(tiếp)Mức độ thiệt hại của tuần dương hạm, khu trục hạm, frigate, tàu quét mìn, tàu ngầm, tùy thuộc vào loại bom đạn sử dụng để tiêu diệt chúngTrong cuộc xung đột Ấn Độ-Pakistan (1971), chiến tranh Ả Rập-Israel (1973) và cuộc xung đột Anh- Argentina (1982), tên lửa hành trình chống hạm do đặc tính chiến đấu cao đã vững bước tiến vào đội hình những phương tiện hiệu quả nhất để tiêu diệt tàu mặt nước và các mục tiêu trên bờ biển. Mức độ tiêu diệt các loại tàu của nó là 77,7 % tổng số các mục tiêu bị phá hủy khi tấn công chúng bằng tên lửa chống hạm, và 22,3 % tàu bị hư hại. Từ kinh nghiệm của các cuộc chiến tranh cục bộ người ta thấy rằng để tiêu diệt tàu chiến loại khu trục hạm thì tàu phải trúng hai đến ba tên lửa, loại tàu tuần tra, frigate, tàu quét mìn có độ choán nước đến 600 tấn, tàu đổ bộ cỡ lớn - mục tiêu cần phải trúng một hoặc hai tên lửa, còn với tàu trọng tải nhỏ hơn - chỉ cần trúng một đạn. Trường hợp ngoại lệ là trong cuộc chiến tranh Ả Rập-Israel (1973 ), để đánh chìm một tàu cao tốc cỡ nhỏ độ choán nước khoảng 200 tấn, người Israel đã tiêu tốn đến 4 tên lửa "Gabriel". Nhưng điều đó có nguyên nhân ở sức công phá thấp của đầu đạn tên lửa Israel. Ngay sau khi chiến sự kết thúc, nhược điểm này đã bị loại bỏ.
Thông thường, khi bắn trúng thân tàu, tên lửa chống hạm tạo ra một lỗ phá lớn, đôi khi lên đến 8 m2. Sau khi đầu đạn tên lửa phát nổ thường là trên tàu sẽ bùng lên đám cháy mạnh, trong một số trường hợp kèm theo các vụ nổ [ 462 ] đạn dược và nhiên liệu chứa trên tàu. Đám cháy đặc biệt mạnh khi tên lửa phóng đi từ khoảng cách gần. Trong những trường hợp như thế, nhiên liệu tên lửa chưa cháy hết sẽ bị vụ nổ phân tán đi trên diện rộng, gây ra rất nhiều vụ cháy thứ phát. Trong một số trường hợp do trúng tên lửa mà độ bền vững của con tàu bị phá hủy. Tàu mất dự trữ nổi và chìm.
Được trang bị tên lửa chống hạm, các tàu mặt nước, máy bay và tàu ngầm có khả năng giải quyết trong thời đại hiện nay một loạt các nhiệm vụ đa dạng trong hoạt động tác chiến trên biển và tạo nên mối đe dọa tiềm tàng cho tất cả các loại tàu mặt nước.
Sự khẳng định kỷ nguyên tàu mặt nước đã kết thúc tỏ ra vô căn cứ. Việc trang bị cho chúng những vũ khí hiện đại và các phương tiện chiến đấu có mục đích khác nhau đã làm chúng trở thành những tàu chiến đa năng nhất trong số tất cả các loại lực lượng của hạm đội. Bằng chứng về vai trò ngày càng tăng của tàu mặt nước là sự phục hồi tốn kém bốn thiết giáp hạm của người Mỹ dựa trên cơ sở kỹ thuật mới và sự triển khai tại nhiều quốc gia việc đóng mới các tàu tuần dương, tàu khu trục và frigate.
Việc sử dụng các tên lửa hành trình dẫn đến sự thay đổi cơ bản trong nghệ thuật tác chiến và chiến thuật hải chiến trên biển, tạo cho nó một nội dung tấn công hiện đại, làm cơ sở cho việc xây dựng các quy tắc chiến đấu mới cho các lực lượng trong hải chiến.
