẾN CÔNG

Không những vị trí quân sự của Việt Nam cộng hòa yếu hơn, mà quyền lực và đời sống chính trị ở nông thôn của họ cũng yếu đi nghiêm trọng. Một mục tiêu lớn của cuộc tiến công là củng cố cơ cấu chính trị và du kích ở đâu có thể củng cố được, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long. Khi các lực lượng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở đồng bằng phát triển mạnh mẽ, thì chương trình bình định tan rã với một tốc độ không thể dự kiến trước. Hai chuyên gia Mỹ có ảnh hưởng đã đưa tin "rằng toàn bộ vị trí của kẻ thù ở đồng bằng đã được củng cố mạnh mẽ về mặt tự do đi lại, tiếp xúc với nhân dân và cung cấp lương thực cũng như về mặt làm giảm lòng tin của nhân dân nông thôn với khả năng bảo vệ của chính phủ".

Địa vị chính trị của Thiệu càng bị làm yếu hơn nữa vì chính sách bắt bớ và đàn áp của ông ta đã được đẩy mạnh khi cuộc tiến công bắt đầu, 3.300 người đã bị bắt trong 6 tuần ở đồng bằng và riêng Đà Nẵng có đến 600 người bị bắt. Với sự giúp đỡ của Đại sứ quán Mỹ, với mưu mô mánh khóe và với đút lót, Thiệu đã thuyết phục được Quốc hội tuyên bố quân luật cho đến cuối năm 1972, cấm báo chí còn ngặt nghèo hơn và chiếm độc quyền thống trị.

Hậu quả tức khắc là đoàn kết phe chống đối không cộng sản ở đô thị, gồm cả lần đầu tiên, những phần tử Thiên chúa giáo mà trước đây đã từng ủng hộ Thiệu một cách trung thành nhất. Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn tuyên bố rằng không thể có ai thay thế được Thiệu, nhưng rõ rằng cuộc tiến công đã thay đổi cán cân lực lượng ở cả nông thôn lẫn thành thị bất lợi cho Thiệu. Ngoài một số khá lớn những người "chờ thời", rõ ràng Thiệu không thể tìm đâu ra người để xây dựng một hệ thống quân sự có khả năng giành thắng lợi tại chiến trường. Riêng thực tế này cũng nói lên rằng trừ phi có một giải pháp hòa bình, nếu không chiến tranh có thể kéo dài và thất bại của Việt Nam cộng hòa là tất yếu. Càng rõ hơn nữa là đã xuất hiện một chuyển biến của tính chất chính trị ở đô thị: hòa bình và hòa giải trở thành những vấn đề có tầm quan trọng trọng yếu.

Còn Cách mạng thì trong mùa xuân và mùa hè năm 1972, đã đạt một thắng lợi lạ thường vừa về quân sự vừa về chính trị ở Việt Nam, và Oa-sinh-tơn biết rõ điều đó. Thắng lợi đã chứng minh rằng Mỹ không thể dựa vào Việt Nam hóa cuộc chiến tranh để cứu vãn vị trí của mình. Cả công khai lẫn trao đổi riêng với nhau, Cách mạng hoàn toàn vừa lòng đã chuyển sang so sánh lực lượng một cách quyết định sang phía mình và không có gì có thể đảo ngược được. Với nội dung và khả năng như vậy, lần đầu tiên các nhà lãnh đạo Đảng tin rằng họ có thể dựa vào ngoại giao làm một biện pháp chủ yếu, tuy chắc chắn không phải là độc nhất để đưa chiến tranh đến kết thúc.

Thật là kỳ lạ rằng, tuy thất bại rõ ràng của Việt Nam cộng hòa, Ních-xơn vẫn tăng thêm lòng tin vào thương lượng. Mặc dù mọi thứ đều trở nên xấu, ông ta ngày càng tin rằng chiến lược cô lập Việt Nam dân chủ cộng hòa đối với các đồng minh của họ, đang thành công tốt đẹp. Chừng nào Trung Quốc và Liên Xô sẵn sàng gặp Mỹ trong giai đoạn leo thang chống Việt Nam dân chủ cộng hòa, các lãnh đạo Mỹ có lý do để lạc quan và tất nhiên là Việt Nam dân chủ cộng hòa thì ngày càng bất bình và lo ngại khi Ních-xơn đi Mát-xcơ-va tháng 5 và Kít-xin-giơ đi Bắc Kinh liền sau đó.

Tuy nhiên, Kít-xin-giơ mô tả người Trung Quốc trong suốt thời gian đó có thái độ khá rõ rệt. Một công hàm của Trung Quốc trong tháng 4 "bày tỏ sự đoàn kết với Bắc Việt Nam", và khi Kít-xin-giơ đến Bắc Kinh cuối tháng 6, Chu "lặp lại đường lối tiêu chuẩn về món nợ lịch sử đối với Hà Nội", mà trong dó Kít-xin-giơ nhận ra một "ý ngầm" và một "hàm ý" đầy hy vọng về sự lo ngại của Trung Quốc đối với vai trò tương lai của Việt Nam dân chủ cộng hòa ở khu vực.

Nhu cầu "cô lập Hà Nội” hoặc "tách Hà Nội ra khỏi đồng minh" ngày càng chiếm cứ suy nghĩ của Ních-xơn và Kít-xin-giơ, trong khi những sự kiện thì diễn biến từ xấu đến tồi tệ ở Việt Nam, trong một đánh giá về sau của thời kỳ này, Kít-xin-giơ cho rằng "Crem-li đã thả lỏng đồng minh nhỏ nhưng lớn tiếng của mình". Nhưng ông ta cũng tuyên bố rằng "bằng việc để cho cuộc họp cấp cao được tiếp tục, Mát-xcơ-va đã giúp giảm bớt sự chống đối trong nước làm cho chúng tôi được tự do hành động để bẻ gãy xương sống cuộc tiến công của Bắc Việt Nam. Chiến lược hòa hoãn của chúng tôi, đặt ra những nguy hiểm và những lợi ích để nhử người Xô-viết đã dẫn đến khả năng đưa lại một sự kết thúc danh dự cho chiến tranh".