Khi phân tích kinh nghiệm sử dụng vũ khí tên lửa tác chiến trong các cuộc chiến tranh và xung đột vũ trang cục bộ, có thể thấy rằng việc ứng dụng có hiệu quả loại vũ khí này chỉ xảy ra khi lực lượng thực hiện nhiệm vụ chiến đấu được huấn luyện với chất lượng tốt, ra quyết định một cách có cơ sở trong việc đưa lực lượng vào trạng thái SSCĐ và áp dụng tên lửa chống hạm, triển khai lực lượng trong các điều kiện ngụy trang chiến dịch và chiến thuật khi nhanh chóng tiến gần đối phương [ 463 ] và giáng xuống đối thủ đòn tấn công tên lửa phủ đầu, khi khuếch trương chiến quả bằng các đòn tấn công tiếp theo sử dụng tên lửa chống hạm và các loại vũ khí khác. Để đạt được thành công trong một trận hải chiến hiện đại sẽ không thể thiếu sự đảm bảo toàn diện, đặc biệt là của các lực lượng trinh sát và tác chiến điện tử. Theo nhiều chuyên gia quân sự, một trong những lý do chính cho sự thành công trong hoạt động của Hải quân Israel và sự thất bại của Hải quân Syria và Ai Cập có liên quan đến việc đảm bảo kịp thời cho các tàu chiến những thông tin tình báo về đối phương và công tác chỉ huy các lực lượng trên biển được tập trung hóa, cũng như việc chỉ huy trực tiếp các tàu cao tốc tên lửa cỡ nhỏ trong trận chiến có sự trợ giúp của các hệ thống tự động hóa hiện đại.
Các yêu cầu trước tiên đặt ra cho công tác trinh sát là cần phải đảm bảo việc áp dụng tên lửa hành trình chống hạm ở cự ly ngoài đường chân trời. Ngoài ra, còn nảy sinh yêu cầu phải phát hiện được vật mang tên lửa ở các cự ly lớn hơn tầm bắn của vũ khí tên lửa, vì vậy thiếu hiểu biết về tình huống chiến thuật ngoài đường chân trời sẽ làm tăng nguy cơ bị TLCH tấn công bất ngờ.
Đặc điểm điển hình nhất đối với cuộc xung đột Anh- Argentina là việc sử dụng kết hợp tất cả các loại hình trinh sát của Vương quốc Anh và sự hiệp đồng hoạt động của họ với các cơ quan đặc biệt và các hệ thống không gian của Hoa Kỳ.
Lần đầu tiên dữ liệu ảnh chụp từ vũ trụ, dữ liệu trinh sát radio và trinh sát vô tuyến điện tử đã được sử dụng rộng rãi. Các vệ tinh nhân tạo Mỹ trinh sát bằng quang học từ trên không gian ("Key Hole 11"), vệ tinh trinh sát ảnh và trinh sát vô tuyến điện tử ("Big Bird"), đã thu thập và chuyển giao cho bộ chỉ huy Anh một lượng thông tin vô cùng to lớn.
Về các phương pháp sử dụng phương tiện tác chiến điện tử, các chuyên gia quân sự đã kết luận rằng các khí tài này nên được sử dụng theo một kế hoạch soạn thảo cẩn thận, có tính chất kết hợp toàn diện, tính đến tình huống chiến thuật hiện tại, khả năng của đối thủ [464] và các lực lượng của bản thân. Đồng thời phải quan tâm đến sự chính xác trong việc gây nhiễu chủ động và thụ động với TLCH. Ví dụ, việc hình thành vội vã đám mây nhiễu thụ động nhờ các lưỡng cực phản xạ khi đáp trả cuộc tấn công của không quân Argentina ngày 25 tháng 5 năm 1982 mà không tính đến thứ tự đội hình các tàu chiến đã gạt tên lửa "Exocet" khỏi tàu sân bay Anh "Hermes" bay sang trúng vào tàu chở container "Atlantic Conveyor" đang có mặt gần đó.