Người Nga không hủy bỏ cuộc họp cao trong khi B.52 mưa bom xuống toàn bộ Việt Nam, gây thiệt hại cho sinh mạng và tàu bè của Liên Xô. Không nghi ngờ gì những mối lợi chính trị của Ních-xơn trong cuộc họp là rất lớn và rõ ràng là các quan hệ Xô Mỹ đã đến một cao trào vượt xa cam kết của Mát-xcơ-va với Việt Nam dân chủ cộng hòa. Lợi ích của Liên Xô trong các vấn đề khác rõ ràng là rất lớn, và như thứ trưởng ngoại giao Mỹ U.A-le-xít Giôn-xơn đã nói mấy tháng sau đó rằng vì "việc giảm căng thẳng giữa bản thân chúng tôi và các cường quốc cộng sản cũng đe dọa ổn định của liên minh phương Tây", nên người Xô-viết cũng giành được một món lợi nào đó ở châu Âu, bất chấp những quan hệ mật thiết của họ với Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #163 vào lúc: 22 Tháng Chín, 2008, 03:38:26 pm »

Như Kít-xin-giơ đã nhận xét "các cuộc họp cấp cao giúp cho chúng tôi hoàn thành việc cô lập Hà Nội", và hạ thấp sự chống đối trong nước bằng cách tô vẽ Ních-xơn thành một người làm ra hòa bình. Ở góc độ mà các đồng minh của họ đã bảo đảm cho việc bầu lại Ních-xơn, Cách mạng có vẻ bị thua thiệt. Nhưng các cuộc họp cấp cao tuyệt đối không thể làm được gì cho cán cân lực lượng vật chất, cho sự thất bại của Việt Nam hóa, hoặc cho các mâu thuẫn khác trong vai trò của Mỹ trên thế giới và, trừ phi Mỹ có thể đảo ngược thực tế đó nếu không, sớm hay muộn gì rồi Mỹ cũng số thua cuộc chiến tranh.

Cả người Trung Quốc lẫn người Nga đều tìm cách lợi dụng chính sách ngoại giao của Nhà Trắng cho lợi ích của chính mình. Nhưng không có bằng chứng nào rằng bên này hay bên kia đã làm gì quan trọng để làm giảm khả năng vật chất của Cách mạng trong việc bảo vệ những thành quả của mình, như bằng cách giảm viện trợ chẳng hạn. Đó là điều mà Oa-sinh-tơn quan tâm nhất. Dù cho con số còn có thể tranh cãi ra sao, những nguồn chính thức của Mỹ cho thấy rằng viện trợ quân sự của Trung Quốc cho Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1972 tăng gấp đôi năm 1971. Chỉ viện trợ kinh tế của họ có giảm phần nào so với năm 1971.

Viện trợ vũ khí của Liên Xô tăng hơn gấp đôi. Cả hai nước đã khắc phục sự tranh cãi quá khứ của họ để gửi hàng cung cấp bằng đường xe lửa, kể cả những vũ khí hạng nặng của Liên Xô, nhằm phá vỡ tình trạng phong tỏa. Thực tế là mỗi bên đều muốn tìm cách đẩy Mỹ chống lại bên kia khi có thể làm được, hoặc ít nhất là làm cho Mỹ trung lập. Vì vậy, mỗi bên đều lợi dụng cuộc chiến tranh Việt Nam là một đòn bẩy cho mối quan tâm bao trùm đó của họ.

Tuy nhiên đối với Ních-xơn mục tiêu chủ yếu của hòa hoãn là thắng chiến tranh, hoặc ít nhất, sau tháng 5, là tránh một thất bại. Do sự khác nhau cơ bản về động cơ thúc đẩy và về các ưu tiên của Mỹ, của Trung Quốc và Liên Xô nên Nhà Trắng thấy rằng hòa dịu và ngoại giao tam giác là một biện pháp vô cùng khó khăn và chậm chạp, nếu không nói là không thể thực hiện được, để đưa đại thắng lợi ở Việt Nam. Phần đông những chuyên gia chính sách đối ngoại của Oa-sinh-tơn ngay từ ngày đầu đã nghĩ rằng cố gắng đó đang bị thất bại. Nhưng về vấn đề chính sách thì một mình Nhà Trắng cũng đã rất đủ quyền hạn để quyết định một vấn đề.

Ngoài thực tế căn bản rằng ngoại giao không thể đảo ngược được thực tế ở Nam Việt Nam và Việt Nam dân chủ cộng hòa cũng có thể khai thác những bất đồng Trung - Xô, Ních-xơn và Kít-xin-giơ vẫn háo hức muốn xem mọi biểu hiện hoặc bóng gió đều là bằng chứng của thắng lơi. Nhà Trắng ngày càng không chống lại sự cám dỗ của lòng tin mù quáng, tự đầu độc mình, vào hiệu quả và tầm quan trọng của hòa dịu và ngoại giao tam giác để giảm đến mức tối thiểu thất bại của Việt Nam hóa và không lực và để chế ngự chiến lược của Cách mạng hoặc phá hoại thành quả của họ.

Những hoạt động ngoại giao hấp dẫn ở Trung Quốc và Liên Xô không thể xác định kết quả của chiến tranh. Thiên hướng học viên lâu đời của Kít-xin-giơ chơi ván bài quốc tế mà Tổng thống muốn, có thể đủ để đảm bảo rằng sự kết thúc của cuộc dính líu ba mươi năm của Mỹ ở Việt Nam cũng sẽ đến với những ảo tưởng và hy vọng tuy rất phức tạp nhưng không kém phần sai lầm và vô bổ hơn những ảo tưởng và hy vọng đã lôi kéo Mỹ sâu vào cuộc xung đột.