Dựa trên kinh nghiệm của các cuộc chiến tranh cục bộ, vấn đề bảo vệ các con tàu chống lại các cuộc tấn công đường không của đối phương đã trở thành một trong những vấn đề chính yếu. Các chuyên gia quân sự cho rằng công tác PK phải bao gồm trong bản thân nó việc phòng thủ chống máy bay và chống tên lửa, cũng như công tác đó phải nằm trong một hệ thống phức hợp được chỉ huy tập trung hóa thống nhất cùng với các lực lượng và phương tiện phát hiện các mục tiêu trên không, cảnh báo mục tiêu, các khí tài hỏa lực phòng không, các máy bay tiêm kích bảo vệ và các phương tiện tác chiến điện tử.
Nhóm tàu tấn công sử dụng tên lửa chống hạm, được hình thành trong quá trình các cuộc chiến tranh cục bộ có thành phần đồng nhất hoặc không đồng nhất. Trong trường hợp sau, thành phần của các nhóm đó, ngoài các tàu cao tốc mang tên lửa và các tàu mặt nước trang bị tên lửa, còn có các khu trục hạm, frigate, tàu tuần tra. Khi phân tích kinh nghiệm của các cuộc chiến tranh cục bộ, các chuyên gia quân sự chỉ ra sự cần thiết khi tổ chức tấn công vào đơn vị tàu chiến hợp thành của đối phương bằng không quân sử dụng tên lửa chống hạm sẽ có các tốp như sau trong thành phần đội hình chiến đấu của các nhóm máy bay tấn công : trinh sát, hoạt động phô trương, chế áp phương tiện phòng không, tác chiến điện tử, dẫn đường và chỉ huy, yểm trợ trên không và các tốp trực tiếp tấn công. Họ cũng cho rằng TLCH vẫn có những thiếu sót nhất định, trong đó có tốc độ cận âm của hành trình bay, tính dễ tổn thương bởi hệ thống vũ khí PK trên tàu, sự hạn chế trong lựa chọn mục tiêu, tính kháng nhiễu còn kém của [ 465 ] đầu tự dẫn, sự cần thiết phải huy động các lực lượng đặc biệt nhằm đảm bảo chỉ thị mục tiêu ngoài đường chân trời và tạo tính ổn định chiến đấu cho phương tiện mang. Một phân tích so sánh các khả năng chiến đấu của TLCH cho thấy hạn chế của loại vũ khí hải quân này hoàn toàn có thể bù đắp được bởi những phẩm chất của nó. Chính vì vậy nó được trang bị cho các tầu chiến của nhiều quốc gia. Việc trang bị TLCH cho hải quân, xét trên một mức độ lớn, đã ảnh hưởng đến việc thay đổi tính chất các hoạt động tác chiến trên biển, ảnh hưởng đến sự hoàn thiện chiến thuật hải chiến.
Trong thời kỳ sau chiến tranh đã có 27 tàu bị chìm vì trúng mìn (22%). Ngay sau khi kết thúc Thế chiến II, để đối phó với mối nguy hiểm do thủy lôi còn sót lại, người ta đã thành lập "Tổ chức quét mìn quốc tế", tập hợp 1.600 tàu quét mìn. Từ tháng 8 năm 1945 đến năm 1951 họ đã quét được một diện tích mặt nước lên đến 250 ngàn dặm vuông và tiêu hủy được 38.973 trái thủy lôi. Trong quá trình đó đã có 17 tàu quét mìn bị đắm, 12 tàu bị hư hại. Trong cùng thời gian trên có 218 tàu buôn vấp mìn chìm, 186 tàu bị thương. Mìn có các tính năng hủy diệt cao và xét về hiệu quả thì nó chỉ nhường bước trước tên lửa chống hạm. Trong tổng số tất cả các trường hợp, các tàu vấp mìn có 60 % bị đắm, 40 % bị hư hại.