Cuối cùng, trong khi sự sẵn sàng của Liên Xô và Trung Quốc sử dụng cuộc đấu tranh của Việt Nam dân chủ cộng hòa để phục vụ lợi ích riêng của họ đã làm cho Cách mạng bất bình, nhưng sự thiệt hại gây ra cho Việt Nam dân chủ cộng hòa không tỏ ra là quan trọng lắm. Thật là mỉa mai, chính sự khuyến khích của Liên Xô và Trung Quốc đối với những tham vọng của Mỹ đã vô tình giúp cho Cách mạng củng cố những thắng lợi quân sự của mình bằng thắng lợi ngoại giao.

Đúng nửa năm sau cuộc tiến công 1972, Ních-xơn chấp nhận Hiệp định Pa-ri, tin rằng Liên Xô và Trung Quốc sẽ và có thể giúp thực hiện hiệp định bằng cách cắt viện trợ quân sự một cách quyết định cho Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nếu không có ảo vọng này, rất có thể Mỹ đã không ký hiệp định như đã làm.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #164 vào lúc: 22 Tháng Chín, 2008, 03:41:20 pm »

Chương ba mươi tư
QUÁ TRÌNH NGOẠI GIAO: ẢO TƯỞNG VÀ THỰC TẾ

Biểu hiện bên ngoài và ý muốn bên trong, ảo tưởng và thực tế, tất cả kết hợp lại trong phần còn lại của năm 1972 để đưa lại một giai đoạn sôi nổi, xoắn xuýt trong đó ngoại giao lần đầu tiên chiếm vũ đài trung tâm của chiến tranh. Khi Nhà Trắng thực hiện ở nhiều cấp chính sách địa lý chính trị toàn cầu của mình, tác động hấp dẫn của nó gây cho Đảng Cộng sản vừa lo ngại và tức giận bởi vì chính quyền Mỹ đã giành được thời gian và quyền tự do tiến công Việt Nam dân chủ cộng hòa, thoát được những sức ép chính trị trong nước đòi giải quyết chiến tranh, và tiếp tục chiến lược ngoại giao phức tạp của mình.

Niềm an ủi duy nhất của Cách mạng là niềm tin của họ rằng những lực lượng vật chất và chính trị khách quan ở Nam Việt Nam sẽ quyết định kết quả cuối cùng của chiến tranh, và chức năng thiết yếu của ngoại giao là phải chấp nhận so sánh lực lượng mới mà cuộc tiến công thắng lợi của họ tạo ra. Vào tháng 5, Cách mạng sẵn sàng để cho ngoại giao đóng vai trò trung tâm của các cố gắng của mình.

Cho đến tháng 5 năm 1972, Mỹ tố cáo Việt Nam dân chủ cộng hòa không chịu tách các vấn đề chính trị ra khỏi các vấn đề quân sự, nhưng trên thực tế không bên nào có thể làm như vậy được. Ý đồ của Nhà Trắng là giữ Thiệu nắm quyền trong khi Mỹ chịu trách nhiệm về những nhu cầu quân sự, chính trị trong nước và trên thế giới của chính mình. Chiến tranh mà không Cổ Chính trị là một điều không thể có được nhưng đó là lập trường của Mỹ trong tất cả các cuộc thương lượng vô bổ trong những năm 1970-1971, với hy vọng rằng chiến tranh cuối cùng sẽ kết thúc bằng một sự kết hợp của hoạt động ngoại giao nước lớn. Việt Nam hóa và leo thang. Cách mạng sẽ bị buộc phải chấp nhận một giải pháp "quân sự" cho phép một cơ cấu chính trị do Mỹ ủng hộ tiếp tục tồn tại ở Nam Việt Nam.

Vấn đề ngừng bắn, các địa điểm đóng quân và các vấn đề chính phủ không ngừng được thảo luận trong các cuộc họp toàn thể và riêng, là những vấn đề phụ cho đến tháng 5 năm 1972 bởi vì cả hai bên cho rằng chỉ sức mạnh mới có thể xác định những vấn đề kỹ thuật đó. Kít-xin-giơ đưa ra những quan điểm mập mờ và thăm dò trong những cuộc hội đàm, và Ních-xơn hết lòng ủng hộ những cố gắng như vậy. Những thủ đoạn mặc cả liên tiếp đó kể từ năm 1965 là nhằm vào công chúng Mỹ và dư luận thế giới hơn là vào Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Khi công thức 29 tháng 9 năm 1967 của Giôn-xơn hoặc đề nghị "ngừng bom" 31 tháng 3 của ông ta vừa được tiết lộ thì Mỹ lại rút lui những đề nghị của mình khi thấy cần thiết. Những sự lật ngược như vậy tất nhiên làm cho Việt Nam dân chủ cộng hòa nghi ngờ những ý định của Mỹ, nhưng tháng 5 năm 1972, Đảng biết rằng một đợt ngoại giao mới có thể không làm hại mà ngược lại có thể củng cố lập trường của họ.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #165 vào lúc: 22 Tháng Chín, 2008, 03:42:27 pm »

SỰ BẮT ĐẦU CỦA NHỮNG CUỘC THƯƠNG LƯỢNG NGHIÊM CHỈNH

Diễn văn ngày 8 tháng 5 năm 1972 của Ních-xơn công bố việc rải mìn và ném bom khu vực Hà Nội - Hải Phòng cũng mở ra một chuỗi các sự kiện ngoại giao, tập trung vào một cuộc ngừng bắn trong toàn Đông Dương (nghĩa là chấm dứt ba cuộc chiến tranh chứ không phải là một) coi đó như là điều kiện tiên quyết cho việc rút hoàn toàn quân Mỹ trong vòng bốn tháng sau khi ký hiệp định. Việt Nam dân chủ cộng hòa nhanh chóng trả lời với một kế hoạch cho một chính phủ ba thành phần ở Nam Việt Nam, bao gồm Việt Nam cộng hòa không có Thiệu, chính phủ Cách mạng lâm thời và một "lực lượng thứ ba trung lập”.

Đúng như Ních-xơn chỉ tìm cách xoa dịu dư luận thế giới đang căm phẫn về sự leo thang của ông ta, Việt Nam dân chủ cộng hòa cố gắng làm mất tinh thần Việt Nam cộng hòa và khuyến khích các nhóm khác nhau thuộc lực lượng thứ ba đang xuất hiện vào lúc đó. Nhà Trắng nhắc lại những cố gắng lặp đi lặp lại của họ nhằm kéo Liên Xô vào các cuộc thương lượng như là một biện pháp cô lập Việt Nam dân chủ cộng hòa với những đồng minh của họ. Sự kết hợp giữa các mối quan hệ trong nước với hoạt động ngoại giao đã được tăng cường trong suốt mùa hè.

Kít-xin-giơ gặp Lê Đức Thọ thường xuyên sau giữa tháng 7, nhưng quang cảnh chính trị của hội đàm là quan trọng hơn nhiều cho cả hai bên, nhất là cho Mỹ, chứ không phải là thực chất hội đàm. Việc các cuộc thương lượng được tiến hành mà đến tai công chúng thì có nghĩa là Ních-xơn sẽ có phiếu bầu trong cố gắng được bầu lại. Đến mùa hè, vị Tổng thống ngày càng tự tin, nghiêng mạnh về việc để các cuộc thương lượng lại sau cuộc bầu cử. Từ điểm này trở đi thời điểm và nội dung các cuộc hội đàm không còn là nhân tố hàng đầu trong lập trường thương lượng của chính quyền Mỹ nữa. Điều quan trọng hơn nhiều bây giờ là quan điểm chính trị rộng lớn hơn của chính sách ngoại giao toàn cầu và là phạm vi vô cùng phức tạp để đạt một giải pháp cuối cùng chiến tranh.

Việc dùng chính sách hòa dịu và ngoại giao tam giác để lợi dụng Trung Quốc và Liên Xô làm đòn bẩy cho việc chấm dứt chiến tranh Việt Nam trong mùa hè năm 1972, đã hoàn toàn ám ảnh Tổng thống và Kít-xin-giơ. Ảo tưởng rằng sức mạnh của Mát-xcơ-va và Bắc Kinh có thể giúp một cách quyết định vào việc đạt những mục tiêu chiến tranh, đã trở thành hy vọng của Mỹ trong việc đi đến chấm dứt chiến tranh. Thật vậy, việc cả Bắc Kinh lẫn Mát-xcơ-va sẵn sàng nói chuyện với Mỹ khi Mỹ leo thang ném bom là một điều khuyến khích mạnh mẽ cho Mỹ. Trong mùa xuân và mùa hè năm 1972, cả Liên Xô lẫn Trung Quốc đều sẵn sàng hơn làm vai trò những trung gian trong cuộc chiến tranh.

Tháng 7 người Pháp báo cho Oa-sinh-tơn rằng Mao Trạch Đông đã khuyên Chính phủ Cách mạng lâm thời thay đổi lập trường về vấn đề gạt Thiệu, một sáng kiến làm cho chính quyền Mỹ thêm tin vào khả năng cô lập Cách mạng. Trong khi đó thì Nhà Trắng giảm đến mức tối đa thậm chí còn làm ngơ khi có bằng chứng không thuận lợi cho chính sách hòa dịu của mình đối với Liên Xô và Trung Quốc. Mặc dù trong tháng 10, Nhà Trắng yêu cầu người Nga đưa ra một bảo đảm rõ ràng rằng họ sẽ cắt viện trợ vũ khí cho Việt Nam dân chủ cộng hòa sau khi có một giải pháp hòa bình, và chỉ nhận được những trả lời thoái thác nhưng khi Kít-xin-giơ gặp Thiệu thì lại nói với Thiệu rằng Trung Quốc và Liên Xô đã hứa giảm cung cấp vũ khí cho Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Tóm lại, trong khi Việt Nam dân chủ cộng hòa phàn nàn về thái độ của những người ủng hộ họ, thì sự khuyến khích mà Bắc Kinh và Mát- xcơ va đưa lại cho Oa-sinh-tơn không làm giảm được sức mạnh cơ bản của Hà Nội, nó chỉ củng cố ảo tưởng của Mỹ về thắng lợi trong việc lợi dụng bất đồng Trung - Xô.

Trong mùa hè năm 1972, các quan hệ giữa Oa-sinh-tơn và Thiệu trở nên căng thẳng vì Cách mạng ở miền Nam càng thêm mạnh và Thiệu thì không chịu đựng nổi những thách thức như vậy. Trước đó chính quyền Mỹ đã làm cho Thiệu tin rằng mục đích của Mỹ là giữ Thiệu nắm chính quyến, và Thiệu và Mỹ đều có một loạt các lợi ích chung. Gần năm năm hợp tác trung thành đã trôi qua kể từ khi Mỹ bắt đầu chấp nhận mọi việc làm của Thiệu, từ tham nhũng thô bạo đến bất lực về quân sự, và trong tháng 5 vừa qua thì giúp Thiệu thiết quân luật.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #166 vào lúc: 22 Tháng Chín, 2008, 03:43:04 pm »

Trước khi Tổng thống đi Bắc Kinh, ông ta đoan chắc với Thiệu sẽ không có giải pháp cho chiến tranh vượt qua đầu Thiệu hoặc sẽ không có gì hại cho Thiệu về các vấn đề có liên quan đến Việt Nam cộng hòa. Đồng thời, mặc dù có những cuộc thương lượng, Mỹ vẫn cam kết phục hồi sức mạnh quân sự cho Việt Nam cộng hòa sau thất bại choáng váng vừa qua, làm cho Việt Nam cộng hòa đủ sức phá hoại mọi hiệp định. Mùa hè năm 1972, Thiệu tuyên bố chính sách "bốn không của ông ta: "Không thương lượng với kẻ thù", "không có hoạt động cộng sản ở miền Nam”, "không chính phủ liên hiệp", "không mất lãnh thổ cho kẻ thù".