Khi vấp mìn các tàu độ choán nước từ 1 nghìn tấn trở xuống thường bị chìm. Trong đó tàu quét mìn độ choán nước nhỏ hơn và bằng 500 tấn bị chìm chỉ trong một vài phút. Vũ khí mìn có một tác động tâm lý rất lớn đối với đội ngũ quân nhân và đòi hỏi huy động những lực lượng và phương tiện chống mìn đáng kể để đối phó với chúng. Tuy nhiên, số lượng các tàu vấp mìn nổ có thể còn lớn hơn, bởi vì các bên tham chiến đã rải hơn 20 nghìn trái mìn.
Tổn thất tương đối nhỏ như trên được giải thích bởi thực tế các khu vực xác định có mối nguy hiểm về mìn phát sinh đã được đóng luồng hàng hải đối với các loại tàu thuyền, và luồng chỉ được mở lại sau khi phá hủy hết mìn. [ 466 ]
Ví dụ , ngay cả với một số lượng mìn không lớn được rải trong kênh đào Suez năm 1967, cũng đã làm gián đoạn gần 6 năm đường vận chuyển hàng hải quốc tế quan trọng nhất liên kết các đại dương Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương.
Cũng như trong thời gian Chiến tranh Thế giới thứ Hai, trong các cuộc chiến tranh cục bộ, pháo hạm và pháo binh bờ biển không đóng vai trò quan trọng đặc biệt trong việc tiêu diệt các tàu chiến.
Hỏa lực pháo binh đã tiêu diệt tổng cộng 20 tàu (16%): chủ yếu là các tàu chiến nhỏ (tàu quét mìn và tàu phóng ngư lôi, 17 chiếc). Đạn pháo chỉ phá hủy hai tàu lớn - frigate Ai Cập "Domait" (1956) và frigate Thái Lan "Price" (1951). Trong tổng số các tàu bị pháo binh bắn phá hoại, số bị tiêu diệt ít hơn 5 %. Trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, hỏa lực các khẩu đội pháo bờ biển đã bắn bị thương hơn 60 tàu chiến, trong số đó chỉ có hai tàu bị tiêu diệt hoàn toàn.
Với sự giúp sức của ngư lôi đã có 5 tàu chiến bị tiêu diệt (4%), trong đó chỉ có hai tàu lớn - tuần dương hạm Argentina "General Belgrano" và tàu tuần tra Ấn Độ "Kukri". Tỷ lệ phần trăm khá nhỏ các tàu chiến bị ngư lôi tiêu diệt có nguyên nhân chủ yếu do sự hạn chế trong sử dụng nó.
Vì thực tế trong các cuộc chiến tranh cục bộ, hiếm khi diễn ra các trận hải chiến có sự tham gia của các lực lượng khác nhau, tổn thất do ảnh hưởng kết hợp các loại vũ khí chỉ là 4 tàu (3%). Một ví dụ là trận chiến trên trận địa pháo-thủy lôi gần Wonsan : các tàu quét mìn "Payret" và "Plage" của Mỹ đã bị đánh chìm.
Kinh nghiệm của các cuộc chiến tranh và xung đột quân sự cục bộ khi giải quyết nhiệm vụ tiêu diệt lực lượng hải quân trên biển và trong các căn cứ đã ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của ngành đóng tàu quân sự.
Việc sử dụng thành công tên lửa hành trình dẫn đến sự xuất hiện của các lớp tàu chiến mới, các tàu tên lửa (các tàu trang bị tên lửa có điều khiển) và các tàu cao tốc cỡ nhỏ mang tên lửa. Trong các ấn phẩm tiếng Anh, các chuyên gia quân sự [ 467 ] chỉ ra rằng "Falklands đã cứu hạm đội mặt nước của Vương quốc Anh". Vấn đề là trong những năm đầu thập kỷ 80 đã tồn tại các kế hoạch giảm dần số lượng tàu mặt nước do sự phân bố lại các nguồn tài chính, chủ yếu dồn cho việc đóng mới các tàu ngầm và chế tạo các máy bay tuần biển đóng trong căn cứ bờ. Một ủy ban đặc biệt đã đi đến kết luận rằng trong thành phần hạm đội Anh phải có không ít hơn 50 khu trục hạm và frigate.