Chẳng hề có chút nghi ngờ gì về điều mà Thiệu sẽ làm nếu một hiệp định hòa bình được ký kết, và chính việc đó đã làm cho Cách mạng đòi loại trừ ông ta ra khỏi mọi cơ cấu chính trị tương lai do một giải pháp đưa lại. Công khai cũng như bí mật, các quan chức Mỹ làm việc với Thiệu đều nói rõ rằng họ sẽ ủng hộ Thiệu ở lại nắm quyền bất chấp sự chống đối của đô thị hoặc có một hiệp định như thế nào. Trong các cuộc trao đổi trực tiếp với A-léc-xan-đô He-gơ và Kít-xin-giơ trong mùa hè, Thiệu khẳng định lại sự chống đối mọi cuộc ngừng bắn và ngày 3 tháng 8 ông ta tuyên bố công khai rằng biện pháp để hòa bình là duy trì cuộc chiến tranh không quân chống Việt Nam dân chủ cộng hòa, một đề tài và ông ta lặp lại với Kít-xin-giơ vài tuần sau đó.

Sau đó Kít-xin-giơ thừa nhận rằng Thiệu "không sẵn sàng cho một nền hòa bình thương lượng” mà muốn "một sự đầu hàng không điều kiện". Trong khi Kít-xin-giơ đổ điều đó cho một loại mất trí và tin rằng Thiệu sẽ không phải là một trở ngại không thể khắc phục được, thì con người độc tài đó chỉ cố lấy tất cả những gì có thể lấy được.

Ngày 31 tháng 8, sau khi Kít-xin-giơ thảo luận vấn đề này với Ních-xơn, Tổng thống viết cho Thiệu một bức thư làm cho ông ta càng ngoan cố. Sau khi khẳng định là Mỹ đã điều chỉnh một số điểm "thực chất" theo quan điểm của Thiệu, bức thư còn khẳng định rằng Mỹ không có thể "mua bán hòa bình hoặc danh dự hoặc bù lại những hy sinh của mình bằng cái giá bỏ một đồng minh dũng cảm".

Sự khen ngợi hết lời của Ních-xơn đối với "vai trò lãnh đạo thực sự của Thiệu chính là điều mà nhà độc tài mong muốn để chống lại sự phản đối ngày càng tăng trong nước. Cuối cùng Thiệu có lý do để tin rằng người Mỹ phụ thuộc vào ông ta một cách không đảo ngược được. Vì vậy sự chống đối của ông ta đối với tất cả những điều xảy ra trong những tháng tiếp theo là sự lô-gích có thể đoán trước được của mối quan hệ của ông ta với Mỹ.

Cuộc chiến tranh không quân quy mô đầy đủ chống lại Việt Nam dân chủ cộng hòa đã được nối lại tháng 4 năm 1972 và đến mùa hè thì đạt những tỷ lệ đồ sộ, kể cả những cuộc tiến công vào những đê xung yếu nhất phía đồng bằng sông Hồng. Từ Hà Nội và Hải Phòng, nhiều thành phố khác đã bị tàn phá có hệ thống. Trong 25 ngày đầu của tháng 10 Mỹ đã thả xuống 31.600 tấn bom xuống Việt Nam dân chủ cộng hòa làm cho thời gian đó trở thành ác liệt nhất của việc ném bom hàng ngày kể từ trước.

Tổng thống tìm cách làm cho Việt Nam dân chủ cộng hòa thương lượng dưới sự cưỡng ép tàn bạo nhất, thực hiện mưu đồ tự tỏ ra là "con người mất trí". Vào lúc sự chú ý của Mỹ và của thế giới tập trung vào việc ném bom trong lễ Giáng sinh, Việt Nam dân chủ cộng hòa đã trải qua hơn nửa năm dưới cơn thịnh nộ của Ních-xơn. Cũng như chính quyền Mỹ không thương lượng dưới sức ép của cuộc bầu cử mà họ tin là sẽ thắng, Việt Nam dân chủ cộng hòa cũng không thương lượng do bị tàn phá khủng khiếp hơn nữa, bởi vì những đe dọa có thể có của Mỹ đều đã được thực hiện rồi.

Việc ném bom miền Bắc không có quan hệ gì với phương trình xã hội và quân sự ở miền Nam và điều đó làm cho Việt Nam dân chủ cộng hòa có thể thương lượng từ một thế mạnh. Về thực chất, không có tiền đề chủ chốt nào mà Ních-xơn dùng để làm cơ sở cho cuộc chiến tranh, từ ngoại giao hòa dịu cho đến Việt Nam hóa và leo thang điên rồ, còn có thể đứng vững khi thương lượng nghiêm chỉnh cuối cùng bắt đầu tháng 9 năm 1972.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #167 vào lúc: 22 Tháng Chín, 2008, 03:44:05 pm »

NHỮNG CUỘC HỘI ĐÀM PA-RI: LÀM RA VÀ PHÁ HỦY MỘT HIỆP ĐỊNH

Cho đến tháng 9 năm 1972, cả người Mỹ lẫn những người Cộng sản đã hướng những đề nghị của họ về chấm dứt chiến tranh không phải nhằm vào nhau mà nhằm vào dư luận hoặc ở trong nước, như trường hợp của Oa-sinh-tơn, hoặc ở Nam Việt Nam. Kế hoạch tháng 5 của Cách mạng thành lập một chính phủ liên hiệp ba thành phần bao gồm cả Việt Nam cộng hòa mà không có Thiệu là sự khai thác ngoại giao cuối cùng cho công tác tuyên truyền. Vào mùa hè, rõ ràng là Cách mạng đã làm nghiêng cán cân quân sự đủ về phía mình nhưng sẽ chịu tổn thất hết sức cao nếu tiếp tục chiến đấu chống không lực của Mỹ.

Cuộc tiến công 1972 đã làm bộc lộ tất cả những căng thẳng và thất bại của trật tự chính trị và quân sự Việt Nam cộng hòa, và việc Thiệu thiết quân luật phản ánh sự chống đối ngày càng tăng của những đối thủ thuộc giai cấp trung gian ở đô thị vừa mới nổi lên. Từ đầu, cuộc chiến tranh đã từng chủ yếu là một sự can thiệp quốc tế. Nếu không có sự có mặt của quân đội nước ngoài, Cách mạng chắc chắn đã giành được thắng lợi cuối cùng dưới bất kỳ hiệp ước hòa bình hợp lý nào.

Nhà Trắng khăng khăng đòi tách các vấn đề quân sự và chính trị riêng ra trong các cuộc thương lượng và giải quyết các vấn đề quân sự cụ thể trước. Đó là cách của Mỹ muốn giữ nguyên trạng thái chính trị. Vì Mỹ trong suốt mùa hè không đưa ra điều gì mới hơn là các kế hoạch cũ dưới những hình thức mới, nên chỉ những đề nghị mới của Việt Nam dân chủ cộng hòa mới có thể phá vỡ được bế tắc. Kít-xin-giơ thừa nhận phản ứng ngày 1 tháng 8 của Lê Đức Thọ: "ít nhất là một lần, lời tố cáo của ông ta rằng tôi không đưa ra "điều gì mới" cả, là chính xác”.

Việt Nam dân chủ cộng hòa đưa ra những sáng kiến lớn mà Kít-xin-giơ nghĩ rằng sẽ đưa đến việc tách riêng các vấn đề quân sự và chính trị ra với nhau, và chính lúc này, tin ở khả năng được bầu lại, Tổng thống cho thấy ông ta hoãn các cuộc thương lượng cho đến sau cuộc bầu cử, Xây-mua Het-sơ (Seymour Hersh) đã lập luận một cách thuyết phục rằng từ đó trở đi Kít-xin-giơ đơn phương tìm cách đi đến một hiệp định để củng cố các mối quan hệ đang giảm sút của ông ta với Tổng thống. Thành công trong việc chấm dứt chiến tranh không những làm cho ông ta giữ vững được chức vụ mà còn trở trành bộ trưởng ngoại giao trong chính quyền sắp đến. Kít-xin-giơ cũng biết rằng kéo dài bao nhiêu để đi đến một hiệp định thì càng ít khả năng bấy nhiêu để tác động đến các sự kiện quân sự nếu không đạt được hòa bình.

Tuy Tổng thống không thấy thoải mái, nhưng Lầu Năm Góc dưới quyền của Le-đô không ngừng rút quân Mỹ và gạt Việt Nam ra khỏi ngân sách những cam kết của mình. Ngày 29 tháng 8, Ních-xơn công bố một đợt rút quân nữa, để lại chỉ 27.000, và Kít-xin-giơ sợ rằng Mỹ có thể đơn phương rút tất cả các lực lượng của mình. Bây giờ ông ta thách thức không phải chỉ Ních-xơn và Thiệu mà còn cả những ai yên lặng nghiêng về việc kéo Mỹ ra khỏi một tình trạng đang thua.

Mặc dù sự chống đối của Thiệu, khi Chính phủ Cách mạng lâm thời ngày 11 tháng 9 nói rõ lập trường công khai chấp nhận Việt Nam cộng hòa như một thực tế và ngụ ý việc tách các vấn đề quân sự ra khỏi các vấn đề chính trị thì Kít-xin-giơ biết rằng Thiệu sẽ ở lại và những tiến bộ lớn sẽ diễn ra trong các cuộc thương lượng. Kít-xin-giơ nhớ lại rằng, "tình hình đó làm cho Thiệu chán nản" nhưng ông ta không nhụt chí. Và từ sự chống đối của Thiệu ngày càng làm cho Ních-xơn bực mình, nhưng chính ông ta trong những tuần tiếp theo cũng không muốn ký một hiệp định trước cuộc bầu cử nếu nó không có chính điều mà ông ta muốn.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #168 vào lúc: 22 Tháng Chín, 2008, 03:44:39 pm »

Kít-xin-giơ đưa ra đề nghị cuối cùng cho Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 8 tháng 10 và thông qua người Nga mà báo rằng nếu Việt Nam dân chủ cộng hòa bác bỏ đề nghị, thì ông ta sẽ hoãn cuộc hội đàm đến sau bầu cử. Tuy nhiên, cùng ngày Lê Đức Thọ trao cho Kít-xin-giơ văn bản của hiệp định dự thảo đầy đủ đầu tiên, bao gồm tất cả các điểm trong tuyên bố của Chính phủ Cách mạng lâm thời. Hiệp định rõ ràng tách riêng các vấn đề chính trị và quân sự do đó các vấn đề quân sự có thể có những tiến bộ nhanh chóng trong khi Chính phủ Cách mạng lâm thời và Việt Nam cộng hòa tìm cách giải quyết một cách độc lập các vấn đề chính trị phức tạp hơn.

Lê Đức Thọ cho rằng Việt Nam dân chủ cộng hòa đã chấp nhận thực chất các đề nghị trước của Mỹ và Kít-xin-giơ hớn hở ngay tức khắc báo cho Ních-xơn rằng ông ta đồng ý. Tổng thống tán thành: "Họ đang chấp nhận một giải pháp theo những điều kiện của chúng ta". Một vấn đề quan trọng nhưng không phải không giải quyết được là quyết tâm của Thiệu cản trở mọi hiệp định. Quan trọng hơn nhiều là việc Ních-xơn muốn hoãn các cuộc thương lượng, mặc dù mong muốn thiết tha của trợ lý ông ta là đi đến ký kết.