Để cải thiện khả năng sống sót cho các vị trí cơ bản của tàu người ta dự tính sử dụng các tấm giáp composite. Các nhà đóng tàu Mỹ ủng hộ việc áp dụng giáp động lực (Динамическая защита, ДЗ (Explosive Reactive armour, Взрывная реактивная броня, hay còn gọi giáp phản ứng nổ)) bảo vệ các vị trí có tầm quan trọng sống còn của con tàu và loại bỏ việc sử dụng trong ngành đóng tàu (theo khả năng) các loại vật liệu dễ cháy và độc hại.
Chẳng hạn, theo báo chí quân sự, tàu khu trục mang tên lửa có điều khiển đang đóng mới "Arleigh Burke" của Mỹ lần đầu tiên trong thực tế gần như hoàn toàn được làm bằng thép, còn hợp kim nhôm chỉ sử dụng trên con tàu này với số lượng rất hạn chế. Các phòng quan trọng nhất, các hầm chứa đạn dược, các hầm phóng đạn tên lửa có điều khiển, các vị trí điều khiển chỉ huy sẽ được bảo vệ bằng giáp.
Các nhà công nghiệp đóng tàu phương tây còn áp dụng nhiều biện pháp khác nhằm tăng cường khả năng sống còn như tăng số lượng các khoang kín nước, các vòi chữa cháy và máy bơm, các phương tiện bảo vệ cá nhân (mặt nạ chống độc và bộ quần áo cách nhiệt), giảm mức các trường vật lý, phong kín các tuyến cáp trong các vách ngăn kín nước, đặt ở các vị trí nằm trên đường mớn nước, chia các phòng bên trong con tàu thành các khu vực chống cháy độc lập, giảm sử dụng các vật liệu dễ cháy và sinh khói, giảm độc tính của chúng trong quá trình cháy. [ 468 ]
Tính đến các trường hợp hảo hoạn xảy ra trong cuộc xung đột Anh- Argentina, trên tàu chiến Anh bắt đầu đưa vào sử dụng mặt nạ cách ly chống khí độc, đảm bảo cho đội ngũ quân nhân có thể ở trong một phòng đầy khói với khoảng thời gian 45 phút. Các máy thở cấp cứu ELSA, hoạt động ngắn hạn được trang bị trên tàu, sẽ được sử dụng vào việc sơ tán nhân viên ra khỏi các khoang ngạt khói. Để tăng hiệu quả bảo vệ chống cháy cho tàu, dự kiến sẽ trang bị các hệ thống bọt cách ly và dập tắt đám cháy mới hơn, hiệu quả hơn. Đội cứu hộ của tàu nhận được các camera ảnh nhiệt cầm tay, cho phép nhanh chóng tìm ra nguồn phát cháy và các nạn nhân, cũng như cho phép tìm đường đi trong các khoang ngập đầy khói.
Yêu cầu của Bộ Hải quân Anh - nâng cao khả năng sống sót của con tàu - được phản ánh trong đề án đóng mới các frigate loại "Norfolk", bắt đầu từ năm 1985. Con tàu này có lượng choán nước tổng cộng 3.900 tấn được chia thành năm khu vực độc lập với các thiết bị phòng cháy chữa cháy, máy phát điện diesel và các máy bơm nước biển dùng riêng cho trường hợp khẩn cấp, các phương tiện cứu hộ cá nhân được bố trí trên tàu dọc theo tuyến mà đội ngũ quân nhân hay qua lại.
........