Kít-xin-giơ biết rằng Ních-xơn không thiết tha chấm dứt chiến tranh trong tháng đó, nhưng ông ta cũng thấy những nguy hiểm của việc hoãn lại. Về sau ông ta viết: "Người ta có thể tưởng tượng sự la ó của công chúng như thế nào nếu chúng ta lại bác bỏ việc Hà Nội chấp nhận những đề nghị của chúng ta và cuối cùng "những lời tố cáo về vô đạo đức và ác ý trong việc tự bác bỏ những đề nghị của chính mình" sẽ làm cho không thể nào còn giành được những điều kiện tốt hơn hoặc thậm chí ngang bằng về sau”. Trong quang cảnh như vậy và thấy trước triển vọng đầy bấp bênh, Kít-xin-giơ và Việt Nam dân chủ cộng hòa thương lượng ở Pa-ri.

Nhà Trắng đưa ra và nhận được một số thay đổi trong dự thảo của Việt Nam dân chủ cộng hòa. Vấn đề phức tạp này duy nhất là ngừng bắn cho toàn Đông Dương chứ không phải chỉ ở Việt Nam. Phần còn lại chỉ gồm những vấn đề kỹ thuật nhỏ và được giải quyết nhanh chóng. Cái chính là sẽ không có chính phủ liên hiệp mà chỉ là một cơ cấu tổ chức không ràng buộc để thảo luận về sau tất cả các vấn đề chính trị, ngay dù cho là vấn đề thừa nhận sự tồn tại và tính hợp pháp của Chính phủ Cách mạng lâm thời.

Không có gì được nói về việc rút các lực lương Việt Nam dân chủ cộng hòa khỏi Nam Việt Nam, một điểm mà Oa-sinh-tơn đã bỏ tháng 10 năm 1970, và Việt Nam dân chủ cộng hòa đã đồng ý để cho Mỹ thay thế vũ khí cho Việt Nam cộng hòa trên cơ sở một đổi một. Chủ yếu là Mỹ sẽ rời Nam Việt Nam và tháo gỡ các căn cứ của mình và Cộng sản sẽ cho hồi hương những binh lính Mỹ bị bắt trong khi Mỹ sẽ để lại những người thay thế Nam Việt Nam được giúp đỡ đầy đủ để tự lo liệu lấy.

Thực chất chính của hiệp định được nhanh chóng viết ra và chấp nhận ở Pa-ri trong những ngày ngắn ngủi đó. Khó khăn thực sự không phải là các điều khoản của hiệp định mà là Tổng thống, Thiệu và một mớ hỗn độn những mưu đồ và bực bội được xây dựng nên ở Oa-sinh-tơn và Sài Gòn.

Tất nhiên, Thiệu nói chung là có thể đoán trước được và ông ta ngay tức khắc đã thách đấu và buộc Kít-xin-giơ phải đi Sài Gòn ngày 19 tháng 10 trên đường đến Hà Nội để ký tắt hiệp định trước khi định ký chính thức ngày 31 tháng 10. Kít-xin-giơ thấy Thiệu là không khoan nhượng nhưng cũng rất hăm hở bòn rút viện trợ quân sự của Mỹ, Thiệu ở trong thế bị động nhưng vẫn nói rõ rằng ông ta chống lại cả những chi tiết lẫn nguyên tắc của hiệp định.

Khi Kít-xin-giơ đến Sài Gòn, ông ta mang theo một bức thư của Ních-xơn giải thích rằng mục tiêu chính trị cơ bản của Thiệu đã đạt được và "chính phủ của ông ta, các lực lượng vũ trang và các thể chế chính trị sẽ được giữ nguyên vẹn sau khi ngừng bắn được thực hiện”. Chính phủ đó sẽ tiếp tục nhận viện trợ quân sự và kinh tế. Ních-xơn nói rõ: "Chúng ta không có cách nào khác hợp lý hơn nên phải chấp nhận hiệp định đó". Và ông ta không những nghĩ rằng "đó là hiệp định tốt nhất mà chúng ta có thể đạt được" mà còn bảo đảm với Thiệu rằng Kít-xin-giơ đã được ông ta "hoàn toàn ủng hộ".
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #169 vào lúc: 22 Tháng Chín, 2008, 03:45:31 pm »

Kít-xin-giơ đã biết rằng Tổng thống vẫn không còn thiết tha có một hiệp định tháng đó nhưng Kít-xin-giơ nghĩ rằng ông ta có thể thuyết phục Ních-xơn. Lý do của Tổng thống là muốn tránh một cuộc đụng đầu với Thiệu, nhưng quan trọng hơn nhiều là một loạt các lý do chính trị, bàn giấy và cá nhân đưa đến một quyết định giống nhau trong nội bộ chính quyền Mỹ là không chịu ký một hiệp định chủ yếu là dựa trên lập trường của Mỹ, Kít-xin-giơ không tin điều đó sẽ xảy ra tuy bằng chứng sau này 19 tháng 10 cho thấy điều ngược lại.

Khi Kít-xin-giơ hoãn ngày đến Hà Nội và cuối cùng bỏ việc ký tắt đã được quy định, thì ngày 24 tháng 10 Thiệu công bố một sự lên án công khai các cuộc hội đàm. Bị phản bội, hai ngày sau, Việt Nam dân chủ cộng hòa đưa ra công khai lịch sử và văn bản của các cuộc thương lương.

Việc Việt Nam dân chủ cộng hòa tiết lộ sự lừa dối lạ lùng của Nhà Trắng không gây tổn thương gì cho Ních-xơn và ông ta đã được bầu lại với đa số phiếu lớn nhất trong lịch sử Mỹ. Trong khi đó thì Thiệu đã giành được một sự cam kết viện trợ khổng lồ trong tháng 10, coi đó là một sự an ủi mà về sau chỉ tăng thêm sự ngoan cố của Thiệu.

Trong mùa hè, Lầu Năm Góc đã bắt đầu thay những nhà kỹ thuật quân sự chủ chốt bằng những người dân sự mà nhiều người là những nhân viên quân sự cũ. Kế hoạch En-hen-xơ và tiếp theo là En-hen-xơ Phớt đưa sang Việt Nam 260.000 tấn hàng chiến tranh trong một thời gian hai tháng. Với giá gần 2 tỷ đô-la, En-hen-xơ đã làm cho Việt Nam cộng hòa có một lực lượng không quân lớn thứ tư của thế giới và một số lượng khổng lồ xe tăng, trọng pháo và máy bay lên thẳng.

Bây giờ Việt Nam cộng hòa có một ưu thế hỏa lực át hẳn đối với Việt Nam dân chủ cộng hòa, và đầu tháng 11, theo một tài liệu lịch sử chính thức của sự kiện này thì "Mỹ vi phạm tinh thần các điều khoản của Hiệp định Pa-ri" và đã chuyển quyền sở hữu các căn cứ của mình cho Việt Nam cộng hòa để khi đến lúc phải tháo gỡ thì có thể tuyên bố là không có căn cứ nào. Mọi điều đã được chuẩn bị để Thiệu có thể theo đuổi một cuộc chiến tranh kéo dài trong thời kỳ sau hiệp định.

Trong một cuộc chiến tranh mà từ đầu Mỹ đã có vô số hành động đen tối thì những sự kiện của hai tháng tiếp theo được xếp vào loại xấu xa nhất, Ních-xơn là kiến trúc sư chính của giai đoạn bẩn thỉu này và Kít-xin-giơ, giống như từ lúc mới bắt đầu, là kẻ bợ đỡ trung thành và cực kỳ tham lam của ông ta, chỉ quan tâm đến sự nghiệp riêng của mình trên tất cả. Cuối tháng 10, Tổng thống đã làm cho ông ta lúng túng và dọa dẫm ông ta nên ông ta không dám tỏ ra độc lập nữa. Những hành động của Ních-xơn bộc lộ tất cả tính chất tai ác đến việc ông ta phải rời nhiệm vụ. Quyền lực đã làm cho Tổng thống mê mẩn tâm thần.

Thiệu là người đầu tiên cảm thấy chua xót, ngay dù cho vũ khí và tiền của tuôn nhiều hơn vào Việt Nam cộng hòa. Nhưng Thiệu không phải là vấn đề cơ bản bởi vì thái độ của ông ta đối với thương lượng luôn luôn là rõ ràng và ông ta không giấu giếm gì chiến lược "bốn không” của ông ta để cản trợ sự thực hiện bất kỳ một hiệp định nào. Điều rất cần cho ông ta là có vũ khí và tiền của để phá hoại hiệp định, và những thứ đó ông ta đang nhận được. Thiệu chắc chắn không thể đề ra chính sách cho Nhà Trắng vào lúc này hay lúc khác, bởi vì mọi người đều biết rằng ông ta không thể tồn tại nếu không có tiền Mỹ. Ông ta chỉ được dùng như một cái cớ thích hợp cho sự trì hoãn của Mỹ.

Ngày 29 tháng 10 Ních-xơn nói với Thiệu "ông không được nuôi dưỡng ảo tưởng rằng chính sách của tôi muốn đạt một nền hòa bình, sớm sẽ thay đổi sau cuộc bầu cử”. Ngày 8 tháng 11, ông ta nói rằng trong khi tìm cách đạt những thay đổi trong "một hiệp định mà chúng tôi đã xem là rất tốt" Mỹ sẽ giữ vững nó. Ngày càng tức giận vì một chiến dịch chống hiệp định mà Thiệu đã tổ chức ra, Ních-xơn cảnh cáo Thiệu ngày 29 tháng 10, rằng nếu "quá trình nguy hiểm mà chính phủ ông đang theo đuổi" mà còn tiếp tục thì sẽ "không tránh khỏi việc cắt kinh phí của Quốc hội".

Từ đó trở đi Tổng thống không tiếc lời về việc Quốc hội cắt kinh phí nếu Thiệu trở nên ngoan cố, và đưa ra những đe dọa giảm hoàn toàn viện trợ. Nhưng để làm dịu bớt những lời cảnh cáo đó, ngày 14 tháng 11, Ních-xơn viết cho Thiệu "ông được tôi tuyệt đối bảo đảm rằng nếu Hà Nội không tôn trọng những điều khoản của hiệp định này thì ý định của tôi là đưa ra hành động trả đũa nhanh chóng và nghiêm trọng". Những cam kết tương tự đã được nói chi tiết vế sau trong chương trình này, cũng đã được đưa ra cho Thiệu trong tháng giêng tiếp theo.

Ních-xơn đe dọa Thiệu ngày 23 tháng 11 rằng nếu ông ta chống lại hiệp định "tôi sẽ tiếp tục đi tới với bất kể giá nào". Những lời cảnh cáo Thiệu về hành động của Quốc hội không phải là những lời suông bởi vì, sau khi thăm dò bạn bè ở đó, Nhà Trắng kết luận cuối tháng 11 rằng Quốc hội sẽ thực sự cắt viện trợ nếu không hoàn thành được một giải pháp sau khi Quốc hội họp lại vào cuối tháng giêng. Vấn đề thực sự của Tổng thống là ông ta không còn thì giờ để trì hoãn nữa và Thiệu là người duy nhất chịu trách nhiệm. Vì những lý do phù phiếm và không nói ra, Ních-xơn đã không chịu tán thành ký một văn kiện mà ông ta ủng hộ mạnh mẽ về nguyên tắc nên bây giờ phải giải quyết một thế khó xử lớn.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM